Tiểu luận môn Địa chiến lược kinh tế: So sánh mô hình địa chiến lược kinh tế của Mỹ và Trung Quốc, ý nghĩa
lượt xem 22
download
Nội dung nghiên cứu của tiểu luận tìm hiểu về địa chiến lược kinh tế và các mô hình địa chiến lược kinh tế; mô hình địa chiến lược kinh tế của Mỹ và Trung Quốc; mô hình địa chiến lược kinh tế của Mỹ và Trung Quốc.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận môn Địa chiến lược kinh tế: So sánh mô hình địa chiến lược kinh tế của Mỹ và Trung Quốc, ý nghĩa
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trong bối cảnh thế giới đương đại hiện nay, việc nhận định và phân tích chính xác mô hình địa chiến lược kinh tế, đặc biệt là các mô hình địa chiến lược kinh tế của các quốc gia lớn, có tầm ảnh hưởng khu vực và toàn cầu, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bên cạnh việc giúp chúng ta hiểu rõ tính quy luật của sự hình thành, phát triển địa chiến lược kinh tế trong bối cảnh phát triển kinh tế thế giới hiện đại; việc nghiên cứu, phân tích mô hình địa chiến lược kinh tế của các quốc gia còn giúp chúng ta phân tích được các yếu tố chiến lược tạo cơ sở khoa học cho hoạch định và thực thi trong thực tiễn chiến lược phát triển kinh tế nói chung và đặc biệt là chiến lược kinh tế đối ngoại nói riêng. Trong phạm vi môn học Địa chiến lược kinh tế, học viên sẽ đi sâu phân tích mô hình địa chiến lược kinh tế của hai quốc gia lớn là Mỹ và Trung Quốc, với chủ đề tiểu luận: “So sánh mô hình địa chiến lược kinh tế của Mỹ và Trung Quốc. Ý nghĩa”. Trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ Trung hiện đang trong giai đoạn đỉnh điểm, ảnh hưởng tới không chỉ hai nước trong cuộc mà còn tới nhiều quốc gia khác, trong đó có Việt Nam; thì việc tìm hiểu về mô hình địa chiến lược kinh tế của Mỹ và Trung Quốc là vô cùng cần thiết. 1
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ PHẦN NỘI DUNG I. ĐỊA CHIẾN LƯỢC KINH TẾ VÀ CÁC MÔ HÌNH ĐỊA CHIẾN LƯỢC KINH TẾ 1. Địa chiến lược kinh tế 1.1. Khái niệm Là khoa học về các yếu tố, mô hình chiến lược quốc gia nhằm nâng cao thế và lực của quốc gia trong khu vực và trên thế giới thông qua các biện pháp kinh tế. Là chiến lược, nghệ thuật kiểm soát và khai thác các nguồn lực địa kinh tế của một quốc gia trong bối cảnh kinh tế, chính trị quốc tế có nhiều thay đổi, tạo cơ sở cho hoạch đinh và thực thi chiến lược hay chính sách đối ngoại nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia và tăng cường thế và lực của quốc gia trên trường quốc tế. Địa chiến lược kinh tế định hướng và phạm vi của một quốc gia về dài hạn nhằm giành lợi thế cạnh tranh cho quốc gia thông qua việc định dạng các nguồn lực địa chính trị, địa kinh tế trong môi trường thay đổi nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia, đạt được các mục tiêu về kinh tế chính trị và phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Là khoa học về chiến lược phát triển quốc gia nhằm giành được quyền lực trong khu vực hoặc trên thế giới chủ yếu bằng các phương pháp kinh tế. 2
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ Địa chiến lược kinh tế được xem là địa chính trị hiện đại, quyết định sự hội nhập kinh tế thế giới của các quốc gia và tạo ra các điều kiện cạnh tranh khu vực cho kinh doanh dưới tác động của toàn cầu hóa và khu vực hóa. 1.2. Nguyên nhân hình thành địa chiến lược kinh tế Nhà nghiên cứu người Pháp F. Moreau Defarge cho rằng trong thế giới ngày nay hình thành xu hướng tương tác của ba yếu tố cần được nghiên cứu và tính đến trong hoạch định chiến lược: Một là, tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau, kết nối mạng. Sự phát triển viễn thông, tăng cường dòng chảy của các yếu tố như luồng thông tin, dịch chuyển các nguồn vốn... đã đánh dấu sự "kết thúc của địa lý". Không gian và thời gian đã ngừng đóng vai trò quyết định. Trên thực tế, một ngành địa lý mới xuất hiện; cực kỳ di động, nó được quyết định bởi các dòng chảy kinh tế, sự nội địa hóa và sự phân bố lại của các lĩnh vực hoạt động tạo ra và tiêu dùng sự giàu có. Hai là, sự sụp đổ của "Bức màn sắt", thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Trong hầu hết thế kỷ XX, những xung đột lớn về ý thức hệ chính trị đã tạo ra quan niệm rằng các yếu tố chính trị chiến lược như lực lượng vũ trang, kho vũ khí hạt nhân, phương tiện giao hàng là tiêu chí quan trọng hàng đầu để đánh giá sức mạnh quốc gia. Ngày nay, xung đột về tư tưởng vẫn đang diễn ra dưới các hình thức khác nhau, ở những nơi khác nhau, nhưng chỉ trong những trường hợp ngoại lệ thì mới có sự tham gia của các nước lớn hoặc khối các nước. Ba là, sự xuất hiện của những chủ thể tham gia mới trong quan hệ kinh t ế thế giới: ngoài các quốc gia có chủ quyền đã có thêm những chủ thể tham gia mới trong các sự kiện của đời sống quốc tế: các cá nhân, các phong trào chính trị và xã hội, các tổ chức phi chính phủ, nhà thờ... Kết thúc thế kỷ hai mươi đã xuất 3
