intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiên lượng phục hồi chức năng ở người bị tai biến mạch máu não

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

54
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của bài tổng quan này là cung cấp các thông tin, bằng chứng về tiên lượng phục hồi bao gồm: Khả năng sống sót, tái phát, tỷ lệ phục hồi nói chung trong quần thể người bị TBMMN. Những thuật toán, các công cụ đánh giá trên lâm sàng được dùng để tiên lượng phục hồi chức năng sinh hoạt, chức năng chi trên, chức năng chi dưới của mỗi cá nhân cụ thể dựa trên các đặc điểm lâm sàng ở giai đoạn cấp tính, bán cấp hay mạn tính.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiên lượng phục hồi chức năng ở người bị tai biến mạch máu não

  1. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Tổng Quan TIÊN LƯỢNG PHỤC HỒI CHỨC NĂNG Ở NGƯỜI BỊ TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO Nguyễn Thanh Duy*. ĐẶT VẤN ĐỀ dự đoán sự phát triển của bệnh, bao gồm các dấu hiệu và triệu chứng sẽ cải thiện hoặc xấu đi Tai biến mạch máu não (TBMMN) là bệnh lý (và sự thay đổi nhanh như thế nào) hoặc duy trì phổ biến hàng thứ 3 trên thế giới và tại Việt ổn định theo thời gian như thế nào; kỳ vọng về Nam. Đây là bệnh để lại nhiều di chứng về vận chất lượng cuộc sống,cụ thể như khả năng thực động. Việc tập luyện vật lý trị liệu‐ phục hồi hiện các hoạt động hàng ngày; nguy cơ biến chức năng (VLTL‐PHCN) hiện nay diễn ra từ rất chứng, các vấn đề sức khỏe liên quan; và khả sớm diễn ra lâu dài(12). Tuy nhiên, cần có công cụ, năng sống sót (bao gồm cả tuổi thọ). Trong bài thông tin đáng tin cậy để giúp người chuyên báo này, tiên lượng chức năng được định nghĩa viên tại khoa phục hồi chức năng trao đổi, thông là các chức năng người bệnh TBMMN có thể báo cho người nhà, để trao đổi với bác sĩ và tất cả thực hiện được trong tương lai(12). thành viên trong đội phục hồi chức năng về các Những tiên lượng cho người bị TBMMN khả năng phục hồi, mức độ tập luyện phù hợp, được hình thành nhờ vào sự kết hợp của các yêu khi nào thì giảm, dừng tập hay tập trở lại. Ngoài tố (thường là trên lâm sàng) và được gọi là yếu kinh nghiệm lâm sàng phong phú, trong xu thế y tố tiên lượng hoặc yếu tố quyết định. Yếu tố này học chứng cứ, các bằng chứng khoa học sẽ là cơ bao gồm kết quả từ các đánh giá, đo lường lâm sở đáng tin cậy giúp người làm việc lâm sàng có sàng và/hoặc dùng các thiết bị hiện đại để đánh những quyết định đúng đắn và nhanh chóng. giá các dấu ấn sinh học‐sinh lý thần kinh Tuy nhiên, tiên lượng cho một người bị TBMMN (neurophysiological biomarker) để xem sự toàn khá khó khăn, có thể cùng một mức độ biểu hiện vẹn của cơ thể. Việc đo lường các yếu tố tiên lâm sàng ban đầu, hai người sẽ có biểu hiện lượng được thực hiện trên lâm sàng bởi người phục hồi hoàn toàn khác nhau. vật lý trị liệu, hoạt động trị liệu hoặc bác sĩ trực Mục tiêu của bài tổng quan này là cung cấp các tiếp điều trị cho người bệnh. Người bệnh sẽ thông tin, bằng chứng về tiên lượng phục hồi được đo lường và đánh giá để đưa ra các tiên bao gồm lượng trong bất cứ thời điểm nào sau khởi phát. Khả năng sống sót, tái phát, tỷ lệ phục hồi Tuy nhiên, nếu có thể, người bệnh nên được nói chung trong quần thể người bị TBMMN. đánh giá càng sớm càng tốt, khoảng 48‐72 giờ Những thuật toán, các công cụ đánh giá trên đầu sau khi khởi phát. lâm sàng được dùng để tiên lượng phục hồi Các công cụ được đề cập ở đây chỉ cần giấy, chức năng sinh hoạt, chức năng chi trên, chức viết và yêu cầu người bệnh hiểu các mệnh lệnh năng chi dưới của mỗi cá nhân cụ thể dựa trên nên có thể sử dụng nhanh chóng và chính xác các đặc điểm lâm sàng ở giai đoạn cấp tính, bán trên lâm sàng. Các công cụ đánh giá đo lường cấp hay mạn tính. được đề cập ở đây bao gồm: chỉ số Barthel ĐỊNH NGHĨA TIÊN LƯỢNG VÀ CÁC (Barthel Index‐BI), Phân loại chức năng di YÊU TỐ TIÊN LƯỢNG chuyển (Functional Ambulation Category‐FAC), thử nghiệm kiểm soát thân người (Trunk Tiên lượng là một thuật ngữ y khoa để mô tả Control Test‐TCT), sức mạnh cơ theo hội đồng * Bộ môn Vật lý trị liệu ‐ Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ThS Nguyên Thanh Duy, ĐT: 0973017123, Email: thduypt@ump.edu.vn Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 1
