intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng sử dụng thiết bị điện tử của trẻ có rối loạn phổ tự kỷ ở thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

33
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu mức độ phổ biến của việc sử dụng các thiết bị điện tử (TBĐT) của trẻ có rối loạn phổ tự kỷ (RLPTK), độ tuổi phổ biến mà trẻ sử dụng nhiều, số thời gian sử dụng trong ngày, các yếu tố ảnh hưởng từ gia đình đối với việc sử dụng TBĐT ở trẻ có RLPTK, nhận thức của phụ huynh về ảnh hưởng của việc sử dụng TBĐT ở trẻ có RLPTK.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng sử dụng thiết bị điện tử của trẻ có rối loạn phổ tự kỷ ở thành phố Hồ Chí Minh

  1. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ CỦA TRẺ CÓ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Phan Thiệu Xuân Giang1, Đoàn Thế Dũng2* Tóm tắt Mục tiêu: Nghiên cứu mức độ phổ biến của việc sử dụng các thiết bị điện tử (TBĐT) của trẻ có rối loạn phổ tự kỷ (RLPTK), độ tuổi phổ biến mà trẻ sử dụng nhiều, số thời gian sử dụng trong ngày, các yếu tố ảnh hưởng từ gia đình đối với việc sử dụng TBĐT ở trẻ có RLPTK, nhận thức của phụ huynh về ảnh hưởng của việc sử dụng TBĐT ở trẻ có RLPTK. Phương pháp: Sử dụng phiếu khảo sát và phỏng vấn 158 phụ huynh của trẻ từ 1 đến 13 tuổi được chẩn đoán RLPTK tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 8 năm 2019. Kết quả: 100% trẻ có RLPTK đều sử dụng TBĐT, trong đó: 71% tivi và 58.2% điện thoại di động. Trẻ xem/chơi nhiều chương trình video ca nhạc (47.5%), phim hoạt hình (41.8%), chương trình về hình dạng, màu sắc (39.9%) và chương trình về chữ cái, số (39.2%). Độ tuổi trẻ bắt đầu sử dụng TBĐT từ 6 tháng đến dưới 2 tuổi chiếm đến 76.6%. Thời gian trẻ sử dụng trên 2 giờ mỗi ngày là 45.5%, trong đó tỷ lệ trên 5 giờ mỗi ngày khá cao (9.5%). 70.9% trẻ chơi một mình không tương tác với phụ huynh. Lý do phụ huynh cho trẻ sử dụng TBĐT là nhằm tạo hứng thú cho trẻ để trẻ thực hiện việc khác như vừa chơi vừa ăn (54.4%) hoặc có thời gian để phụ huynh làm việc khác (49.4%). 27.8% phụ huynh ngưng hoàn toàn và 66.5% phụ huynh giảm dần số giờ sử dụng TBĐT của trẻ trong ngày. Từ khoá: rối loạn phổ tự kỷ, sử dụng thiết bị điện tử, giao tiếp và tương tác xã hội 1 Phòng Khám Đa Khoa Quốc Tế CMI. 2 Trung Tâm Đào Tạo & Can Thiệp Tâm Lý – Âm Ngữ Phát Triển Tiềm Năng. Liên hệ Email: drgiangphan@gmail.com 834
  2. AUTUAL SITUATION OF ELECTRONIC DEVICE USAGE OF CHILDREN WITH AUTISM SPECTRUM DISORDER IN HO CHI MINH CITY Abstract Objective: To study the prevalence of electronic devices used among children with autism spectrum disorder (ASD), common ages at which children use a lot, number of usage hours per day, influencing factors from family on the electronic device usage in children with ASD, parents’ understanding of the influence of using electronic devices in children with ASD. Method: Using questionnaires and interviewing 158 parents of children aged 1 to 13 years diagnosed as ASD in Ho Chi Minh City (HCMC) from September 2018 to August 2019. Results: 100% of children with ASD use electronic devices, of which: 71% of televisions and 58.2% of mobile phones. Children watch/play a variety of music video programs (47.5%), cartoons (41.8%), shape and color programs (39.9%), and letter and number programs (39.2%). The age of children starting to use electronic devices from 6 months to under 2 years accounts for 76.6%. The time children use more than 2 hours per day is 45.5%, of which the rate of more than 5 hours per day is quite high (9.5%). 