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ hiện một số xu hướng mới: việc mở cửa biên giới, giảm kiểm soát nhà nước; tầm quan trọng quốc tế của công ty lớn và các lĩnh vực lớn của nền kinh tế tăng nhanh (từ ngành công nghiệp ô tô đến các ngân hàng, từ viễn thông đến vận tải hàng không); sự khẳng định của các hành động tập thể và thậm chí là cá nhân trên thị trường, đặc biệt là các hoạt động tài chính (huyền thoại về các nhà đầu cơ toàn năng). Theo quan niệm của E.G.Kochetov, ông chỉ ra 4 điểm nhấn cốt lõi của tình hình địa kinh tế hiện đại cần được nghiên cứu bởi địa chiến lược kinh tế: Một là, ranh giới giữa các hoạt động, chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước đang mờ dần trong quá trình toàn cầu hóa Hai là, sự phát triển tích cực của các quá trình kinh tế hóa chính trị Ba là, sự hoạt động năng động của hệ thống kinh tế thế giới có tác động đến sự hình thành thể chế kinh tế chung với tư cách là tổng hợp các thể chế hoạt động của các nền kinh tế quốc gia Bốn là, sự xác lập các mô hình kinh tế đối ngoại có ảnh hưởng đến sự hình thành hệ thống chỉnh thể các quan hệ kinh tế thế giới Quan trọng nhất là quá trình kinh tế hóa chính trị với tư cách là tổng thể những thay đổi của chiến lược của quốc gia xuất phát từ các yêu cầu: Đạt được mục tiêu, giải quyết các nhiệm vụ chính trị bằng biện pháp kinh tế Sự chuyển hướng của các ưu tiên phát triển chiến lược từ các biện pháp chính trị, tư tưởng, vũ trang và các biện pháp khác sang các biện pháp kinh tế Vị trí ưu tiên của các lợi ích địa kinh tế chiến lược so với các lợi ích địa chính trị chiến lược ở môi trường bên ngoài quốc gia Kinh tế hóa tư duy của đội ngũ ngoại giao 4
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ Theo D.N.Baurưshnikov: Sự xuất hiện các điều kiện để quyền lực địa tài chính, địa kinh tế buộc thế giới phải theo các quy tắc của chúng, trong khi địa chính trị thì biện minh, còn yếu tố quân sự thì bảo vệ, ngoại giao thì được nâng tầm lên trình độ thiết kế kỹ thuật cho sự phân chia hiện thực kinh tế thế giới. Địa chiến lược kinh tế xuất phát từ quá trình toàn cầu hóa với những thay đổi lớn trong không gian kinh tế và chính trị của thế giới gắn với quá trình tăng cường và đẩy mạnh phân công lao động quốc tế giữa các nước, các TNCs, hoạt động kinh tế quốc gia bên ngoài lãnh thổ quốc gia và sự mờ dần ranh giới các lĩnh vực hoạt động đối nội và đối ngoại của nhà nước. Kết quả là không gian kinh tế và thị trường không tương thích trực tiếp với lãnh thổ của bất kỳ một quốc gia cụ thể nào. Hệ thống “thị trường – nhà nước” đã nhường chỗ cho hệ thống “nhà nước – một thị trường”: thông lệ quốc tế chiếm ưu thế so với thông lệ quốc gia nhưng không phải là sự thay đổi biên giới của các quốc gia có chủ quyền, mà đó đơn giản là – địa chiến lược kinh tế đang hoạt động trên cả các biên giới quốc gia và bên ngoài luật lệ của từng quốc gia. Ví dụ như các TNCs vì lợi nhuận có thể chuyển hoạt động kinh doanh từ nước này sang nước khác, tới nơi có điều kiện kinh doanh thuận lợi như các điều kiện về thuế, giá cả sức lao động. Do đó nhà nước có thể đảm bảo việc làm, thu nhập cho dân cư khi thu hút được các dòng chảy vốn, công nghệ toàn cầu mà các quốc gia đều đang cạnh tranh quyết liệt để giành dật. Mục tiêu cơ bản của ngoại giao kinh tế phải là hoạch định các chiến lược và sách lược địa kinh tế của quốc gia để nâng cao khả năng cạnh tranh của quốc gia trên trường quốc tế. Từ đó, địa chiến lược kinh tế với tư cách là khoa học mới cần được đặt vào vị trí trung tâm, cần làm sáng tỏ những dòng chảy nguồn lực khác nhau (tài 5
