intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: Chính đơn đảng - giải giáp quan trọng kiềm chế tham nhũng ở nước ta hiện nay

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:112

64
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: chính đơn đảng - giải giáp quan trọng kiềm chế tham nhũng ở nước ta hiện nay', luận văn - báo cáo, báo cáo khoa học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: Chính đơn đảng - giải giáp quan trọng kiềm chế tham nhũng ở nước ta hiện nay

  1. TIỂU LUẬN: Chính đơn đảng - giải giáp quan trọng kiềm chế tham nhũng ở nước ta hiện nay
  2. Luận giải tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa chỉnh đốn Đảng và phòng chống tham nhũng trong Đảng, tác giả đã khẳng định chỉnh đốn Đảng là một giải pháp quan trọng để kiềm chế tham nhũng ở nước ta hiện nay. Chỉnh đốn Đảng để kiềm chế tham nhũng, theo tác giả, thứ nhất, phải giáo dục lại một cách khoa học lý tưởng cách mạng của Đảng; thứ hai, giáo dục thật mạnh mẽ đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên của Đảng; thứ ba, giáo dục cán bộ, đảng viên của Đảng sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; thứ tư, xốc lại cơ chế dân chủ trong Đảng; thứ năm, mở rộng phê bình và tự phê bình trong Đảng; và thứ sáu, văn hoá hoá các hoạt động của Đảng. Sau khi khẳng định sự lớn mạnh về năng lực tư duy và những thành công tốt đẹp của quá trình lãnh đạo nhân dân ta phát triển kinh tế, thực hiện đổi mới mọi mặt đất nước suốt hai thập kỷ qua, Văn kiện Đại hội X của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra nhiều khuyết điểm đang tồn tại trong Đảng. Đó là: “Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp””. Thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên...”(1). Đại hội cũng nhất trí nhận định rằng, những khuyết điểm này “diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý tài chính”(2). Văn kiện Đại hội X còn đưa ra cảnh báo: “Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”, “làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng”(3). Nói về các thành tựu dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 20 năm đổi mới đất nước, mỗi chúng ta đều trào dâng lòng tự hào và niềm vui khôn tả so với những năm tháng khó khăn của thời kỳ bao cấp. Song, nói về những tiêu cực trong 20 năm ấy vẫn kéo dài và diễn ra nghiêm trọng, mỗi đảng viên chân chính, mỗi công dân lương thiện, mỗi người yêu nước, thương dân, thương nhà đều không khỏi băn khoăn, lo lắng. Nhiều người còn tự hỏi vì sao một Đảng vĩ đại là thế, đã từng lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn thử thách khó khăn, đập tan gông xiềng nô lệ, đánh thắng những đội quân xâm lược hùng mạnh, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, mang lại độc
  3. lập, tự do cho nhân dân, nay lại vấp phải những khuyết điểm lớn lao như vậy? Vì sao lý tưởng của Đảng thì cao đẹp như thế mà không ít cán bộ, đảng viên lại sống nhỏ nhen và xấu xa đến như vậy? Đó là khuyết điểm có tính chất cá nhân hay do cơ chế? Những khuyết điểm này là nhất thời hay lâu dài? Vì sao Văn kiện Đại hội X đã nhất trí khẳng định: đây là một cuộc chiến rất khó khăn. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã phải nêu lên 10 chủ trương, giải pháp, bao gồm cả việc đưa luật phòng chống tham nhũng vào nội dung giáo dục đảng viên để đạt mục tiêu ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng nhằm xây dựng Đảng và Nhà nước vững mạnh. Trong bài viết này, chúng tôi không có tham vọng đề cập tới quá nhiều tiêu cực và những giải pháp do Đại hội Đảng X nêu ra, mà chỉ đề xuất một giải pháp quan trọngtrong số nhiều giải pháp để kiềm chế nạn tham nhũng trong Đảng. Mặc dù các hiện tượng tiêu cực mà Đại hội Đảng X nêu lên đều có diện mạo riêng, như bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, thoái hóa, biến chất về đạo đức và lối sống, tệ quan liêu..., song chúng đều có mối liên hệ bản chất với nhau. Đã sa đà vào bệnh cơ hội thì đương nhiên, không tránh khỏi sa vào chủ nghĩa cá nhân. Đã sa đà vào chủ nghĩa cá nhân thì tất yếu dẫn đến thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Đã biến chất về đạo đức, lối sống, tất yếu đi đến chủ nghĩa thực dụng, tệ tham nhũng... Vì vậy, giải pháp kiềm chế nạn tham nhũng cũng liên quan đến giải pháp làm lành mạnh hóa đạo đức, lối sống; khắc phục tệ quan liêu, giảm bớt tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp. Tham nhũng, theo chúng tôi hiểu là tham lam và nhũng nhiễu. Tham nhũng cũng có thể là tham ô, tức là vơ vét của công, ăn cắp của công; quấy rối, rầy rà người khác. Tham nhũng cũng có thể hiểu là làm rất ít, hay không làm, chỉ cậy quyền cậy thế mà muốn hưởng thật nhiều, muốn “ngồi mát ăn bát vàng”, muốn“cốc làm cò xơi”. Ngày xưa, cha ông ta dùng khái niệm này để chỉ giặc ngoại xâm và các quan lại hay vơ vét của dân. Bọn giặc ngoại xâm thường hay quấy nhiễu, nhũng nhiễu khi xâm lăng nước ta; còn các quan lại thì hay vơ vét của dân như một loại giặc nội xâm. Hiện nay, ai thường vơ vét và nhũng nhiễu dân? Trên thực tế, đó là những người có chức, có quyền. Đảng ta là Đảng cầm quyền. Đảng đã phong chức và giao quyền cho những đảng viên của Đảng thực hiện cương lĩnh phát triển đất nước của Đảng. Vì vậy, khi có hiện tượng tham nhũng xảy ra trong Đảng thì trước hết,Đảng phải nhận trách
