intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng tiếp cận nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường Đại học Thủ đô Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

5
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Thực trạng tiếp cận nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường Đại học Thủ đô Hà Nội phân tích mức độ ảnh hưởng các nguồn thông tin tiếp cận nghề nghiệp của sinh viên ngành sư phạm, mức độ năng động tiếp cận nghề nghiệp của sinh viên, phân tích thực trạng các hoạt động tiếp cận nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm ở trường đại học Thủ đô Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng tiếp cận nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường Đại học Thủ đô Hà Nội

  1. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 60/2022 41 THỰC TRẠNG TIẾP CẬN NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Tạ Chí Thành Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Tóm tắt: Hiện tượng sinh viên ngành sư phạm thất nghiệp, bỏ nghề, hoặc học tập sa sút do không xác định được giá trị nghề nghiệp và không hiểu về phẩm chất năng lực bản thân. Hiệu quả của công tác tổ chức tiếp cận nghề nghiệp có liên quan hiện tượng trên. Nghiên cứu thực trạng tiếp cận nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường Đại học Thủ đô Hà Nội sẽ nâng cao chất lượng đào tạo của trường nói riêng và đào tạo ngành sư phạm nói chung. Nghiên cứu đã phân tích mức độ ảnh hưởng các nguồn thông tin tiếp cận nghề nghiệp của sinh viên ngành sư phạm, mức độ năng động tiếp cận nghề nghiệp của sinh viên, phân tích thực trạng các hoạt động tiếp cận nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm ở trường đại học Thủ đô Hà Nội. Những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tiếp cận nghề nghiệp cho sinh viên ngành sư phạm trường Đại học Thủ đô Hà Nội. Từ khóa: Sinh viên, ngành sư phạm, con đường tiếp cận, nghề nghiệp, đại học. Nhận bài ngày 15.4.2022; gửi phản biện, chỉnh sửa, duyệt đăng ngày 22.5.2022 Liên hệ tác giả: Tạ Chí Thành; Email: tcthanh@daihocthudo.edu.vn 1. MỞ ĐẦU Đối với sinh viên mới tốt nghiệp ra trường tìm được một việc làm ưng ý không phải là một công việc dễ dàng. Hiện tượng thất nghiệp khá phổ biến khiến cho nhiều sinh viên phải chấp nhận hoặc chủ động làm những công việc không liên quan đến chuyên ngành được đào tạo. Bên cạnh đó, không ít sinh viên rơi vào vòng xoáy “nhảy việc” và không biết đến khi nào mới tìm được bến đỗ ổn định. Việc chọn nghề không chỉ liên quan đến sở thích mà còn phụ thuộc vào năng lực, phẩm chất, cá tính,… Có những sinh viên chỉ mong muốn có được một công việc để có tiền lương nuôi sống bản thân chấm dứt tình trạng sống nhờ vào bố mẹ, có sinh viên lại lấy thu nhập làm thước đo tìm việc làm,…Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên như khủng hoảng kinh tế hay sinh viên chưa tìm được công việc thích hợp. Một nguyên nhân khác đóng vai trò không kém phần quan trọng là công tác tổ chức tiếp cận nghề nghiệp cho sinh viên chưa hiệu quả. Việc tổ chức tiếp cận nghề nghiệp và đính hướng nghề nghiệp cho sinh viên là một quá trình liên tục và kéo dài cho đến những năm cuối cùng của bậc đại học. Đây là hoạt động giúp sinh viên xác định giá trị nghề nghiệp, đối chiếu yêu cầu nghề nghiệp với vốn kiến thức, kĩ năng của bản thân. Nhưng hiện nay không ít sinh viên
  2. 42 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI coi nhẹ việc định hướng nghề nghiệp nên sau khi tốt nghiệp, họ mất phương hướng về nghề nghiệp, không tự tin về bản thân và không có kỹ năng xin việc. Không chỉ bản thân sinh viên mà gia đình, nhà trường cũng chưa nhận thức hết được tầm quan trọng của việc định hướng việc làm và các con đường tiếp cận việc làm cho sinh viên ngay khi họ còn ngồi trong ghế nhà trường. Ngành sư phạm với đặc thù đào tạo các giáo viên tương lai, với sự mệnh những người thực hiện quá trình giáo dục đào tạo nguồn nhân lực tương lai cho đất nước, công tác tiếp cận và định hướng nghề nghiệp lại càng phải chú trọng. 2. NỘI DUNG 2.1. Khung lý thuyết của vấn đề nghiên cứu 2.1.1. Khái niệm tiếp cận nghề Khái niệm “nghề” được hiểu theo hai nghĩa: (1) Nghề là công việc chuyên môn làm theo sự phân công của xã hội như nghề giáo, nghề nông. (2) Thành thạo trong một công việc nào đó. Ví dụ: chuyền bóng rất nghề [8, tr.1192]. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng khái niệm về nghề theo nghĩa thứ nhất. Tức là, nghề mà chúng tôi đề cập đến ở đây là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó nhờ được đào tạo con người có những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Như vậy, nghề bao hàm cơ bản các yếu tố sau: Yếu tố luật, tức là hoạt động mang lại thu nhập được pháp luật của Nhà nước bảo vệ, yếu tố kiến thức nền tảng thường gắn với đào tạo, yếu tố kĩ năng, yếu tố năng lực và yếu tố nhiệm vụ. Khái niệm “tiếp cận” được hiểu là đến gần; từng bước bằng những phương pháp nhất định tìm hiểu một đối tượng nào đó [7, tr 987]. Như vậy, “tiếp cận nghề” là hoạt động giúp sinh viên tiếp cận/làm quen với nghề nghiệp tại các cơ quan, doanh nghiệp sử dụng lạo động để giúp cho sinh viên có được định hướng nghề nghiệp và chủ động đạt được các yêu cầu mà nhà tuyển dụng cần sau khi tốt nghiệp. 2.1.2. Khái niệm sinh viên Sinh viên hiểu theo nghĩa chung nhất là những người đang học ở bậc đại học [8, tr. 1448]. Họ là những người đã tốt nghiệp phổ thông trung học, bổ túc trung học, trung học chuyên nghiệp đang trong quá trình học tập, chuẩn bị nghề nghiệp tại các trường đại học, cao đẳng. Họ là một nhóm xã hội đặc biệt, thường có độ tuổi từ 18 đến 24 tuổi và xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Nhìn từ góc độ xã hội học, sinh viên có những đặc điểm cơ bản sau: Mang tính phân tầng xã hội, có khả năng di động xã hội nhanh, do được tiếp cận với những giá trị mới, năng động nên họ thuận lợi trong cơ hội chiếm lĩnh những vị trí cao trong xã hội sau khi học. Mang tính đặc thù về độ tuổi và phẩm chất xã hội, thường có quá trình xã hội hóa riêng biệt so với các nhóm xã hội khác. Có địa vị, vị trí, vai trò xã hội xác định. Có lối sống và định hướng giá trị đặc thù, dễ dàng tiếp thu những giá trị xã hội mới. Có tính tích cực xã hội, tính độc lập, tự lập và có nhu cầu khẳng định bản thân khá cao. 2.1.3. Đặc điểm của nghề sư phạm a. Mục đích lao động sư phạm
  3. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 60/2022 43 Là nhằm giáo dục thế hệ trẻ thành những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực mà xã hội yêu cầu. Nói cách khác, lao động sư phạm góp phần “sáng tạo ra con người”, góp phần tái sản xuất sức lao động xã hội đào tạo và bồi dưỡng liên tục những thế hệ trẻ cho đời sau. Lao động sư phạm là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học. Trong đó, người dạy là người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, được xã hội giao cho nhiệm vụ giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ. Còn người học có nhiệm vụ học tập, tiếp thu những giá trị Vh của xh loài người và rèn luyện hệ thống kĩ năng kĩ xảo để sau này có thể ra đời sống và lao động nhằm thỏa mãn các tiêu chí mà mục đích giáo dục đã đề ra. Mục đich lao động sư phạm là đào tạo ra những người năng động sáng tạo. Do đó nội dung giáo dục phải gắn liền với cuộc sống và phương pháp giáo dục là tôn trọng nhân cách của người được giáo dục và phải hình thành ở họ tính tích cực, chủ động, tự giác và sáng tạo. b. Đối tượng của lao động sư phạm Đối tượng nghề sư phạm rất đặc biệt, đó không phải là những vật vô tri, vô giác mà là những con người, thế hệ trẻ đang trưởng thành. Đối tượng của lao động sư phạm rất đa dạng, phức tạp. Sản phẩm của lao động sư phạm được “vật chất hóa” trong bộ mặt tinh thần tri thức, thể chất, kĩ năng, kĩ xão, ý chí, phẩm chất và tính cách của HS. Đối tượng của lao động sư phạm là học sinh. Họ không chỉ chịu tác động của GV, nhà trường mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như: gia đình, bạn bè, các phương tiện thông tin đại chúng,… Tất cả những nhân tố này có thể tác động đến việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh 1 cách tích cực hoặc tiêu cực, tự giác hoặc tự phát,… theo nhiều mức độ và cách thức khác nhau. Mặt khác các mối quan hệ trong cuộc sống của HS cũng rất phong phú. Chúng cũng thường xuyên tác động và ảnh hưởng đến HS. Vì vậy, lao động sư phạm có nhiệm vụ điều chỉnh