YOMEDIA
ADSENSE
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
44
lượt xem 3
download
lượt xem 3
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Ngâm khúc là một trong ba thể loại lớn được viết bằng ngôn ngữ dân tộc ta, và trong số rất nhiều bài ngâm khúc, ta không thể không kể đến tác phẩm “Chinh phụ ngâm khúc” do Đặng Trần Côn sáng tác bằng và được Đoàn Thị Điểm dịch ra tiếng Nôm.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
- TÌNH CẢNH LẺ LOI của Người Chinh Phụ 1. Mở bài: Ngâm khúc là một trong ba thể loại lớn được viết bằng ngôn ngữ dân tộc ta, và trong số rất nhiều bài ngâm khúc, ta không thể không kể đến tác phẩm “Chinh phụ ngâm khúc” do Đặng Trần Côn sáng tác bằng và được Đoàn Thị Điểm dịch ra tiếng Nôm. 2. Thân bài: a.Tác giả, tac phâm : ́ ̉ Tac gia ́ ̉ : Đặng Trần Côn + Khuynh hướng thơ văn đi sâu vào tình cảm, nỗi lòng trắc ẩn, phức tạp, sâu kín của con người, nhất là người phụ nữ Dịch giả : Đoàn Thị Điểm ̉ : Chinh phu ngâm Tac phâm ́ ̣ ̀ ̉ Hoan canh sang tac : ́ ́ + Đời đầu vua Lê Hiến Tông, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long => Nhiều trai tráng tòng quân ra trận, gây bao đau thương ,mất mát + Phản ánh tinh thần phản chiến trong giai đoạn này Tóm tắt nội dung: + Người chinh phụ nhớ lại cảnh người chinh phu lên đường + Người chinh phụ tưởng tượng cảnh chiến trường => diễn biến trạng thái nội tâm của ngươi chinh ph ̀ ụ + Chinh phụ mơ tưởng về ngày chồng trở về lập công danh b. Nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh một mình một bóng “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen Ngoài rèm thước chẳng mách tin, Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
- Đèn có biết dường bằng chẳng biết, Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. Buồn rầu nói chẳng nên lời, Hoa đèn kia với bóng người khá thương.” Hai câu đầu ngắt nhịp 34 chầm chậm, đều đều, buồn tẻ cho thấy hành động của ngươi chinh ph ̀ ụ lặng lẽ, âm thầm Người chinh phụ dạo trong hiên vắng, nàng vừa đi vừa thầm đếm bước chân mình, như đếm từng ngày chồng: mang nỗi lòng cuồn cuộn những ưu phiền, lo lắng, bồn chồn cho tính mạng người thân ở nơi chiến trường kia. Bước chân người chinh phụ nặng trĩu tâm tư và thương nhớ, xót xa. Ngồi bên cửa sổ, hết buông rèm lại cuốn rèm. Những hành động vô thức ấy lặp đi lặp lại nhiều lần => Chẳng quan tâm mình đang làm gì vì tâm trí, tình cảm đã dồn hết vào nỗi lo, nhớ nhung dành cho người chồng ở biên ải chưa biết bao giờ trở về. “vắng”, “thưa” tạo nên không gian thưa thớt, trống trải, tô đậm nỗi cô đơn, tủi buồn của người chinh phụ. “từng” và “đòi” (nhiều) cũng cho thấy sự lặp lại vô thức những hành động vô nghĩa của người vợ có chồng đi đánh trận, tháng ngày lẻ loi của nàng đã dài lê thê. => Qua hành động “dạo hiên”, “ngồi”, cuốn rèm, buông rèm, tâm trạng người chinh phụ với những ngổn ngang lo lắng, buồn phiền được miêu tả rõ rệt, tấm lòng nàng dành cho chồng khiến người đọc cảm động. “Ngoài rèm thước chẳng mách tin, Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?” Qua bức rèm thưa, người chinh phụ ngóng bóng chim thước. ( Chim thước (hay chim khách) là loài chim báo tin người đi xa trở về. ) Nàng mong chim thước cũng là mong chồng. Thời kỳ chế độ phong kiến khủng hoảng, xã hội nhiều biến động, chiến tranh liên miên, người chinh phu ra đi để lại cho vợ bộn bề lo lắng, mòn mỏi nhớ mong. Người chinh phụ vô vọng nhìn vào hiện thực: nỗi nhớ, trông mong, ước muốn của nàng đều không được hồi âm. Người chinh phụ đối diện với ánh đèn: Khao khát được yêu thương, được sẻ chia, người chinh phụ ngồi trước ngọn đèn dầu tự hỏi lòng: “Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?” Câu hỏi tu từ như một lời than thở, bày tỏ nỗi cô đơn, chán chường, tuyệt vọng khôn cùng. “Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
- Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. Buồn rầu nói chẳng nên lời, Hoa đèn kia với bóng người khá thương.” Sử dụng hình ảnh đèn để nói lên được nỗi buồn đau của người chinh phụ: + Điệp ngữ bắc cầu “đèn biết chăng”, “đèn có biết” khiến nỗi buồn đau, thương nhớ của người chinh phụ thêm da diết, day dứt. + Trong tâm trạng đó, nàng đối diện với ngọn đèn dầu, mong muốn được thấu hiểu, được chia sẻ tâm tư. + Các hình ảnh đèn dầu nói về nổi buồn: Hình ảnh cây đèn dầu cũng xuất hiện trong những tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại khác. Ca dao có câu “đèn thương nhớ ai/ mà đèn không tắt”, thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của người con gái với người mình yêu. Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Vũ Nương cũng lấy ngọn đèn dầu để xóa giải nỗi cô đơn khi Trương Sinh đi lính. + Nhưng ở đây, tác giả còn sử dùng hình ảnh đèn dầu để nói lên ý khác: Đặng Trần Côn mượn cây đèn đang tàn mà ẩn dụ sự trôi đi nhanh chóng của thời gian, sự tàn lụi, héo hon của kiếp người. + Nhà thơ muốn nói: cuộc đời chỉ là kiếp hoa đèn mong manh dang dở. Chính vì vậy, vật vô tri vô giác là cây đèn cháy đỏ khắc khoải, cháy đến tàn bấc dầu kia không những không thể đồng cảm với nỗi đau buồn, tình cảnh cô đơn, lẻ loi người chinh phụ mà càng khiến nàng vô vọng khôn cùng. Hình ảnh cây đèn dầu đã được tác giả dùng để nói lên nỗi buồn, nhớ thương, cảm giác cô đơn của người chinh phụ khi có chồng ra trận. 2 câu tiếp theo, tác giả dùng những từ chỉ cảm xúc để nói lên nỗi lòng người chinh phụ: + Tâm trạng của nhân vật trữ tình được khắc họa bằng những tính từ chỉ cảm xúc: “bi thiết”, “buồn rầu”, “thương”. “Bi thiết” được hiểu là bi thương, thảm thiết, từ “thiết” theo nghĩa Hán Việt còn có nghĩa là cắt, mài. + Những suy tư muộn phiền của người chinh phụ khao khát được bộc lộ, được thấu hiểu, nhưng trong tình cảnh cô độc vắng tẻ của nàng biết lấy ai để trút bầu tâm sự, nàng chỉ biết dồn nén những cảm xúc ấy, cảm nhận nỗi đau như thể trái tim bị cứa, mài. + Nỗi thất vọng tràn trề khi người chinh phụ đã đi đi lại lại như chờ mong tin lành báo chồng trở về, nhưng tin tức về người chồng vẫn bặt vô âm tín. Câu cuối cùng đã thể hiện được nỗi cô đơn tột cùng, không có người chia sẽ, đồng cảm với nỗi buồn:
- + Ở ngoài hiên hay ở trong phòng, nàng vẫn lẻ loi, cô đơn hết sức. Mong con chim thước cất lên tiếng kêu, nhưng đến cả tiếng chim của sự mong mỏi cũng im vắng. +Đêm khuya, một mình một bóng dưới ánh đèn, người chinh phụ khao khát sự đồng cảm, sẻ chia, nàng hi vọng ngọn đèn thấu hiểu và soi tỏ lòng mình. Nhưng đèn vô tri, vô cảm, đèn không thể an ủi, sẻ chia cùng người nỗi buồn đau cô lẻ. “Gà eo óc gáy sương năm trống, Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên. Khắc giờ đằng đẵng như niên Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa Hương gượng đốt hồn đà mê mải Gương gượng soi lệ lại châu chan Sắt cầm gượng gảy ngón đàn Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng” Tiếng gà báo canh nghe ấm áp như thế mà qua cảm nhận của người thiếu phụ lại trở thành sự eo óc buồn lạ thường. Thấy rõ được những tiếng gà gáy như thế, chắc hẳn nàng không ngủ nên mới nghe được những tiếng gà gáy năm canh đó. Cây hòe ngoài kia cũng rủ bóng 4 bên. Nó giống như hàng tóc của người con gái vì nhớ thương lẻ loi không thiết tha gì cúi đầu mặc cho mái tóc rũ xuống: “Gà eo óc gáy sương năm trống, Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.” + Từ láy “eo óc”, “phất phơ” là từ thuần Việt. + Nghệ thuật dung động để tả tĩnh không chỉ làm tăng thêm ấn tượng về sự vắng vẻ, u tịch của cảnh vật mà còn diễn tả tâm trạng cô độc, buồn sầu và trăn trở của người chinh phụ. + “Năm trống” > người chinh phụ đã thức suốt 1 đêm, trằn trọc vì nhớ thương chồng + “Bốn bên” còn có nghĩa là bốn bức tường > Người chinh phụ như bị giam lỏng, lọt thỏm trong không gian + “eo óc”, “phất phơ”> thể hiện sự tĩnh lặng bằng phương pháp lẫy tĩnh tả động Mỗi giờ trôi qua đối với nàng dài tựa 1 năm vậy. Người ta thường ví khoảng thời gian mong chờ bao giờ cũng dài như hàng thế kỉ trôi qua vậy, nhất là chờ đợi người mình yêu thương. Và ở đây, người chinh phụ cũng lẻ loi chờ đợi vì thế mới thấy một khắc dài tựa một năm. Mối sầu thì dằng dặc như miền biển xa. Có thể nói nỗi buồn sầu kia mang tầm vóc không gian rộng lớn và thời gian dài đằng đẵng: “Khắc giờ đằng đẵng như niên
- Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa” + Phép so sánh, từ láy > sự vô tận của thời gian, của nỗi sầu + Cách ngắt nhịp đều đều, buồn tẻ > sự cảm nhận thời gian chờ đợi “Hương gượng đốt hồn đà mê mải Gương gượng soi lệ lại châu chan Sắt cầm gượng gảy ngón đàn Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng” Nghệ thuật: + Điệp từ “gượng” được điệp đi điệp lại ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo đã thể hiện sự nỗ lực vượt thoát ấy của người chinh phụ. + Nàng gượng đốt hương để kiếm tìm sự thanh thản thì lại rơi sâu hơn vào cơn mê man. + Nàng gượng soi gương để chỉnh trang nhan sắc thì lại chỉ thấy những giọt sầu. + Nàng gượng tìm đến với âm nhạc để giải tỏa thì nỗi âu lo về duyên cầm sắt và tình loan phượng lại hiện hình. “Hương gượng đốt hồn đà mê mải“ Người chinh phụ muốn thoát khỏi ưu phiền, bèn đốt hương, nhưng lại không kìm lòng được mà mê man trong quá khứ. Trong đoạn trích “Thề nguyền” của “Truyện Kiều”, Kim Trọng đốt hương: “Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương” để mùi hương trầm ấm áp làm chứng cho lời nguyện ước lứa đôi của chàng và Thúy Kiều. Người chinh phụ mê mải nhớ tới phút giây hẹn ước năm nào.Mùi hương đưa nàng trở về quá khứ, tâm hồn nàng lạc đi tìm những kí ức đẹp đã quá xa vời. Càng tiếc nuối cho quá khứ hạnh phúc, nàng càng xót xa, thấm thía bi kịch trong thực tại. => Người chinh phụ lại chìm đắm trong thất vọng ê chề. Nàng đau lòng không dám đối mặt với hoàn cảnh trơ trọi, bơ vơ hiện tại. Việc đốt hương vốn để tìm sự thanh thản trong tâm hồn cuối cùng lại khiến người phụ nữ đáng thương thêm thống khổ. “Gương gượng soi lệ lại châu chan” Trong quãng thời gian vắng chồng, người chinh phụ chẳng buồn đoái hoài đến phấn son hoa lệ: “Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?” Nhưng đêm nay, mong muốn xóa tan những nỗi lo, nhớ, nàng soi gương, thấy đôi mắt chứa chan sầu bi, đôi môi không thể gượng nổi một nụ cười nhạt. Khoảng thời gian dài trông mong chồng và nỗi đau luôn âm ỉ trong lòng đã hủy hoại nhan sắc của người phụ nữ đang trong độ tuổi xuân sắc.Nàng khóc cho tuổi xuân héo tàn, cho dung nhan phai nhạt, cho số phận bi đát.
