intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

tiền và hoạt động ngân hàng: phần 2 - nxb giao thông vận tải

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:178

69
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

nối tiếp phần 1, phần 2 "tiền và hoạt động ngân hàng" của tiến sĩ lê vinh danh do nxb giao thông vận tải ấn hành gồm các nội dung: hệ thống tiền tệ quốc tế, thanh toán quốc tế, chính sách tiền tệ, tác động của chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ và vai trò điều tiết kinh tế của ngân hàng trung ương,... mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: tiền và hoạt động ngân hàng: phần 2 - nxb giao thông vận tải

Phần III - Tiền tệ và tài chính quốc tế<br /> <br /> PHẦN III - TIỀN TỆ VÀ TÀI CHÍNH QUỐC TẾ<br /> Thế giới ngày nay càng ngày càng có khuynh hướng tiến tới nhất thể hóa. Dù muốn dù<br /> không, sự mở cửa nền kinh tế và những phát minh khoa học, ứng dụng công nghệ gần đây đã<br /> làm cho địa cầu thực sự trở thành một cộng đồng với đầy đủ ý nghĩa của từ này hơn bao giờ<br /> hết. Trong cộng đồng này, các quốc gia là những thành viên chấp nhận sự lệ thuộc và ảnh<br /> hưởng qua lại lẫn nhau vừa công khai vừa vô hình.<br /> Sự ràng buộc lẫn nhau trong cộng đồng bắt đầu từ khía cạnh kinh tế. Hàng hóa của<br /> mỗi quốc gia dần dần được buôn bán trên khắp thế giới. Dầu lửa của Trung Đông cung cấp<br /> cho cả châu Phí đến châu Âu, châu Á và châu Mỹ. Lúa mì và sắt thép của Anh, Pháp, Đức trở<br /> thành hàng tiêu dùng tại Argentina, Brazil, Nam Phi, Việt Nam… Vải vóc, ti vi, máy tính của<br /> Nhật Bản có mặt khắp các văn phòng trên thế giới. Máy bay Boeing của Mỹ được sử dụng ở<br /> hầu khắp các nước… Mỗi nước đối với cộng đồng thế giới, giống như mỗi thành viên trong<br /> một nền kinh tế quốc gia, đều là người bán và cũng là người mua. Do họ vừa là người bán vừa<br /> là người mua, sự tồn tại của nước này cần cho sự tồn tại của nước khác và ngược lại. Các<br /> nước đều phụ thuộc lẫn nhau, và đều ý thức một cách tự nhiên rằng mỗi nước không thể phát<br /> triển một cách mạnh mẽ và bền vững, nếu dựa trên các quan hệ kinh tế bất bình đẳng, phương<br /> hại đến lợi ích của nhau.<br /> Quá trình phụ thuộc ngày càng lớn đến mức nếu một quốc gia thành viên bị cô lập với<br /> thế giới bên ngoài, chắc chắn nó sẽ bị tụt hậu và suy thoái. “Thời đại của những xung đột bộ<br /> phận đã qua, thế giới cần phải nhanh chóng hội nhập để đối thoại với vũ trụ”. Khi hiểu được<br /> tính liên kết để tồn tại là một tất yếu, chúng ta sẽ thấy rằng hệ thống kinh tế và các thể chế của<br /> nó đương nhiên sẽ là những bước dẫn nhập đầu tiên cho sự hợp nhất này.<br /> Thương mại quốc tế là cầu nối xa xưa nhất giữa các vùng và các nước từ thời cổ đại.<br /> Nếu thương mại đã từng là người dẫn đường cho chiến tranh, thì cũng chính nó là tác nhân<br /> giúp cho thế giới ý thức được tính cần cố lẫn nhau vì sự tồn tại chung. Cho đến ngày nay, hầu<br /> hết nhân dân của gần như tất cả các nước trên thế giới, do nhu cầu cuộc sống, luôn phải quan<br /> tâm đến không chỉ tình hình trong nước mà cả tình hình kinh tế và thương mại của quốc tế.