  2. Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 nghiên cứu y khoa (Medical Research Council Loại TACI (Total Anterior Circulation for muscle strength‐MRC), thang điểm đột quỵ Infarct) (thuyên tắc tuần hoàn toàn bộ phần não của các viện sức khoẻ quốc gia Hoa Kỳ (National trước) có tất cả các đặc điểm lâm sàng sau: là liệt Institutes of Health Stroke Scale‐NIHSS). nữa người và/hoặc mất cảm giác nữa người TIÊN LƯỢNG CHUNG CỦA NGƯỜI BỊ (mặt, tay, thân, chân) và rối loạn chức năng thần kinh cao cấp (mất ngôn ngữ, bán manh đồng TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO danh, thờ ơ nữa bên – bỏ sót không gian nữa Nhìn chung, có khoảng 40–50% người bị bên). Do tình trạng nhồi máu não – thuyên tắc TBMMN có những khuyết tật lâu dài, 30% sẽ diện rộng trong vùng tưới máu của động mạch phục hồi hoàn toàn, 20% tử vong trong vòng 4 não giữa; dễ tử vong hay sống phụ thuộc. tuần đầu và 25 ‐ 30% trong năm đầu và thêm Loại PACI (Partial Anterior Circulation 25% trong thời gian 4 năm tiếp theo. Tuy nhiên, Infarct) (thuyên tắc tuần hoàn một phần não nhờ vào những tiến bộ y khoa, tỷ lệ tử vong trước): có một trong ba vấn đề sau: có hai trong ngày càng giảm; ví dụ tại Hoa Kỳ từ 24% năm ba biểu hiện của TACI hay thiếu sót chức năng 1994 xuống còn 6,8% năm 2004(1). Tỉ lệ tái phát thần kinh cao cấp đơn độc hay khiếm khuyết 11% trong năm đầu, thêm 15% nữa trong 4 năm vận động cảm giác khu trú ở tay, chân, thân kế tiếp, kể từ năm thứ 6 đến năm thứ 10 thêm người hay mặt và bàn tay. Do nhồi máu nhỏ 14% nữa(8). Một nhóm khác cũng cần lưu ý là nhưng có nguyên nhân giống TACI, phục hồi tốt người bị thoáng thiếu máu não. Trong tháng đầu hơn nhưng nguy cơ tái phát cao hơn. sau khi bị TTMN, 4‐8% người bệnh sẽ bị LACI (Lacunar Infarct) (nhồi máu ổ khuyết) TBMMN và nguy cơ bị trong vòng 5 năm tiếp có một trong những biểu hiện sau: chỉ yếu nữa theo là 30%(8). người; chỉ mất cảm giác nữa người; yếu liệt và Tiên lượng dựa trên vị trí tổn thương mất cảm giác nữa người; yếu và thất điều nữa Hệ thống phân loại Bamford cung cấp công người. Do nhồi máu nhỏ ở sâu do tắc động mạch cụ tiên lượng đơn giản về các mức phục hồi khác nhỏ, tiên lượng tương đối tốt. nhau dựa trên dịnh khu thương tổn. Công cụ POCI (Posterior Circulation Infarct) (thuyên phân loại OCSP mô tả những triệu chứng cho tắc tuần hoàn phần sau) Dấu hiệu của (tổn các loại nhồi máu não khác nhau. Phân loại theo thương) thân não hay tiểu não không kèm theo Oxfordshire Community Stroke Project (OCSP) dấu hiệu bó tháp, hay bán manh đồng danh đơn bao gồm TACI, PACI, LACI, POCI (2, 3) như độc, hay phối hợp cả hai. Liệt dây thần kinh sọ hình 1. và khiếm khuyết cảm giác ‐ vận động; khiếm khuyết cảm giác hay vận động cả hai bên; giảm vận động liên hợp mắt; chỉ bị rối loạn chức năng tiểu não. Do nhồi máu phần sau của bán cần não, thân não, tiểu não do bệnh của động mạch lớn, hay động mạch nhỏ hay thuyên tắc từ tim, tiên lượng dao động.Với tình trạng xuất huyết – khối máu tụ và phù nề có thể được tái hấp thu trong một số còn sống sót trong giai đoạn cấp tính, giúp phục hồi tốt hơn so với tiên lượng lúc ban đầu(5). Người bệnh cũng sẽ có tiên lượng tốt khi Hình 1: Hình ảnh chụp cắt lớp các vị tổn thương của được điều trị tiêu huyết khối bằng alteplase hay não r‐TPA (Recombinant Tisue Plasminogen 2 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học
  3. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Tổng Quan Activator). Cửa sổ điều trị ≤ 3 giờ, mỗi 5 phút người bị trầm trọng kéo dài gấp đôi với người bị chậm trễ đưa đến giảm 5% cơ hội đạt được kết đột quỵ nhẹ. quả tốt(1). Kết quả nghiên cứu mới đây cho thấy Phục hồi sau TBMMN theo một đường rTPA có thể tiếp tục sử dụng khoảng 3 ‐ 4,5 giờ cong (hình 2), 80% sự phục hồi xảy ra vào 3 sau khởi phát. Một nghiên cứu khác ghi nhận tháng đầu(7). Dựa theo mức độ phục hồi, có thể tăng nguy cơ tử vong khi sử dụng r‐tPA(1). chia thành hai giai đoạn: giai đoạn 6 tháng Tiên lượng chung về chức năng đầu sau khởi phát và giai đoạn sau đó. Như Hendricks thực hiện một nghiên cứu tổng vậy phần lớn người bệnh sẽ biểu hiện cải thiện quan hệ thống về phục hồi vận động sau đột các khiếm khuyết về cấu trúc và chức năng cơ quỵ(6). Nhóm tác giả kết luận rằng khoảng 65% thể, các chức năng được phục hồi. Tuy nhiên, người bệnh đột quỵ có sự phục hồi về vận động nếu có biểu hiện sự suy giảm rõ rệt trong giai một phần. Phần lớn người bệnh mang những đoạn này, nhà lâm sàng cần xem xét kiểm tra khiếm khuyết hoặc giảm chức năng suốt quãng nguyên nhân tiềm ẩn liệu do sự phát triển, đời còn lại. Phục hồi hoàn toàn cho chi trên và trầm trọng của biến chứng thứ phát hay các chi dưới chỉ chiếm khoảng 15% tổng số người bệnh lý khác của người bệnh. bệnh. Về mặt thời gian, thời gian phục hồi của Hình 2: Biểu đồ sự phục hồi và hướng can thiệp qua các giai đoạn sau tai biến mạch máu não TIÊN LƯỢNG CHỨC NĂNG CHO TỪNG di chuyển độc lập vào tháng thứ 6. Điều này có NGƯỜIBỆNH nghĩa là tiên lượng sự phục hồi khả năng đi lại cơ bản là tốt. Tỷ lệ phục hồi đi lại cao nhất diễn Tiên lượng chức năng đi lại trong giai đoạn ra vào 3 tháng đầu. Trong số những người có thể cấp, bán cấp đi lại với sự trợ giúp trong giai đoạn đầu sau Mục tiêu phổ biến nhất trong các chương TBMMN, cho có 60% có khả năng đi độc lập (7). trình VLTL‐PHCN là đạt được khả năng di Đánh giá một người bệnh có khả năng đi lại độc chuyển độc lập sau TBMMN. Thống kê cho thấy lập hay không sẽ ảnh hưởng đến quá trình ra 85% người bị TBMMN có thể đạt được khả năng quyết định bài tập, loại tập luyện, và cả kế hoạch Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 3
  4. Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 xuất viện, dự đoán về mức độ và thời gian cần phân loại mức độ di chuyển chức năng‐FAC trợ giúp khi đã xuất viện. trong tuần đầu. Bậc cơ khác của hông, gối, gập Năm 2017, tác giả Smith(10) đã công bố lưng lòng cổ chân, Motricity index cho chi thuật toán tiên lượng có tên là “Đi lại độc lập dưới, cường độ hay liều lượng tập không thấy sau TBMMN‐(Walking Independently after có liên quan tiên đoán thời điểm đi lại độc lập. Stroke ‐TWIST)“ dành cho người bệnh chưa Kết quả nghiên cứu đề xuất điểm TCT ở mức thể đi độc lập trong khoảng thời gian 1 tuần 37, tác giả đề xuất mức điểm TCT là 40 để sau khởi phát (hình 3). người thực hiện dễ nhớ và sử dụng mà vẫn không ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng. Thuật toán này có kết quả dự đoán chính xác ở 39/41 (95%) đối tượng tham gia sử dụng các biện pháp đo lường đơn giản, thực hiện ngay tại giường trong tuần lễ đầu sau TBMMN. Đầu tiên, người bệnh được lượng giá khả năng kiểm soát thân người bằng TCT. Hầu hết người có khả năng kiểm soát thân người tốt (TCT > 40) trong tuần lễ đầu sẽ đạt được khả năng đi lại độc lập vào tuần thứ 6 từ lúc khởi phát. Với những người có kiểm soát thân chưa tốt (TCT < 40), chỉ những người có sức mạnh cơ Hình 3‐ Thuật toán Thời gian di chuyển độc lập sau duỗi hông ≥ 3 theo bậc thử cơ bằng tay (MRC) sẽ TBMMN (TWIST) TCT: Trunk Control Test – Thử đi độc lập tuần thứ 12. Người có khả năng kiểm nghiệm kiểm soát thân người soát thân người kém (TCT < 40) và bậc cơ duỗi Công cụ này áp dụng được cho tất cả người hông bậc 2 hoặc nhỏ hơn trong tuần lễ đầu sẽ bệnh từ 18 tuổi trở lên có bao gồm cả xuất huyết được dự đoán di chuyển phụ thuộc vào tuần thứ não và thuyên tắc mạch máu não. Những người 12 (hình 3). Khả năng khi nào người bệnh phục này phải là người mới được ghi nhận mới có sự hồi khả năng đi lại sẽ giúp người bệnh và gia yếu cơ chi dưới (điểm < 100 cho mục chi đưới ở đình có kỳ vọng thực tế về mức độ và thời gian thang Motricity index) và cần có sự giám sát hay trợ giúp tại bệnh viện và tại nhà cũng như giúp trợ giúp đi lại. Những người đã từng bị TBMMN người chuyên viên VLTL‐PHCN lên kế hoạch có điều trị huyết khối cũng tham dự nghiên cứu xuất viện phù hợp. này. Người bị loại khỏi nghiên cứu bao gồm Các tác giả nhận xét rằng điểm hạn chế của trước khi TBMMN đã phải đi lại có sự trợ giúp mô hình này là chỉ dùng để dự đoán khả năng đi hay giám sát. Đột quỵ hai bán cầu não hay tiểu lại độc lập chứ không đề cập đến chất lượng não, tiên lượng sống dưới 6 tháng, suy giảm hoạt động đi hay khả năng di chuyển trong cộng nhận thức, ngôn ngữ không thể chấp thuận đồng. Tốc độ đi thường là mục tiêu của nghiên tham gia nghiên cứu và nhóm chóng chỉ định cứu tiên lượng do mối tương quan giữa tốc độ MRI hay TMS. đi, khả năng di chuyển trong cộng đồng và nguy Chỉ có hai yếu tố giúp tiên lượng thời điểm cơ té ngã(10). Mặt khác, khả năng di chuyển độc người bệnh đạt được khả năng di chuyển độc lập trong nhà (FAC ≥ 4) thường có ảnh hưởng lập là điểm kiểm soát thân người‐TCT và đến thời điểm và kế hoạch xuất viện, gợi ý về nhóm cơ duỗi hông theo phân loại‐MRC. Các mức độ cần trợ giúp sau khi xuất viện nhiều hơn yếu tố khác như tuổi, giới, loại TBMMN, mức là tiêu chí về tốc độ đi hay khả năng di chuyển độ trầm trọng của bệnh, các bệnh lý đi kèm, trong cộng đồng. Tác giả cũng lưu ý rằng, tuy 4 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học
  5. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Tổng Quan dựa trên TWIST, một số người bệnh sẽ không Tiên lượng chức năng chi trên trong giai đoạn thể đi độc lập sau 12 tuần, nhưng họ có thể đạt cấp và bán cấp được độc lập vào thời gian sau đó. Tiên lượng Khoảng 40% người bệnh lúc đầu bị yếu liệt khả năng phục hồi đi lại độc lập còn được quyết chi trên có biểu hiện sự phục hồi trong khoảng 6 định bởi một số yếu tố sau kỹ năng sinh hoạt tháng sau đột quỵ. Trong số đó có 11 ‐ 34% phục hàng ngày sau TBMMN, độ tuổi ‐ người trẻ tuổi hồi hoàn toàn khả năng sử dụng bàn tay. Sự khả năng phục hồi cao hơn. Không bị bán manh phục hồi của chi trên ít nhiều theo một mẫu cố đồng danh, không mắc các bệnh lý kèm theo gây định là: đa số phục hồi từ gốc chi đến ngọn chi ở ra giới hạn khả năng đi lại trước đây và khả những người bị tổn thương tuần hoàn não trước. năng kiểm soát tiêu tiểu(12). Đặc trưng của sự phục hồi tự nhiên này bao gồm Tiên lượng chức năng đi lại trong giai đoạn NB bắt đầu sớm sử dụng thân người khi nắm mạn vật, và nhấc vật cũng như kiểm soát phần gốc Trong giai đoạn mạn, có khoảng 10 ‐ 20% chi. Các hoạt động này là một phần của các mẫu đồng vận. Trên thực tế, người bệnh sử dụng người bệnh biểu hiện sự suy giảm và có 20 ‐ mẫu đồng vận để thực hiện các hoạt động chức 30% biểu hiện sự cải thiện trong khả năng đi năng. Vì vậy, người VLTL khi gặp bệnh nhân có lại. Tính đến nay, có ít nghiên cứu đánh giá mẫu đồng vận không nên nhận định một cách cũng như tìm hiểu tiên lượng phục hồi haysự chủ quan đây là biểu hiện của quá trình bệnh lý. thay đổi ở những người bệnh ở giai đoạn Trong nhiều trường hợp, mẫu đồng vận là chiến này(12). Hiện chưa có công cụ chính xác trợ lược thích nghi về hoạt động của cơ thể người giúp tiên lượng khả năng đi lại của người bị bệnh. Trong trường hợp này, sự phục hồi tự TBMMN giai đoạn mạn. Cần lưu ý rằng sau phát của thần kinh biểu hiện khi họ có khả năng khi bị TBMMN, người bệnh luôn nằm trong cử động có chọn lọc, cử động riêng lẻ từng cơ, nhóm nguy cơ suy giảm khả năng đi lại dù từng phần cơ thể và ít sử dụng các mẫu đồng cho thuộc giai đoạn bán cấp hay mạn tính. Các vận khi hoạt động. Phần lớn sự phục hồi khả yếu tố góp phần dự đoán sự suy giảm khả năng hoạt động của chi trên‐bàn tay diễn ra năng đi lại bao gồm tuổi cao, tổn thương chức trong vài tháng đầu và giai đoạn quyết định nhất năng vận động cao cấp vỏ não, trầm cảm, mệt là 2 tuần đầu(7). mỏi, và/hoặc ít hoạt động thể chất. Tác giả Stinear nghiên cứu khả năng áp dụng của thuật toán “Tiên lượng tiềm năng phục hồi Các chuyên gia khuyến cáo đối với người 2” (Predict Recovery Potential‐PREP2) để tiên bệnh có khả năng đi lại mức 3 hoặc nặng hơn lượng khả năng phục hồi chi trên trong vòng 3 theo hệ thống phân loại FAC vào thời điểm 6 tháng đầu sau TBMMN(11). Đây là thuật toán tháng từ lúc khởi phát, cần thực hiện test đi bộ được nghiên cứu và công bố năm 2017 được 10 mét (10 ‐ meter walk test) ở tốc độ đi thoải mái phát triển từ thuật toán PREP công bố năm 2012. sau mỗi 6 tháng cho để xác định có sự thay đổi Thuật toán này dùng công cụ đo lường lâm hay không. Tốc độ khác biệt tối thiểu có ý nghĩa sàng là MRC, NIHSS và dấu ấn sinh học là 0,16 m/s so với lần lượng giá vào tháng thứ 6. (biomarker) là điện thế gợi vận động (Motor Cần đánh giá khả năng thực hiện chức năng này Evoked Potential‐MEP) của bó vỏ gai được đo sau mỗi 6 tháng cho những người TBMMN bước bằng máy kích thích từ xuyên sọ (Transcranial sang giai đoạn mạn còn bị khiếm khuyết trong Magnetic Stimulation‐TMS) để hổ trợ việc cung khả năng đi lại. Nếu có sự thay đổi đáng kể cấp thông tin, ra quyết định điều trị của KTV trong chức năng đi lại, cần tiếp tục hay quay trở trong khi điều trị cho chi trên. PREP2 cần được lại tập luyện VLTL‐PHCN(12). bắt đầu trong vòng 3 ngày (trong vòng từ 1‐4 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 5
  6. Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 ngày) sau khởi phát. Phần lớn mọi người chỉ cần biểu hiện yếu liệt chi trên, trên 18 tuổi. Người bước đầu vì không phải tất cả các bước đều phải bệnh không đưa vào nghiên cứu nếu cóchống hoàn tất cho mọi người để có được tiên lượng chỉ định TMS, đột quỵ tiểu não, có rối loạn nhận cánh tay và bàn tay bệnh nhân được kỳ vọng sẽ thức hay giao tiếp làm không thể xác nhận đồng hoạt động tốt mức nào trong vòng 12 tuần sau ý tham gia nghiên cứu. Ngoài ra, nghiên cứu còn đột quỵ. loại trừ những người không có cử động mới ở Nhóm người bệnh được đánh giá là những chi trên sau lần TBMMN đầu hay được phục hồi người bị nhồi máu hoặc xuất huyết não lần đầu hoàn toàn chức năng chi trên, hoặc người được hoặc tái phát TBMMN lần đầu hoặc tái phát có chăm sóc giảm nhẹ. Hình 4- Thuật toán PREP 2 (Tiên lượng tiềm năng phục hồi 2” (Predict Recovery Potential-PREP2) SAFE (Shoulder Abduction-Finger Extension): Dang vai và duỗi ngón tay MEP (Motor Evoked Potetntial): Điện thế gợi vận động NIHSS (National Institutes of Health Stroke Scale-NIHSS): thang điểm đột quỵ của các viện sức khoẻ quốc gia Hoa Kỳ Áp dụng thuật toán PREP2 được thực hiện Có bốn khả năng xảy ra: như hình 4. Trong đó, bước đầu tiên là đánh giá Người bệnh đạt điểm SAFE 5 điểm trong sức mạnh cơ dang vai và cơ duỗi ngón tay vòng 72 giờ từ lúc khởi phát, dưới 80 tuổi, sẽ (Shoulder Abduction Finger Extension‐SAFE) có khả năng cao đạt được mức độ phục hồi của tay bị yếu liệt. Tổng của hai cơ này là 10 với 5 xuất sắc ở chi trên. là bậc tối đa cho một cơ. Cơ duỗi ngón được tính Người đạt điểm SAFE 5 điểm và từ 80 tuổi dựa trên sự thực hiện của đa số các ngón trong trở lên, nếu điểm SAFE là 8 điểm cũng sẽ đạt trường hợp sức cơ không đồng đều ở