mọi tác động từ các nhân tố đến người HS nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Nhưng HS – đối tượng của lao động sư phạm không phát triển theo tỉ lệ thuận với những tác động sư phạm mà theo quy luật của sự hình thành nhân cách con người, tâm lí và nhận thức. Vì vây, có khi cùng một tác động sư phạm đến người HS nhưng lại có kết quả khác nhau có thể tích hoặc tiêu cực. Mặt khác, kết quả của lao động sư phạm không chỉ phụ thuộc vào trình độ được đào tạo của GV mà còn phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ giữa GV và HS, phụ thuộc vào thái độ, dộng cơ, hứng thú người học, vào đặc điểm nhân cách của HS. Trong quá trình sư phạm, người GV là chủ thể còn HS là khách thể và là đối tượng của lao động sư phạm. Mặt khác, HS còn là một thực thể xã hội có ý thức. Vì vậy quá trình sự phạm chỉ đem lại hiệu quả khi phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo của người học. c. Công cụ của lao động sư phạm Để tác động tới HS người Gv cần có những công cụ đặc biệt đó là: hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo cần thiết để giáo dục HS và tổ chức các dạng hoạt động như: Học tập, lao động, vui chơi, giải trí cho các em. Nhưng nếu chỉ có hệ thống tri thức kĩ năng, kĩ xảo thì chưa đủ đảm bảo hiệu quả của lao động sư phạm. GV là người đào luyện con người, vì vậy, người GV cần phải giảng dạy và giáo dục hs với tất cả tình cảm và tâm hồn mình. Mặt khác, nhân cách của các thầy, cô giáo cũng có ý nghĩa giáo dục to lớn và ảnh hưởng sâu sắc đến phát
  4. 44 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI triển nhân cách của người HS. Ngoài những công cụ này còn phải kể đến những phương tiện như đồ dùng dạy học, thiết bị kĩ thuật. d. Sản phẩm của lao động sư phạm Sản phẩm của lao động sư phạm là con người. Song, qua quá trình giáo dục và tự giáo dục lâu dài, dưới sự hướng dẫn tổ chức và điều khiển của giáo viên thì những con người – sản phẩm của lao động sư phạm đã có những chuyển biến sâu sắc về chất lượng. Họ đã được chuẩn bị một cách đầy đủ và toàn diện về thể chất và tinh thần để đi vào cuộc sống đa dạng phong phú, thích ứng và đương đầu với những sự thay đổi diễn ra liên tục trong cuộc sống, trở thành nguồn nhân lực có chất lượng đóng góp vào sự phát triển xã hội. e. Thời gian, không gian của lao động sư phạm - Về thời gian: Lao động sư phạm chia thành 2 bộ phận, bộ phận làm việc theo quy chế và bộ phận làm việc ngoài quy chế. Bộ phận theo quy chế gắn liền với thời gian làm việc trên lớp và tổ chức các hđ dạy học ngoài lớp căn cứ theo chương trình dạy học, với thời gian tham dự các sinh hoạt chuyên môn và hành chính, thực hiện các hoạt động của nhà trường. Bộ phận làm việc ngoài quy chế gắn liền với thời gian làm việc để soạn bài, chấm bài, thăm gia đình HS, đọc sách, tài liệu; thời gian độc lập làm việc để chuẩn bị cho việc dạy học và giáo dục HS được tốt hơn. Mỗi bộ phận của thời gian này đều có tầm quan trọng của riêng nó, song chúng có liên quan mật thiết và thống nhất với nhau nhằm thực hiện mục đích của lao động sư phạm - Về không gian: Ở trường, nơi dạy học ngoài thiên nhiên, trong môi trường sư phạm, trong các cơ quan nhà máy, ở nhà. 2.1.4. Khái niệm con đường tiếp cận nghề nghiệp Về khái niệm này, chúng tôi muốn nêu bật hai nội hàm cơ bản như sau: Con đường tiếp cận thể hiện một lôgic hành động, lôgic xã hội hay hành trình xã hội đi từ chỗ tìm kiếm cơ hội, chuẩn bị tâm thế cho đến việc quyết định chọn nghề trong tương lai. Đây là những nền tảng cơ bản cho phép biết được các khuynh hướng chọn nghề của sinh viên sau khi tốt nghiệp; Con đường tiếp cận biểu hiện những mô thức hay hình thức tìm kiếm thông tin, tăng cường kiến thức và cách thức tìm kiếm việc làm của nhóm xã hội này. 2.2. Thực trạng tiếp cận nghề nghiệp của sinh viên ngành Sư phạm trường Đại học Thủ đô Hà Nội Để tìm hiểu, phân tích, tổng hợp và đưa ra những đánh giá về thực trạng tiếp cận nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường Đại học Thủ đô Hà Nội, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 231 SV, bao gồm các SV đến từ năm nhất cho đến năm thứ tư thuộc các chuyên ngành khác nhau của khoa Sư phạm, trường Đại học Thủ đô Hà Nội. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp bảng hỏi, phỏng vấn sâu, xử lý bằng phần mềm toán thống kê nhằm đưa ra những kết quả định lượng. Trên cơ sở đó, chúng tôi đánh giá định tính về thực trạng tiếp cận nghề nghiệp của sinh viên sư phạm. 2.2.2. Kết quả và bình luận
  5. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 60/2022 45 2.2.2.1. Thực trạng nguồn thông tin về việc làm của sinh viên Hàng năm, có hàng trăm nghìn thí sinh đi thi đại học. Cổng trường đại học hẹp nhưng số lượng người muốn vào lại rất lớn. Lý do gì khiến cho việc học đại học lại được người dân coi trọng như vậy? Lý do đầu tiên thuộc về truyền thống hiếu học như các trang sách sử thường nhắc đến. Tuy nhiên, về mặt xã hội học mọi người tin tưởng rằng, đại học là con đường dẫn con người đến tương lai. Học đại học, tiếp thu kiến thức, có một tấm bằng để sau này ra trường có thể xin một việc làm. Có rất nhiều cách thức khác nhau để có thể có một việc làm tốt. Có rất nhiều sinh viên đã sử dụng ngay khoảng thời gian đang ngồi trên ghế nhà trường để tìm hiểu những thông tin về việc làm để có thể có những lựa chọn tốt nhất khi đi xin việc. Khi khảo sát 231 SV, chúng tôi nhận thấy đa số SV (82,3%) đều có nguồn thông tin về việc làm. Dù nguồn thông tin đến từ những kênh khác nhau, nhưng điều này cho thấy họ rất quan tâm đến quá trình xin việc sau này. Khi mới bắt đầu vào trường, không phải sinh viên nào cũng có những hiểu biết cặn kẽ về những việc làm liên quan đến ngành học của mình. Chính vì vậy, trong khi đi học, tiếp xúc thêm với nhiều mối quan hệ xã hội với một quá trình xã hội hóa mới họ đã có sự bổ sung lỗ hổng về thông tin này. Khi đã vào học, đặc biệt khi đã trải qua được một vài năm học, sinh viên đã có động lực hơn khi tìm hiểu về việc làm. Sinh viên đi học là để tìm việc làm, vì vậy cho dù việc họ vào học vì bất kỳ lý do gì giờ đây đều không quan trọng nữa, quan trọng hơn lúc này là phải tìm hiểu về những việc làm liên quan đến ngành học để có thể có sự định hướng cho công việc trong tương lai. Hơn thế nữa, với sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là Internet, sự quan tâm của gia đình và nhà trường, luôn quan tâm, cung cấp những thông tin về việc làm cho sinh viên đã tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong quá trình tiếp cận với việc làm sau khi tốt nghiệp. Biểu đồ 1. Thực 81.7 trạng nguồn thông tin về việc làm của sinh viên (đơn vị %) 32.6 38.2 Internet là lựa chọn 23.6 21.6 14.7 18.8 15.2 số một của sinh viên 5.8 1.1 khi muốn tìm hiểu các Internet Sách Báo Tivi Radio Gia Bạn bè Thầy cô Sinh Khác thông tin liên quan đến viết và đình hoạt tập việc làm. Với một cú tạp chí thể nhấp chuột, họ có thể có được rất nhiều những thông tin liên quan đến việc làm như tuyển dụng, những kỹ năng khi làm việc hay khi đi xin việc,… Bên cạnh những ưu thế do dễ tiếp cận, khối lượng thông tin nhiều, chúng ta cũng nhận thấy rằng, những thông tin trên Internet không có tính hệ thống, đòi hỏi phải có sự phân tích, chắt lọc,… Vì vậy, sinh viên nếu muốn sử dụng một cách hiệu quả nhất phương tiện Internet cũng cần phải có những kỹ năng liên quan đến vấn đề này. Tuy nhiên, chưa có bất kì chương trình đào tạo nào giúp sinh viên lựa chọn tốt thông tin đa
  6. 46 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI dạng và đa chiều về việc làm trên internet. - “Sinh viên thì ai cũng quan tâm đến việc sau này mình làm gì. Em hay lên Internet để tìm hiểu thông tin. Việc dùng Internet để tra tin rất thuận lợi. Hội chợ việc làm thì mỗi năm nhà trường chỉ tổ chức một lần nhưng bất cứ lúc nào mình cũng có thể tìm hiểu thông tin trên internet cả” (N, năm thứ 2, ngành Toán) - “Rảnh rỗi em cũng lên mạng tìm hiểu thông tin xem sau này mình có thể làm ngành gì. Xem có khóa học nào không có thể đăng ký để nâng cao kỹ năng của mình. Em cũng hay đọc được các mẩu tin ở trên báo. Trong quá trình đi học thì các thầy cô cũng hay chia sẻ kinh nghiệm hay bạn bè có thông tin gì thì cũng nói cho nhau nghe” (T, năm thứ 2, ngành GDCD) Ngoài Internet, sinh viên cũng hay nhận được thông tin liên quan thông qua các nguồn khác như bạn bè, báo viết, tivi, tạp chí và các thầy cô,… Các phương tiện truyền thông đại chúng đóng góp một vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin việc làm cho sinh viên. Tuy gia đình đóng vai trò quan trọng trong quá trình định hướng việc làm và nguồn thông tin định hướng từ gia đình luôn được sinh viên đánh giá cao nhưng đây lại không phải là nơi cung cấp nhiều thông tin về việc làm cho họ. Các môi trường xã hội hóa đều đóng góp vai trò quan trọng giúp sinh viên tiếp cận gần hơn với các thông tin về việc làm. Ngày nay, bên cạnh các môi trường xã hội hóa truyền thống như gia đình, nhà trường, bạn bè,… thì sự phát triển và mang tính cập nhật cao của thông tin đại chúng đã giúp môi trường này ngày càng có sự tác động mạnh mẽ đến những định hướng của sinh viên. Không phải sinh viên nào cũng có nhu cầu tìm hiểu về việc làm. Nhiều sinh viên cho rằng lúc này đây tìm hiểu thông tin về việc làm là chưa cần thiết. 2.2.2.2. Thực trạng nhu cầu của sinh viên đối với tiếp cận nghề nghiệp 45 Đợi ra Biểu đồ 2. Lý do sinh viên không Không có Không có trường, 40 40 nhu cầu tìm thời gian tìm hiểu về việc làm (đơn vị %) 35 hiểu, 24.4 tìm hiểu, 22 Không có Phần lớn những sinh viên không 30 Không nguồn tìm hiểu thông tin về việc làm vì họ thích tìm 25 thông tin, hiểu, 12.2 9.8 cho rằng đến khi nào ra trường rồi 20 tìm hiểu sau cũng chưa muộn: hiện 15 tại họ chưa có nhu cầu tìm hiểu. Một 10 Khác , 5 số ít hơn cho rằng, họ không có thời 5 gian hoặc không có điều kiện tiếp cận 0 với các nguồn thông tin. Cá biệt, có những trường hợp nói rằng bố mẹ đã lựa chọn, tìm hiểu và sẽ xin việc cho họ. Tuy nhiên, chính bản thân nhiều sinh viên lại không nhận thức được hoặc nhận thức một cách không đầy đủ về vấn đề này. Trong khi gia đình, nhà trường,… đang tìm mọi cách giúp họ thì họ lại thờ ơ với chính tương lai của mình. Có rất nhiều các nguồn khác nhau mà từ đó sinh viên có thể sử dụng để tìm hiểu thông tin về việc làm. Đây cũng chính là những con đường tiếp cận giúp sinh viên tiến gần hơn đến những công việc trong tương lai không xa của mình. Có thể nói rằng, việc sinh viên có sử dụng hiệu quả hay không hiệu quả những con đường này
  7. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 60/2022 47 cũng có sự ảnh hưởng không phải là nhỏ đến những thuận lợi và khó khăn trong quá trình đi tìm việc của họ sau này. Vậy, hiện nay, sinh viên đang sử dụng các con đường tiếp cận này như thế nào? Chúng tôi sẽ đưa ra câu trả lời trong phần kết quả nghiên cứu tiếp sau đây. 2.2.2.3. Thực trạng sự chủ động của sinh viên trong tiếp cận nghề nghiệp Để có được sự thành công trong bất kỳ lĩnh vực nào, sự nỗ lực của bản thân là rất quan trọng. Để tìm được một công việc tốt, việc quan tâm đến năng lực của bản thân, sự đòi hỏi của công việc và nhu cầu của thị trường lao động là rất quan trọng. Hàng năm có hàng triệu sinh viên mới ra trường, để có thể làm tăng khả năng cạnh tranh của bản thân, sinh viên cũng đã có những sự nỗ lực tự bản thân ngay khi còn trên ghế nhà trường. Biểu đồ 3. Sự chủ động của sinh viên trong tiếp cận nghề nghiệp (đơn vị %) Học đều các môn để có 22.7 bảng điểm tốt Con đường tự rèn luyện bản thân để tiếp cận việc làm của sinh viên được thể Học giỏi chuyên ngành 7.4 hiện bằng việc học thêm các chứng chỉ khác và đi làm thêm. Trong những chứng Học thêm các chứng chỉ 64.9 khác chỉ khác mà sinh viên lựa chọn thì có 91.9% lựa chọn ngoại ngữ, 70.3% lựa chọn Đi làm thêm 44.2 tin học, 9.7% lựa chọn các chứng chỉ khác như kế toán, sư phạm, viết báo, quản lý,… Có một con số rất lớn sinh viên ngoài việc tiếp thu ngoại ngữ ở trường đã đi học thêm ở bên ngoài bởi một lẽ trình độ ngoại ngữ và tin học là một phần không thể thiếu trong việc đăng tuyển dụng cho hầu hết tất cả các vị trí ở các công ty hiện nay. - “Em có học thêm tiếng Anh và tin học. Các công ty hiện nay khi tuyển người đều đòi hỏi tiếng Anh tốt. Muốn làm được chỗ tốt phải giỏi tiếng Anh. Em cũng đi làm thêm, sau này mình sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn. Em cũng cố gắng học cho tốt. Bằng khá vẫn hơn bằng trung bình.” (P, năm thứ 3, ngành sư phạm Tiếng Anh) - “Em có đi làm thêm, công việc không đúng chuyên ngành lắm nhưng vừa có thêm tiền lại có nhiều kinh nghiệm sau này đi làm đõ bỡ ngỡ” (TT, năm thứ 4, ngành ngữ văn) Bảng 1. Sự chủ động trong tiếp cận nghề nghiệp của sinh viên theo giới tính Giới tính Sự chủ động của sinh viên Nam Nữ Học đều các môn để có bảng điểm tốt 18.4 32.5 Học giỏi chuyên ngành 6.6 7.8 Học thêm các chứng chỉ khác 61.8 66.2 Đi làm them 47.4 42.9 Không làm gì 1.3 0.6 Chúng tôi nhận thấy rằng, sinh viên dường như không quan tâm nhiều đến việc học tốt các môn ở trên trường trong đó có các môn chuyên ngành. Để tiếp cận việc làm, sự nỗ lực của bản thân mỗi sinh viên là rất đỗi quan trọng. Họ đã biết nhìn nhận, xem xét những đòi