- “Sắt cầm gượng gảy ngón đàn Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng” Cảm thấy việc đốt hương, soi gương không thể giúp quên đi chuyện buồn, người chinh phụ tìm đến tiếng đàn. Nàng mong tiếng đàn rộn ràng có thể xóa tan âu lo, phiền muộn nhưng ghi gảy đàn, nàng lại nơm nớp lo sợ dây đàn đứt. + “Sắt cầm”: đàn sắt và đàn cầm hòa âm với nhau, tượng trưng cho cảnh vợ chồng hòa thuận. + “Dây uyên”: Uyên ương là biểu tượng cho lứa đôi gắn bó, hòa hợp. + “Phím loan”: Chim loan phượng cũng là biểu tượng cho tình yêu đôi lứa. => Tác giả sử dụng loạt hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng nhằm nói lên nỗi lo khôn nguôi của người chinh phụ về tình cảm vợ chồng, về người chinh phu đang cách xa ngàn dặm. c. Nỗi nhớ thương chồng ở phương xa khiến lòng nàng càng thêm ảm đạm “Lòng này gửi gió đông có tiện? Nghìn vàng xin gửi đến non Yên. Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời “Trời thăm thẳm xa với khôn thấu Thiếp nhớ chàng đau đáu nào xong” “Cảnh buồn người thiết tha lòng, Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun” Nếu như ở 16 câu đầu người chinh phụ một mình trong căn phòng quạnh vắng với tâm trạng cô đơn, lẻ bóng cùng nỗi trống trải trong lòng thì đến 8 câu cuối, nỗi nhớ và nỗi khát khao hạnh phúc lứa đôi bỗng trào dâng và trở nên khắc khoải hơn bao giờ hết. Đó là ước muốn , là khát khao được biết tin tức về chồng mình: “Lòng này gửi gió đông có tiện? Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.” + “Lòng này”: sự thương nhớ khôn nguôi vì đã trải qua nhiều đợi chờ. + “Gió đông”: gió mùa xuân + “Gửi”, “có tiện”: lo lắng trong sự khắc khoải. => Câu hỏi tu từ làm tăng thêm nỗi đau Trong cô đơn, người chinh phụ chỉ biết hỏi gió, nhờ gió đưa tin tới người chồng yêu thương nơi chiến địa xa xôi, nguy hiểm : + “Nghìn vàng”, “xin gửi”: từ ngữ trang trọng
- + “non Yên”: một địa danh cách xa Thiểm Tây, Trung Quốc hơn hai ngàn dặm về phía bắc, nơi chiến trận đầy gian khổ, xa xôi. => Không gian, nỗi nhớ được mở ra thật mênh mông, vô tận, khắc sâu nỗi cô đơn , hiu quạnh, một sự thật phũ phàng. “Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời” Thủ pháp nghệ thuật "liên hoàn điệp ngữ": “Non Yên”. Từ láy “thăm thẳm”: đặc tả nỗi nhớ da diết của người chinh phụ, đè nặng trong lòng. “Đường lên bằng trời”: Cụ thể hóa nỗi nhớ bằng độ dài không gian, một cách nói rất sâu sắc để cực tả nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ. => Âm điệu triền miên của vần thơ song thất lục bát đã diễn tả cả một trời thương nhớ mênh mông cùng với nỗi buồn triền miên, dằng dặc vô tận . “Trời thăm thẳm xa với khôn thấu Thiếp nhớ chàng đau đáu nào xong” Cùng với nỗi nhớ thương mong đợi ,từ “đằng đẵng” gợi cảm giác triền miên liên tục tưởng kéo dài đến vô tận nên được tác giả hình dung bằng sự so sánh với đường lên trời.nỗi nhớ của người chinh phụ đằng dẵng, miệt mài, không thể nguôi ngoai và không thể dùng toán học mà cân đếm được. Nhưng trớ trêu thay khoảng cách giữa nàng và người chồng dường như khó chạm tới dược , sự xa cách nghìn trùng mây . Bằng việc mở rộng không gian ,”trời thăm thẳm xa với khôn thấu”như là lời than thở, ai oán thể hiện sự tuyệt vong của người chinh phụ sau nhiều ngày tháng mòn mỏi đợi tin chồng và chính từ đó nỗi đau xuất hiện, từ “đau đáu” biểu lộ sắc thái tăng tiến, sự dồn nén cảm xúc thành nỗi xót xa đắng cay nối dài bất tận trong lòng người chinh phụ Giống như tâm sự Thúy Kiều trong Truyện Kiều: "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?", người chinh phụ thấy cảnh vật vô hồn, thê lương như tâm trạng của mình lúc bấy giờ : “Cảnh buồn người thiết tha lòng, Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun” Đó là mối quan hệ giữa con người và tâm cảnh , người vui thì tâm trạng vui thấm vào cảnh vật nhìn đâu cũng thấy toàn niềm vui chất chứa sự sống. Còn người buồn thì nỗi buồn thấm vào tâm can nên nhìn cảnh vật thấy sầu não ,thê lương. Ở đây hình ảnh “cành cây sương đượm”,”tiếng trùng”,”mưa phun” là hình ảnh ẩn dụ cho nỗi buồn chất chứa sâu lắng của người chinh phụ ,sự mòn héo của cảnh vật hay do lòng người mòn héo mà ra
- Tác giả đã sử dụng điêu luyện thể thơ song thất lục bát, phối hợp các hính ảnh ước lệ “non Yên”, ”gió Đông”,với hình ảnh ẩn dụ “sương đượm”,”mưa phun” , đặc biệt là sự thành công trong bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật, tả cảnh ngụ tình tác giả đã đưa người đọc qua các cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ trình một cách tự nhiên nhất và thể hiện ước mơ khát vọng chính đáng của họ về tình yêu và hạnh phúc => Với cách dùng từ hình ảnh ước lệ , đoạn thơ đã thể hiện một cách tình tế khát khao về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ .Đồng thời thể hiện sự thương cảm sâu sắc của tác giả với ước mơ chính đáng của người phụ nữ cũng là lời tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa là biểu hiện của cãm hứng nhân văn cho toàn đoạn trích. d. Mở rông : Gia tri va nghê thuât cua cua đoan trich ̣ ́ ̣ ̀ ̣ ̣ ̉ ̉ ̣ ́ Giá trị : + Thể hiện tâm trạng khao khát hạnh phúc lứa đôi + Phản đối chiến tranh phi nghĩa + Thể hiện sự thương cảm, đồng cảm đối với thân phận người phụ nữ trong thời loạn lạc nói riêng và thời phong kiến nói chung Nghệ thuật: + Dòng suy tư đan xen hiện tại, quá khứ và tương lai + Giọng điệu trữ tình triền miên bi thương + Theo nhịp chuẩn : 3/2/2 – 3/2/2 – 2/2/2 – 2/2/2/2 + Trong 1 khổ thơ song thất lục bát có hai câu ngắt nhịp cố định có ít nhiều biến động + Có cả vần lưng và vần chân + Việc xuất hiện nhiều loại vần tăng tính nhạc, tạo luyến láy làm chậm tốc độ câu thơ => tạo sự kết dính các câu, khổ => tạo âm hưởng về sự triền miên, quẩn quanh của dòng tâm trạng + HIện tượng điệp tạo sự liên hoàn => khắc họa sự quẩn quanh bế tắc + Giọng điệu trữ tình bi thương với tần số cao các từ chỉ sắc thái buồn + Vận dụng tối đa tác dụng tạo hình, tạo nhạc và gợi cảm cho câu thơ từ láy. Từ tượng thanh, tượng hình => khác thơ Đường + Xây dựng hình tượng mang sức sống vĩnh cửu + Mỗi khúc ngâm là 1 lời tự bạch, 1 dòng độc thoại nội tâm, thể hiện bi kịch cho nhân vật trữ tình => Là thể loại xuất sắc viết về người phụ nữ trong văn học trung đại 3. Kết bài:
- Đọc đoạn trích người đọc cứ ngỡ ngàng rằng chỉ để miêu tả tình cảnh lẻ loi, thể hiện tâm trạng khát khao tình yêu của người chinh phụ. Nhưng nếu nghĩ sâu xa hơn thì đoạn trích bày tỏ sự oán ghét chiến tranh. Chiến tranh đã chia rẽ tình yêu, ngăn cách hạnh phúc lứa đôi của nhiều thế hệ, nhất là thế hệ trẻ, có lẽ vì thế mà tác phẩm đã được độc giả cùng thời hết sức tán thưởng. Nhiều người còn dịch Chinh phụ ngâm sang thơ Nôm (tức thơ tiếng Việt) để khúc ngâm được truyền bá rộng rãi hơn. Bản diễn Nôm hiện hành là bản dịch thành công nhất.
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn