intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng thu nộ quỹ Bảo hiểm xã hội và biện pháp nâng cao hiệu quả thu nộp - 6

Chia sẻ: Cao Tt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

87
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đạt được kết quả này là do Ngân sách Nhà nước bao cấp về tiền lương, về cung cấp vật tư và tiêu thụ sản phẩm, số thu 1% không đáng kể và được Nhà nước cho phép tính vào chi phí sản xuất nên các đơn vị sản xuất kinh doanh đều có điều kiện thực hiện. Ngoài ra, đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp việc kiểm soát chi chặt chẽ, việc chấp hành các chế độ tài chính được thực hiện nghiêm túc, các khoản chi tiền lương do Bộ Tài chính duyệt và cấp...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng thu nộ quỹ Bảo hiểm xã hội và biện pháp nâng cao hiệu quả thu nộp - 6

  1. khá, có những năm như 1975 đạt 93,46% kế hoạch thu. Đạt được kết quả này là do Ngân sách Nhà nước bao cấp về tiền lương, về cung cấp vật tư và tiêu thụ sản phẩm, số thu 1% không đáng kể và được Nhà nước cho phép tính vào chi phí sản xuất nên các đơn vị sản xuất kinh doanh đều có điều kiện thực hiện. Ngoài ra, đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp việc kiểm soát chi chặt chẽ, việc chấp hành các chế độ tài chính được thực hiện nghiêm túc, các khoản chi tiền lương do Bộ Tài chính duyệt và cấp phát theo từng khoản mục chi cụ thể nên khoản thu 1% cơ bản đạt yêu cầu đề ra. 2.1.2. Thời kỳ 1976 - 1987 Sau khi đất nước thống nhất, Miền bắc tiếp tục thực hiện mức thu BHXH bằng 1% tổng quỹ lương, nguồn thu này vẫn được nộp vào quỹ BHXH của Ngành Lao động - Thương binh & X• hội. Miền nam trong giai đoạn này thực hiện cải tạo x• hội chủ nghĩa, về cơ bản các doanh nghiệp quốc doanh không th ực hiện việc thu nộp BHXH theo quy định, chỉ đến những năm đầu thập kỷ 80 mới thực hiện công việc này. Từ năm 1981, tình hình kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, mức thu BHXH giảm hàng năm: năm 1981 đạt 79,65%, 1987 chỉ còn 33,18% so với kế hoạch thu BHXH. Do thu nộp BHXH đạt kết quả thấp, trong khi đó mức trợ cấp BHXH ngày càng tăng, vì vậy năm 1976 Ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ cho quỹ BHXH là 83,16% và đến năm 1987 mức hỗ trợ này lên tới 97,66% tổng số chi. Trong một thời gian dài áp dụng tỷ lệ thu 1% không phù hợp nên năm 1973 Bộ Nội vụ đ• có tờ trình số 988/NV đề nghị nâng mức thu từ 1% lên 7% tổng quỹ lương nhưng không được Nhà nước chấp thuận vì có những quan điển cho rằng cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị kinh doanh vẫn được Nhà nước bao cấp. Ngành tài chính thì quan niệm cho rằng chế độ BHXH như một chế độ tiền lương do Nhà nước bảo đảm nên đ• có những văn bản quy định chi BHXH theo chế độ cấp phát dự toán hàng tháng, hàng quý nh ư đối với cơ quan hành chính sự nghiệp khác. Với cơ chế cấp phát kinh phí BHXH mang nặng tính bao cấp, ỷ lại vào Ngân sách Nhà nước nên hạn chế tính tích cực trong việc thực hiện thu BHXH của Ngành Lao
  2. động - Thương binh & X• hội. Tuy vậy, những tồn tại trên không thể duy trì lâu dài và đến cuối thập kỷ 80 Nhà nước đ• quyết định sửa đổi lại các quy định về hoạt động BHXH. 2.2. Giai đoạn từ 1988 đến tháng 9/1995 Trước những tồn tại trong công tác thu BHXH, năm 1988 Chính phủ quy định mức thu BHXH bằng 10% quỹ tiền lương do cơ quan, xí nghiệp Nhà nước trích nộp. Tuy vậy, do cuộc sống của công nhân viên chức gặp nhiều khó khăn nên trích lại 2% trong số 10% tổng quỹ lương để chi trợ cấp khó khăn cho công nhân viên chức Nhà nước. Do tình hình kinh tế Việt Nam trong những năm cuối thập kỷ 80 gặp khủng hoảng, mức lạm phát cao vì vậy thu BHXH luôn đạt thấp hơn so với chi. Đến năm 1993 Chính phủ phải tăng mức thu BHXH từ 8% lên 15% quỹ tiền lương, trong