JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Educational Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 4, pp. 51-58<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1075.2017-0057<br />
<br />
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ<br />
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC<br />
Ở MỘT SỐ TRƯỜNG PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG<br />
Nguyễn Bảo Hoàng Thanh, Lê Thanh Huy, Lê Văn Đức<br />
Khoa Vật lí, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng<br />
Tóm tắt. Kiểm tra đánh giá (KTĐG) trong dạy học nói chung, trong dạy học tích hợp<br />
(DHTH) nói riêng là một thước đo chuẩn xác cho sự hiệu quả và tính khả thi của một bài<br />
dạy, một chủ đề tích hợp. Từ kết quả của việc KTĐG, giáo viên (GV) biết được các phương<br />
pháp dạy học (PPDH) được áp dụng, các mục tiêu đề ra đã phù hợp chưa, bên cạnh đó đánh<br />
giá được khách quan các năng lực mà học sinh (HS) hình thành được.<br />
Nội dung bài báo này công bố kết quả khảo sát, điều tra về thực trạng KTĐG theo năng<br />
lực trong dạy học ở trường phổ thông của hơn 160 GV hiện giảng dạy nhiều môn học khác<br />
nhau ở 30 trường Trung học cơ sở (THCS) và Trung học phổ thông (THPT) trên địa bàn<br />
thành phố Đà Nẵng; cùng với đó là kết quả khảo sát ở 280 sinh viên (SV), 58 giảng viên và<br />
19 cán bộ quản lí của Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng về thực trạng KTĐG<br />
theo năng lực đối với SV khối sư phạm. Kết quả là cơ sở để nghiên cứu các nội dung liên<br />
quan đến KTĐG năng lực trong dạy học nói chung và trong DHTH nói riêng.<br />
Từ khóa: Năng lực; tích hợp; dạy học tích hợp; kiểm tra đánh giá; phát triển năng lực học<br />
sinh.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Để có thể thay đổi một cách căn bản và toàn diện chương trình giáo dục phổ thông theo<br />
hướng tiếp cận năng lực cho HS từ yêu cầu của Bộ GD&ĐT [1, 3], thì việc đổi mới KTĐG đóng<br />
một vai trò cực kì quan trọng. Đổi mới KTĐG HS theo hướng tiếp cận năng lực là “công đoạn”<br />
đòi hỏi cần có sự nỗ lực, tập trung lớn nhất, cần đầu tư nhiều thời gian, trí tuệ và tiền bạc nhất [2].<br />
Tâm lí của đại đa số HS và GV là “thi gì thì dạy - học nấy” nên KTĐG sẽ là động lực giúp thay đổi<br />
các quá trình khác như đổi mới PPDH, đổi mới quản lí [4, 5]... Kết quả của việc KTĐG theo năng<br />
lực sẽ đem lại rất nhiều ý nghĩa cho cả GV và HS, nó sẽ giúp GV biết được mục tiêu bài học đặt ra<br />
đã đạt được hay chưa, cần điều chỉnh lại phương pháp, kĩ thuật dạy học chỗ nào và giúp HS điều<br />
chỉnh phương pháp học cho phù hợp. Do vậy, KTĐG theo năng lực là một bộ phận không thể tách<br />
rời của quá trình dạy học phát triển năng lực và là động lực mạnh mẽ nhất để đổi mới quá trình<br />
dạy và học [6, 9].<br />
DHTH luôn hướng đến mục đích cuối cùng là giúp HS vận dụng các kiến thức để giải quyết<br />