các ngón. mức phục hồi xuất sắc. Nếu không thì sẽ phục TMS dùng để đo MEP của cơ duỗi cổ tay quay hồi mức tốt. và cơ gian cốt mu tay thứ nhất. Những cơ này Người đạt mức SAFE dưới 5 sau 72 giờ sau được chọn vì khi khả năng kiểm soát duỗi cổ tay khởi phát cần TMS để xác định trình trạng MEP và kiểm soát ngón trỏ kém sẽ làm giới hạn chức ở chi trên liệt. Dấu ấn sinh học chính là sự lành năng chi trên sau TBMMN. Nếu điểm SAFE < 5 lặn của bó vỏ gai. Nếu có thể khơi gợi được hay vào ngày thứ 3, đánh giá điểm NIHSS và lên kế MEP+ vào ngày 5 sau đột quỵ, thì ít nhất bệnh hoạch đo TMS trong vòng 3 ngày tiếp theo. 6 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học
  7. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Tổng Quan nhân đạt được mức tốt. Nếu MEP không xuất yếu trong phần lớn các hoạt động sống hàng hiện. Có thể dùng điểm NIHSS vào ngày thứ 3 ngày sau 3 tháng. Tuy nhiên, họ có thể có một số để dự đoán liệu phục hồi hạn chế nếu NIHSS < 7 vấn đề như yếu, chậm hay vụng về khi hoạt hay phục hồi kém nếu NIHSS ≥ 7. động. Không có sự phục hồi được định nghĩa là Khả năng sử dụng thuật toán trên lâm sàng rất ít khả năng lấy lại cử động có ích ở cánh tay khá cao vì không cần dùng MRI để đánh giá như và bàn tay trong vòng 3 tháng. Trong trường mô hình trước đó. Nếu có TMS thì thông tin hợp này, can thiệp cần tập trung vào ngăn ngừa điểm NIHSS cũng được dùng để dự đoán khá biến chứng thứ phát như đau, co cứng, bán trật chính xác mực độ giới hạn và kém. Thuật toán khớp vai và học cách hoàn thành các chức năng PREP2 có thể dự đoán chính xác 75% bệnh nhân sinh hoạt hàng ngày bằng tay mạnh. (so với thuật toán PREP chỉ 64%). Tác giả khẳng Tiên lượng chức năng chi trên trong giai đoạn định rằng phương pháp đánh giá này chỉ tốn 2 mạn phút thực hiện cạnh giường là tất cả những gì Sự suy giảm về chức năng khéo léo của chi những người chuyên viên cần cho 68% người bị trên thường thấy ở người bệnh phục hồi không đột quỵ hay chỉ cần dùng TMS cho 1/3 số người hoàn toàn chức năng chi trên, bị khiếm khuyết bệnh sử dụng PREP2. Tất nhiên rào cản về TMS chức năng cảm giác và/hoặc bị thờ ơ nữa bên. là rất lớn trong bối cảnh Việt Nam cũng như Chưa rõ khía cạnh nào có thể dùng để tiên lượng nhiều nước do yếu tố giá thành. Tuy nhiên tác xa hơn về sự tiến bộ trong giai đoạn mạn. Ở giả cũng đưa ra những phương hướng hứa hẹn người bị TBMMN bước vào gia đoạn mạn tính khi chỉ ra rằng trong các nghiên cứu sắp tới sẽ khoảng 10 ‐ 15% có biểu hiện tiến bộ. Ngược lại, tìm kiếm cách thức thay thế TMS bằng điểm do nguy cơ cao của việc học thành thói quen SAFE vào một thời điểm trễ hơn. không sử dụng “learned non‐use”, những người Nhờ thuật toán này mà nhà lâm sàng cảm chỉ phục hồi một phần chức năng chi trên vào thấy tự tin hơn và điều chỉnh chương trình cho tháng thứ 6, người suy giảm cảm giác sờ chạm, chi trên dựa vào tiên lượng. Để từ đó cung cấp cảm giác bàn thể, người bị thờ ơ nữa bên. Tuy họ thông tin về cách ứng dụng, khuyến nghị phù có khả năng thực hiện, khả năng vận động nhất hợp cho phục hồi chức năng chi trên. Vì việc dự định, họ có xu hướng sử dụng tay yếu liệt ít hơn đoán không thể chính xác tuyệt đối (đúng được so với kỳ vọng trong sinh hoạt hàng ngày. 75% người bệnh). Trong số 25% số người dự Khoảng 10% số người bệnh nhóm này biểu hiện đoán chưa đúng, sẽ có người phục hồi tốt hơn sự suy giảm chức năng khéo léo bàn tay(7,12). (khoảng 31% do kỳ vọng quá bi quan) hay kém Người chỉ phục hồi một phần chức năng chi hơn kỳ vọng (do kỳ vọng quá lạc quan là 69%). trên được định nghĩa là người có mức điểm từ 1‐ Vì sự tiên lượng này giúp cung cấp chường trình 4 trong thang Frenchay Arm Test vào thời điểm phục hồi phù hợp trong giai đoạn sớm nên nó 6 tháng sau đột quỵ. Cùng với các đối tượng hoàn toàn có thể bổ sung, sửa đổi sau này. khác đã nêu ở trên, nhóm người bệnh này có khả Kết quả tiên lượng chức năng chi trên và năng sẽ có sự thay đổi chức năng khéo léo trong chương trình PHCN cho chi trên được các tác giả giai đoạn mạn. Vì vậy, cần đánh giá mức độ hoạt liệt kê chi tiết như sau. Phân loại xuất sắc: có động của tay sau mỗ 6 tháng bằng thang điểm tiểm năng phục hồi hoàn toàn hoặc gần như thử nghiệm nghiên cứu hành động tay (Action hoàn toàn chức năng cánh tay và bàn tay trong Research Arm Test ‐ARAT). Sự khác biệt có ý vòng 3 tháng. Chương trình nên tập trung vào nghĩa khi mức điểm đo được trong giai đoạn tập luyện tay yếu bằng các bài tập tác vụ cụ thể, mạn thay đổi từ 6 điểm trở lên so với điểm số lúc hạn chế tối đa sử dụng sự bù trừ của tay kia. bị bệnh được 6 tháng. Thời điểm đo lường nên Phân loại phục hồi tốt: có khả năng sử dụng tay được thực hiện sau mỗi 6 tháng. Tương tự, nếu Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 7
  8. Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 có sự thay đổi đáng kể, cần tiếp tục tập VLTL TBMMN mạn tính, khoảng 10‐15% biểu hiện hay quay trở lại tập luyện(12). tiến bộ đáng kể và 5 ‐ 40% suy giảm trong các Tóm lại, để tiên lượng chức năng cầm nắm hoạt động sinh hoạt hàng ngày. Sự suy giảm khéo léo bàn tay, cần đánh giá khả năng duỗi lớn nhất kể từ giai đoạn 2 ‐ 3 năm sau ngón và dang vai càng sớm càng tốt, tốt nhất là TBMMN. Điều này sẽ đúng với hầu hết các ngày thứ hai sau tai biến.Y văn báo cáo rằng đối người bệnh, kể cả những người đã đạt được với những người bệnh không thực hiện được cử chức năng sinh hoạt độc lập lúc được 6 tháng động nắm tay, duỗi cổ tay, duỗi ngón tay có chủ sau TBMMN. Các yếu tố góp phần dự đoán sự ý hay trong chức năng trong vòng 2 tuần đầu suy giảm chức năng khéo léo chi trên bao gồm sau tai biến, 90% số đối tượng này sẽ không có tuổi cao, tổn thương lớn vỏ não chức năng vận biểu hiện phục hồi cử động bàn tay vào thời động cao cấp, trầm cảm. điểm 6 tháng và 1 năm sau đó. Người VLTL cần Nói tóm lại, thời điểm thực hiện đo lường‐ sử dụng các công cụ có tính tin cậy và giá trị để đánh giá để hình thành các tiên lượng chức năng tiên lượng. Và có thể tiếp tục dùng công cụ đó nên thực hiện càng sớm càng tốt, tiên lượng chức đánh giá khi người bệnh vẫn chưa đạt được sự năng ADL cơ bản cần đo vào ngày thứ 5.Để tiên khéo léo. lượng khả năng đi lại và chức năng khéo léo bàn Tiên lượng phục hồi các hoạt động sinh hoạt tay, tốt nhất là trong 48 giờ đầu. Nếu kết quả hàng ngày - ADL không tốt, cần đo tiếp hàng tuần trong tháng đầu (thực hiện 4 lần đo) và sau đó đo hàng tháng Có bằng chứng cho thấy tuổi, khiếm trong 6 tháng đầu nghĩa là đo tiếp tục khi kết khuyết‐tổn thương lớn ở vỏ não, trầm cảm, quả tiên lượng vẫn chưa tốt. Nếu phục hồi mệt mỏi và/hoặc ít hoạt động thể chất là các không hoàn toàn trong 6 tháng đầu, người bệnh yếu tố tiên lượng sự suy giảm khả năng đi lại cần được theo dõi sự thay đổi cứ sau 6 tháng (2 và chức năng sinh hoạt hàng ngày cơ bản.Có lần một năm). khoảng ¼ đến ¾ người bị TBMMN sẽ cần trợ giúp mức độ nào đó trong các hoạt động hàng KẾT LUẬN ngày (Activities of Daily Living‐ADL) tuỳ theo Bài tổng quan này nêu ra những thông tin định nghĩa sự độc lập trong sinh hoạt hàng tiên lượng cho người bị TBMMN dựa trên các ngày là như thế nào. Nghiên cứu tiên lượng về thông tin khác nhau như thông tin chung của sự độc lập trong ADL sau TBMMN đề xuất các quần thể về sự phục hồi, tử vong, tái lại và tiên thông tin giúp dự đoán bao gồm mức độ độc lượng của các loại tổn thương não. Dựa vào lập ADL tuần đầu tiên được đo bằng thang những công cụ, thuật toán, bài báo này cũng điểm Barthel ở ngày thứ 5. Các yếu tố khác cung cấp các phương tiện để giúp người nhân giúp tiên lượng bao gồm: tình trạng thần kinh viên y tế đưa ra tiên lượng cụ thể cho từng