70.9% of children play alone and do not interact with their parents. The reason why parents let their children use the devices is to create excitement for children to do other things such as playing while eating (54.4%) or to have time for parents to do other things (49.4%). 27.8% of the parents stop completely and 66.5% of parents gradually reduce the number of hours the children can play with electronic devices in a day. Keywords: autism spectrum disorder, electronic device usage, social communication and interaction 835
  3. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay số lượng trẻ RLPTK ngày càng tăng cao, theo số liệu thống kê của CDC (2020) tỉ lệ lưu hành là 1/59 trẻ vào năm 2014, đến năm 2016 là 1/54 trẻ và tỷ lệ lưu hành chung trong dân số là 1/100 (APA, 2013). Ở Việt Nam tuy chưa có nghiên cứu dịch tễ học chính thức nhưng qua quan sát lâm sàng chúng tôi nhận thấy số lượng trẻ có RLPTK gia tăng một cách có ý nghĩa trong những năm gần đây, có thể bởi vì hiểu biết của phụ huynh tăng lên và các thông tin ngày càng rộng rãi bên cạnh đó chẩn đoán ngày càng sớm và chính xác. Thực tiễn làm việc tại phòng khám, chúng tôi nhận thấy rằng số lượng trẻ có RLPTK ngày càng tăng, hầu hết các trẻ đều sử dụng TBĐT hàng ngày và theo ghi nhận, việc sử dụng TBĐT thường xuyên có ảnh hưởng đến sự phát triển về giao tiếp và tương tác xã hội của trẻ. Tuy nhiên ở TP.HCM nói riêng và Việt Nam nói chung chưa có nghiên cứu nào đánh giá các vấn đề này. Từ đó, chúng tôi muốn thực hiện một khảo sát về “Thực trạng sử dụng thiết bị điện tử của trẻ có rối loạn phổ tự kỷ ở Thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu về mức phổ biến của việc sử dụng các TBĐT ở trẻ có RLPTK, độ tuổi mà trẻ sử dụng nhiều, số thời gian sử dụng trong ngày, các yếu tố ảnh hưởng từ gia đình đối với việc sử dụng TBĐT ở trẻ có RLPTK, nhận thức của phụ huynh về ảnh hưởng của việc sử dụng thiết bị điện tử ở trẻ có RLPTK. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng: thực trạng sử dụng thiết bị điện tử của trẻ có RLPTK ở Thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 8 năm 2019. Địa điểm nghiên cứu: Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 2. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện theo hình thức khảo sát và phỏng vấn. 836
  4. Mẫu nghiên cứu: Mẫu được chọn thuận tiện tại các trung tâm, phòng khám can thiệp trẻ có rối loạn phát triển. Phụ huynh được biết đến cuộc nghiên cứu cũng như mục đích khoa học và tự nguyện tham gia. Tổng số phiếu thu về là 158 phiếu khảo sát của phụ huynh có con từ 1 đến 13 tuổi có RLPTK. Trẻ trong cuộc khảo sát được chẩn đoán là có RLPTK theo tiêu chí của sổ tay DSM-5 (2013), được thực hiện bởi bác sĩ tâm thần kinh được đào tạo chuyên sâu về chẩn đoán tự kỷ. Xử lý số liệu: Phần mềm SPSS 20.0 và Microsoft Excel 2019. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 100% trẻ có RLPTK từ 1 đến 13 tuổi được khảo sát đều sử dụng TBĐT, trong đó Tivi và điện thoại di động được dùng nhiều nhất với tỷ lệ tương ứng 71.0% và 58.2%. Video ca nhạc, phim hoạt hình là các chương trình được trẻ xem/chơi nhiều nhất tương ứng 47.5% và 41.8%. Ngoài ra, trẻ còn sử dụng TBĐT để chơi các chương trình về hình dạng và màu sắc (39.9%) cũng như các chương trình về chữ cái và số (39.2%). Trò chơi điện tử chiếm tỷ lệ rất thấp 7.6% (Xem Bảng 1). Bảng 1. Thông tin về TBĐT và các chương trình sử dụng của trẻ có RLPTK Điện TBĐT Máy tính Máy tính Máy chơi Tivi thoại di Khác trẻ thường bảng xách tay game động sử dụng 71.0% 58.2% 28.5% 3.2% 0% 0% Chương Phim Chương trình Video Trò Các chương Video trình về hoạt về hình dạng quảng chơi trình mà trẻ ca nhạc chữ cái hình và màu sắc cáo điện tử xem / chơi và số 47.5% 41.8% 39.9% 39.2% 38.0% 7.6% Độ tuổi trẻ bắt đầu sử dụng TBĐT được ghi nhận là rất sớm. Trẻ bắt đầu sử dụng TBĐT từ 6 tháng đến dưới 2 tuổi chiếm tỷ lệ 76.6% trong tổng 158 trẻ được khảo sát (Xem Bảng 2). Thời gian trẻ sử dụng TBĐT từ 2 giờ trở lên trong một ngày chiếm 45.5%, trong đó có đến 9.5% số trẻ sử dụng 837
  5. TBĐT trên 5 giờ một ngày. Trong các khoảng thời gian này, hầu hết trẻ sử dụng TBĐT một mình (70.9%) (Xem Bảng 2). Bảng 2. Thông tin về thực trạng việc sử dụng TBĐT ở trẻ có RLPTK Từ 6 tháng Từ 1 Từ 2 Từ 3 Từ 4 Độ tuổi trẻ bắt Trên 5 đến dưới đến dưới đến dưới đến dưới đến dưới đầu sử dụng tuổi 1 tuổi 2 tuổi 3 tuổi 4 tuổi 5 tuổi TBĐT 34.8% 41.8% 13.3% 3.8% 3.2% 3.2% Từ 2 Từ 3 Từ 4 Từ 1 đến Trên 5 Thời gian trẻ Dưới 1giờ đến dưới đến dưới đến dưới dưới 2 giờ giờ sử dụng TBĐT 3 giờ 4 giờ 5 giờ 20.3% 34.8% 17.7% 12% 6.3% 9.5% Trẻ sử dụng Một mình Thành viên khác TBĐT cùng ai? 70.9% 44.3% Trong Bảng 3, cấu trúc gia đình hạt nhân chiếm đa phần với tỷ lệ 60.8% và người chăm sóc chính cho trẻ là mẹ chiếm 78.5% trong tổng số 158 gia đình. Trình độ cao đẳng/đại học và sau đại học của mẹ chiếm 67.7% và tương ứng của cha là 67.1%. Lý do phụ huynh cho trẻ sử dụng TBĐT nhằm tạo hứng thú cho trẻ để trẻ thực hiện việc khác như vừa ăn vừa chơi (54.4%) và phụ huynh có thời gian để làm việc khác (49.4%) (Xem Bảng 4a). Bảng 3. Thông tin người chăm sóc Gia đình mở rộng Gia đình hạt nhân Cấu trúc (sống cùng ông bà và/hoặc (chỉ sống chung với cha mẹ) gia đình thành viên khác) 60.8% 39.2% Người chăm Mẹ Cha sóc chính 78.5% 18.4% Trình độ Trung học phổ thông Cao đẳng/Đại học Sau Đại học học vấn của Mẹ Cha Mẹ Cha Mẹ Cha phụ huynh 32.3% 28.5% 57.6% 55.7% 10.1% 11.4% 838
  6. Bảng 4a. Lý do phụ huynh để cho trẻ sử dụng TBĐT Lý do phụ huynh để cho trẻ sử dụng TBĐT Tạo hứng thú cho trẻ để trẻ thực hiện việc khác (vừa chơi vừa 54.4% ăn…) Có thời gian để phụ huynh làm việc khác 49.4% Do trẻ thích chơi/sử dụng TBĐT 34.2% Để dạy học 22.8% Bảng 4b. Lợi ích phụ huynh cho rằng khi cho trẻ sử dụng TBĐT Lợi ích phụ huynh cho rằng khi cho trẻ sử dụng TBĐT Phát triển vốn từ vựng của trẻ 41.1% Tạo hứng thú cho trẻ học 40.5% Giúp trẻ nói nhanh hơn 23.4% Như một công cụ để can thiệp 16.5% Giúp cải thiện giao tiếp và liên hệ với người khác 14.6% Bảng 4c. Tác hại phụ huynh cho rằng khi cho trẻ sử dụng TBĐT Tác hại phụ huynh cho rằng khi cho trẻ sử dụng TBĐT Làm hạn chế khả năng ngôn ngữ 65.2% Hạn chế giao tiếp và chủ động liên hệ người khác 57.6% Làm nghiêm trọng hơn những khó khăn về ngôn ngữ và giao tiếp 48.1% Gây ra tình trạng tự kỷ ở trẻ 47.5% Phụ huynh chọn ngưng hoàn toàn việc sử dụng TBĐT ở trẻ chiếm 27.8% (44 người) trên tổng số 100% (158 người). Trong số các phụ huynh này, từ 50% hoặc hơn đều cho rằng có nhiều tác hại khi cho trẻ sử dụng TBĐT: (Xem Bảng 5a) – 70.4% trên tổng số 44 phụ huynh cho rằng “Chơi với TBĐT làm hạn chế giao tiếp và chủ động liên hệ người khác”. – 68.2% trên tổng số 44 phụ huynh cho rằng “Chơi với TBĐT gây ra tình trạng tự kỷ ở trẻ”. 839