được các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống, tức là hình thành cho HS những năng lực cần thiết để<br />
Ngày nhận bài: 19/11/2016. Ngày nhận đăng: 15/4/2017.<br />
Liên hệ: Lê Thanh Huy, e-mail: huyspdn@gmail.com<br />
<br />
51<br />
<br />
Nguyễn Bảo Hoàng Thanh, Lê Thanh Huy, Lê Văn Đức<br />
<br />
giải quyết một nhiệm vụ, một vấn đề hay một tình huống đặt ra [3]. Có thể nói DHTH là phương<br />
thức tối ưu nhất để phát triển năng lực cho người học, do đó việc KTĐG theo định hướng phát triển<br />
năng lực trong DHTH càng đóng vai trò quan trọng và là một tấm gương phản chiếu tính hiệu quả<br />
của chủ đề tích hợp đó. Chính vì vậy, chúng tôi đề cập đến thực trạng của việc KTĐG theo định<br />
hướng phát triển năng lực trong dạy học nói chung và DHTH nói riêng, từ đó đề xuất một số giải<br />
pháp giúp việc KTĐG HS ở trường phổ thông đạt hiệu quả cao hơn và phù hợp với xu hướng đổi<br />
mới dạy và học hiện nay.<br />
<br />
2.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
<br />
Để có phiếu điều tra đáng tin cậy, chúng tôi đã lập phiếu điều tra, tổ chức khảo sát lần 1, xử<br />
lí những câu không hợp lí, điều chỉnh nội dung, kiểm tra độ tin cậy các câu hỏi, thang đo rồi mới<br />
tiến hành điều tra lần 2 để lấy số liệu thực trạng. Sau khi điều tra lần 2, loại bỏ những câu trả lời<br />
không có giá trị, những phiếu làm không đúng theo yêu cầu, chúng tôi thu được kết quả thực trạng<br />
KTĐG năng lực đối với giáo viên các trường phổ thông, các nhà quản lí giáo dục cấp phòng giáo<br />
dục, sở giáo dục, hiệu trưởng hiệu phó các trường phổ thông; giảng viên, sinh viên các ngành sư<br />
phạm của các trường đại học trong công tác dạy học, KTĐG, bồi dưỡng NVSP. Từ các số liệu thu<br />
được, thực trạng chi tiết như sau:<br />
<br />
2.1.<br />
<br />
Thực trạng KTĐG năng lực ở một số trường phổ thông trên địa bàn TP<br />
Đà Nẵng<br />
<br />
Đối với GV ở phổ thông: họ chính là những<br />
người tham gia trực tiếp vào việc giảng dạy HS, vì<br />
vậy việc họ nắm bắt và vận dụng KTĐG theo năng lực<br />
như thế nào sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả của việc<br />
đổi mới KTĐG. Để có được một số liệu khách quan<br />
và chính xác nhất với thực trạng hiện nay về KTĐG<br />
năng lực ở trường phổ thông, chúng tôi tiến hành khảo<br />
sát trên 160 GV THCS và THPT (100 GV THCS,<br />
60 GV THPT), họ đều là những GV cốt cán của 11<br />
trường khác nhau và giảng dạy những môn học khác<br />
nhau ở TP Đà Nẵng. Khung đánh giá gồm: Hiểu biết<br />
của giáo viên về KTĐG năng lực, thực trạng KTĐG Hình 1: Biểu đồ khảo sát GV về những<br />
thời điểm có thể KTĐG năng lực HS<br />
theo năng lực ở trường phổ thông, thực trạng công<br />
tác chỉ đạo của các cấp quản lí giáo dục liên quan<br />
đến KTĐG năng lực ở bậc THCS, thực trạng KTĐG<br />
trong DHTH ở trường phổ thông. Công cụ chúng tôi<br />
sử dụng bằng phiếu khảo sát và phóng vấn.<br />
Khi được hỏi theo thầy/cô mục đích chủ yếu<br />
nhất của KTĐG năng lực là gì? thì có 37,5% cho rằng<br />
là để xác định việc đạt kiến thức, kĩ năng theo mục<br />
tiêu của chương trình giáo dục và có 62,5% biết rằng<br />
là để đánh giá khả năng HS vận dụng kiến thức, kĩ<br />
Hình 2. Biểu đồ (%) các hình thức<br />
năng đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn. Qua đó<br />
đánh giá trong TKĐG năng lực HS<br />
ta thấy vẫn còn khá nhiều GV chưa nhận ra được cái<br />
đích cuối cùng của việc KTĐG năng lực HS, họ nghĩ rằng KTĐG năng lực chỉ là hình thức khác<br />
của kiểm tra kiến thức, kĩ năng. KTĐG năng lực sẽ mang lại hiệu quả tối ưu nhất nếu được triển<br />
khai xuyên suốt trong toàn bộ quá trình giảng dạy, biểu đồ ở Hình 1 cho thấy nhiều GV vẫn chưa<br />
52<br />
<br />
Thực trạng và giải pháp kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực ở một số trường...<br />
<br />
biết điều này. KTĐG năng lực lấy quy chuẩn là đánh giá theo mức độ phát triển năng lực của HS,<br />
nhưng khi được hỏi thì có tới 63,75% số GV cho rằng KTĐG năng lực được quy chuẩn theo việc<br />
người học có đạt được hay không một năng lực đã đề ra.<br />
KTĐG năng lực nên được thực hiện theo nhiều hình thức. Nhưng không nhiều thầy/cô giáo<br />
ở trường phổ thông biết được điều đó. Hình 2 là kết quả khảo sát thực trạng phổ biến và thực hiện<br />
KTĐG năng lực ở một số trường phổ thông trên TP Đà Nẵng. Qua đó, có tới 80% số GV cho biết<br />
trường học nơi họ đang công tác chưa được phổ biến KTĐG năng lực mà hầu hết giáo viên vẫn<br />
KTĐG theo hướng kiểm tra kiến thức, kĩ năng; 20% nói rằng họ đã được phổ biến thực hiện nhưng<br />
chỉ mang tính hình thức. Đương nhiên, để các GV có thể tiếp cận được với đổi mới KTĐG thì các<br />
buổi tập huấn là một phương thức tối ưu. Nhưng khi được hỏi thì có 78,75% GV cho biết họ chưa<br />
từng tham gia buổi tập huấn nào về KTĐG năng lực. Điều này cũng dễ hiểu bởi có đến 80% GV<br />
cho hay các cấp quản lí giáo dục nơi họ công tác chưa có văn bản pháp quy quy định, chỉ đạo thực<br />
hiện. Bên cạnh đó Sở giáo dục, Phòng Giáo dục chưa có những chính sách, chế tài khuyến khích,<br />
động viên GV thực hiện, dẫn đến nhiều GV không có động lực đổi mới KTĐG, hoặc nếu có thì<br />
chỉ trong phạm vi hẹp chưa được phổ biến rộng rãi.<br />
Điều chúng tôi muốn khảo sát GV phổ thông là những khó khăn nào họ đang và sẽ gặp phải<br />
nếu việc đổi mới KTĐG theo năng lực HS được thực hiện, kết quả thu được như bảng 1:<br />
Bảng 1. Những khó khăn GV gặp phải khi đổi mới KTĐG<br />
Tỉ lệ<br />
Những khó khăn gặp phải khi đổi mới KTĐG<br />
Lớp học có quá đông HS<br />
36,25%<br />
Cơ sở vật chất chưa đảm bảo<br />
62,5%<br />
GV đã quen với lối kiểm tra cũ, chậm đổi mới<br />
57,5%<br />
Chưa được phổ biến tập huấn<br />
65%<br />
Chưa có bộ SGK theo hướng phát triển năng lực HS<br />
57,5%<br />
Hiện nay, cụm từ DHTH đã không còn xa lạ với phần lớn GV phổ thông. Tuy nhiên, DHTH<br />
ở các trường phổ thông đa số chỉ là tự phát, các kiến thức về DHTH mà GV có được phần lớn là<br />