  4. nhiệm về mình. Trách nhiệm đó là Đảng đã giao quyền, phong chức cho những người xấu, yếu kém về tư tưởng, đạo đức, suy thoái về lối sống. Về điểm này, từ lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Đảng ta là Đảng cầm quyền, “chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”(4) và tất nhiên, nếu đảng viên của Đảng rơi vào tham nhũng thì nhất định, Đảng và Chính phủ không thể vô can. Không những nhận biết các hiện tượng tham nhũng đã phổ biến đến như thế nào, mà Đại hội X của Đảng còn chỉ rõ những lĩnh vực xảy ra tham nhũng nhiều nhất là các cơ quan công quyền, quản lý đất đai, quản lý tài chính, xây dựng cơ bản, quản lý doanh nghiệp nhà nước. Những lĩnh vực này đều là những lĩnh vực chủ chốt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những cán bộ, đảng viên tham nhũng trong các lĩnh vực này đều vi phạm điều lệ Đảng, đều phản lại lý tưởng mang những giá trị tốt đẹp để xây dựng xã hội của Đảng. Lý tưởng của Đảng ta luôn hướng về xây dựng những con người biết đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết và trước hết. Đó là những con người thẳng thắn, trung thực, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; những con người thắng không kiêu, bại không nản, chịu đựng mọi gian khổ, dấn thân vì nghĩa lớn; vui cái vui của nhân dân, đau cái đau của những người bất hạnh. Lý tưởng của Đảng hoàn toàn trái với các hiện tượng tham nhũng! Vì sao nhiều người có chức, có quyền lại làm hoen ố lý tưởng của Đảng? Vì sao không ít những người có chức, có quyền lại có thể tham nhũng được và dámtham nhũng? Trước hết là họ lộng quyền. Quyền mà Đảng giao cho họ, chức mà Đảng phong cho họ, họ đều tưởng là bản chất mà họ có. Tài sản mà nhân dân bằng mồ hôi, nước mắt và bằng cả bệnh tật và xương máu trao cho họ để họ thực hiện lý tưởng phát triển đất nước của Đảng thì họ lại lạm quyền, chia chác theo ý chủ quan và vơ vét theo chủ nghĩa cá nhân vị kỷ. Trong lý tưởng của Đảng, quyền lực là của nhân dân và quyền lực đó là do nhân dân và vì nhân dân mà thực hiện. Lý tưởng ấy là lý tưởng vĩ đại của Đảng. Đó là lý tưởng nhân dân làm chủ đất nước. Những người tham nhũng sau khi đã lộng quyền, lạm quyền lại mắc vào lỗi thứ hai là
  5. phản lại lý tưởng của Đảng, độc quyền chân lý, coi thường nhân dân, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Nhân danh nguyên tắc Đảng, họ thường chia chác ngầm, khép kín phạm vi lợi ích, bưng bít thông tin làm cho quyền lợi chỉ chảy vào túi của họ. Đảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo nhân dân, nhưng Đảng không đứng trên pháp luật. Những kẻ tham nhũng trong Đảng, do lạm dụng, lộng quyền, chống lại dân chủ đã đi đến khinh thường pháp luật. Nhiều kẻ tham nhũng tưởng chính mình là người đề ra luật pháp, cho nên mọi hoạt động vơ vét và nhũng nhiễu của họ đều gắn với luật ngầm, luật rừng. Nếu ai không thỏa mãn với các chuẩn mực bất thành văn ấy thì đều gặp rất nhiều khó khăn trong các nhu cầu chính đáng của mình. Đảng ta phong chức và giao quyền cho những đảng viên không phải vì Đảng bè phái. Đảng ta kiên quyết chống lại những hiện tượng bè phái. Đảng ta phong chức và giao quyền cho các đảng viên sau khi đã cân nhắc và đánh giá một cách tập thể về đức và về tài để thực thi nhiệm vụ nhân dân trao. Tuy nhiên, khi chưa có chức, có quyền, nhiều đảng viên rất khiêm tốn, trung thực và chí công vô tư. Một số đảng viên khi đã được Đảng phong chức, trao quyền lại thiếu tu dưỡng về đạo đức, lối sống, đam mê quyền lực và đi đến bè phái. Các hiện tượng tham nhũng trong Đảng đều gắn với bè phái, nên việc phát hiện để chống trả nó trở nên vô cùng khó khăn. Tham ô tập thể, nhũng nhiễu tập thể là biểu hiện của sự chống lại lý tưởng đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Lý tưởng của Đảng luôn kết nạp những người hiền tài. Do bè phái ở những đơn vị nào đó mà có người có đức, có tài vẫn không được tham gia vào tổ chức Đảng. Do Đảng ta là Đảng cầm quyền, nguyên tắc lãnh đạo Nhà nước của Đảng phải theo đường lối của Đảng. Một số người có đức, có tài do những hiện tượng bè phái trong Đảng mà không được trở thành những người lãnh đạo chủ chốt của một đơn vị nào đó. Những kẻ tham nhũng giữ quyền cao, chức trọng ở đơn vị ấy đã tìm cách vô hiệu hóa một số người không cùng phe, cùng phái với họ. Vì thế, các hiện tượng tham nhũng thường đi đôi với việc chống lại những người lương thiện, vô hiệu hóa những người có năng lực, những hiền tài. Chúng ta có thể nhận diện được rất nhiều nguyên nhân đi đến tham nhũng và bản chất của hiện tượng tham nhũng trong Đảng. Có nguyên nhân chủ quan, có nguyên nhân khách quan; có nguyên nhân do trình độ yếu kém; có nguyên nhân do cơ chế;
  6. có nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài. Dù nguyên nhân nào thì cũng gắn liền với Đảng cầm quyền. Mọi sự phát triển mạnh mẽ hay yếu kém của đất nước đều gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, trước hiện tượng tham nhũng nghiêm trọng và kéo dài, Đảng ta cần có những giải pháp quyết liệt nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng để đưa đất nước vươn lên mạnh mẽ. Lường trước những hư hỏng có thể xảy ra trong cán bộ, đảng viên sau ngày kháng chiến chống Mỹ thắng lợi hoàn toàn, trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”(5). Tại sao có biết bao nhiêu việc vô cùng bức thiết sau một cuộc chiến tranh đẫm máu, gian khổ, hy sinh khốc liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại Di chúc cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, việc cần làm trước tiên phải là chỉnh đốn lại Đảng. Chắc chắn, vị lãnh tụ thiên tài của Đảng ta đã nhìn xa, trông rộng và thấy rõ những nguy cơ của đất nước cũng như những vấn đề lớn của dân tộc đều liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng, nên Người mới căn dặn việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng. Các hiện tượng tham nhũng xảy ra chủ yếu ở những người có quyền, có chức trong Đảng. Toàn thể bộ máy công quyền, nền kinh tế khổng lồ, các lĩnh vực quản lý đất nước đều do Đảng lãnh đạo. Vậy, muốn kiềm chế tham nhũng phải theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Trước hết là chỉnh đốn lại Đảng. Chỉnh đốn lại Đảng có liên quan bản chất đến sự nghiệp lãnh đạo đất nước của Đảng trong giai đoạn phát triển mới mà hướng mục tiêu của nó là: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các hiện tượng tham nhũng trong Đảng hoành hành thì bao giờ dân mới giàu? bao giờ nước mới mạnh? bao giờ xã hội mới công bằng, nền dân chủ mới được xác lập và dân tộc ta mới trở thành dân tộc văn minh? Đúng như Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định, những tiêu cực trong Đảng, trong đó có tệ tham nhũng, sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sẽ “là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”. Đảng ta chỉ có thể thực hiện được mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh khi đã kiềm chế được nạn tham nhũng để đi đến ngăn chặn và đẩy lùi được nó. Ngược lại, khi kiềm chế, ngăn chặn và đẩy lùi được tệ nạn tham nhũng thì năng lực lãnh đạo của Đảng sẽ vươn lên ngang tầm với những nhiệm vụ trọng đại của dân tộc trong thời kỳ
  7. mới. Chỉnh đốn lại Đảng để ngăn chặn tệ nạn tham nhũng trước hết là phải giáo dục lại lý tưởng của Đảng. Như Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ rõ, “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực, thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng(6). Cán bộ chủ chốt mà giảm sút lòng tin, thiếu tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, phai nhạt lý tưởng thì nghị lực sống đã trở nên khô cạn, nhân cách sống đã trở thành tầm thường, quan niệm về cống hiến và hưởng thụ trở nên lệch lạc,... và do vậy, con đường dẫn đến tham nhũng không xa, nếu Đảng vẫn giao quyền và phong chức cho đối tượng này. Lý tưởng bao giờ cũng là cái thiêng liêng nhất. Lý tưởng xã hội của Đảng và lý tưởng của cá nhân nếu không còn phù hợp thì những nguyện vọng, ước mơ, hoài bão của cá nhân sẽ trở nên rất nhỏ bé, con người thiếu mục tiêu phấn đấu, mất phương hướng hoạt động và rất dễ sa đà vào chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Vì thế, muốn kiềm chế nạn tham nhũng, ngăn ngừa sự xuất hiện của nạn tham nhũng, trong quá trình chỉnh đốn lại Đảng, trước hết phải giáo dục lại một cách khoa học lý tưởng cách mạng của Đảng. Thiếu lý tưởng này thì ước mơ, khát vọng rất dễ đi đến lệch lạc. Tham nhũng chính là một trong những biểu hiện đậm nét về sự lệch lạc đó, khi sa đà vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, ước mơ hưởng lạc, khát vọng làm giàu bất chính. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉnh đốn lại Đảng là nâng cao năng lực của mỗi đảng viên, mỗi chi bộ lên một tầm cao mới để đáp ứng tốt hơn với nhiệm vụ Đảng giao. Vì thế, nội dung thứ hai trong việc chỉnh đốn lại Đảng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc kiềm chế tham nhũng là “mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”(7). Có thể nói, khi phong chức, trao quyền cho cán bộ, đảng viên, Đảng ta rất quan tâmđến đức và đến tài. Tuy nhiên, Đảng ta còn cho rằng, tài không tách rời đức. Cha ông ta coi hiền tài là nguyên khí của quốc gia, cho nên tài và đức trong việc bổ nhiệm cán bộ là một tiêu chí quan trọng. Đạo đức luôn quan hệ đến lợi ích. Thấm nhuần đạo đức cách mạng thì sẽ thấu hiểu mối quan hệ giữa lợi ích của tập thể, lợi ích của cá
  8. nhân và sự phát triển hài hòa giữa hai lợi ích ấy. Người đảng viên cộng sản nhất định phải xem lợi ích của cộng đồng là lợi ích quan trọng, bởi nó là cơ sở tồn tại của các lợi ích khác. Lợi ích cộng đồng, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội là thước đo nhân cách của người đảng viên cộng sản. Nếu người đảng viên chỉ thu va hà vén cho cá nhân; nếu cùng lao động, cùng chức vụ mà người đảng viên, người lãnh đạo lại tự cho mình là có công to, tự chia chác, tự biển thủ thì nhận thức ấy nhất định đi đến tham nhũng. Vì sao các đồng chí có tài năng cùng lao động như mình mà họ thì sống thanh bạch, còn mình thì giầu lên nhanh chóng? Dư luận xã hội bao giờ cũng thẩm tra hiện tượng đó một cách công bằng. Vì thế, chỉnh đốn lại Đảng, song song với việc giáo dục lại lý tưởng của Đảng, phải giáo dục thật mạnh mẽ đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là đạo đức do Đảng ta khởi xướng và giáo dục. Đó là đạo đức của những con người làm trước thiên hạ, mà hưởng bổng lộc sau thiên hạ. Đó là đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Khi những quan niệm, những giá trị đạo đức này đã thấm sâu vào lương tâm, vào danh dự, vào ý nghĩa cuộc sống của người cán bộ đảng viên thì nhất định nạn tham nhũng sẽ được kiềm chế, quan hệ giữa con người với con người sẽ tốt hơn rất nhiều, sự hy sinh của người này cho người khác sẽ trở thành lẽ sống. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ năm khóa VIII đã nhận xét: hiện nay, những hiện tượng tham nhũng không chỉ gắn với sự hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, gắn với sự suy thoái về đạo đức, mà còn gắn cả với sự suy thoái về lối sống. Lối sống “dùng tiền nhà nước tiêu sài phung phí, ăn chơi sa đọa..., kèn cựa địa vị, cục bộ địa phương, bè phái...”(8) - đó là một lối sống xấu xa, bệnh tật, thực dụng. Trong quá trình xây dựng Đảng, Đảng ta luôn hướng về một lối sống lành mạnh. Do phai nhạt về lý tưởng, do nhiễm vào lối sống thực dụng, chỉ chú ý đến lợi ích vật chất mà coi nhẹ các giá trị tinh thần, chỉ coi trọng lợi ích cá nhân mà coi nhẹ lợi ích cộng đồng, chỉ chú ý đến lợi ích trước mắt, không phấn đấu vì lợi ích lâu dài, nên nhiều cán bộ, đảng viên, kể cả những người có chức, có quyền, đã đi đến ăn cắp của công, nhũng nhiễu nhân dân. Chỉnh đốn lại Đảng cần phải giáo dục cho đảng viên lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lập, tự cường, tinh thần đoàn kết cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung. Lối sống này đối lập với chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, chủ nghĩa thực dụng vụ