  8. 48 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI hỏi của công việc, nhu cầu của thị trường để hoàn thiện bản thân như học ngoại ngữ, vi tính… Sinh viên cũng đã biết gia tăng cơ hội tìm việc của mình bằng cách học thêm các chứng chỉ liên quan đến chuyên ngành. Nam giới luôn được giáo dục để trở thành người gánh vác gia đình trong tương lai, nữ giới lại được giáo dục để hướng đến việc trở thành một người nội trợ đảm đang. Nữ giới cũng coi trọng sự ổn định hơn nam giới. Trong các cách tiếp cận việc làm của bản thân, nữ giới quan tâm hơn đến con đường ổn định học hành, nam giới lại quan tâm đến việc đi làm thêm để đúc rút kinh nghiệm. Có đến 32.5% nữ cho rằng bản thân sẽ đầu tư vào việc học tập để có một bảng điểm tốt, chỉ có 18.4% nam giới chọn phương án này. Nữ giới cũng là người biết lo toan hơn nam giới khi chỉ có 0.6% không làm gì trong khi tỷ lệ lựa chọn phương án này của nam sinh viên là 1.3%. Mỗi cá nhân đều có những mục đích khác nhau trong cuộc sống để hướng đến, để đạt được mục đích đó, họ sẽ sử dụng các công cụ và phương tiện khác nhau. Những mục đích ấy không chỉ khác nhau do thành phần xuất thân, ngành học khác nhau… mà nhiều khi là do quá trình xã hội hóa khác nhau. Sự xã hội hóa đó có những yêu cầu khác nhau dành cho nam và nữ, vì vậy những phương tiện mà họ sử dụng để đạt được mục đích của mình cũng có sự khác nhau. 2.2.2.4. Thực trạng vai trò của nhà trường trong tổ chức sinh viên tiếp cận nghề nghiệp Vấn đề giáo dục hướng nghiệp không chỉ quan trọng đối với học sinh phổ thông mà đối với sinh viên cũng quan trọng không kém. Các trường đại học hiện nay đã ngày càng có nhiều các hoạt động khác nhau như tổ chức hội chợ việc làm, tọa đàm về việc làm,… nhằm giúp sinh viên có những thông tin cần thiết trong việc định hướng nghề. Vậy sinh viên đánh giá như thế nào về vai trò này của nhà trường? Biểu đồ 4. Đánh giá của sinh viên về vai trò của nhà trường trong tổ chức tiếp cận nghề nghiệp Không Hoàn Thông qua biểu đồ trên chúng ta thấy quan toàn rằng, sinh viên cho rằng nhà trường có vai trò trọng, không 3.5 quan quan trọng trong việc định hướng việc làm cho Rất quan trọng, trọng, sinh viên với con số là 60.6%. Ngoài ra, 33.3% 2.6 20.8 đánh giá vai trò này của nhà trường ở mức độ Bình bình thường và chỉ có 6.1% sinh viên không thường, 33.3 đánh giá cao vai trò của nhà trường trong lĩnh vực này. Điều này là phù hợp với kết quả nghiên cứu mà chúng tôi đã trình bày ở trên Quan trọng, khi mà sau khi vào trường phần lớn sinh viên 39.8 mới có định hướng về việc làm và mức độ hiểu biết về việc làm của họ cũng gia tăng. 2.2.5. Thực trạng các hoạt động tiếp cận nghề nghiệp cho sinh viên của trường Đại học Thủ đô Hà Nội Biểu đồ 5. Đánh giá của sinh viên về các hoạt động tổ chức tiếp cận nghề nghiệp của nhà trường
  9. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 60/2022 49 Thực hành, thực tập Chia sẻ của cựu sinh viên Các thầy cô chia sẻ kinh nghệm Mời các trường phổ thông về chia sẻ Tổ chức hội thi nghiệp vụ giỏi Tổ chức tọa đàm 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Mời các Tổ chức hội Các thầy cô Tổ chức tọa trường phổ Chia sẻ của Thực hành, thi nghiệp vụ chia sẻ kinh đàm thông về chia cựu sinh viên thực tập giỏi nghệm sẻ Không có ý nghĩa 2.77 Kém quan trọng 8.6 10.3 Bình thường 25.9 16 3 7.8 34.6 Quan trọng 32.03 46.7 13.5 35.5 22.9 8.1 Rất quan trọng 30.7 26.8 86.5 56.7 42.42 82.25 Biểu đồ 6. Mức độ tham gia của sinh viên đối với các hoạt động tiếp cận nghề nghiệp do nhà trường tổ chức Thực hành, thực tập Chia sẻ của cựu sinh viên Các thầy cô chia sẻ kinh nghệm Mời các trường phổ thông về chia sẻ Tổ chức hội thi nghiệp vụ giỏi Tổ chức tọa đàm 