tự tìm hiểu hay theo kiểu “hiểu thế nào thì dạy thế ấy” nghĩa là GV chưa biết được các quy trình<br />
để giảng dạy một chủ đề tích hợp. Rất nhiều GV cho biết họ chưa từng triển khai DHTH nên dĩ<br />
nhiên là chưa tổ chức KTĐG năng lực trong DHTH. Chính vì vậy, chúng tôi gặp khá nhiều khó<br />
khăn trong quá trình khảo sát KTĐG năng lực trong DHTH.<br />
Để phù hợp hơn với thực tiễn hiện tại, chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát dựa trên các<br />
GV đã từng DHTH hoặc dựa trên quan niệm của GV về KTĐG năng lực trong DHTH.<br />
Điều tra 80 GV của 12 trường THCS và 80 GV của 15 trường THPT khác nhau đã cho<br />
chúng tôi những số liệu rất đáng để quan tâm về tình hình KTĐG năng lực trong DHTH. Cụ thể,<br />
chúng tôi đặt ra câu hỏi “theo Thầy/Cô sau khi tổ chức DHTH GV cần đánh giá những mặt nào<br />
dưới đây của quá trình dạy học?” và bảng 2 là kết quả chúng tôi khảo sát được.<br />
Qua Bảng 2 cho thấy: hiểu biết của GV về KTĐG năng lực trong DHTH còn rất hạn chế<br />
ở cả hai cấp học, tỉ lệ GV không biết phải đánh giá cái gì sau khi DHTH là khá lớn. Có hơn một<br />
nửa số GV khảo sát ở cả hai cấp học đều đồng ý nên kiểm tra mức độ đạt được mục tiêu của bài<br />
dạy tích hợp, khi tiếp tục được hỏi “thầy/cô đánh giá mức độ đạt được mục tiêu thông qua tiêu chí<br />
nào?” thì có 45% GV THPT và 20% GV THCS cho rằng sẽ đánh giá qua số điểm đạt của HS;<br />
một số khác thì cho rằng sẽ dựa vào minh chứng, sản phẩm của HS qua các hoạt động học, cụ thể<br />
với THPT là 66,25% và với THCS là 80%. Qua đây thấy được rằng, GV đều ý thức được sự quan<br />
trọng của của việc đánh giá mục tiêu đặt ra của chủ đề nhưng lại có không ít GV có quan điểm sẽ<br />
đánh giá mục tiêu đó qua điểm số của HS.<br />
53<br />
<br />
Nguyễn Bảo Hoàng Thanh, Lê Thanh Huy, Lê Văn Đức<br />
<br />
Bảng 2. Các mặt đánh giá GV sử dụng trong DHTH<br />
Cấp<br />
Nhận định<br />
Đánh giá<br />
học<br />
Hoàn<br />
khảo<br />
Không<br />
Không<br />
toàn<br />
sát<br />
đồng ý<br />
biết<br />
không<br />
đồng ý<br />
THPT<br />
8,75%<br />
31,25%<br />
22,5%<br />
Tính phù hợp thực tế dạy<br />
học với thời lượng dự kiến<br />
THCS<br />
0%<br />
36,25% 23,75%<br />
THPT<br />
0%<br />
20%<br />
18,75%<br />
Mức độ đạt được mục tiêu<br />
học tập<br />
THCS<br />
0%<br />
3,75%<br />
35%<br />
THPT<br />
0%<br />
10%<br />
13,75%<br />
Sự hứng thú của HS với chủ<br />
đề<br />
THCS<br />
0%<br />
0%<br />
27,5%<br />
THPT<br />
3,75%<br />
45%<br />
18,75%<br />
Mức độ khả thi với điều<br />
kiện cơ sở vật chất<br />
THCS<br />
0%<br />
27,5%<br />
35%<br />
THPT<br />
1,25%<br />
15%<br />
57,5%<br />
Điểm số của HS sau khi học<br />
chủ đề<br />
THCS<br />
0%<br />
12,5%<br />
47,5%<br />
THPT<br />
0%<br />
6,25%<br />
20%<br />
Năng lực của HS hình thành<br />
được thông qua chủ đề<br />
THCS<br />
3,75%<br />
2,5%<br />
27,5%<br />
<br />
Đồng ý<br />
<br />