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ nguyên thiên nhiên, lao động, tài chính) cũng như hoạt động của nhà nước đối với sự điều $ết, quản lý chúng. Nguyên nhân hình thành địa chiến lược kinh tế. Tăng cường hợp tác địa kinh tế là cơ sở gia tăng sự cần thiết phải tư duy lại vai trò mới của quốc gia và các khu vực với tư cách là chủ thể kinh doanh toàn cầu, từ đó đòi hỏi phải hiện đại hóa cơ chế điều tiết lãnh thổ cấp độ quốc gia và khu vực, chuyển trọng tâm chức năng điều tiết từ thống kê – kiểm soát sang kiến tạo điều kiện kinh doanh phù hợp với lợi ích quốc gia và lợi ích kinh doanh nhằm nâng cao sức cạnh tranh kinh tế của quốc gia trên thị trường thế giới. Địa chiến lược kinh tế phải nghiên cứu cơ sở khoa học cho hành động của quốc gia trong điều kiện cạnh tranh địa kinh tế, phân tích những đặc thù của chiến lược, sách lược của quốc gia trên thị trường toàn cầu. 1.3. Quan điểm và chiến lược phát triển trên cơ sở địa chiến lược kinh tế Từng quốc gia phải quan tâm đến tương lai của mình, phải có tư duy chiến lược cho tương lai, xây dựng quan điểm và chiến lược phát triển của mình. Điều đó đặt ra cho quốc gia những nhiệm vụ địa chiến lược kinh tế bao gồm: Hội nhập vào hệ thống kinh tế toàn cầu xuất phát không những từ những lợi ích trước mắt mà phải xuất phát cả từ những lợi ích trong tương lai bởi lẽ hệ thống kinh tế thế giới phát triển năng động Tạo lập có chủ đích những tình thế địa kinh tế thuận lợi với sự sử dụng mở rộng những biện pháp, công cụ có tầm tác động chiến lược Hình thành những kỹ năng điều tiết hình thức của các liên kết quốc tế, năng động chuyển dịch chúng từ trạng thái này sang trạng thái khác, tạo lập những liên kết mới, sử dụng những hình thức giao tiếp kinh tế quốc tế khác nhau 6
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ Trang bị những công nghệ thực hiện canh tranh, những biện pháp, giải pháp chiến lược Cung cấp phương pháp luận cho việc xây dựng tổng thể các biện pháp giải quyết các vấn đề địa kinh tế chiến lược trong thực tiễn. Trong số các biện pháp chiến thuật có các biện pháp mở rộng không gian của các quyết định vượt khỏi phạm vi những kinh nghiệm truyền thống đã biết: người thắng cuộc là người đầu tiên thiết kế được không gian kinh tế mới và biết cách tạo ra cho không gian đó hệ thống các chủ thể hoạt động. Theo ý nghĩa này thì nguồn lực đang thiếu hụt chính là địa chiến lược kinh tế với tư cách là nguồn lực phát triển. Trong đó phần lớn các kế hoạch địa kinh tế được xây dựng trên cơ sở năng lực thích ứng, khi mà các hình thái hoạt động cần được tạo ra cho hiện thực kinh tế, chính trị, văn hóa vẫn chưa xuất hiện, song chắc chắn sẽ xuất hiện trong tương lai. Ví dụ như, trong những năm 1970 Mỹ đã bắt đầu coi trường tài chính chính pháp lý là không gian năng lực thích nghi còn điều tiết thể chế là hình thái điều tiết nền kinh tế mới toàn cầu hóa. Điều đó dẫn tới dịch chuyển sản xuất công nghiệp tới các nước đang phát triển và xây dựng các trung tâm kinh tế hậu công nghiệp ở Mỹ mà một trong những sản phẩm của quá trình này là những quy tắc trò chơi quốc tế. Trong tạo lập các phương tiên chiến thuật vấn đề hội nhập nền kinh tế quốc gia vào kinh tế thế giới là quan trọng. Do đó cần thực hiện cải cách căn bản trong hình thức tổ chức, quản lý các quan hệ kinh tế đối ngoại. Cơ sở của cải cách là hệ thống những định hướng hội nhập bao gồm: những định hướng lý luận chung, những định hướng phương pháp luận và những định hướng kinh tế tổ chức. Phát triển cân bằng và đảm bảo ổn định liên tục tính cân đối của nền kinh tế là nhiệm vụ chủ yếu của bước chuyển quá độ trong quá trình thích nghi nền 7
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ kinh tế với sự phát triển kinh tế thế giới và là mục tiêu thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại. Công tác chuẩn bị đó là rất quan trọng trong các ngành chủ lực với tư cách là những lực lượng đột phá về kinh tế, đạt trình độ phát triển mới về chất như các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, năng lượng mới… Mặc dù quốc tế hóa đòi hỏi phải phá vỡ những kết cấu kinh tế cũ, song đó không phải là quá trình tự phát mà phải được điều tiết có chủ đích. Điều tiết quá trình quốc tế hóa là phải lựa chọn đúng: Tầng khoa học công nghệ ưu tiên của quốc tế hóa; Mức độ và tốc độ tác động của quốc tế hóa; Các cơ cấu điều tiết và các hình thức kinh tế tổ chức tương ứng. Sự phân tích những định hướng ưu tiên của hội nhập quốc tế có tầm quan trọng đặc biệt đối với xác định các vai trò thực sự và tiềm năng của đất nước trong nền kinh tế thế giới, phù hợp với các tiềm năng về kinh tế, khoa học công nghệ và nhân lực. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại chỉ nên tập trung vào khu vực phù hợp với những lợi thế của mình. 2. Những mô hình địa chiến lược kinh tế 2.1. Các quan điểm lý thuyết mang tính cơ sở cho việc xác định mô hình địa chiến lược kinh tế Quan điểm của Mearsheimer: căn cứ vào sự khác biệt về hành vi của các cương quốc trong khu vực. Quan điểm của Luttwak, Szabo, Zarate về sự suy giảm tương đối của các lợi ích quân sự và sự nổi lên của các lợi ích kinh tế trong quan hệ giữa các quốc gia Quan điểm của Baracuhy, Các Hsiung, Khandekar, Tssygankov về trách nhiệm địa kinh tế chiến lược trong chính sách đối ngoại của các cường quốc khu vực. 8