  9. lợi. Nó có tác dụng ngăn chặn tệ tham nhũng trong mọi hoạt động thường nhật. Lối sống lành mạnh thường gắn liền với nhân cách sống thẳng thắn, trung thực, vị tha của người cách mạng. Đảng ta, trong rất nhiều nghị quyết trước và trong thời kỳ đổi mới, đều hướng vào tạo dựng nhân cách người cách mạng. Nhân cách này là sản phẩm của quá trình cách mạng của nhân dân ta. Nhân cách này khác với các nhân cách kẻ sĩ, bậc trượng phu, người quân tử ở thái độ đối với nhân dân, với đồng bào, đồng chí, với lao động, với các hoạt động chính trị - xã hội. Nhân cách này cũng khác với nhân cách của các ông chủ nhà máy của giai cấp tư sản, ông chủ của những đồn điền thẳng cánh cò bay. Nhân cách này được hình thành theo lý tưởng và hình mẫu của người đảng viên cộng sản. Đó là nhân cách sống cao thượng, văn minh, có văn hóa. Chỉnh đốn lại Đảng, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là Đảng phải quan tâm đến việc rèn luyện nhân cách này bằng cách: khi giáo dục những phẩm chất cách mạng cho đảng viên, cần quan tâm đến thái độ ứng xử đối với mọi người trong xã hội. Người cộng sản cần quan tâm đến cuộc sống lao động, lam lũ, vất vả của nhân dân. Người cộng sản cần có tình thương bao la, chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Khi những phẩm chất ấy chiếm lĩnh phần lớn các hoạt động sống của họ, thì chắc chắn nạn tham nhũng sẽ được kiềm chế. Nhân cách người cách mạng thường được thử thách và hình thành trong công việc. Đó là nhân cách không chỉ nói đi đôi với làm, mà phải nói việc hay, làm việc giỏi, việc tốt. Hiện nay có tình hình, Đảng giao quyền, phong chức cho nhiều cán bộ đủ nhân cách để xây dựng lại đất nước to đẹp hơn, đàng hoàng hơn theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, song sau khi mỗi công trình to đẹp hoàn thành, mỗi con đường rộng thênh thang ra đời, mỗi khu đô thị đàng hoàng xuất hiện thì không ít nhân cách người thực hiện những công trình ấy lại nhỏ bé đi rất nhiều. Sự tha hóa này về nhân cách do những hiện tượng tham nhũng, bớt xén công trình, ăn cắp nguyên vật liệu tạo nên. Xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng để kiềm chế tham nhũng gắn bó chặt chẽ với việc bảo vệ nhân cách con người cách mạng; làm sao cho họ không biến chất mỗi khi một việc tốt được hoàn thành. Sự ăn cắp của cải của nhân dân, sự rút ruột các công trình của nhà nước đều đem lại sự tha hóa về nhân cách của các quan tham. Tất nhiên, nếu tham nhũng, chia chác và rút ruột các công trình thì chẳng những nhân cách kẻ tham
  10. nhũng sớm sụp đổ, mà cả các công trình cũng không thể bền vững. Tệ nạn tham nhũng, như chúng tôi đã trình bày, có khía cạnh lộng quyền, lạm quyền, coi thường hiến pháp và pháp luật. Ở đây còn có cả biểu hiện của tính kiêu ngạo cộng sản lẫn tình trạng mất dân chủ trong lối sống của các quan tham. Ngay từ những ngày đầu tiên của cuộc Cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện nhữngquan cách mạng trái phép, cậy thế, kiêu ngạo, “ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận... ăn muốn cho ngon, mặc muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ”(9). Có thể nói, đây là một trong những nguyên nhân rất cơ bản của tệ tham nhũng trong Đảng. Chỉnh đốn lại Đảng nhất thiết cần giáo dục đảng viên sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Dù là cán bộ cấp nào thì cũng không thể đứng trên pháp luật, coi thường dư luận, coi thường nhân dân. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải tôn trọng các chuẩn mực của cơ chế dân chủ. Lâu nay, người ta thường nói đến tình hình ở một số tổ chức Đảng vừa thiếu dân chủ, vừa xuê xoa chín bỏ làm mười. Có cơ sở Đảng, những quyết định quan trọng không được thông qua ở hệ thống chính trị. Công đoàn không biết, Thanh niên không hay, đảng viên thường bị vượt mặt, nhân dân bị bưng bít, Mặt trận mù tịt. Sự thiếu minh bạch, không công khai, độc quyền chân lý như thế đã dẫn tới nhiều vụ tham ô, nhũng nhiễu rất điển hình. Chỉnh đốn lại Đảng phải xốc lại cơ chế dân chủ để kẻ muốn tham nhũng cũng không thể tham nhũng được, kẻ sắp sửa tham nhũng cũng chùn tay và kẻđã tham nhũng rồi nhất định sẽ bị lôi ra ánh sáng. Cơ chế và thiết chế dân chủ cần trở thành một nội dung thật sự cơ bản, thật sự quan trọng để răn đe, kiềm chế, hạn chế và ngăn chặn có hiệu lực tham nhũng. Cơ chế dân chủ cũng tạo điều kiện để phát huy hết năng lực của mỗi người, để người nào có khả năng, có tài sẽ có một cuộc sống khá hơn, đàng hoàng hơn. Sự phát triển của nền dân chủ theo Hiến pháp và pháp luật của chúng ta là một trong những thành tố quan trọng để kiềm chế nạn tham nhũng. Nó công khai hóa mọi quan hệ. Sự kiểm tra, kiểm soát có khoa học, có hệ thống, có chuẩn mực rõ ràng thì nếu các quan tham muốn tham nhũng cũng khó thực hiện; còn những người làm giàu chính đáng sẽ thoải mái làm giàu. Hiện nay, thực tiễn cuộc sống của nhân dân ta đang biến đổi từng ngày, cơ chế quản lý