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Mời các Tổ chức hội Các thầy cô Tổ chức tọa trường phổ Chia sẻ của Thực hành, thi nghiệp vụ chia sẻ kinh đàm thông về chia cựu sinh viên thực tập giỏi nghệm sẻ Chưa bao giờ 4.3 Ít khi 43.7 5.1 12.5 11.2 Thỉnh thoảng 35.6 19 17.7 33.7 43.2 Thường xuyên 17.3 34.6 38.1 27.7 10.8 4.8 Rất thường xuyên 8.2 41.1 15.5 25.5 12.9 95.2 Phần lớn sinh viên cho rằng các hoạt động của nhà trường là rất quan trọng, quan trọng chỉ một số ít đánh giá thấp. Nhà trường đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình giúp sinh viên định hướng việc làm, đây là một vai trò không thể chối cãi. Với sinh viên, họ đánh giá
  10. 50 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI cao những hoạt động của nhà trường trong quá trình thực hiện vai trò này. Tuy nhiên, từ nhận thức đi đến hành động không phải là một quá trình dễ dàng. Tác giả nhận thấy một vấn đề rằng, sinh viên đánh giá cao vai trò giúp sinh viên tiếp cận việc làm của nhà trường, đánh giá cao sự hữu ích của các hoạt động do nhà trường đề ra nhưng họ lại ít khi quan tâm cũng như tham gia các hoạt động này. Điều này thể hiện ở con số có - Tọa đàm có 43,7% SV thỉnh thoảng tham gia, - Hội thi nghiệp vụ giỏi có 19% Sv thỉnh thoảng, 5,1 SV ít khi tham gia, - Hoạt động chia sẻ của trường phổ thông có 17.7 SV thỉnh thoảng tham gia - Các thầy cố chia sẻ kinh nghiệm có 12,5% ít khi, 33,7% SV thỉnh thoảng tham gia - Chia sẻ của cựu sinh viên có 11,2% ít khi, 43,2% SV thỉnh thoảng tham gia Con số trên phản ánh mâu thuẫn giữ nhận thức và hành động của SV trong việc tham gia các hoạt động tiếp cận nghề nghiệp tại nhà trường. Nguyên nhân là do nhu cầu và động cơ của họ vẫn chưa thực sự mạnh mẽ, họ vẫn đang là sinh viên và còn một khoảng thời gian nữa họ mới phải quan tâm đến vấn đề việc làm. 3. KẾT LUẬN 3.1. Kết luận SV chưa thể hiện nhu cầu tiếp cận nghề nghiệp mạnh mẽ, đa phần SV có tư tưởng đợi ra trường mới tìm hiểu việc làm, thậm chí không có nhu cầu tìm hiểu ngay. Đây là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng hiệu quả công tác tiếp cận nghề nghiệp. Đây là còn nguyên nhân dẫn tới sinh viên mất nhiều cơ hội việc làm trong tương lai. Do đó việc tạo động lực tiếp cận nghề nghiệp cần phải được khoa sư phạm quan tâm thích đáng. Những con đường tiếp cận việc làm của sinh viên: Sinh viên tiếp cận thông tin về việc làm nhiều nhất qua các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là internet. Đây cũng là một trong những con đường giúp sinh viên tiếp cận việc làm. Ngoài ra còn có thông qua sự nỗ lực của bản thân, gia đình, bạn bè, nhà trường. Sự nỗ lực của bản thân: Sinh viên có nhiều hoạt động nhằm làm tăng khả năng cạnh tranh của bản thân khi tham gia vào thị trường lao động, trong đó được lựa chọn nhiều nhất là con đường học thêm các chứng chỉ khác ngoài chuyên ngành và đi làm thêm. Yếu tố giới tính có sự tác động nhất định đến những hoạt động này của sinh viên. Sinh viên nữ có xu hướng chuyên tâm vào học tập để nâng cao thành tích, sinh viên nam quan tâm hơn đến các hoạt động tích lũy kinh nghiệm thực tế như đi làm thêm… SV đánh giá cao vai trò của các hoạt động định hướng, tiếp cận nghề nghiệp tại nhà trường. Song thực tế, SV chưa có hành động tham gia tương ứng, đặc biệt với hoạt động tọa đàm, chia sẻ của cựu SV, chia sẻ kinh nghiệm của thầy cô 3.2. Khuyến nghị Vai trò định hướng đầu vào cho sinh viên đại học là rất quan trọng. Vấn đề này không chỉ dành cho các trường phổ thông, gia đình,… mà bản thân các trường đại học cũng phải quan tâm. Đặc biệt với các trường sư phạm nói chung và trường Đại học Thủ đô Hà Nội nói riêng, các hoạt động định hướng, tiếp cận nghề nghiệp ảnh hưởng đến chất lượng đầu ra của
  11. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 60/2022 51 sinh viên trong trường. Dựa trên những kết quả nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị như sau: - Đối với nhà trường: + Tổ chức thêm các hoạt động truyền cảm hứng nghề nghiệp cho sinh viên. + Nhà trường cần tạo nhiều sân chơi bổ ích giúp sinh viên hiểu biết và tiếp cận với các nghề khác nhau liên quan đến ngành học. Từ đó, giúp sinh viên có những định hướng nghề chính xác. Những hoạt động này cần mang tính thực tế, thu hút đông đảo sinh viên tham gia. Thay đổi phương pháp, các chủ đề trong những buổi tọa đàm, chuyên đề chia sẻ của GV, cựu SV nhằm tạo ra môi trường giao lưu, hấp dẫn, lan tỏa truyền thông nhằm thu hút sự tham gia tích cực của SV. Phát huy hơn nữa những buổi giao lưu khách mời từ các trường phổ thông nhằm cung cấp cho sinh viên các kỹ năng mềm liên quan đến việc định hướng và tiếp cận nghề. + Các kênh thông tin đại chúng đóng góp một lượng lớn thông tin về việc làm cho sinh viên. Nhà trường cần giúp sinh viên có những kỹ năng tìm kiếm thông tin. - Đối với giảng viên + Có một bộ phận SV chưa nhận ra tầm quan trọng của môn chuyên ngành và những chia sẻ kinh nghiệm của thầy cô. Do đó, giảng viên cần phải bổ sung thêm nhiều kiến thức và kĩ năng thực tiễn đáp ứng nhu cầu chính đáng của SV. Đồng thời giảng viên cần đa dạng hóa hình thức và phương pháp, đầu tư hơn những chủ đề chia sẻ kinh nghiệm nhằm giúp SV chú ý, tương tác, từ đó nâng cao hiệu quả tiếp cận nghề nghiệp - Đối với sinh viên: + SV đánh giá cao nhất vai trò của bản thân trong các con đường tiếp cận việc làm nhưng chính bản thân lại dường như không có những hành động cụ thể trên thực tế. Sinh viên cần phải có định hướng việc làm cụ thể ngay từ khi chọn ngành học. Để làm được điều này khi đăng ký thi đại học sinh viên không chỉ tìm hiểu về tỷ lệ chọi, điểm chuẩn, về cơ hội được học đại học,… mà còn phải quan tâm đến sự phù hợp của ngành học đối với năng lực, nhu cầu của bản thân. Sinh viên cần phải chọn nghề trước khi chọn ngành. + Trước các buổi tọa đàm, giao lưu, sinh hoạt tập thể tiếp cận nghề nghiệp, SV chuẩn bị trước những câu hỏi, vấn đề khó khăn, thẳng thẳng, cởi mở chia sẻ nhằm tích cực lĩnh hội kiến thức, kĩ năng cho bản thân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Huy Cường (2009), “Các yếu tố tác động đến định hướng nghề nghiệp của sinh viên năm cuối các ngành khoa học xã hội (Nghiên cứu trường hợp trường Đại học KHXH&NV)”, Luận văn Thạc sỹ Xã hội học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội. 2. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (1997), Xã hội học đại cương, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
  12. 52 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 3. Trần Thị Thu Hiền (2008), “Định hướng nghề nghiệp của sinh viên sau khi ra trường hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ Xã hội học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, ĐHQG Hà Nội. 4. Nguyễn Hùng (2008), Sổ tay tư vấn hướng nghiệp và chọn nghề, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 5. Phan Thị Mai Hương (2008), “Chiến lược sống qua những dự định nghề nghiệp của cư dân ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa”, Tạp chí Tâm lý học, số 12, trang 13 – 18. 6. Vũ Mạnh Lợi (2006), “Một số xu hướng và thái độ của thanh niên Việt Nam với vấn đề việc làm”, Tạp chí Xã hội học, số 3 (95), trang 39 – 47 7. Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng 8. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. THE SITUATION OF CAREER ACCESS FOR PEDAGOGICAL STUDENTS AT HANOI METROPOLITAN UNIVERSITY Abstract: The phenomenon of students majoring in pedagogy being unemployed, quitting their job, or failing in their studies due to the inability to detersmine the career value and the lack of understanding of their own qualities and abilities. The effectiveness of the organization's occupational approach is related to the above phenomenon. Studying the status of career approach of pedagogical students at Hanoi Metropolitan University will improve the training quality of the university in particular and the training of pedagogy in general. The study analyzed the influence of information sources on career access for pedagogical students, the level of active career approach of students, and the current situation of career access activities for pedagogical students at Hanoi Metropolitan University. Measures to improve the quality of career access activities are also proposed for students majoring in pedagogy at Hanoi Metropolitan University Keywords: Students, pedagogy, career, university.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2