người lúc mới bị (đo bằng thang NIHSS); mức độ bệnh, để từ đó có kế hoạch điều trị, xuất viện, yếu liệt của chi trên, tuổi, khả năng đi lúc đầu, theo dõi định kỳ và tập luyện lại nếu cần. Người mức độ độc lập trước khi bị, lần bị TBMMN chuyên viên y tế cần nắm rõ các công cụ lượng (lần đầu hay tái phát). Tài liệu hướng dẫn thực giá lâm sàng này để có thể sử dụng hiệu quả tại hành PHCN khuyến cáo rằng với những khoa của mình và cho từng người bệnh, từ đó người bị TBMMN có tiên lượng ADL không tiếp cận gần hơn đến phương pháp thực hành tốt trong những lần đánh giá đầu cần được dựa trên chứng cứ. đánh giá hàng tuần trong tháng đầu (4 lần). Sau đó đánh giá hàng tháng trong 6 tháng sau TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Adams HP, Brott TG, Furlan AJ, Gomez CR, Helgason CM, đó. Cần đo lường như vậy khi nào người bệnh Lyden PD, Marler JR (1996). Guidelines for thrombolytic therapy vẫn còn mức ADL phụ thuộc. Ở người bị for acute stroke: a supplement to the guidelines for the 8 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học
  9. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Tổng Quan management of patients with acute ischemic stroke. Circulation. risk of stroke recurrence. Stroke. The European Community The European Community Stroke Project. Journal of the Stroke Project. Journal of the neurological sciences, 44(10‐11), 288‐300. neurological sciences, 144(1‐2), 115‐130. 9. Rosamond W, Flegal K, Furie K, Go A, Greenlund K, Haase N, 2. Bamford J, Sandercock P, Dennis M, Warlow C, Burn J (1991). Kissela B. (2008). Heart disease and stroke statistics—2008 Classification and natural history of clinically identifiable update: a report from the American Heart Association Statistics subtypes of cerebral infarction. The Lancet, 337(8756), 1521‐1526. Committee and Stroke Statistics Subcommittee. Circulation, 3. Carlo AD, Lamassa M, Baldereschi M, Pracucci G, Consoli D, 117(4), e25‐e146. Wolfe CD, Ghetti A (2006). Risk factors and outcome of subtypes 10. Smith MC, Barber PA, Stinear CM (2017). The TWIST Algorithm of ischemic stroke. Data from a multicenter multinational Predicts Time to Walking Independently After Stroke. hospital‐based registry. The European Community Stroke Neurorehabilitation and neural repair, 31(10‐11), 955‐964. Project. Journal of the neurological sciences, 244(1‐2), 143‐150. 11. Stinear CM, Byblow WD, Ackerley SJ, Smith MC, Borges VM, 4. Ferrarello F, Baccini M, Rinaldi LA, Cavallini MC, Mossello E, Barber PA (2017). PREP2: A biomarker‐based algorithm for Masotti G, Di Bari M (2011). Efficacy of physiotherapy predicting upper limb function after stroke. Annals of clinical and interventions late after stroke: a meta‐analysis. Journal of translational neurology, 4(11), 811‐820. Neurology, Neurosurgery & Psychiatry, 82(2), 136‐143. 12. Van Peppen RP, Hendriks H, Van Meeteren NL, Helders PJ, 5. Hankey GJ. (2006). The lancet handbook of treatment in Kwakkel G (2007). The development of a clinical practice stroke neurology: Elsevier Health Sciences, pp 89–126. guideline for physiotherapists in The Netherlands: a systematic 6. Hendricks HT, Van Limbeek J, Geurts AC, Zwarts MJ. (2002). review of available evidence. Disability and rehabilitation, 29(10), Motor recovery after stroke: a systematic review of the literature. 767‐783. Archives of physical medicine and rehabilitation, 83(11), 1629‐1637. 7. Langhorne P, Bernhardt J, Kwakkel G. (2011). Stroke Ngày nhận bài báo: 31/07/2018 rehabilitation. The Lancet, 377(9778), 1693‐1702. 8. Mohan KM, Wolfe CD, Rudd AG, Heuschmann PU, Ngày bài báo được đăng: 20/10/2018 Kolominsky‐Rabas PL, Grieve AP (2011). Risk and cumulative Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 9
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1