  11. có khi không theo kịp sự vận động của cuộc sống. Chúng ta lại chưa có kiến thức đầy đủ về cơ chế thị trường. Vì thế, trong quản lý đất nước, có nhiều kẽ hở để cho các quan tham luồn lách. Chỉnh đốn lại Đảng, xốc lại cơ chế phải gắn liền với sự phát triển nội sinh về khoa học trong Đảng. Đảng phải nắm được khoa học tiên tiến trong quản lý đất nước. Hiện nay, kinh tế tri thức đang phát triển rất mạnh. Nếu Đảng không gắn việc quản lý đất nước với kinh tế ấy thì nhất định nạn tham nhũng vẫn chưa thể ngăn chặn, đẩy lùi được và người có năng lực phát triển vẫn chưa được giải phóng tiềm năng. Chỉnh đốn lại Đảng phải mở rộng phê bình và tự phê bình trong Đảng. Đây là một trong những giải pháp quan trọng kiềm chế tham nhũng, nếu nó được tiến hành thường xuyên và nghiêm túc. Tình trạng nể nang, xuê xoa, phớt lờ nguyên tắc tổ chức và xây dựng Đảng, độc quyền chân lý đã tạo những kẽ hở để các quan tham tự do vơ vét của cải của nhà nước và của nhân dân. Phê bình và tự phê bình một cách nghiêm túc thì đạo đức, lối sống của con người sẽ tốt hơn lên rất nhiều. Tập thể lành mạnh và đoàn kết có liên quan mật thiết đến việc kiềm chế tệ tham nhũng. Nó vừa chống các thế lực quan liêu, vừa phản đối chủ nghĩa tự do, vô tổ chức, hướng mỗi con người vào cuộc sống lao động lành mạnh, chân chính. Lâu nay, Đảng ta vẫn coi phê bình và tự phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Tuy nhiên, hiện nay, có tình trạng kẻ xấu phê bình người tốt và người tốt không muốn, không dám phê bình kẻ xấu, bởi những “liên minh thần thánh” của thế lực xấu rất nguy hiểm. Có tình trạng “chưa được vạ mà má đã sưng”. Vì thế, trong nhiều cơ sở Đảng, các hoạt động phê bình và tự phê bình không diễn ra đúng như quy luật mà nó cần phải phát huy. Cũng cần nói thêm rằng, phê bình và tự phê bình phải gắn với các hoạt động thi đua, khen thưởng đúng đắn. Chỉ có thế thì tệ tham nhũng mới có thể kiềm chế được. Trong thực tế vừa qua, không ít người lao động có thành tích đã không kịp thời được khen thưởng, mà ngược lại, nhiều người có ít thành tích, thậm chí có người còn không có thành tích, thành tích giả, thành tích yếu kém vẫn được khen thưởng. Chỉnh đốn lại Đảng, kiềm chế tham nhũng cần phải xây dựng lại cơ chế thi đua, khen thưởng. Khen thưởng không phải là một cơ chế xin cho. Khen thưởng phải có chuẩn mực
  12. khách quan, khoa học, dựa vào lao động phát triển xã hội. Nhiều người có thành tích lao động xuất sắc, nhưng nếu một tập thể nào đó yếu kém không đề xuất khen thưởng cá nhân ấy; như vậy xã hội mất đi một gương điển hình tích cực. Hiện nay, có tình hình là nhiều tấm gương lao động xuất sắc không tự xin khen thưởng. Chỉnh đốn lại Đảng, xây dựng lại cơ chế khen thưởng phải chứng tỏ năng lực quản lý lao động, quản lý xã hội của Đảng là khách quan, là tiên tiến, là khoa học và nhân đạo. Phải cócơ chế phát hiện những người tốt để khen thưởng. Chỉnh đốn lại Đảng, kiềm chế tham nhũng là quá trình văn hóa hóa các hoạt động của Đảng. Chỉnh đốn lại Đảng để kiềm chế tham nhũng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một “cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra cái mới mẻ tốt tươi”(10). Đây là cuộc chiến đấu để “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”, để Đảng “xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(11). Đảng ta là một Đảng cầm quyền, Đảng phải có văn hóa cao mới có đủ năng lực, trình độ phát huy sức mạnh của toàn dân tộc – một dân tộc có mấy ngàn năm lịch sử, một dân tộc có chủ nghĩa nhân văn cao quý, có nền văn hóa đầy bản sắc. Kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi được tham nhũng, Đảng ta có thêm sức mạnh mới để tiếp tục chống mọi hiện tượng tham nhũng mới phát sinh trong quá trình phát triển của Đảng. Vì thế,chỉnh đốn lại Đảng thật sự vừa là một giải pháp quan trọng kiềm chế tham nhũng, vừa là một động lực để củng cố và phát triển Đảng. Tuy nhiên, theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc chỉnh đốn này rất khó khăn, gian khổ, riêng mình Đảng tự vận động là hiệu quả không cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấu hiểu tất cả những phức tạp về tâm lý, về tính cách và những điều kiện của Đảng cầm quyền trong một đất nước mà nền sản xuất còn thấp, lối sống tiểu nông còn khá phổ biến, lại phải trải qua những cuộc chiến tranh lâu dài, nhân dân ta phần lớn đều đã góp nhiều công sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để chống lại những hiện tượng tham lam và nhũng nhiễu của các quan tham cần phải nâng cao dân trí, “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(12). Động viên toàn dân, tổ chức toàn dân, dựa vào lực lượng toàn dân có nghĩa là biến sức mạnh của nhân dân thành sức mạnh của Đảng, mang sức mạnh của Đảng phát huy sức mạnh của toàn dân; đoàn kết sức mạnh của Đảng với sức mạnh của
  13. toàn dân. Làm được như vậy thì chắc chắn, cuộc chỉnh đốn lại Đảng sẽ thu được thắng lợi vẻ vang và tệ nạn tham nhũng sẽ được kiềm chế một bước quan trọng để đi đến ngăn chặn và đẩy lùi nó, như lời kêu gọi của Đảng trong Đại hội Đảng lần thứ X vừa qua.r (*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.263-264. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.263-264. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.263-264. (4) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.7. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.572. (5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.503. (6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.263. (7) Hồ Chí Minh Toàn tập. Sđd., t.12, tr.510. (8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.46-47. (9) Hồ Chí Minh. Toàn tập. Sđd., t.4, tr.56-57. (10) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.505. (11) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.510. (12) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.505. HỌC THUYẾT MÁC VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CUỘC THỬ NGHIỆM TRONG THẾ KỶ XX NGUYỄN CHÍ DŨNG (*) Trên cơ sở phân tích, luận chứng tính khoa học và cách mạng sâu sắc trong học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội của C.Mác, thể hiện qua một số luận điểm chủ