  7. – 63.6% trên tổng số 44 phụ huynh cho rằng “Chơi với TBĐT làm hạn chế khả năng ngôn ngữ”. – 50.0% trên tổng số 44 phụ huynh cho rằng “Chơi với TBĐT làm 63.6% trên tổng số 44 phụ huynh cho rằng “Chơi với TBĐT làm hạn chế khả năng ngôn ngữ”. Phụ huynh chọn giảm số giờ chơi TBĐT của trẻ chiếm 66.5% (105 người) trên tổng số 100% (158 người): (Xem Bảng 5b) – 62.9% trên tổng số 105 phụ huynh cho rằng “Chơi với TBĐT có tác hại làm hạn chế giao tiếp và chủ động liên hệ người khác”. – 57.1% trên tổng số 105 phụ huynh cho rằng “Trẻ chơi với TBĐT làm hạn chế khả năng ngôn ngữ”. Bảng 5a. Tình trạng ngưng hoàn toàn việc sử dụng TBĐT hiện tại của trẻ NGƯNG HOÀN TOÀN 27.8% (44/158 phụ huynh) Với những tác hại phụ huynh cho rằng khi cho trẻ sử dụng TBĐT: Hạn chế giao tiếp và chủ động liên hệ người khác 70.4% (31/44 phụ huynh) Gây ra tình trạng tự kỷ ở trẻ 68.2% (30/44 phụ huynh Làm hạn chế khả năng ngôn ngữ 63.6% (28/44 phụ huynh Làm nghiêm trọng hơn những khó khăn về ngôn 50.0% (22/44 phụ huynh) ngữ và giao tiếp Bảng 5b. Tình trạng giảm số giờ việc sử dụng TBĐT hiện tại của trẻ GIẢM SỐ GIỜ 66.5% (105/158 phụ huynh) Với những tác hại phụ huynh cho rằng khi cho trẻ sử dụng TBĐT: Hạn chế giao tiếp và chủ động liên hệ người khác 62.9% (66/105 phụ huynh) Làm hạn chế khả năng ngôn ngữ 57.1% (60/105 phụ huynh) Làm nghiêm trọng hơn những khó khăn về ngôn 48.6% (51/105 phụ huynh) ngữ và giao tiếp Gây ra tình trạng tự kỷ ở trẻ 40.0% (42/105 phụ huynh) Với những lợi ích phụ huynh cho rằng khi cho trẻ sử dụng TBĐT: Tạo hứng thú cho trẻ học 45.7% (48/105 phụ huynh) Phát triển vốn từ vựng của trẻ 42.9% (45/105 phụ huynh) Giúp trẻ nói nhanh hơn 20.9% (22/105 phụ huynh) Như một công cụ để can thiệp 19.0% (20/105 phụ huynh) Giúp cải thiện giao tiếp và liên hệ với người khác 12.4% (13/105 phụ huynh) 840
  8. Bảng 5c. Tình trạng duy trì như cũ việc sử dụng TBĐT hiện tại của trẻ DUY TRÌ NHƯ CŨ 5.7% (9/158 phụ huynh) Với những lợi ích phụ huynh cho rằng khi cho trẻ sử dụng TBĐT: Phát triển vốn từ vựng của trẻ 77.8% (7/9 phụ huynh) Tạo hứng thú cho trẻ học 55.6% (5/9 phụ huynh) Như một công cụ để can thiệp 33.3% (3/9 phụ huynh) Giúp cải thiện giao tiếp và liên hệ với người khác 22.2% (2/9 phụ huynh) Giúp trẻ nói nhanh hơn 11.1% (1/9 phụ huynh) Các thông tin bổ sung về “các dấu hiệu phát triển giao tiếp từ 12 đến 24 tháng của trẻ” và “thông tin về dấu hiệu giác quan và trò chơi cảm giác của trẻ”. Bảng 6a. Các dấu hiệu phát triển về giao tiếp từ 12 đến 24 tháng của trẻ Các dấu hiệu phát triển giao tiếp Không có/ Thường từ 12 đến 24 tháng của trẻ Hiếm khi xuyên Trẻ có biết gọi cha mẹ 85.4% 14.6% Trẻ có biết dùng ngón trỏ để chỉ điều mình muốn 81.6% 18.4% Khi kêu tên trẻ có quay lại nhìn 75.9% 24.1% Trẻ có mang đồ chơi ra khoe với cha mẹ 89.9% 10.1% Trẻ có rủ người khác cùng chơi 88.0% 12.0% Trẻ có hay nhìn người khác khi giao tiếp 84.8% 15.2% Trẻ nhìn theo hướng chỉ của cha mẹ hay người khác 79.7% 20.3% Khi chơi trẻ có nhìn người khác xem họ có quan sát 89.9% 10.1% mình hay chỉ cắm cúi chơi 1 mình Trẻ có nhìn đồ vật rồi nhìn cha mẹ (hay người khác) rồi nhìn đồ vật trẻ thích để cho thấy rằng trẻ muốn 77.8% 22.2% có vật đó 841