<br /> Những biến động như giá dầu lửa tăng vào các năm 1973, 1978, 1988, sụt giá đô la Mỹ (1985<br /> - 1992)… vẫn còn làm cho hàng hóa của tất cả các nước đều lên giá, cuộc sống của mỗi người<br /> trên hành tinh đều trở nên khó khăn hơn một phần, thì con người vẫn còn phải quan tâm đến<br /> tất cả các thay đổi trong đời sống kinh tế thế giới. Bởi vì, những thay đổi ở ngoài biên giới<br /> tưởng chừng không có liên quan, nhưng kỳ thực nó sẽ lan truyền chấn động và ảnh hưởng<br /> trực tiếp và sâu sắc đến đời sống của mỗi người.<br /> Hiểu biết càng ngày càng tốt hơn tình hình kinh tế quốc tế sẽ giúp ích cho các cá nhân,<br /> cộng đồng và các nền kinh tế dễ dàng điều chỉnh để không những thích ứng với mọi hoàn<br /> cảnh mới luôn biến đổi trong nền kinh tế thế giới, mà còn để vận dụng nó một cách có lợi cho<br /> sự phát triển của khu vực, hay quốc gia mình. Tất cả các nền kinh tế ngày nay đều có buôn<br /> bán với thế giới bên ngoài. Nói chung, xuất khẩu và nhập khẩu tác động đến tiềm năng sản<br /> xuất, tổng cầu và thu nhập của mỗi quốc gia. Năm 1991, nước Đức cung cấp cho nước ngoài<br /> một số lượng hàng hóa có giá trị bằng 38% tổng sản lượng thu nhập quốc dân. Cùng năm ấy,<br /> lượng hàng hóa mà nó mua của thế giới bên ngoài để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt trong<br /> nước có giá trị bằng 31,4%. Như vậy gần 70% sản lượng của nền kinh tế Đức đã phụ thuộc<br /> vào trao đổi với bên ngoài. Do vậy, bất cứ biến động lớn nào trong tình hình ngoại thương,<br /> giá dầu hỏa, giá USD đều làm cho nền kinh tế của cường quốc thứ 3 này đi vào những cơn<br /> sốc không phải nhẹ. Đối với những quốc gia có tỷ trọng buôn bán lớn hơn như Bỉ (70,9% cho<br /> xuất khẩu và 68,1% nhập khẩu trên GDP năm 1991) tác động của những thay đổi trên bình<br /> diện quốc tế đến với nó càng nặng nề hơn<br /> Do đó xuất phát từ lợi ích kinh tế của chính mình, mỗi nền kinh tế và mỗi cá nhân đều<br /> quan tâm nghiên cứu quan hệ kinh tế quốc tế và những tác động định kỳ của các quan hệ này<br /> 227<br /> <br /> Tiền và hoạt động ngân hàng - TS. Lê Vinh Danh<br /> <br /> .Đương nhiên, thương mại quốc tế là bộ phận cầu nối và hạt nhân quan trọng của kinh tế<br /> quốc tế. Khi tìm hiểu về thương mại quốc tế, chúng ta buộc phải có những hiểu biết nhất định<br /> về các vấn đề tiền tệ - tài chính và thanh toán quốc tế. Lý do đơn giản là, nếu thương mại là<br /> cầu nối cho sự liên hệ của cộng đồng thế giới, thì tiền tệ và thanh toán quốc tế là công cụ để<br /> nó thực hiện chức năng của cầu nối này.<br /> Điều đầu tiên mà chúng ta cần biết là Hệ thống tiền tệ quốc tế quá khứ và hiện nay.<br /> Chính nhu cầu phải có một thước đo chung, một đồng tiền chung cho thanh toán quốc tế đã<br /> tạo ra lần lượt các loại tiền tệ quốc tế khác nhau ■<br /> <br /> 228<br /> <br /> Chương 9 - Hệ thống tiền tệ quốc tế<br /> <br /> Chương 9 - HỆ THỐNG TIỀN TỆ QUỐC TẾ<br /> 9.1. LỊCH SỬ CỦA HỆ THỐNG TIỀN TỆ QUỔC TẾ CẬN ĐẠI<br /> <br /> Nhận thức được sự cần thiết của thương mại quốc tế đối vợi sự phát triển mạnh mẽ<br /> của mỗi quốc gia, để hỗ trợ cho quá trình thanh toán quốc tế được