  14. yếu như, học thuyết này đã vạch rõ quy luật phát triển tự nhiên của xã hội và chứng minh tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản cũng như con đường đi lên xã hội cộng sản chủ nghĩa, tác giả đã bảo vệ và khẳng định giá trị, tính đúng đắn trong lý luận của C.Mác về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Theo tác giả, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu không thể được coi là dấu hiệu khủng hoảng của tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, tác giả cũng luận chứng sự phát triển của đội ngũ công nhân trí thức và cho rằng, đây là vấn đề mới cần được bổ sung nhằm phát triển học thuyết Mác về hình thái kinh tế – xã hội. Sau những đổ vỡ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu vào cuối thế kỷ XX, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đứng trước những thử thách mới. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đi vào giai đoạn thoái trào. Nhiều vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác được không ít người đặt lại dưới ánh sáng của những sự kiện, hiện tượng mới có tính thời đại. Vấn đề đặt ra là, học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội cần được đánh giá như thế nào sau những sự kiện đã diễn ra ở Liên Xô và Đông Âu? Cần bổ sung và phát triển gì cho chúng? Tập hợp và phân tích một số thông tin thu được từ những nghiên cứu đã có thời gian qua, có thể đưa ra một số ý kiến sau đây: 1. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội vẫn là một học thuyết mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội là một trong những bộ phận quan trọng của học thuyết Mác. Lý luận này được C.Mác đưa ra và phân tích cả trong triết học, kinh tế chính trị học lẫn chủ nghĩa xã hội khoa học. Ngày nay, nhìn lại, lý luận này vẫn là một học thuyết mang tính khoa học và tính cách mạng sâu sắc. Có thể thấy điều này ở những điểm sau: a) Vạch rõ quy luật phát triển tự nhiên của xã hội. Trước C.Mác, đã có không ít nhà khoa học đi sâu phân tích những sự kiện, hiện tượng của xã hội loài người dưới nhãn quan triết học, kinh tế chính trị học, sử học, luật học, văn hóa học. Nhưng chưa một ai trong số họ cắt nghĩa được một cách cụ thể, rõ ràng sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội trên cơ sở sự vận động tự nhiên, tất yếu của nó. C.Mác, Ph.Ăngghen và sau đó là V.I.Lênin đã xuất phát từ chủ nghĩa duy vật biện chứng để phân tích toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội và
  15. chỉ ra những quy luật phổ biến, khách quan chi phối sự vận động, phát triển của xã hội. Lý luận của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là một bộ phận quan trọng, hữu cơ của những phát kiến có tính khoa học này. Xuất phát từ chính thực tiễn lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng, lịch sử loài người không gì khác hơn là lịch sử phát sinh, phát triển, thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Loài người đã, đang và sẽ trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội. Đó là các hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Các hình thái kinh tế - xã hội này ra đời, phát triển theo những quy luật nội tại. Trong đó, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật bao trùm, chi phối mọi hình thái kinh tế - xã hội. Ở đây, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất bao gồm các yếu tố: trình độ của công cụ lao động, trình độ ứng dụng công nghệ vào sản xuất, trình độ tổ chức lao động xã hội, kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động và trình độ phân công lao động xã hội. Những yếu tố này quyết định kiểu tổ chức sản xuất xã hội và quan hệ của những con người, những nhóm người trong quá trình sản xuất. Nghĩa là chúng chi phối mối quan hệ của con người với những tư liệu sản xuất chủ yếu, với cách thức tổ chức, điều hành sản xuất cũng như phân phối sản phẩm xã hội. Điều này đã được C.Mác khẳng định rõ trong Sự khốn cùng của triết học: “Những quan hệ xã hội đều gắn mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp"(1). Cũng trên cơ sở phát hiện ra quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác còn vạch rõ mối quan hệ hữu cơ của cơ sở kinh tế với các yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc. Các ông đã chỉ rõ rằng, "toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó"(2). Đây là cơ sở quan trọng để giải thích một cách khoa học theo
  16. quan điểm duy vật biện chứng về tất cả những hiện tượng xã hội diễn ra trên kiến trúc thượng tầng, như quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật..., cùng với những thiết chế xã hội tương ứng là nhà nước, đảng phái, các đoàn thể xã hội, giáo hội... Về điều này, C.Mác đã khẳng định: "Không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất... Nếu ta không thể nhận định về một người căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân, thì ta cũng không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội"(3). Đây là cách giải thích hết sức khoa học về sự ra đời, phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội và về mối quan hệ của những cơ sở kinh tế của nó với những quan hệ xã hội mà con người được sắp xếp vào. Cho đến nay, vẫn chưa có một cách lý giải nào khác khoa học hơn học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của C.Mác. Gần đây, trong các nước tư bản phát triển đã có một số người đưa ra những luận thuyết mới về sự phát triển xã hội. Trong số này có Alvin Toffler, người đã phân chia