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ Quan điểm về phương thức và mục tiêu sử dụng quyền lực kinh tế với tư cách là yếu tố địa chiến lược của quốc gia: + Căn cứ vào phương thức sử dụng quyền lực kinh tế: cường quốc khu vực có ưu thế kinh tế về nguồn lực có thể: hoặc là sẵn sàng đơn phương và tác động tiêu cực đối với các cường quốc láng giềng phụ thuộc, đe dọa chấm dứt quyền tiếp cận thị trường, hạn chế cung cấp hàng hóa hoặc viện trợ nước ngoài, áp đặt các quy tắc của trò chơi; hoặc có thể thực hiện các biện pháp ưu đãi tích cực thúc đẩy quá trình thể chế hóa khu vực cùng cam kết thực hiện các chuẩn mực và quy tắc chung của những cơ cấu quản lý khu vực để đạt được các mục tiêu tập thể cho cả khu vực với một cơ cấu chiến lược chung + Căn cứ vào mục tiêu sử dụng quyền lực kinh tế: sức mạnh của cường quốc khu vực kinh tế được sử dụng như một phương tiện để đạt được các mục đích địa chính trị rộng lớn; hoặc chỉ nhằm mục tiêu kinh tế như gia tăng sự giàu có, phồn vinh và giảm thiểu các rủi ro kinh tế. 2.2. Các mô hình địa chiến lược kinh tế 2.2.1. Mô hình địa chiến lược kinh tế tân đế quốc chủ nghĩa Chủ yếu được triển khai bởi các cường quốc khu vực không chỉ như một cách để đạt được các mục tiêu kinh tế mà còn tạo ra một đế chế "không chính thức" trong khu vực. Không giống như các chiến lược địa chính trị truyền thống, nó không chỉ quan tâm đến việc mở rộng quyền kiểm soát lãnh thổ mà còn thực hiện các hình thức kiểm soát kinh tế khác nhau và hình thành cơ cấu kinh tế khu vực theo hướng các quốc gia yếu hơn phụ thuộc vào cường quốc đó. Các phương tiện được sử dụng là các phương tiện kinh tế, nhưng mục tiêu địa chính trị là tạo ra các mối quan hệ tân đế quốc với các nước láng giềng yếu 9
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ hơn, và do đó, hạn chế đáng kể chủ quyền của họ liên quan đến quyền lợi của cường quốc khu vực. Quyền lực kinh tế sử dụng các biện pháp trừng phạt, chẳng hạn như lệnh cấm vận thương mại và phong tỏa tài chính, được thiết kế để gây ra nỗi đau về kinh tế thực sự và buộc các quốc gia yếu phải chấp nhận các đề xuất của cường quốc khu vực. Sự ép buộc kinh tế liên quan đến việc tạo ra một mối đe dọa có điều kiện về việc sử dụng các biện pháp trừng phạt như vậy, thay đổi cách tính toán với các quốc gia yếu hơn và buộc họ phải tuân thủ. Việc đánh thuế kinh tế xảy ra khi sự bất đối xứng đủ lớn để mức vị thế của một quốc gia yếu hơn là vị trí của một chư hầu mà các nhà chức trách khu vực không cần sử dụng vũ lực hoặc ép buộc để buộc nhà nước yếu hơn phải đồng ý. Hối lộ được coi như khoản tiền thưởng trả trước cho cả các tổ chức tư nhân và công cộng ở các nước láng giềng để buộc họ chấp nhận và ảnh hưởng đến các phụ thuộc. 2.2.2. Mô hình địa chiến lược địa kinh tế tân trọng thương Các chiến lược địa kinh tế tân trọng thương thường không được sử dụng cho việc thực hiện một số dự án địa chính trị trực tiếp, nhưng để đạt được các mục tiêu về quyền lực kinh tế. Chúng biểu thị một khái niệm kinh tế theo định hướng của chủ nghĩa thực dụng trong chính sách đối ngoại, theo quan điểm nền kinh tế chính trị toàn cầu về cạnh tranh từ con số không để kiểm soát thị trường, công nghệ và tài nguyên. Các cường quốc địa kinh tế tân trọng thương về thực chất là "các quốc gia thương mại" (Rosecrance, 1986), xác định lợi ích quốc gia của họ chủ yếu về mặt kinh tế, áp dụng chủ nghĩa đa phương chọn lọc với một cái nhìn gần gũi về các vấn đề an ninh kinh tế quốc gia. 10
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ Do đó, việc tối đa hóa sức mạnh kinh tế tạo ra cơ sở cho các chiến lược địa kinh tế tân trọng thương. Không giống như chiến lược tân đế quốc mà cuối cùng tìm kiếm sự thống trị chính trị thông qua các phương tiện kinh tế, chiến lược tân trọng thương từ bỏ các cam kết chính trị tốn kém hoặc vai trò chính trị khu vực tích cực để có thể chú ý tối đa đến phát triển kinh tế quốc gia. Khi thảo luận về chiến lược của Nhật Bản để tối đa hóa quyền lực kinh tế, Huntington (1993) đã xác định năm thành phần chính của chiến lược này: (1) ưu tiên lợi ích của người sản xuất so với lợi ích của người tiêu dùng; (2) tập trung vào các ngành công nghiệp thúc đẩy phát triển năng lực sản xuất trước hết phục vụ thị trường trong nước, và sau đó cho thị trường xuất khẩu, đặc biệt