thuận tiện nhằm thúc đẩy<br /> thương mại, tăng trưởng nhanh, người ta đã có nhiều cố gắng thiết lập một Hệ thống thanh<br /> toán và chuyển nhượng quốc gia từ cuối thế kỷ XIX. Trở ngại chính của quá trình thanh toán<br /> là mỗi quốc gia buôn bán với nhau đều có một đơn vị tiền riêng. Nếu sự trao đổi hoặc tính<br /> toán qua lại giữa các đơn vị tiền này không dựa trên một tiêu chuẩn hoặc một th́ước đo chung<br /> nào hết, thì sẽ rất khó ổn định giá trị của mỗi đồng tiền trong mối tương quan với các đồng<br /> tiền khác, và tất nhiên là khó mà có thể ổn định được giá cả hàng hóa trong thương mại. Có<br /> nhiều loại tiêu chuẩn và thước đo chung đã được chọn để làm nền tảng cho sự trao đổi giữa<br /> các đồng tiền khác nhau. Vàng là thước đo được chọn đầu tiên như là một loại tiền tệ quốc tế.<br /> 9.1.1. Chế độ bản vị vàng<br /> 9.1.1.1. Khái quát<br /> Đầu thế kỷ XIX. buôn bán giữa các nước châu Âu, giữa châu Âu, Bắc Mỹ và thế giới<br /> còn lại qua quá trình tự phát đã đi đến thống nhất với nhau thông qua vàng. Thương nhân của<br /> nước Anh ngần ngại khi được thanh toán cho hàng hóa của họ bằng đồng tiền của Pháp, của<br /> Mỹ hay của Tây Ban Nha. Lý do vì những đồng tiền ấy chỉ có thể dùng để mua lại hàng của<br /> chính nước sở tại chứ không thể đem về tiêu dùng ở Anh đuợc. Ðiều tương tự cũng diễn ra<br /> nếu Anh lại thanh toán việc mua hàng của họ cho các nước nói trên bằng đồng Bảng. Tuy<br /> nhiên, nếu các nhà nhập khẩu ở Hà Lan, Tây Ban Nha, Pháp hay Mỹ trả cho thương nhân<br /> người Anh bằng vàng (Gold) ròng, vấn đề trở thành không khó khăn. Người Anh chấp nhận<br /> ngay vàng bởi vì vàng quý, hiếm và giống nhau ở mọi nơi. Vàng ở Nam Mỹ, Bắc Phi, châu<br /> Á… đều giống vàng của châu Âu và Bắc Mỹ. Do vậy, nó gần như có thể dùng để trao đổi<br /> hàng hoá được ở khắp nơi trên thế giới. Mặc nhiên, vàng được chấp nhận làm phương tiện<br /> trong mua bán quốc tế. Các nhà nhập khẩu tính toán giá trị của hàng hoá họ mua và bán với<br /> người nước ngoài thông qua vàng từ những năm 1820.<br /> Từ đó đến 1914 là giai đoạn mà hàng hoá trong thương mại và đồng tiền của mỗi nước<br /> có tham gia ngoại thương đều tính toán qua lại cho nhau, định lượng đơn vị giá trị… bằng<br /> đơn vị vàng. Đó là lý do người ta gọi giai đoạn này là giai đoạn mà tiền nội địa mỗi nước và<br /> tiền tệ trong thanh toán quốc tế đều đặt căn bản trên giá trị vàng (Gold standard).<br /> Nửa đầu thế kỷ XIX, Hoa Kỳ xác định giá trị đồng tiền của mình trên cơ sở: 20,67<br /> USD được xem ngang giá với 1 ounce vàng (999,9). Cũng vào thời gian đó, chính quyền Anh<br /> mua vàng và bán vàng ra với giá cố định được luật pháp quy định là 4,34 Pound Anh một<br /> ounce. Đương nhiên, thương mại giữa hai quốc gia được thực hiện trên cơ sở thừa nhận giá trị<br /> của 20,67 USD là tương đương với 4,34 bảng Anh. Như vậy, 1 bảng Anh được tính là tương<br /> đương với 4,76USD. Tỷ giá trao đổi, mà bấy giờ chúng ta đã sử dụng như là một thuật ngữ rất<br /> quen thuộc, ngày ấy, được xác định giữa đồng tiền này với đồng tiền khác thông qua cách đơn<br /> giản như sau: Nếu bạn muốn tính đồng tiền của nước A tương đương bao nhiêu đồng tiền của<br /> nước B. trước tiên bạn tính giá trị tương đương của đồng tiền B.