Hoàn<br />
toàn<br />
đồng ý<br />
<br />
31,25%<br />
37,5%<br />
55%<br />
61,25%<br />
75%<br />
55%<br />
31,25%<br />
31,25%<br />
21,25%<br />
40%<br />
60%<br />
51,25%<br />
<br />
6,25%<br />
2,5%<br />
6,25%<br />
0%<br />
1,25%<br />
17.5%<br />
1,25%<br />
6,25%<br />
5%<br />
0%<br />
13,75%<br />
15%<br />
<br />
DHTH luôn hướng đến sự phát triển năng lực cho người học, nên thay vì đánh giá điểm số<br />
mà HS có được thì GV cần tập trung vào đánh giá các mức năng lực HS đã phát triển. Đa số GV<br />
đã ý thức được vấn đề này, cụ thể, khi chúng tôi đặt câu hỏi “thầy/cô sẽ chọn KTĐG về năng lực<br />
hay KTĐG về kiến thức của HS khi DHTH?”, thì có đến 73,75% GV THPT và 68,75% GV THCS<br />
chọn KTĐG theo năng lực.<br />
Sự say mê, hứng thú học tập ở HS khi học chủ đề sẽ phản ánh chủ đề DHTH có hay và<br />
bổ ích hay không, PPDH của GV áp dụng có hiệu quả hay không. Vì vậy, có rất nhiều GV THPT<br />
(75%) lẫn THCS (55%) đều muốn đánh giá khía cạnh này trong và sau khi giảng dạy chủ đề. Khi<br />
được hỏi thêm “thầy/cô sẽ đánh giá sự hứng thú, say mê của HS với chủ đề tích hợp bằng cách<br />
nào?” thì có 61,25% GV THPT chọn hình thức thông qua quan sát; 41,25% chọn hình thức phỏng<br />
vấn và 26,25% dựa vào số điểm, kết quả có được sau khi KTĐG; tỉ lệ này tương ứng với GV THCS<br />
là 76,6%; 21,3% và 17%.<br />
KTĐG dù trong hoàn cảnh nào tất nhiên đều phải cần có công cụ đánh giá, vì vậy chúng tôi<br />
muốn khảo sát các GV sẽ sử dụng công cụ nào khi KTĐG HS trong DHTH. Kết quả có 33,75%<br />
GV THPT và 51,25% GV THCS dựa vào câu hỏi, bài tập; tỉ lệ GV THPT và THCS chọn công cụ<br />
đánh giá thông qua nhiệm vụ học tập lần lượt là 28,7% và 12,5%; có 55% và 42,5% tương ứng với<br />
tỉ lệ GV THPT và THCS chọn công cụ đánh giá là sản phẩm của dự án. Điều chúng tôi mong đợi<br />
qua câu hỏi khảo sát này là sẽ có nhiều GV chọn cùng lúc nhiều công cụ đánh giá khác nhau để<br />
tạo sự đa dạng trong quá trình KTĐG nhưng kết quả lại cho thấy rất nhiều GV chỉ lựa chọn duy<br />
nhất một công cụ đánh giá.<br />
Trong DHTH việc chọn thời điểm để KTĐG năng lực HS cũng rất đáng lưu tâm. Tuy nhiên,<br />
vẫn còn một tỉ lệ tương đối lớn GV cho rằng họ chỉ tiến hành KTĐG khi kết thúc toàn bộ chủ đề,<br />
con số này với GV THPT là 38,3% và với GV THCS là 25,6%. Kết quả của việc KTĐG có ý nghĩa<br />
rất quan trọng với cả GV lẫn HS, theo kết quả khảo sát thì GV phổ thông sẽ sử dụng kết quả của<br />
việc KTĐG với ba mục đích chính khi DHTH, cụ thể như sau:<br />
54<br />
<br />
Thực trạng và giải pháp kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực ở một số trường...<br />
<br />
Bảng 3. Mục đích GV phổ thông sử dụng KTĐG trong DHTH<br />
Kết quả KTĐG trong DHTH được sử dụng nhằm mục đích<br />
THPT<br />
Để biết có đạt được muc tiêu của chủ đề tích hợp hay chưa<br />
28,3%<br />
Để điều chỉnh, bổ sung chủ đề cho phù hợp<br />
40%<br />
Để biết được tính khả thi của chủ đề tích hợp với HS đang giảng dạy<br />
53,3%<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
THCS<br />
34%<br />
27,7%<br />
26,9%<br />
<br />
Mức độ chuẩn bị kiến thức, kĩ năng về KTĐG năng lực của SV sư phạm<br />
<br />
Hiện nay, một số trường cao đẳng, đại học sư phạm mới đưa vào giảng dạy các học phần<br />
phục vụ cho việc DHTH. Theo hiệp hội nhóm các trường sư phạm chỉ mới các trường sư phạm<br />
trọng điểm mới đổi mới chương trình đào tạo theo đề xuất của nhóm, còn rất nhiều trường chưa đổi<br />
mới chương trình để đưa vào các học phần liên quan đến dạy học theo tiếp cận năng lực, DHTH,<br />
KTĐG theo tiếp cận năng lực [6]. Những SV, GV trẻ tuổi chính là lực lượng được đào tạo bài bản<br />
hơn, được tiếp xúc với các PPDH hiện đại hơn; đây sẽ là nguồn lực mạnh mẽ giúp đổi mới nền<br />
giáo dục một cách căn bản và toàn diện. Chính vì những lí do trên, chúng tôi đã tiến hành khảo sát<br />
bằng phiếu điều tra và phỏng vấn trên 280 bạn SV sư phạm ở các khoa và khoá khác nhau về mức<br />
độ hiểu biết của SV với KTĐG theo định hướng phát triển năng lực, chúng tôi khảo sát hai yếu<br />
tố: Mức độ hiểu biết của SV về KTĐG theo năng lực và Thực trạng giảng dạy KTĐG năng lực ở<br />
trường Đại học theo ý kiến của SV bằng phiếu điều tra và phỏng vấn.<br />
Đầu tiên chúng tôi khảo sát SV về<br />
mức độ họ có thể thực hiện được với các<br />
hoạt động có liên quan chặt chẽ đến việc<br />
KTĐG theo định hướng phát triển năng lực<br />
ở Hình 3, cụ thể như sau:<br />
Công việc KTĐG năng lực chắc<br />
chắn phải dựa trên các nhiệm vụ học tập<br />
mà GV chuẩn bị cho HS, nhưng qua kết<br />
quả khảo sát cho thấy có một nửa SV sư<br />
phạm (SVSP) chưa biết thiết kế các nhiệm<br />
Hình 3: Biểu đồ (%) mức độ thực hiện của SV<br />
vụ học tập cho HS. Có nhiều nhiệm vụ học<br />
về KTĐG năng lực và một số hoạt động khác<br />
tập nhằm phát triển năng lực cho HS đòi<br />
có liên quan<br />
hỏi GV phải biết cách tổ chức các hoạt động<br />
ngoài giờ lên lớp, để từ đó có thể đánh giá<br />
năng lực HS một cách đa dạng và khách<br />
quan; tuy nhiên, qua kết quả khảo sát từ<br />
biểu đồ Hình 3 cho thấy vẫn có một số<br />
lượng lớn SV chưa biết cách hoặc thực hiện<br />
còn yếu các hoạt động ngoài giờ lên lớp<br />
này. Và yếu tố quan trọng nhất mà chúng tôi<br />
muốn kháo sát SV là việc thực hiện KTĐG<br />
Hình 4: Biểu đồ (%) mức độ rèn luyện<br />
năng lực cho HS thì lại chỉ có chưa tới 10%<br />
các kĩ năng phục vụ<br />
SVSP có thể thực hiện một cách độc lập<br />
cho việc KTĐG năng lực của SV<br />
và tự giác; có tới hơn một nửa thầy/cô giáo<br />
tương lai được tiếp cận với những đổi mới<br />
trong giáo dục nhưng lại chưa biết cách thực hiện KTĐG năng lực. Đi tìm nguyên nhân cho thực<br />
trạng này chúng tôi tiếp tục khảo sát lượng SV trên về mức độ họ rèn luyện các kĩ năng nhằm phục<br />
vụ cho việc KTĐG năng lực HS ở trường đại học. Kết quả kháo sát được thể hiện quan biểu đồ<br />
55<br />
<br />