  9. Bảng 6b. Thông tin về dấu hiệu giác quan và trò chơi cảm giác của trẻ Không có/ Thường Một số vấn đề về cảm giác và ưa thích của trẻ Hiếm khi xuyên Từ trên 12 tháng, lăng xăng chạy nhảy quá mức 37.3% 62.7% Từ trên 12 tháng, trẻ có nhạy cảm với âm thanh: bịt tai hay sợ một số âm thanh nào đó, hay sợ một 58.9% 41.1% số cảm giác như đồ vật hay hình ảnh nào đó, sợ bị chạm vào người Trẻ thích 1 số trò chơi đặc biệt lặp đi lặp lại: đa số là 23.4% 76.6% lego (xếp hình), đất nặn, xoay tròn (ô tô, bánh xe, quạt) Trẻ hay vẫy tay lặp đi lặp lại 73.4% 26.6% Trẻ hay đi nhón gót 67.1% 32.9% Trẻ thích xoay tròn bánh xe, ghế xoay, tự đứng xoay 48.7% 51.3% tròn hay nhìn đồ vật xoay Trẻ thích/hay xếp đồ thẳng hàng 48.7% 51.3% IV. BÀN LUẬN Chương trình trẻ thường tiếp xúc là video ca nhạc, phim hoạt hình, chương trình về hình dạng và màu sắc, chương trình về chữ cái và số tương ứng 47.5%, 41.8%, 39.9% và 39.2% trong khi đó chỉ có 7.6% số trẻ chơi game khi sử dụng TBĐT (Bảng 1). Giả thuyết là có thể: Thứ nhất, các chương trình hấp dẫn, sống động, có ca nhạc và âm thanh vui nhộn. Thứ hai, với những chương trình này trẻ chỉ cần xem mà không cần phải thao tác. Các thiết bị điện tử trẻ sử dụng phổ biến là tivi (71.0%), điện thoại di động (58.2%), máy tính bảng (28.5%), là những thiết bị phổ biến trong gia đình, đặc biệt là tivi là thiết bị có màn hình lớn, có ở mỗi gia đình, dễ tiếp cận và không cần phải thao tác nhiều, chỉ xem thụ động. Có nhiều quy kết từ phụ huynh hay thậm chí cả những nhà chuyên môn cho rằng trẻ chơi các TBĐT gây ra RLPTK, trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận được 48.1% phụ huynh cũng cho rằng chơi với TBĐT là nguyên nhân gây ra RLPTK ở trẻ (Bảng 4c). Trong thực tế không có một nghiên cứu nào chỉ ra cho thấy tự kỷ là do sử dụng các TBĐT gây ra. RLPTK là một rối loạn phát triển thần kinh (APA, 2013) làm ảnh hưởng 842
  10. đến chức năng giao tiếp, tương tác xã hội và các hành vi rập khuôn, định hình, các ham thích cao độ hay nhạy cảm và kém nhạy cảm với các kích thích ở trẻ trong giai đoạn phát triển sớm trước 3 tuổi (APA, 2013). Hiểu theo nghĩa máy tính thì bộ não của trẻ có RLPTK bị thiếu trang bị các phần mềm căn bản (driver) về tương tác, giao tiếp xã hội. Theo giả thuyết động cơ xã hội, động cơ xã hội bị suy giảm đưa đến có ít thời gian chú ý đến những kích thích xã hội như là khuôn mặt, giọng nói con người, cử chỉ ở tay,… Sự suy kém động cơ xã hội ở trẻ có RLTPK liên quan đến sự khó khăn trong việc hình thành các đại diện về giá trị khen thưởng của những kích thích xã hội (Dawson và cộng sự, 2002). Ở trẻ nhỏ có RLPTK, mức độ nặng của suy kém khả năng cùng nhau chú ý có tương quan mạnh mẽ đến việc thực hành các nhiệm vụ thuộc về thần kinh nhận thức đến từ chu trình vỏ não trán ổ mắt - thùy thái dương giữa (Dawson và cộng sự, 2002). Do suy kém về động cơ xã hội sẵn có làm cho trẻ suy kém về chú ý liên kết (Joint attention), là một trong chức năng giao tiếp xã hội sớm. Con người có thể nhận ra âm thanh có giải tần số từ 30 Hz đến 20.000 Hz. Một trong những giả thuyết về tự kỷ cho rằng trẻ có RLPTK có thể không nghe được tần số của ngôn ngữ con người nhưng thay vào đó có khuynh hướng nghe các âm thanh trong môi trường có tần số thấp hơn như là các âm thanh của máy móc. Nếu ngôn ngữ con người là một tiếng ồn gây khó chịu và thậm chí gây sợ hãi thì trẻ sẽ có thể tránh né khỏi giọng nói của con người. Nhiều khó khăn về giao tiếp có thể xuất hiện ở trẻ có RLPTK nếu nền tảng căn bản về khả năng phát hiện và ghi nhận âm thanh không được đầy đủ như trẻ bình thường (Zillmer, Spiers và Culbertson, 2007). Chính vì việc đáp ứng kém với các kích thích qua thính giác và thị giác như giọng nói, khuôn mặt và ánh mắt con người và sự ưa thích các âm thanh hay kích thích chuyển động cơ học nên trẻ có khuynh hướng không đáp ứng với tương tác của người chăm sóc mà thích chơi với các TBĐT, khi phụ huynh thấy trẻ thích chơi với các công cụ này thì lại cảm thấy dễ dàng hơn cho việc dỗ dành trẻ hay có thời gian rảnh để làm việc, vì thế càng củng cố việc chơi với máy móc của trẻ và ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn ngữ và giao tiếp (49.4% phụ huynh cho trẻ chơi để phụ huynh có thời gian làm việc và 54.4% phụ huynh cho trẻ chơi để tạo hứng thú cho trẻ làm việc khác như vừa chơi vừa ăn) (Bảng 4). Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi, 100% trẻ đều chơi với TBĐT, các chương trình phần lớn là video ca nhạc, phim hoạt hình (47.5% và 843
  11. 41.8%) (Bảng 1), đó là những chương trình có nhiều kích thích cả về thị giác và thính giác, có tính lặp lại và có thể dự đoán trước, điều này có thể dễ hấp dẫn trẻ có RLPTK nhiều hơn. Trẻ có RLPTK cũng có khuynh hướng nói theo kiểu lặp lại, rập khuôn, không có khuynh hướng giao tiếp, có thể do các chương trình giải trí trong các TBĐT là những chương trình có nhiều hình ảnh, âm thanh sống động, trẻ dễ bắt chước một cách rập khuôn. Trong mẫu nghiên cứu này, độ tuổi trẻ bắt đầu chơi TBĐT nhiều nhất là từ 6 tháng đến dưới 2 tuổi (76.6%) (Bảng 2), đây là giai đoạn mà các triệu chứng khó khăn về giao tiếp và tương tác sớm thường xuất hiện, gây khó khăn cho phụ huynh, nên có thể việc cho trẻ chơi với TBĐT là một cách làm cho trẻ và phụ huynh thoải mái. Trẻ càng lớn thì thời gian sử dụng TBĐT càng ít đi, điều này có thể do phụ huynh ý thức được tác hại của việc sử dụng TBĐT một mình (27.8% phụ huynh ngưng hoàn toàn và 66.5% phụ huynh giảm số giờ chơi TBĐT của trẻ vào thời điểm khảo sát) (Bảng 5a, 5b), hoặc có thể trẻ đã được đi can thiệp và tiếp xúc với các đối tượng khác nhau, hoặc nhờ can thiệp nên các hoạt động xã hội của trẻ nhiều hơn vì thế có thể làm giảm số giờ chơi với các TBĐT. Mẫu gia đình trong nghiên cứu có 60.8% là gia đình hạt nhân, có thể cha mẹ bận làm việc và không có người giúp đỡ nên để trẻ chơi với TBĐT nhiều hơn (Bảng 3). Nghiên cứu cho thấy có 70.9% trẻ chơi một mình không tương tác với phụ huynh, điều này có thể làm cho trẻ phát triển về giao tiếp và tương tác càng khó hơn do thiếu các kích thích giao tiếp từ con người. Tổng số giờ chơi: Từ 1 đến dưới 2 giờ: 34.8%; từ 2-3 giờ: 17.7%, đặc biệt là có trẻ chơi trên 5 giờ/ ngày: 9.5%, thời gian chơi với thiết bị điện tử rất nhiều như vậy có thể ảnh hưởng đến phát triển giao tiếp của trẻ. Ngoài ra, chúng tôi có làm một số điều tra hồi cứu về “Các dấu hiệu phát triển giao tiếp từ 12 đến 24 tháng của trẻ” và “Thông tin về dấu hiệu giác quan và trò chơi cảm giác của trẻ”, chúng tôi thấy rằng tỷ lệ các trẻ trong nghiên cứu có nhiều vấn đề về phát triển giao tiếp sớm, các dấu hiệu giác quan và trò chơi cảm giác cũng phù hợp với các triệu chứng của RLPTK ở giai đoạn phát triển sớm từ 1 đến 2 tuổi. 844
  12. Các trẻ trong khảo sát đều không có hoặc hiếm khi có các dấu hiệu phát triển giao tiếp thông thường dành cho trẻ từ 12 đến 24 tháng. Trên 75% tỷ lệ các trẻ trong khảo sát đều “Không có/Hiếm khi” có các dấu hiệu phát triển thông thường của trẻ như trẻ không có/hiếm khi biết gọi cha mẹ, trẻ không có/hiếm khi biết dùng ngón trỏ để chỉ điều mình muốn, trẻ không có/hiếm khi quay lại nhìn khi được kêu tên, trẻ không có/hiếm khi mang đồ chơi ra khoe với cha mẹ hay rủ người khác cùng chơi, trẻ không có/hiếm khi nhìn người khác khi giao tiếp hay nhìn theo hướng chỉ của người khác, và trẻ không có/hiếm khi nhìn người khác xem họ có quan sát mình hay nhìn đồ vật rồi nhìn cha mẹ (người khác) rồi nhìn đồ vật trẻ thích để cho thấy rằng trẻ muốn có vật đó (Xem Bảng 6a). Các thông tin về các dấu hiệu giác quan và trò chơi cảm giác thu nhận được trong hồi cứu chiếm tỷ lệ cao phù hợp với các triệu chứng giác quan thường gặp ở trẻ có RLPTK. Các dấu hiệu thường xuyên thể hiện ở các trẻ trong khảo sát như là từ trên 12 tháng, 62.7% trẻ thường xuyên lăng xăng chạy nhảy quá mức, 76.6% trẻ thường xuyên chơi 1 số trò chơi đặc biệt lặp đi lặp lại: đa số là lego (xếp hình), đất nặn, xoay tròn (ô tô, bánh xe, quạt), 51.3% trẻ thường xuyên chơi xoay tròn bánh xe, ghế xoay, tự đứng xoay tròn, nhìn đồ vật xoay hay thường xuyên xếp đồ thẳng hàng, và 41.1% trẻ từ trên 12 tháng thường xuyên thể hiện sự nhạy cảm với âm thanh: bịt tai hay sợ một số âm thanh nào đó, hay sợ một số cảm giác như đồ vật hay hình ảnh nào đó, sợ bị chạm vào người (Xem Bảng 6b). Các triệu chứng khó khăn về dấu hiệu phát triển giao tiếp sớm kèm theo dấu hiệu giác quan và trò chơi cảm giác của trẻ có thể góp phần làm cho trẻ có khuynh hướng chơi với TBĐT nhiều hơn do khó khăn trong giao tiếp với người khác. V. KẾT LUẬN Nghiên cứu cho thấy rằng 100% trẻ có RLPTK đều sử dụng TBĐT, trong đó: 71% tivi và 58.2% điện thoại di động. Trẻ xem/chơi nhiều chương trình video ca nhạc (47.5%), phim hoạt hình (41.8%), chương trình về hình dạng, màu sắc (39.9%) và chương trình về chữ cái, số (39.2%). Độ tuổi trẻ bắt đầu sử dụng TBĐT từ 6 tháng đến dưới 2 tuổi chiếm đến 76.6%. Thời gian trẻ sử dụng trên 2 giờ mỗi ngày là 45.5%, trong đó tỷ lệ trên 5 giờ mỗi 845
  13. ngày khá cao (9.5%). 70.9% trẻ chơi một mình không tương tác với phụ huynh. Lý do phụ huynh cho trẻ sử dụng TBĐT là nhằm tạo hứng thú cho trẻ để trẻ thực hiện việc khác như vừa chơi vừa ăn (54.4%) hoặc có thời gian để phụ huynh làm việc khác (49.4%). Nhận thức gia đình thay đổi qua việc ngưng hoàn toàn (27.8%) hoặc giảm dần số giờ (66.5%) sử dụng TBĐT của trẻ trong ngày. Phụ huynh cần lưu ý đến khuynh hướng thích sử dụng các thiết bị điện tử một cách phổ biến ở trẻ tự kỷ chủ yếu là để tìm kiếm cảm giác thích thú, điều này có thể làm chậm trễ sự phát triển về giao tiếp của trẻ, phụ huynh cần ngưng hoặc điều chỉnh số giờ chơi, hoặc có tương tác với trẻ trong khi chơi để dạy trẻ để tạo điều kiện cho trẻ phát triển tốt hơn. Cần có nghiên cứu sâu hơn về sự phát triển của trẻ sau khi phụ huynh chọn ngưng hoàn toàn hoặc giảm dần giờ sử dụng TBĐT của trẻ. Có thể cần có nghiên cứu đối chứng giữa hai nhóm trẻ bình thường và trẻ có RLPTK đặc biệt ở trẻ dưới 2 tuổi về việc chơi với TBĐT để tìm hiểu thêm về khuynh hướng lựa chọn các loại TBĐT, các chương trình và cách sử dụng TBĐT, cũng như sự tương tác với người khác trong lúc chơi giữa hai nhóm trẻ này nhằm góp phần xác định một số triệu chứng thường gặp trong chơi với TBĐT ở trẻ có rối loạn phổ tự kỷ tự kỷ để góp phần xác định chẩn đoán sớm. TÀI LIỆU THAM KHẢO American Psychiatric Association (2013). Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th Edition: DSM-5 (5th ed.). American Psychiatric Publishing. Data and Statistics on Autism Spectrum Disorder | CDC. (2020, September 25). Centers for Disease Control and Prevention. https://www.cdc.gov/ncbddd/ autism/data.html Dawson, G., Webb, S., Schellenberg, G. D., Dager, S., Friedman, S., Aylward, E., & Richards, T. (2002). Defining the broader phenotype of autism: genetic, brain, and behavioral perspectives. Development and psychopathology, 14(3), 581-611. https://doi.org/10.1017/s0954579402003103 Zillmer, E. A., Spiers, M. V., & Culbertson, W. C. (2007). Principles of Neuropsychology (2nd ed.). Wadsworth Publishing. 846
  14. 847
  15. NHẬN DIỆN, LƯỢNG GIÁ VÀ CAN THIỆP TÂM LÝ CHO TRẺ EM GẶP RỐI LOẠN CHUYÊN BIỆT HỌC TẬP TRONG BỐI CẢNH HỌC ĐƯỜNG IDENTIFICATION, ASSESSMENT AND INTERVENTION FOR CHILDREN WITH SPECIFIC LEARNING DISORDERS IN SCHOOL CONTEXT Khoa Tâm lý – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, (ĐHQG-HCM) UCLouvain, LIÈGE université, Faculty of Psychology Ho Chi Minh City University of Social Sciences and Humanities, ARES Académie De Recherche Et D'enseignement Supérieur NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH E-mail: vnuhp@vnuhcm.edu.vn Website: www.vnuhcmpress.edu.vn Trụ sở: Văn phòng đại diện: Phòng 501, Nhà Điều hành Tòa nhà K-Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐHQG-HCM, phường Linh số 10-12 Đinh Tiên Hoàng, Trung, TP Thủ Đức, TPHCM phường Bến Nghé, Quận 1, TPHCM ĐT: 028 62726361 ĐT: 028 62726390 Chịu trách nhiệm xuất bản và nội dung TS ĐỖ VĂN BIÊN Biên tập NGUYỄN ANH TUYẾN – SIN KẾ DUYÊN Sửa bản in THIÊN PHONG – NHƯ NGỌC Trình bày, bìa BẢO NGỌC Đối tác liên kết KHOA TÂM LÝ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, (ĐHQG-HCM) ISBN: 978-604-73-8668-0 Xuất bản lần thứ 1. Số lượng in: 100 cuốn, khổ 16 x 24 cm. Số XNĐKXB: 3924-2021/CXBIPH/1-66/ĐHQGTPHCM. QĐXB số 202/QĐ-NXB cấp ngày 09/11/2021. In tại: Công ty TNHH MTV In Tín Lộc. Địa chỉ: 117/5 Võ Thị Thừa, phường An Phú Đông, Quận 12, TP HCM. Nộp lưu chiểu: Năm 2021. Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ bởi Luật Xuất bản và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phát tán nội dung khi chưa có sự đồng ý của tác giả và Nhà xuất bản. ĐỂ CÓ SÁCH HAY, CẦN CHUNG TAY BẢO VỆ TÁC QUYỀN!
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
67=>1