<br /> Một thương nhân Tây Ban Nha chở hàng qua bán ở Anh. Bán hàng và thu tiền Bảng<br /> Anh xong, ông ta vào ngân hàng Anh đổi ra vàng. Mỗi một đồng bảng Anh, ngân hàng đổi<br /> cho ông ta 1/4,34 ounce vàng (hay 0,23 ounce) theo luật. Mang vàng về nước dùng vàng đổi<br /> ra tiền của Tây Ban Nha đồng Peseta, cứ mỗi đơn vị 0,23 ounce vàng ông ta đổi lại được 140<br /> peseta. Bằng cách ấy, không những ông và các bạn thương nhân của ông ở Tây Ban Nha, ở<br /> Anh, mà kể cả chính quyền hai nước hiểu rằng 1 bảng Anh là bằng 140 Peseta. Hay nói cách<br /> khác, tỷ giá trao đổi giữa peseta và bảng Anh là 1/140.<br /> <br /> 229<br /> <br /> Tiền và hoạt động ngân hàng - TS. Lê Vinh Danh<br /> <br /> Các nhà xuất nhập khẩu, các ngân hàng thanh toán liên quốc gia (hay thanh toán quốc<br /> tế) lẫn nhau đều chấp nhận tỷ giá trên. Với phương thức này, nếu gọi P1 là giá hàng hoá ở<br /> Anh, P2 là giá hàng hoá ở Tây Ban Nha, thì một món hàng có giá trị bằng 1 bảng Anh sẽ<br /> P<br /> tương ứng với giá P2 ở Tây Ban Nha là: P1 = 1 p 2 vậy P2 = 1 = 140P1 = 140 peseta<br /> 1<br /> 140<br /> 140<br /> Ngược lại một món hàng có giá ở Anh là 2,5 bảng, sẽ có giá ở Tây Ban Nha là: P1 = 1 P2<br /> 140<br /> => P2 = P1 × 140 = 2,5 bảng × 140 = 350 peseta<br /> 1<br /> là e. Lúc đó P1 =<br /> Người ta gọi tỷ giá trao đổi<br /> 2 được gọi là công thức tính giá<br /> 140<br /> trị hàng hóa tương đương giữa Anh và Tây Ban Nha với P1 là giá hàng tại Anh P2 là giá hàng<br /> ở Tây Ban Nha và e là tỷ giá trao đổi giữa một Peseta với một bảng Anh thông qua vàng.<br /> Bây giờ, giả sử rằng vì một số lý do nào đấy, trước đây một kiện vải nhập cảng từ Ấn<br /> Độ có giá ở Anh là 1 bảng và đương nhiên có giá ở Tây Ban Nha là I40 Peseta, Nay đột nhiên<br /> nước Anh có tình trạng lạm phát. P1 trở nen lớn hơn eP2 (P1> P2 ). Chuyện này rất hay xảy ra<br /> thời bấy giờ, ớ khắp các nước, không có ngoại lệ nào. Giá một kiện vải vọt lên 2 bảng Anh.<br /> Mặc dù vậy, do quan hệ tỷ giá giữa đồng Peseta của Tây Ban Nha và đồng Rupee của Ấn<br /> thông qua vàng vẫn không đổi, nên một kiện vải vẫn chỉ có giá ở Tây Ban Nha là 140 Peseta.<br /> Sự lên giá vải ở Anh (và kể cả các loại hàng hóa khác) thúc đẩy các thương nhân Tây Ban<br /> Nha đem hàng qua Anh bán. Mỗi mét vải họ bán được 2 bảng, đem vào ngân hàng Anh đổi ra<br /> thành (0.23 2 =) 0,46 ounce vàng. 0,46 ounce vàng này mang về Tây Ban Nha đổi cho ngân<br /> hàng Tây Ban Nha được thành 280 Peseta. Các thương nhân hưởng được món lời gần gấp đôi,<br /> trong khi vàng ở kho của nước Anh xuống tàu xuất cảng sang Tây Ban Nha.