đó: - Cơ quan, xí nghiệp trích nộp vào quỹ BHXH 10% quỹ tiền lương. - Cán bộ công nhân viên chức phải nộp BHXH là 5% tiền lương của bản thân. Việc quy định người lao động phải nộp BHXH từ tiền lương của bản thân mình là một bước ngoặt trong thực hiện các chế dộ BHXH của Nhà nước, giúp cho công tác BHXH của chúng ta có thể hoà nhập với các nước khác trên thế giới. Tổ chức thu và quản lý thu BHXH trong giai đoạn này được thể hiện bởi các tổ chức sau: 2.2.1. Từ năm 1988 đến tháng 6/1989 Trong thời gian này hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nh à nước gặp rất nhiều khó khăn và ý thức chấp hành nộp BHXH chưa nghiêm túc, Ngành Lao động - Thương binh & X• hội không đủ điều kiện đôn đốc, kiểm tra thu nộp nên số thu BHXH mức 8% tổng quỹ l ương đạt rất thấp. Tình hình trên đ• gây ảnh hưởng rất nhiều đến nguồn kinh phí chi trả cho các đối t ượng hưởng BHXH bởi vì Bộ Tài chính chỉ thực hiện hỗ trợ phần chênh lệch sau khi đ• trừ đi kế hoạch giao cho Ngành Lao động - Thương binh & X• hội. Trước tình hình đó Ngành Lao động - Thương binh & X• hội đ• phải vay ngân hàng với l•i suất cao dưới sự bảo l•nh của Bộ Tài chính và hậu quả là các khoản nợ tồn đọng nhiều năm mới thanh toán được.
  3. 2.2.2. Từ tháng 6/1989 đến tháng 9/1995 Thực hiện Thông tư liên Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thương binh & X• hội số 22TT/LB, Bộ Tài chính nhận trách nhiệm thu BHXH là 8% trên tổng quỹ lương. Mục đích của việc chuyển đổi cơ chế quản lý thu BHXH này là nhằm gắn trách nhiệm của Bộ Tài chính trong việc đảm bảo kinh phí chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng được hưởng một cách kịp thời. Chính phủ phân cấp nhiệm vụ thu BHXH cho Bộ Tài chính như sau: - Bộ Tài chính trực tiếp trích nộp vào quỹ BHXH số phải nộp BHXH cho các cơ quan, đơn vị hành chính do Trung ương quản lý. - Sở Tài chính vật giá các tỉnh, thành phố trích nộp vào quỹ BHXH của các đơn vị hành chính sự nghiệp do địa phương quản lý. - Các cục, các vụ quản lý thu các doanh nghiệp quốc doanh Trung ương và địa phương đóng trên địa bàn. Từ năm 1993, Bộ Tài chính lại giao nhiệm vụ thu BHXH cho Tổng cục thuế nhằm gắn trách nhiệm vừa đôn đốc thu nộp thuế, vừa đôn đốc giám sát thu BHXH. Sự thay đổi tổ chức thu BHXH như trên, đ• giúp công tác thu BHXH đạt hiệu quả cao hơn. Cụ thể, sau khi bàn giao nhiệm vụ thu BHXH trong quý III năm 1989 Bộ Tài chính đ• thực hiện tương đối tốt công tác thu: kết quả thu cả năm đạt 85,15% kế hoạch trong khi năm 1988 Ngành Lao động - Thương binh & X• hội quản lý chỉ đạt 40,43% kế hoạch thu. Ta có thể thấy, tình hình thu BHXH của Ngành Lao động - Thương binh & X• hội chưa đáp ứng được nhu cầu chi trả cho các chế độ BHXH mà ngành quản lý. Số thu BHXH hàng năm luôn nhỏ hơn rất nhiều so với số chi trả cho 3 chế độ BHXH và nhiều năm số thu này có thể coi là không đáng kể so với số chi: đơn cử năm 1987 số thu chỉ đạt 2,34% so với chi và Ngân sách Nhà nước bù thiếu tới 97,66%. Đây thực sự là gánh nặng quá lớn cho Ngân sách Nhà nước trong một thời gian dài. Nhận xét:
  4. Việc thực hiện thu BHXH bằng 1% tổng quỹ lương trong một thời gian dài (1964 - 1987) đ• làm cho Ngân sách Nhà nước phải bù thiếu rất lớn cho chi trả các chế độ hưu trí, trơ cấp tuất và mất sức lao động do Ngành Lao động - Thương binh & X• hội quản lý. Tính ỷ lại vào Ngân sách Nhà nước thể hiện khá rõ trong kết quả thu: thường xuyên đạt thấp so với kế hoạch đề ra và thấp hơn nhiều so với thực chi. Điều này càng thể hiện rõ hơn khi mà Ngành Lao động - Thương binh & X• hội yêu cầu nâng mức thu lên nhưng không được chấp nhận. Công tác thu BHXH trong giai đoạn Ngành Lao động - Thương binh & X• hội quản lý chỉ dừng lại ở hình thức tự nguyện của các đơn vị, cơ quan chưa thực sự có tính bắt buộc. Vì vậy, ngay cả với