chú ý đến "các ngành công nghiệp chiến lược công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao"; (3) mở rộng thị phần của thị trường tăng tỷ trọng thị trường doanh nghiệp của đất nước bằng cách sử dụng lợi nhuận, đó là một chiến lược có chủ đích để đạt được "lợi nhuận tương đối từ cách tiếp cận thị trường, chứ không phải lợi nhuận tuyệt đối từ cách tiếp cận lợi nhuận"; (4) hạn chế nhập khẩu hàng hóa và đầu tư trực tiếp nước ngoài; (5) dự trữ ngoại hối dự trữ ổn định với tích lũy dương bằng cán cân thương mại ổn định và can thiệp nhà nước trên thị trường ngoại hối Các nhà khoa học đã xác định những thành phần tương tự này trong chiến lược tối đa hóa sức mạnh kinh tế của Trung Quốc (ví dụ, Grosse 2014). Tất cả điều này dẫn đến một cách tiếp cận đối đầu với quan hệ quốc tế. Bằng cách tích lũy tài sản, nhà nước tìm cách cải thiện vị trí tương đối của nền kinh tế của đất nước trong hệ thống phân cấp quốc tế nhằm tăng cường quyền 11
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ tự chủ của quốc gia và sức mạnh đàm phán trong đấu trường quốc tế và khu vực. Giống như Nhật Bản và Trung Quốc, Brazil cũng là trường hợp của chiến lược địa kinh tế tân trọng thương. Mong muốn đảm bảo quyền tự chủ phát triển kinh tế và cải thiện vị trí tương đối của Brazil trong nền kinh tế toàn cầu là những yếu tố chính của chính sách đối ngoại của mình, ngay từ thời kỳ Chiến tranh Lạnh (HURRELL 2013, Soares de Lima và Hirst, 2006). Theo Burges (2012), Brazil nên sử dụng chiến lược chủ yếu là "chiến lược phân phối" như một nhà đàm phán trong các diễn đàn khu vực và toàn cầu, ông đã đối lập chiến lược này với "chiến lược hội nhập"; nghĩa là xem xét đàm phán quốc tế chủ yếu như một trò chơi với tổng bằng không. Như vậy, đàm phán chủ yếu hướng tới tối đa hóa thị phần của chiếc bánh vì lợi ích riêng tương đối của Brazil. Burgess (2012, 2013) cũng giải thích rằng, mặc dù cam kết theo đuổi chủ nghĩa đa phương, nhưng Brazil, trên thực tế, đó là một cam kết khiêm tốn và có chọn lọc. Brazil không muốn bị trói buộc vào các tổ chức khu vực và cẩn thận tránh trở thành thủ quỹ cho những hàng hóa công cộng tập thể trong khu vực. Theo Gomes Saraiva (2010), Brazil coi "hội nhập như là một cách để tiếp cận thị trường nước ngoài, tăng cường vị thế của nước này trong các cuộc đàm phán về các vấn đề kinh tế quốc tế và dự báo của ngành công nghiệp Brazil trong khu vực". Theo nhiều nhà quan sát, Brazil quá quan tâm và quá tập trung vào những lợi ích kinh tế tương đối để có thể gánh trách nhiệm của người đầu đàn trong khu vực. Brazil được coi là quốc gia tự hài lòng về địa kinh tế, là nước muốn phát huy tối đa sức mạnh kinh tế của mình, nhưng không tìm kiếm sự thống trị chính trị trong khu vực. 12
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ Năm thành phần của chiến lược tân trọng thương được xác định bởi Huntington (1993), cũng có mặt trong chiến lược kinh tế đối ngoại của Brazil chính phủ hiện nay đang thực thi. Tất cả những dấu hiệu này đều được thể hiện trong chiến lược "các nhà vô địch quốc gia", với mục đích là để cải thiện khả năng cạnh tranh quốc tế và quốc tế hóa các công ty Brazil. Theo giải thích của Abu ElHaj (2007), Brazil đang phát triển một cách tiếp cận tân tân trọng thương để phát triển, trong đó có "những hạn chế phi thể chế đối với nhập khẩu bằng cách sử dụng tỷ giá hối đoái, điều tiết các dòng tài chính và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu". Về nhập khẩu thì Brazil là một trong những nước khép kín nhất trên thế giới (Canuto et al., 2015). Đồng thời, Chính phủ đã đầu tư vào việc quốc tế hóa các tập đoàn Brazil, sử dụng các khoản trợ cấp thông qua Ngân hàng phát triển Nhà nước Brazil (BNDES) với chủ đích gia tăng thị phần (xem. Flynn là 2007). Brazil có cán cân thương mại dương với tất cả các nước thuộc khu vực Nam Mỹ, ngoại trừ Bolivia, và tình hình đó đã ảnh hưởng lớn đến thị trường tiền tệ, đặc biệt khi Brazil đơn phương quyết định phá giá đồng nội tệ vào năm 1999, là " chính sách “làm nghèo hàng xóm" đối với các nước thành viên khác của khối Mercosur (xem. Krapohl et al., 2014). Khi thảo luận về chiến lược tân trọng thương ở Brazil Kröger (2012) cho rằng mục tiêu chính là để giành chiến thắng trong an ninh quốc tế và quyền lực bằng cách tối đa hóa dự trữ ngoại hối. 2.2.3. Mô hình địa chiến lược kinh tế vượt trước Các chiến lược địa kinh tế vượt trước thì sử dụng quyền lực kinh tế như một phương tiện hỗ trợ lãnh đạo khu vực mà không cần phải ép buộc. Không giống như các chiến lược tân đế quốc, các chiến lược dẫn đầu được đặc trưng bởi một mức độ tự kiềm chế cao hơn của cường quốc khu vực và các hình thức 13