<br /> Điều gì sẽ xảy ra? Chúng ta nên nhớ lại rằng vào giai đoạn này (1821-1914) việc phát<br /> hành tiền giấy ở các nước (đồng Peseta. Pound Anh, Rupee, hay USD ..) được đảm bảo bằng<br /> dự trữ vàng. Vàng nhiều, các chính phủ sẽ in ra nhiều tiền giấy. Vàng ít, các chính phủ phải<br /> thu lại bớt tiền. Tiền luôn luôn được ấn định tương đương với dự trữ vàng trong ngân khố. Cứ<br /> mỗi 4,34 bảng Anh có thể đổi được 1 ounce vàng và ngược lại. Vàng chạy ra khỏi kho của<br /> Anh làm cho tiền bảng bị thu hẹp. Ngược lại, vàng về kho của Tây Ban Nha nhiều làm đồng<br /> peseta tăng lên. Sự khan hiếm của đồng bảng sẽ dần dần làm cho tiền bảng trở nên có giá trị<br /> hơn, giá P1 sẽ bắt đầu hạ. Cùng lúc ấy, sự thừa đồng Peseta ở Tây Ban Nha làm cho hàng hoá<br /> tăng giá. P2 lên giá và P1 xuống giá cho đến khi đẳng thức P1 = eP2 được cân bằng trở lại. Lúc<br /> bấy giờ, người ta gọi đây là cơ chế điều chỉnh tự động cán cân thanh toán thăng bằng giữa hai<br /> nước (Anh - Tây Ban Nha) hay “Automatic Balance of Payment Equilibrium”. Điều tương tự<br /> như thế cũng xảy ra ở quá trình thanh toán khắp các nước còn lại trong gần 100 năm<br /> 9.1.1.2. Sự sụp đổ chế độ bản vị vàng<br /> Có 3 tai họa đã thực sự làm cho chế độ thanh toán lấy vàng như là một loại tiền tệ của<br /> quốc tế sụp đổ. Ðó là 2 cuộc Chiến tranh thế giới và trận đại suy thoái, 1929 - 1933. Chiến<br /> tranh thế giới lần thứ nhất (l914 - 1918) đã làm cho châu Âu mua quá nhiều hàng hóa của Mỹ<br /> vì đòi hỏi của cuộc chiến và sau này là nhu cầu tái thiết sau chiến tranh, đến mức họ không<br /> còn đủ vàng để trả và phải phát hành tiền giấy quá mức bảo chứng vàng (Xem lại 2.1.2.2,<br /> phân đoạn 2.1 Chương 2). Đầu tiên các chính phủ châu Âu tìm cách hạn chế việc này bởi các<br /> biện pháp như: Cấm xuất cảng vàng và không bán vàng cho nhân dân. Tuy nhiên, hiệu quá<br /> của các chính sách ấy không được như mong muốn vì các chính phủ phải chỉ tiêu quá nhiêu.<br /> Lượng tiền mặt in ra bắt đầu gấp đôi rồi gấp 3 lần dự trữ vàng<br /> Chỉ riêng nước Mỹ, do làm giàu được từ chiến tranh với dự trữ vàng bằng 1/2 kho<br /> vàng của cả thế giới, tiếp tục giữ được bảo chứng vàng cho tiền giấy. Vào năm 1914, 4,34<br /> <br /> 230<br /> <br /> Chương 9 - Hệ thống tiền tệ quốc tế<br /> <br /> bảng Anh ≡ 1 ounce vàng ≡ 20,67 USD hay 20,67 USD ≡ (4,67) × (4,34) Pound và tỷ giá e<br /> giữa 1 bảng Anh so với 1 USD là 4,67.<br /> Siêu lạm phát từ Đức sang các nước châu Âu khác kể cả Anh, đã làm cho cán cân<br /> thăng bằng nói trên bị mất. Đồng bảng Anh tuôn ra thị trường quá nhiều làm cho giá trị của<br /> nó so với vàng vượt lên hơn 4.34 Pound/ounce. Kết quả là tỷ giá e giảm xuống dưới 4,67.<br /> Chính phủ các nước, để cố gắng bảo vệ bản vị, đã vừa vay vàng của Hoa Kỳ, vừa ép nước Mỹ<br /> phải lạm phát theo. Năm 1927, bản vị vàng được thiết lập lại tương đối. Thật không may, chỉ<br /> vài năm sau, khủng hoảng kinh tế và sự sụp đổ ngân hàng từ Mỹ lan sang các nước. Trong<br /> cơn hoảng loạn, nhân dân ùa đến ngân hàng rút tiền mặt đi mua vàng hoặc đổi vàng. Các<br /> NHTW vay mượn nhau những món tiền rất khổng lồ để khống chế bớt sự mất giá của lượng<br /> tiền giấy đã in ra quá nhiều. Mùa xuân năm 1933, đồng bảng Anh mất giá 30% so với USD và<br /> một vài đồng tiền khác. Nhưng USD cũng lại mất giá trầm trọng so với vàng vì lạm phát. 1<br /> ounce vàng từ giá 20,67USD đã vọt lên mức 35USD vào ngày 31 tháng Giêng năm 1934. Tất<br /> cả các nước châu Âu, Bắc Mỹ, đều lâm vào lạm phát, thiếu hụt vàng, và tỷ giá giữa đồng bản<br /> địa so với vàng vọt lên như con ngựa bất kham.<br /> Các chính phủ phải lần lượt bãi bỏ quy định bảo chứng vàng cho tiền giấy đã phát<br /> hành vì không nước nào còn đủ vàng để đổi lại tiền giấy cho dân kể cả Hoa Kỳ. Luật dự trữ<br /> vàng năm 1934 ở Mỹ và những điều tương tự khác ở các nước, khuyến khích nhân dân bán<br /> vàng cho chính phủ, cấm chuyển vàng ra ngoài chỉ với hy vọng củng cố kho dự trữ để giữ giá<br /> tiền bản địa trong thanh toán quốc tế. Vì tiền giấy không còn được đảm bảo bằng vàng, mọi<br /> người giờ đây chỉ có thể dùng tiền để đổi vàng chứ không thể để đổi vàng, cơ sở để tính giá trị<br /> đồng tiền của nước này qua đồng tiền của nước khác qua vàng đã hoàn toàn sụp đổ. Năm<br /> 1937, nhiều nước bắt đầu lượng giá giá trị đơn vị tiền tệ của mình so với một đơn vị tiền tệ<br /> của nước khác thông qua đồng USD vì đồng USD, được giữ khá cố định với 35USD ≈ 1<br /> ounce vàng trong suốt 1934 - 1937. Tình hình này được tiếp tục cho đến khi chiến tranh thế<br /> giới ll bùng nổ năm 1939.<br /> 9.1.2. Thoả thuận Bretton Woods- tỷ giá trao đổi cố định<br /> <br /> Để ổn định cho sự phát triển của thương mại quốc tế sau chiến tranh, các nước phương<br /> Tây đã suy nghĩ nhiều, theo cách của họ, về việc thiết lập một hệ thống tiền tệ và thanh toán<br /> chung cho quốc tế.<br /> Tháng 7 năm 1944, tại Mount Washington Hotel ở Bretton Woods, New Hamsphire,<br /> Hoa Kỳ hơn 700 người từ 44 nước khắp nơi trên thế giới đã tự tập để bàn về thương mại và<br /> thanh toán liên quốc gia trong tương lai. Kiến trúc sư của hội nghị là John Maynard Keynes<br /> và Harry D. White, Thứ trưởng Bộ ngân khố Hoa Kỳ.<br /> Thoả thuận mang tên Bretton Woods ra đời với ba nội dung chủ yếu:<br /> - Các nước thành viên cùng ký tên trong thoả thuận đồng ý và sẽ cố gắng giữ tỷ giá<br /> trao đổi (exchange rate) giữa đồng tiền nước mình với đồng tiền các nước khác ổn định, cũng<br /> như sẽ có những can thiệp cần thiết để giữ cho tỷ giá này chỉ là dao động ±1% so với tỷ giá cố<br /> định (Fixed Exchange Rate) nói trên.<br /> - Các nước thành viên đồng ý góp vốn thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (International<br /> Monetary Fund: IMF) nhằm mục đích cho các nước thành viên vay vốn vào những lúc cần<br /> thiết để can thiệp, giũ đồng tiền nước mình không biến động quá với tiêu chuẩn nói trên.<br /> - Tỷ giá trao đổi cố định giữa đồng tiền các nước được tính thông qua bản vị vàng thế<br /> giới, với giá vàng được chuẩn hoá và cố định (International Gold Standard). Vàng được bán<br /> đi mua lại hoặc vay mượn lẫn nhau giữa NHTW các nước để có thể bán ra hoặc mua vào<br /> trong thị trường nội địa kịp thời, nhằm giữ giá đồng tiền không đổi.<br /> Thực chất Bretton Woods là thoả thuận hướng về việc giữ giá đồng tiền các nước theo<br /> giá vàng và chống lạm phát giá cả. Sự lây lan của siêu lạm phát và khủng hoảng (1922-1923,<br /> 1929-1933) làm sụp đổ mọi thứ và các nước châu Âu đã vô cùng kinh sợ viễn cảnh này. Bên<br /> cạnh đó, ý đồ Keynes là giữ giá vàng ổn định để thương mại và thanh toán quốc tế có cơ sở<br /> 231<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2