lịch sử phát triển xã hội trên cơ sở 3 nền văn minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp. Trong đó, nền văn minh nông nghiệp là nền văn minh dựa trên cơ sở nền sản xuất thủ công với sức cơ bắp của con người là chính. Văn minh công nghiệp thì dựa vào việc sử dụng máy móc cơ khí với những công xưởng thu hút hàng chục ngàn công nhân. Còn văn minh hậu công nghiệp thì dựa trên nền kinh tế tri thức mà khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; công nghệ thông tin và tri thức có vai trò ngày càng quyết định trong nền sản xuất xã hội. Hàm lượng trí tuệ trong các vật phẩm được xã hội sản xuất ra ngày càng chiếm tỷ trọng tuyệt đối. Lao động của con người ngày càng được giảm nhẹ. Sản xuất chuyển dần từ những nhà máy, xí nghiệp có quy mô lớn, tập trung sang quy mô nhỏ, thậm chí gia công tại gia đình. Con người sẽ thay đổi cách giao tiếp, quan hệ ứng xử và cả những quan niệm về tình yêu, hôn nhân và gia đình có tính truyền thống. Đây là những nghiên cứu và phát hiện có tính duy vật và khá biện
  17. chứng về sự phát triển xã hội. Trong đó có những dự báo khá rõ ràng về những biến đổi trong xã hội tương lai. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, xét về tổng thể, nghiên cứu của Alvin Toffler còn nhiều điểm chưa vượt qua được học thuyết của C.Mác. Đó là việc Alvin Toffler chưa thấy được tính nhất quán trong biện chứng phát triển của ba nền văn minh. Vì vậy, ông đã gộp 3 hình thái kinh tế - xã hội mà C.Mác đã chỉ ra trước khi loài người bước vào hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa làm một. Do đó, trong những tác phẩm của mình, Alvin Toffler cũng không chỉ rõ được ai là chủ nhân của từng xã hội, mối quan hệ giữa các nhóm và tầng lớp xã hội thế nào và làm sao để loài người có thể đẩy nhanh tiến trình hướng đến xã hội tương lai. Nguồn gốc sâu xa của những biến đổi xã hội, đặc biệt là những biến đổi trong kiến trúc thượng tầng cũng chưa được làm rõ. Vì vậy, sự giải thích của Alvin Toffler nhiều khi không rõ ràng và trên nhiều điểm vẫn chưa vượt được C.Mác. Điều này càng chứng minh tính khoa học trong học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội mà C.Mác đã vạch ra. b) Chứng minh tính tất yếu và con đường đi đến xã hội cộng sản. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội không chỉ vạch ra quy luật tự nhiên của sự phát triển xã hội mà cao hơn nữa, còn phân tích và chỉ ra những mâu thuẫn sẽ đưa xã hội tư bản đến chỗ diệt vong và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa cộng sản. Ở đây, mâu thuẫn giữa tình trạng chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng cao với trình độ xã hội hoá ngày càng lớn của lực lượng sản xuất khiến mâu thuẫn và xung đột xã hội ngày càng gia tăng. C.Mác viết: "Vì xã hội có quá thừa văn minh, có quá nhiều tư liệu sinh hoạt,... Những lực lượng sản xuất mà xã hội sẵn có, không thúc đẩy quan hệ sở hữu tư sản phát triển nữa; trái lại, chúng đã trở thành quá mạnh đối với quan hệ sở hữu ấy, cái quan hệ sở hữu lúc đó đang cản trở sự phát triển của chúng; và mỗi khi những lực lượng sản xuất xã hội khắc phục được sự cản trở ấy thì chúng lại xô toàn thể xã hội tư sản vào tình trạng rối loạn và đe doạ sự sống còn của sở hữu tư sản. Những quan hệ tư sản đã trở thành quá hẹp, không đủ để chứa đựng những của cải đã được tạo ra trong lòng nó nữa"(4). Chính những điều này khiến chủ nghĩa tư bản càng phát triển, mâu thuẫn kinh tế và mâu thuẫn xã hội ngày càng cao. Khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và kéo theo nó là những mâu thuẫn xã hội và xung đột xã hội phát
  18. triển thành chiến tranh đế quốc. Đấy là đỉnh điểm của những mâu thuẫn mà xã hội tư bản trong quá trình phát triển của mình đã tạo ra; đồng thời, là “đêm trước” của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tất cả những sự kiện này diễn ra hoàn toàn không phải ngẫu nhiên, mà theo những quy luật và tính quy luật nội tại chi phối quá trình phát triển. Đó chính là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất được áp dụng trong thời đại tư bản chủ nghĩa. Điều khẳng định tính khoa học của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội không chỉ có thế, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác còn chỉ rõ rằng, trong thời đại tư bản chủ nghĩa, "giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản"(5). Làm rõ hơn luận điểm này, C.Mác đã khẳng định rằng, cùng với sự phát triển của giai cấp tư sản, “giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại – tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản – cũng phát triển theo"(6). Đây chính là cái vòng luẩn quẩn sinh ra theo những chu kỳ phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế càng phát triển, công nhân càng bị bóc lột, giàu nghèo càng phân hoá mạnh. Mâu thuẫn xã hội càng sâu sắc. Xung đột xã hội ngày càng có nhiều nguy cơ bùng nổ thành chiến tranh và cách mạng. Chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị diệt vong. Vấn đề đặt ra là, sau khi chủ nghĩa tư bản bị diệt vong, loài người sẽ xây dựng xã hội nào? Đặc trưng của xã hội ấy ra sao? Nghiên cứu sự vận động, phát triển hợp quy luật của xã hội, C.Mác và những nhà kinh điển mácxít đã chỉ ra rằng, xã hội mà loài người hướng tới xây dựng là xã hội cộng sản, xã hội này được xây dựng trên cơ sở của nền sản xuất phát triển cao, của cải làm ra ngày càng dồi dào. Nguyên tắc lao động và phân phối sản phẩm xã hội trong giai đoạn thấp (chủ nghĩa xã hội) là "làm theo năng lực, hưởng theo lao động" sẽ chuyển dần thành "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu" khi xã hội đạt đến giai đoạn phát triển cao (chủ nghãi cộng sản). Trong nền sản xuất này, mọi tư liệu sản xuất xã hội sẽ được biến thành sở hữu toàn dân. Chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sẽ bị xoá bỏ. Đây là cơ sở quan trọng để thực hiện quyền tự do, dân chủ cho mọi người lao động. Đến nay, tất cả những nguyên lý lý luận đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa
  19. Mác chỉ ra trên đây tuy chưa được chứng minh đầy đủ trong thực tế, song cũng chưa ai có thể bác bỏ được. Một số lý luận gia và chính khách tư sản chỉ chủ yếu dựa vào những sự kiện đã diễn ra cuối thế kỷ XX ở Liên Xô và các nước Đông Âu để phủ nhận tư tưởng xã hội chủ nghĩa và lý luận mácxít về hình thái kinh tế - xã hội. Vấn đề đặt ra là, cần xuất phát từ đâu để có thể chứng minh tính đúng đắn, khoa học của học thuyết Mác, nhất là lý luận của ông về hình thái kinh tế - xã hội trước những sự biến này? 2. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế – xã hội trong sự thử nghiệm ở Liên Xô, Đông Âu và các nước xã hội chủ nghĩa Cần phải thấy rằng, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và sau đó là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu và nhiều nước khác là sự thử nghiệm khắc nghiệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin. Song, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu lại không hẳn là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội và càng không thể coi đây là minh chứng về sự sai lầm của học thuyết Mác. Cần phải phân tích sâu hơn, kỹ càng hơn những vấn đề cơ bản nhất về cả kinh tế lẫn chính trị ở đây. Trước hết, về kinh tế, xét từ phương diện lực lượng sản xuất, phải thấy rằng, trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cũ, đặc biệt ở Liên Xô và Đông Âu - nơi có lực lượng sản xuất phát triển nhất cũng chưa bao giờ tạo ra cho mình một cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại hơn, tiên tiến hơn so với chủ nghĩa tư bản. Về khoa học, Liên Xô và Mỹ hầu như khá tương đồng nhau về những phát minh khoa học, nhất là khoa học cơ bản; song, về khoa học ứng dụng thì hầu như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa lại chậm trễ hơn so với Mỹ và các nước tư bản. Do vậy, về kỹ thuật sản xuất và công cụ lao động thì hệ thống tư bản chủ nghĩa vẫn có nhiều thành tựu hơn là trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Một số phát minh khoa học của các nước xã hội chủ nghĩa nhiều khi lại được nền sản xuất trong các nước tư bản chủ nghĩa ứng dụng trước. Do vậy, về tổng thể, hệ thống xã hội chủ nghĩa chưa bao giờ tạo ra được một năng suất lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản - cái mà - theo C.Mác - quyết định thắng lợi của một hình thái kinh tế - xã hội này đối với một hình thái kinh tế - xã hội khác đã lỗi thời hơn. Phải chăng, đây là vấn đề của nhiều vấn đề? Trên thực tế, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội được xây dựng hơn 70 năm ở Liên Xô, Đông Âu và các nước xã hội chủ nghĩa vẫn là nền đại công nghiệp
  20. cơ khí có trình độ kỹ thuật trung bình. Các yếu tố của tự động hoá, tin học hoá, sinh học hoá... đang còn rất yếu ớt. Nền kinh tế tri thức mà thế giới hiện hướng tới mới đang có những yếu tố đầu tiên. Chế độ xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ XX vẫn chủ yếu xây dựng trên nền tảng vật chất, kỹ thuật của nền đại công nghiệp cơ khí không vượt hơn chủ nghĩa tư bản. Trong khi đó, trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa để thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa lại được đẩy lên với mức độ cao. Tập trung sản xuất, biến tư liệu sản xuất từ sở hữu tư nhân, cá thể thành sở hữu tập thể và toàn dân diễn ra với quy mô lớn cả trong nông nghiệp lẫn công nghiệp và thương nghiệp, dịch vụ đã không được tiến hành song song với những tiến bộ cần có của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Điều này khiến quan hệ sản xuất đã đi xa hơn quá nhiều so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất mới được xây dựng bằng cách đó đã không thúc đẩy, trái lại còn cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Động lực cá nhân của người lao động không được phát huy, thậm chí còn bị triệt tiêu. Tư liệu sản xuất và tài sản xã hội không được sử dụng, bảo vệ và phát huy tối đa hiệu quả của nó. Tình trạng lãng phí ngày càng diễn ra nghiêm trọng, năng suất lao động không cao, hiệu quả sản xuất kém. Nền kinh tế – xã hội của các nước đang muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội rơi vào trì trệ và khủng hoảng. Đây không thể coi là khủng hoảng tư tưởng xã hội chủ nghĩa, mà chỉ là sự khủng hoảng của một mô hình phát triển xã hội chưa phải của chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể xây dựng trên nền tảng cơ sở vật chất, kỹ thuật phát triển cao - nền kinh tế tri thức, trong đó khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức, trí tuệ và công nghệ thông tin trở thành nhân tố chủ yếu tạo nên lực lượng sản xuất của thời đại mới. Sản phẩm xã hội được làm ra bao hàm phần lớn giá trị từ lao động trí óc. Chính từ đây, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được thiết lập; quan hệ giữa người với người và giữa các nhóm xã hội với nhau mới có những thay đổi căn bản về chất. Như vậy, rõ ràng, mô hình chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng ở Liên Xô, Đông Âu và nhiều nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa cũ chưa phải là mô hình chủ nghĩa xã hội mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác mong muốn. Trong thời đại mà C.Mác, Ph Ăngghen, V.I.Lênin sống, những tiền đề vật chất - kỹ thuật cho chủ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2