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ tác động "nhẹ hơn" thông qua các cơ chế tổ chức hợp tác. Chiến lược này có thể thực hiện thông qua cung cấp hàng hóa tới các quốc gia láng giềng hoặc hàng hóa công cộng khu vực, nhờ đó các nước khác trong khu vực có thể "tự do đi lại" và tận hưởng những lợi ích mà không phải chia sẻ chi phí (Gilpin 1987, Kindleberger, 1986). Do đó, chiến lược địa kinh tế dẫn đầu được kết nối với cường quốc khu vực với sự chi tiêu không cân xứng vào hàng hóa công cộng (Prys 2010). Các biện pháp để củng cố thị trường, bao gồm cả việc cung cấp các lợi ích vật chất và phần thưởng sự vâng phục đối với cường quốc khu vực, chẳng hạn như tạo thuận lợi thương mại, viện trợ kinh tế và tiếp cận thị trường các nước dẫn đầu, là bộ công cụ của các chiến lược dẫn đầu. Liên minh châu Âu (EU) đang hoạt động với chiến lược địa kinh tế dẫn đầu khu vực. EU không sử dụng các biện pháp cưỡng chế, mà sử dụng sự thống trị kinh tế của mình để duy trì quyền bá chủ đối với ngoại vi của nó. Một động lực quan trọng là đảm bảo an ninh cho lục địa. Dựa trên sức mạnh kinh tế to lớn của mình, EU đang cố gắng xuất khẩu chính sách của mình sang các nước láng giềng hoặc theo hình thức mở rộng dần, hoặc thông qua các chính sách và các chương trình được thiết kế để cuối cùng lôi kéo các nước láng giềng vào quỹ đạo Le Gloannec giải thích rằng "sự không đối xứng giữa Liên minh châu Âu và các quốc gia ứng cử viên cho phép EU thiết lập các điều kiện độc quyền. Làm cho quốc gia ứng cử viên bị phân biệt đối xử và buộc phải phấn đấu để vào; sự thống trị kinh tế và sức mạnh của sự bất đối xứng được các nhà lãnh đạo châu Âu sử dụng để thúc đẩy các nước khác tham gia EU "(2011). Trong khi mối quan hệ của EU với ngoại vi của nó là cực kỳ không đối xứng, và các nền kinh tế láng giềng phụ thuộc vào thị trường nội địa của Liên 14
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ minh vì vậy mà Joffe (2007) nói về hệ thống một "trung tâm và nói chuyện", trong đó hạt nhân chiếm ưu thế đối với ngoại vi. Đây là kết quả của một quá trình hội nhập mà qua đó các nước láng giềng có thể tham gia vào việc xác định lại hạt nhân của hệ thống và trở thành một phần của nó Đồng thời nó mang lại cho các nhà lãnh đạo của các nước láng giềng cơ hội đi lại tự do đến sự hỗ trợ của EU, ví dụ, cho phép, chính phủ Belarus sử dụng tài chính của EU mà không cần điều chỉnh chính sách (Lê Gloannec 2011). Do đó, nó là một chiến lược địa kinh tế hoàn toàn khác so với chiến lược tân đế quốc, vốn có ít khả năng hơn để thực hiện quyền bá chủ khi dựa vào sự lôi kéo và ít cởi mở. 2.2.4. Mô hình địa chiến lược kinh tế thể chế tự do Các chiến lược địa kinh tế thể chế tự do không được sử dụng để đạt được các mục tiêu địa chính trị rộng lớn, mà chủ yếu là để đạt được các mục tiêu kinh tế. Những chiến lược này thể hiện định hướng về kinh tế bằng khái niệm chủ nghĩa lý tưởng trong chính sách đối ngoại Khác với chủ nghĩa thực dụng tân trọng thương, chiến lược địa kinh tế thể chế tự do dựa trên niềm tin rằng sự tăng cường phụ thuộc lẫn nhau và hội nhập kinh tế là một đường hướng quan trọng nhất đối với tất cả các cấp độ về an ninh và thịnh vượng. Quyền lực tự do địa kinh tế thể chế về thực chất, là "quyền lực dân sự", cùng đồng ý với sự cần thiết phải hợp tác với những người khác trong việc đạt được các mục tiêu quốc gia, nhưng chưa sẵn sàng chấp nhận gánh nặng và trách nhiệm để trở thành "một cường quốc trong khu vực." Lợi ích quốc gia của chiến lược này được xác định chủ yếu bởi các điều kiện kinh tế, nhờ vào nỗ lực chung về sự ổn định kinh tế và tăng trưởng trong các điều khoản đa phương tự do. 15
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ Đức là một trường hợp của một chiến lược địa kinh tế tự do như vậy. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Tây Đức từ chối tất cả các tuyên bố tìm kiếm quyền bá chủ ở châu Âu. Cựu Thủ tướng Helmut Schmidt gọi đó là người khổng lồ kinh tế, nhưng là một người lùn chính trị (xem Szabo 2015, trang 67). Đức từ chối sử dụng sức mạnh kinh tế đang phát triển của mình như là một phương tiện để phát triển nền tảng quyền lực địa chính trị rộng lớn hơn của mình, tránh sự lãnh đạo chính trị và quân sự, đẩy nhanh quá trình nói về "tránh lãnh đạo phức tạp" (xem Miskimmon 2007). Rõ ràng, cách tiếp cận của Đức đã xem quyền lực kinh tế như là một mục tiêu trong chính nó, và không phải là một phương tiện cho các mục đích địa chính trị rộng lớn hơn. Đối với bản sắc Tây Đức, phép màu kinh tế là một huyền thoại cơ bản. Theo Mueller (2005), nó là biểu hiện hiện đại của đạo đức Tin Lành, coi thành công kinh tế như một dấu hiệu của sự cứu rỗi. Liên quan đến kết cấu chiến lược ở Đức, cách tiếp cận chính sách đối ngoại biểu hiện như là sự ủng hộ có tính phản xạ đối với "chủ nghĩa đa phương nâng cao” (Anderson 1999). Mặc dù một số nhà quan sát tin rằng các hành động ở Đức trong cuộc khủng hoảng châu Âu nhấn mạnh khuôn khổ chiến lược thay đổi hướng tới sức cạnh tranh cao hơn thông qua chuyển hướng chiến lược từ tự do thể chế sang tân trọng thương, thì ít nhất cho đến cuối năm 1990, Đức vẫn cam kết chính sách tự học chăm chỉ và hội nhập vào các tổ chức châu Âu (Anderson 1999, Kudnani 2011, Mayer 2010, Szabo 2015). Cho đến gần đây, theo Miscimmon (2007), "Đức hiếm khi cố gắng đơn phương ảnh hưởng đến quá trình hội nhập châu Âu". II. MÔ HÌNH ĐỊA CHIẾN LƯỢC KINH TẾ CỦA MỸ VÀ TRUNG QUỐC 1. Mô hình địa chiến lược kinh tế của Mỹ (Indo – Pacific) 16
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ Triết lý tiếp cận xây dựng địa chiến lược kinh tế quốc gia: Mỹ muốn xây dựng một hệ thống đồng minh chiến lược với mục đích để củng cố và duy trì vị thế siêu cường thế giới của mình. Nhưng lý do vì sao Mỹ lại chọn Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương để thực hiện địa chiến lược kinh tế của mình? Nguyên nhân nằm ở việc tuyết đường biển ở Ấn Độ Dương đóng vai trò quan trọng cho dòng chảy dầu mỏ, khí đốt, và hóa hóa trên thế giới. Đây cũng là nơi có hai eo biển quan trọng nhất với tuyến vận chuyển dầu mỏ từ Trung Đông tới Australia và Đông Á. Trung bình mỗi ngày có 17 triệu thùng dầu mỏ được vận chuyển qua eo biển Hormuz và 15,2 triệu thùng qua eo biển Mallacca. Trong khi đó, năng lực hàng hải của các nước trong khu vực vẫn còn hạn chế, do đó Mỹ hoàn toàn có lợi thế khi chọn con đường này. Nội dung cơ bản của chiến lượng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương rộng mở Trước hết là phạm vi địa lý. Theo chiến lược an ninh quốc gia năm 2017 của Mỹ, khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương bắt đầu từ “bờ Tây Ấn Độ tới bờ Tây nước Mỹ” Tự do và rộng mở: + “Tự do” được thể hiện trên 2 cấp độ: ở cấp độ quốc tế, các quốc gia không bị cưỡng ép, áp đặt và ở cấp độ quốc gia, các cá nhân không bị đàn áp và hưởng một nền quản trị tốt. + “Rộng mở” trong chiến lược này có nghĩa là các tuyến đường hàng hải không bị kiểm soát hay bị ngăn chặn bởi bất cứ cường quốc nào và hệ thống thương mại tự do, công bằng được duy trì. Biện pháp thực hiện của Mỹ: 17
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ Thứ nhất, Mỹ sẽ mở rộng sự quan tâm đối với không gian biển, duy trì các không gian chung trên biển Thứ hai, Mỹ sẽ chú trọng tăng cường năng lực, khả năng tác chiến chung giữa lực lượng quân sự các nước thông qua việc tài trợ và bán các trang thiết bị quốc phòng tiên tiến. Thứ ba, Mỹ sẽ tăng cường thượng tôn pháp luật, thúc đẩy pháp quyền, xã hội dân sự và quản trị minh bạch. Thứ tư, trên khía cạnh kinh tế, Mỹ sẽ thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân, dẫn dắt hướng vào các hoạt động thương mại, đầu tư, kể cả phát triển kết cấu hạ tầng. Những biểu hiện thực tế: Về an ninh, để duy trì an ninh, ổn định ở Châu Á – Thái Bình Dương, Nhà Trắng tăng cường củng cố các liên minh quân sự truyền thống với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôxtrâylia, Philíppin và Thái Lan; coi liên minh với Nhật Bản là “hòn đá tảng” và tăng cường mở rộng quan hệ quân sự, an ninh với các nước, các cơ cấu an ninh khu vực, để gây ảnh hưởng và tạo thành “các chân rết” phục vụ chiến lược của Mỹ ở khu vực. Đồng thời, tăng cường sức mạnh quân sự, hiện đại hóa các lực lượng quân đội đồn trú ở phía trước, các căn cứ quân sự, hình thành thế bố trí quân sự chiến lược, nhằm khống chế, kiểm soát toàn bộ khu vực, ngăn chặn không để các nước thách thức đến vai trò lãnh đạo của Mỹ. Về kinh tế, thời gian qua, kim ngạch buôn bán hai chiều, đầu tư của Mỹ vào khu vực tăng nhanh và cao hơn nhiều so với các khu vực khác. Hiện nay, Mỹ đang tập trung vào hai hướng: Một là, tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế với các nước, nhất là các nước được coi là thị trường lớn, như Nhật Bản, Trung Quốc, ASEAN... Hai là, phát huy vai trò chủ đạo trong các tổ chức khu vực, như Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), để thúc 18