các doanh nghiệp Nhà nước cũng chưa tự giác đóng BHXH. Trong thời gian dài, công tác thu BHXX chỉ dựa chủ yếu vào sự tự giác của các cơ quan, doanh nghiệp thông qua việc chuyển số thu BHXH vào tài khoản của Ngành Lao động - Thương binh & X• hội. Ngoài ra, việc không lập danh sách đơn vị sử dụng lao động và số lao động mà chỉ căn cứ vào tổng quỹ lương để xác định kế hoạch nộp nên gây khó khăn cho công tác giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động. Do mang nặng tư tưởng ỷ lại vào sự bảo đảm của Ngân sách Nhà nước cho nên chưa phát huy được tính tự chủ và nâng cao trách nhiệm của Ngành Lao động - Thương binh & X• hội. Trong một thời gian dài, ngành chưa kiến nghị được với Chính phủ những biện pháp tổ chức, thực hiện cụ thể về vấn đề: thu, lệ phí thu và những hình thức thu nộp BHXH khác nên có lúc đ• giao lại cho ngành Tài chính. 3. Đánh giá chung Có thể nhận thấy rằng, trong giai đoạn từ 1962 đến 1/10/1995 cả Tổng Công đo àn Lao động Việt Nam (sau này là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) cùng với Ngành Lao động - Thương binh & X• hội đ• có nhiều cố gắng trong việc hoàn thành nhiệm vụ thu nộp BHXH. Trong chừng mực nhất định, chính sách BHXH lúc đó đ• có tác dụng góp phần đảm bảo ổn định đời sống và động viên khuyến khích đội ngũ công nhân viên chức, lực lượng vũ trang làm việc, chiến đấu, tạo ra sự gắn kết giữa người lao động và x• hội, góp phần vào sự thắng lợi của cuộc
  5. kháng chiến chống thực dân đế quốc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam x• hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên thì quá trình th ực hiện các chế độ chính sách BHXH trong cơ chế cũ không tránh khỏi những bất cập, hạn chế cần khắc phục, cụ thể: - Do cách tính mức đóng góp BHXH không tương xứng với mức chi trả cho các chế độ BHXH. Do vậy, trong một thời gian dài Ngân sách Nhà nước thường xuyên phải hỗ trợ cho các cơ quan trên trong chi trả BHXH dẫn tới việc chưa xây dựng và hình thành được quỹ BHXH độc lập với Ngân sách Nhà nước, nguồn hình thành thực chất là do Ngân sách Nhà nước cấp phát. Trong khi đó, đối tượng tham gia và được hưởng các chế độ BHXH chỉ áp dụng đối với công nhân viên chức và lực lượng vũ trang nên thực sự chưa thể hiện tính x• hội cao, có sự phân biệt giữa người lao động làm việc trong khu vực Nhà nước và ngoài khu vực Nhà nước, gây tâm lý chỉ lao động trong khu vực Nhà nước mới có vị trí trong x• hội và chưa thể hiện sự công bằng khi tuổi già. - Tổ chức quản lý BHXH phân tán, không có một cơ quan đặc trách riêng quản lý Nhà nước về BHXH cũng như không có một cơ quan đặc trách riêng về quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH mà có sự lẫn lộn giữa hai chức năng này ở cả hai cơ quan quản lý trên. Việc có nhiều cơ quan cùng quản lý các chế độ BHXH đ• gây ra sự chồng chéo không thống nhất trong điều hành, quản lý thu nộp BHXH đồng thời cũng tạo ra sự không đồng bộ trong các chế độ chính sách BHXH, theo đó l à sự nhận thức không đầy đủ về BHXH từ người quản lý đến người lao động đ• dẫn tới thiếu chủ động trong kiến nghị, đề xuất của từng cơ quan với Chính phủ về các thay đổi trong mức đóng góp, phạm vi các đối tượng tham gia và được hưởng BHXH v.v... cho phù hợp với tình hình thức tế. - Ngoài ra, việc trông chờ vào sự bao cấp của Ngân sách Nhà nước và sự thiếu chủ động của các cơ quan quản lý BHXH cũng đ• tạo ra thói quen, tâm lý ỷ lại, thiếu tự giác của cả chủ sử dụng lao động và người lao động, họ ch ưa thấy rõ hết trách nhiệm cũng như quyền lợi trong việc tham gia BHXH. Bên cạnh đó, các chế độ
  6. BHXH của ta chưa áp dụng được hầu hết các chế độ BHXH do Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đề ra và còn có sự đan xen kẽ của các chế độ ưu đ•i và trợ cấp x• hội vào đó. Điều này đ• gây hết sức khó khăn cho việc thực hiện công tác BHXH khi chuyển sang cơ chế mới. Chính tất cả những bất cập, hạn chế trên mà việc ra đời một cơ quan duy nhất giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH theo pháp luật của Nhà nước là một thức tế khách quan trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng x• hội chủ nghĩa nhằm hướng hoạt động sự nghiệp BHXH Việt Nam theo đúng nội dung, bản chất vốn có của nó. II. Giai đoạn từ 1/10/1995 - đến nay 1. Các căn cứ pháp lý Trong tiến trình cải cách kinh tế - x• hội thì các chế độ, chính sách BHXH tr ước đây không còn phù hợp nữa. Nó đ• và đang được đổi mới cho phù hợp với tình hình thực tế, thể hiện: - Ngày 15/6/1996, Bộ Luật lao động được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ 5, có hiệu lực từ 1/1/1995 trong đó có chương IX về BHXH đ• chính thức ghi nhận sự đóng góp của ba bên vào quỹ BHXH. Để cụ thể hoá các quy định của Bộ Luật lao động, Chính phủ đ• có các Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và số 45/CP ngày 15/7/1995 ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối với công chức, công nhân viên chức Nhà nước và mọi người lao động theo loại hình BHXH bắt buộc và Điều lệ BHXH đối với sỹ quan quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân nhằm đảm bảo đời sống vật chất, góp phần ổn định cuộc sống cho những người và gia đình tham gia BHXH. - Để đưa những nội dung của Bộ Luật lao động và các Nghị định nêu trên vào triển khai thực hiện trong thực tế, ngày 16/2/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP về việc thành lập tổ chức BHXH Việt Nam tr ên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống Lao động - Thương binh & X• hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam với chức năng, nhiệm vụ chính là: tổ chức thu BHXH; giải quyết chế độ, chính sách BHXH; chi trả cho đối t ượng
  7. hưởng BHXH; đầu tư, bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH. Nhưng trên thực tế do phải tiếp nhận bàn giao tổ chức và nhân sự từ hai ngành nên trong phạm vi toàn quốc, BHXH chính thức đi vào hoạt động từ 1/10/1995. - Sau hơn 7 tháng ban hành Nghị định 19/CP, ngày 26/9/1995 Thủ tướng Chính phủ lại ra Quyết định số 606/QĐ/TTg về việc ban h ành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam. Tiếp đến là Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam. - Cũng với mục đích giúp cho hoạt động của ngành BHXH tiến hành được thuận lợi, ngày 24/7/1995 Bộ Tài chính đ• ra Thôn g tư số 58/TC/HCSN “Hướng dẫn tạm thời về quản lý thu - chi BHXH thuộc hệ thống BHXH’’. Cho đến ngày 30/12/1996, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam lại có Quyết định số 177/BHXH về việc ban hành quy định về quản lý thu BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam. Trên đây là một số văn bản pháp luật chủ yếu điều chỉnh công tác quản lý BHXH nói chung, quỹ BHXH và công tác thu nộp BHXH nói riêng. Nó được thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau đây: 2. Những nội dung cơ bản về BHXH và quỹ BHXH 2.1. Đối tượng tham gia BHXH Theo Điều II - Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là người sử dụng lao động và người lao động (kể cả người được cử đi học, đi thực tập, điều dưỡng, công tác ở trong, ngoài nước vẫn thuộc danh sách trả lương hoặc tiền công của cơ quan và đơn vị) làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức sau đây: - Các doanh nghiệp Nhà nước - Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng 10 lao động trở lên. - Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp. - Các doanh nghiệp, tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang. - Các tổ chức kinh tế, dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan đảng, đoàn thể.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2