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ đẩy mở cửa thị trường, tự do hoá thương mại, đầu tư và chi phối kinh tế khu vực. Bên cạnh đó, Mỹ cũng tăng cường chính sách ngăn chặn, như lập hàng rào thuế quan, áp dụng luật sở hữu trí tuệ, các chế tài tài chính… để bảo vệ thị trường trong nước và kiềm chế nước khác về kinh tế. Về đối ngoại, lấy chiêu bài “chống khủng bố”, “dân chủ”, “nhân quyền”, Mỹ thực hiện chính sách can dự vào khu vực. Trong quan hệ quốc tế, Mỹ coi trọng sách lược “cây gậy và củ cà rốt”, đối xử với các nước theo “tiêu chuẩn kép”, nhất là với các nước mà Mỹ cho là “bất trị”; thể hiện rõ nhất là cách giải quyết vấn đề hạt nhân của Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên. Đánh giá về chiến lược của Mỹ, các nhà phân tích cho rằng, đó là một chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng thể để đạt mục tiêu của Mỹ ở khu vực; nhưng, chiến lược đó chưa phù hợp với một Châu Á – Thái Bình Dương đã có nhiều thay đổi. Đó là vì: Thứ nhất, chiến lược đó vẫn mang tư duy của thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”, là lấy sức mạnh để “ngăn chặn, kiềm chế” nước khác, nhằm bảo vệ an ninh, lợi ích quốc gia của mình. Điều đó làm cho mâu thuẫn giữa Mỹ với các nước, kể cả các nước đồng minh, ngày càng sâu sắc, phức tạp. Thứ hai, Mỹ tăng cường sức mạnh quân sự là nhân tố thúc đẩy chạy đua vũ trang, đe dọa đến đến an ninh, ổn định của khu vực, bị dư luận phản đối. 2. Mô hình địa chiến lược kinh tế của Trung Quốc Triết lý tiếp cận xây dựng địa chiến lược kinh tế quốc gia: Mô hình địa chiến lược kinh tế của Trung Quốc thể hiện rõ tham vọng từng bước nâng cao vị thế, ảnh hưởng ở khu vực và quốc tế, vươn lên thành cường quốc cạnh tranh vai trò thống trị của Mỹ. Yếu tố địa lý của Trung Quốc: Trung Quốc hiện nay là “sản phẩm vĩ đại” của sự tính toán khôn ngoan, đặc biệt là dưới thời Tần Thủy Hoàng và Mao Trạch Đông. 19
- Tiểu luận Địa chiến lược kinh tế Văn Công Vũ Mao Trạch Đông cho rằng, giành được thắng lợi toàn quốc là một việc rất lớn nhưng e rằng nếu chỉ bằng lòng có vậy còn quá nhỏ bé. Bất kỳ một vở kịch nào đều có phần mở đầu nhưng những phần hay nhất còn có những hồi phía sau. Trung Quốc và các mục tiêu địa chiến lược kinh tế tới năm 2049: Trung Quốc đặc biệt nhấn mạnh đến “Giấc mộng Trung Hoa” với mục tiêu trở thành chủ thể chi phối thế giới. Mục tiêu 100 năm đầu tiên của Trung Quốc là đòi lại Hồng Kông, Ma Cao đã hoàn thành, mục tiêu tiếp theo đến năm 2049 là đòi lại Đài Loan. Để đạt được mục tiêu, Trung Quốc sẵn sàng chi tiền cho các nước thông qua “vành đai con đường” để dần dần khiến các nước thừa nhận Đài Loan là thuộc về Trung Quốc. Tạo nên “Con đường tơ lụa trên đất liền và con đường tơ lụa trên biển” nhằm nhân rộng phạm vi ảnh hưởng, mở rộng không gian kinh tế có lợi. Thông qua chiến lược “Một vành đai, một con đường” – One Belt, One Road, thay vì ảnh hưởng trực tiếp, Trung Quốc sẽ lôi kéo, tạo ảnh hưởng để tạo ra không gian kinh tế hàng thế kỷ. Địa chiến lược tầm thế kỷ: Mục tiêu kiểm soát “Đảo thế giới”. Chiến lược “Một vành đai, một con đường” thách thức trật tự do Mỹ lãnh đạo, thông qua qua đó để tính toán địa chiến lược cho mình. Mưu đồ độc chiếm Biển Đông là mưu đồ thể hiện rõ ràng của Trung Quốc. Biển Đông là đường hàng hải nhộn nhịp đứng thứ hai trên thế giới, có khoảng 71.000 tàu, thuyền thương mại đi qua khu vực này mỗi năm… Vì vậy, Đông Nam Á chính là điểm tựa, là chỗ dựa quan trọng hàng đầu cho Trung Quốc vươn ra thế giới, đồng thời cũng là địa bàn quan trọng để Trung Quốc tập hợp lực lượng, xác định vị thế của một cường quốc thế giới và phát huy vai trò trong các vấn đề quốc tế, khu vực. Từ năm 2014, Biển Đông còn là nơi xuất phát điểm để Trung Quốc thực hiện đại chiến lược “Một vành đai, một con đường”, với các 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài “ Phân tích điều kiện và lợi thế để phát triển kinh doanh lữ hành nội địa nhận khách của Quảng Bình”
32 p | 521 | 244
-
TÊN ĐỀ TÀI: XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC MARKETING CHO CHUỖI NHÀ HÀNG GIMBAB HÀN QUỐC TRONG MỘT NĂM
10 p | 194 | 55
-
Đề án: Lý thuyết trò chơi
35 p | 230 | 55
-
Tiểu luận: Xử lý tình huống phát sinh trong quá trình loại những người mắc nghiện ma túy đã hoàn thành quy trình cai nghiện ra khỏi danh sách quản lý
14 p | 236 | 42
-
Tiểu luận môn kế toán : Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán doanh thu, chi phí & xác định kết quả kinh doanh ở công ty cổ phần đầu tư Thuận Thiên
106 p | 147 | 29
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn