intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ - Chi nhánh Hà Nội

Chia sẻ: Nguyen Lon | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:83

108
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: một số biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại công ty vật tư, vận tải & xếp dỡ - chi nhánh hà nội', luận văn - báo cáo, kinh tế - thương mại phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ - Chi nhánh Hà Nội

  1. TIỂU LUẬN: Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ - Chi nhánh Hà Nội
  2. Lời nói đầu. Việt nam đang trong thời kỳ tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, nhu cầu về vật tư kỹ thuật, dây truyền công nghệ là rất lớn, cần thiết và cấp bách hơn lúc nào hết. Trong khi nền sản xuất trong nước còn chưa thể đáp ứng đước yêu cầu này thì nhập khẩu là con đường ngắn nhất và khôn ngoan nhất để hiện đại hoá các trang thiết bị kỹ thuật, đưa nền sản xuất trong nước mau chóng bắt kịp với các nền sản xuất tiên tiến khác trong khu vực và trên thế giới, nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt với giá thành hạ, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên có một vấn đề đặt ra là, chúng ta đã đang và sẽ tiến hành hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu như thế nào để đảm bảo mang lại một hiệu quả kinh tế cao nhất. Có thể nói, tuy đã tham gia buôn bán trên thị trường quốc tế hơn 10 năm nay, nhưng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở một số doanh nghiệp Việt Nam đôi lúc còn bất cập. Đặc biệt là công tác nhập khẩu vật tư, vật liệu trang thiết bị phục vụ cho sản xuất vẫn còn nhiều yếu kém. Đây đó, ta vẫn thấy nhiều Công ty xuất nhập khẩu của Việt Nam bị các đối tác nước ngoài chèn ép về giá cả, bưng bít về thông tin... dẫn đến tình trạng các công ty này nhập khẩu phải những trang thiết bị đã quá lỗi thời lạc hậu, giá cả quá cao, chất lượng kém, hoặc không đồng bộ... Vì vậy mà nhập khẩu đã không đem lại hiệu quả kinh tế, tình trạng thua lỗ, đình trệ sản xuất do thiếu nguyên vật liệu, không có phụ tùng thay thế hay do dây truyền bị hỏng hóc không phải là không phổ biến. Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ là một đơn vị trực thuộc Tổng công ty than Việt Nam. Đây là một Công ty được lập ra với mục đích chủ yếu là kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu vật tư hàng hoá, dây truyền công nghệ phục vụ cho ngành than và một số nghành công nghiệp khác. Có thể nói, kể từ khi được thành lập cho đến nay, Công ty đã cơ bản hoàn thành tốt các nhiệm vụ mà Bộ Công Nghiệp và Tổng công ty than Việt Nam giao phó. Song do mới được thành lập, lại phải kinh doanh trên thị trường quốc tế vốn dĩ rất khắc nghiệt, nên trong quá trình hoạt động của mình, đôi lúc
  3. Công ty cũng không tránh khỏi những vấp váp sai lầm, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Trước tính bức xúc của vấn đề nêu trên, được sự gợi ý hướng dẫn của cô giáo Tiến sĩ Phan Tố Uyên, cũng như được sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ nhân viên Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ chi nhánh Hà Nội, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ - Chi nhánh Hà Nội ” để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn tốt nghiệp sẽ bao gồm những nội dung chính sau đây:  Những vấn đề lý luận về hoạt động nhập khẩu  Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội. Những điểm mạnh, điểm yếu trong hoạt động nhập khẩu của Công ty cùng với những nguyên nhân của nó.  Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu để thựchiện mục tiêu và phương hướng phát triển của Công ty Với mục đích làm rõ những nội dung nêu trên, kết cấu của luận văn sẽ được chia làm 3 chương lớn như sau: Chương I. Những vấn đề lý luận về hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương II. Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội Chương III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội. Cuối cùng, do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn của bản thân còn nhiều hạn chế, chắc chắn luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy em rất mong các thầy (cô giáo), các cô (bác) anh (chị) đang làm việc tại công ty nơi em thực tập giúp đỡ, chỉ bảo để em có thể hoàn thành bài viết này một cách tốt nhất. về hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
  4. I. Vai trò của nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân: 1. Một số lý thuyết về thương mại quốc tế: Theo Các Mác thương mại quốc tế là sự mở rộng hoạt động kinh tế ra khỏi phạm vi một nước. Ngày nay, thương mại quốc tế phải được hiểu là quá trinh trao đổi hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài thông qua quan hệ hàng hoá tiền tệ, nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận, trên cơ sở thoả mãn các nhu cầu thị trường. Sự trao đổi này là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất riêng biệt ở các quốc gia khác nhau. Thương mại quốc tế ra đời một cách khách quan, đó là kết quả tất yếu của quá trình phân công lao động xã hội, sự chuyên môn hoá trong sản xuất cũng như sự khác biệt giữa các vùng lãnh thổ, các quốc gia trên thế giới về diều kiện tự nhiên, vị trí địa lý tập quán văn hoá... Ra đời và lớn mạnh một cách nhanh chóng, thương mại quốc tế ngày nay đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thế giới. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong những thế kỷ trước và đặc biệt là một vài thập kỷ gần đây đã làm cho quá trình phân công lao động xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây là tiền đề vô cùng quan trọng cho những bước phát triển tiếp theo của thương mại quốc tế nói chung và cho hoạt động kinh doanh thương mại nói riêng. Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển của mình không phải lúc nào thương mại quốc tế cũng được chú trọng một cách đúng đắn. Đã có những thời kỳ, tại một số quốc gia, thương mại quốc tế đã bị xem nhẹ, thậm chí bị lãng quên. Những nước này cho rằng họ có thể dựa vào nguồn nhân lực, vật lực của mình để xây dựng nên một nền kinh tế độc lập với nền kinh tế thế giới, một nền kinh tế mang đậm tính tự cấp tự túc, không phụ thuộc. Tuy nhiên, họ đã lầm. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã chứng minh một cách thuyết phục rằng không có một quốc gia nào, một đất nước nào có thể đứng ngoài vòng quay của nền kinh tế thế giới và thương mại
  5. quốc tế là một tất yếu khách quan. Muốn kinh tế phát triển, nước đó phải tham gia vào thương mại quốc tế. Với ý nghĩa trên, thương mại quốc tế cũng không chỉ giới hạn giữa các nước có nền kinh tế phát triển tương đương nhau, mà thực chất thương mại quốc tế có thể được tiến hành với tất cả các nước trên thế giới, thậm chí kể cả những nước có trình độ phát triển kinh tế hoàn toàn khác biệt. Để giải thích điều này, nhà kinh tế học người Anh David Ricardo ( 1771-1823 ) đã đem ra và chững minh lý thuyết về lợi thế tương đối. Lý thuyết này nhấn mạnh vào sự khác nhau về chi phí sản xuất và coi đó là chìa khoá của phương thức thương mại. Nó khẳng định một điều: Nếu một nước nào đó tập trung ( chuyên môn hoá ) vào sản xuất các sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh và nhập khẩu các sản phẩm khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế hơn thì chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Sở dĩ như vậy là vì mỗi nước đều có sự khác nhau về vị trí địa lý điều kiện tự nhiên, đất đai, con người... nên chi phí sản xuất cho cùng một loại sản phẩm giữa các nước cũng sẽ khác nhau. Với sản phẩm này, nước này có thể có chi phí sản xuất là thấp nhất nhưng với những sản phẩm khác thì các nước khác lại có ưu thế hơn. Vì vậy, nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào sản xuất những sản phẩm có lợi thế hơn so với các nước khác và nhập khẩu những mặt hàng kém lợi thế hơn nếu sản xuất ở trong nước mình thì chắc chắn sẽ giảm được chi phí, tiết kiệm được nguồn lực và do đó cho phép các nước có thể tăng cường hiệu quả kinh tế theo quy mô, nghĩa là sản xuất được nhiều hàng hoá hơn với một mức chi phí thấp hơn. như vậy thương mại quốc tế thực sự sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cho tất cả các bên. Ngày nay thương mại quốc tế chiếm một vị trí rất quan trọng đối với nền kinh tế thế giới nói chung và đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng. Thương mại quốc tế thực hiện việc lưu thông hàng hoá giữa các nước khác nhau, nó bao gồm: Việc mua bán hàng hoá với nước ngoài, xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, việc gia công hàng hoá cho nước ngoài hoặc thuê nước ngoài gia công, hoạt động xuất nhập khẩu tại chỗ...
  6. Có thể nói, xuất nhập khẩu hàng hoá là nội dung quan trọng của kinh doanh thương mại quốc tế, nên kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của kinh doanh thương mại quốc tế. Trong xu thế thương mại hoá toàn cầu ngày nay, thương mại quốc tế bao gồm những chức năng chính sau đây:  Tạo vốn cho quá trình đầu tư trong nước  Chuyển hoá giá trị sử dụng, làm thay đổi cơ cấu vật chất tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân  Góp phần nâng cao hiệu quả của vốn kinh tế quốc dân, bằng việc tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh trong nước phát triển.  Thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội trên phạm vi thế giới và quá trình chuyên môn hoá sản xuất. Nhiệm vụ của thương mại quốc tế được xác định trên cơ sở các chức năng và phải phụ thuộc vào bối cảnh quốc tế cũng như mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, là một nước tiến theo con đường Xã Hội Chủ Nghĩa và hiện đang trong giai đoạn đầu của quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nền kinh tế đã chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Mặt khác với vai trò là một ngành kinh tế đảm nhận khâu lưu thông hàng hoá giữa trong nước với nước ngoài nhằm thoả mãn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, Đảng và Chính phủ đã đề ra nhiệm vụ cho thương mại quốc tế là:  Tổ chức quá trình lưu thông hàng hoá với nước ngoài, thông qua mua bán làm chiếc cầu nối hữu cơ giữa nền sản xuất trong nước, thị trường trong nước với thị trường thế giới, thoả mãn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng về hàng hoá theo số lượng chất lượng, chủng loại hàng hoá, thời gian và địa điểm với chi phí thấp nhất.  Nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước.  Đảm bảo thống nhất giữa kinh tế và chính trị trong hoạt động ngoại thương.  Góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội quan trọng của đất nước một cách có hiệu quả.
  7. 2. Nhập khẩu và vai trò của nhập khẩu: Vai trò của nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân: Nói đến thương mại quốc tế, không thể không nói đến xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ vì đây là nội dung quan trọng và cốt lõi. Kinh doanh nhập khẩu là một bộ phận cấu thành của kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung. Nếu như trong kinh doanh xuất nhập khẩu, hành vi mua bán là sự trao đổi hàng hoá tiền tệ diễn ra theo hai chiều thì trong nhập khẩu, sự vận động của hàng hoá tiền tệ chỉ diễn ra theo một chiều ( Hàng vào - tiền ra ). Tuy vậy, nó là hoạt động kinh doanh trên phạm vi quốc tế, không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các qua hệ mua bán phức tạp, có tổ chức với những quy định và luật lệ rằng buộc kẻ mua người bán nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế bằng cách thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong nước, nhất là những loại hàng hoá mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng. Nhập khẩu còn tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống. Nhập khẩu để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những thứ mà trong nước sản xuất không có lợi bằng nhập khẩu. Như vậy, nhập khẩu có tác động đến sự phát triển cân đối và là một nhân tố khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân. Việt Nam tiến hành công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh thế giới có nhiều thuận lợi. Xu thế phân công lao động và hợp tác quốc tế phát triển mạnh mẽ, khoa học kỹ thuật phát triển mạnh thì việc nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại là một nhu cầu cấp bách, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Đây là giải pháp khôn ngoan, là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để rút
  8. ngắn khoảng cách giữa nước ta với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Đối với Việt Nam, trong điều kiện hiện nay nhập khẩu có vai trò:  Thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.  Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo một sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế.  Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động, góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài. Vai trò của nhập khẩu đối với doanh nghiệp : Vai trò của nhập khẩu được khẳng định cùng với sự phát triển của nền kinh tế, cũng như đối với các doanh nghiệp đó là: Nhập khẩu giúp doanh nghiệp có được công nghệ sản xuất hiện đại để tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm, cũng như tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Thông qua nhập khẩu, doanh nghiệp có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài, dẫn đến việc hình thành các liên doanh, liên kết giữa các chủ thể trong và ngoài nước, từ đó giúp doanh nghiệp có thêm kinh nghiệm trong công tác quản lý cũng như trong việc hoạch định các chiến lược kinh doanh. Nhập khẩu giúp doanh nghiệp tăng doanh thu và lợi nhuận thông qua việc đáp ứng các nhu cầu xã hội từ đó tăng nguồn vốn kinh doanh cho doanh nghiệp cũng như tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho các cán bộ nhân viên của doanh nghiệp . Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, việc xuất nhập khẩu mang lại nhiều điều lợi song cũng có nhiều điều bất lợi cho mỗi quốc gia. Bởi vì nó phải đối đầu với cả một hệ thống kinh tế từ bên ngoài mà các chủ thể bên trong nước tham gia vào kinh doanh xuất nhập khẩu không dễ dàng gì khống chế được. Để phát huy được
  9. vai trò của mình, hoạt động nhập khẩu phải đảm bảo một số yêu cầu nhất định và các doanh nghiệp cũng phải thực hiện đúng các nguyên tắc trong hoạt động nhập khẩu sao cho phù hợp với lợi ích của doanh nghiệp cũng như lợi ích của toàn xã hội. Thứ nhất. Nhập khẩu phải đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả trong sử dụng vốn. Là một nước đang phát triển, vốn đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng mà Việt Nam đang còn thiếu, bởi vậy yêu cầu tiết kiệm là một vấn đề cơ bản của quốc gia cũng như của doanh nghiệp Thứ hai. Chỉ nhập khẩu những thiết bị tiên tiến, hiện đại tránh nhập khẩu những công nghệ lạc hậu mà các nước khác đang tìm cách thải ra, hay các công nghệ không phù hợp với điều kiện về môi trường khí hậu, ngành nghề của nước ta. Thứ ba. Nhập khẩu nhằm bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tăng cường xuất khẩu. Nhập khẩu cần tranh thủ lợi thế của đất nước trong từng thời kỳ để thoả mãn nhu cầu trong nước, vừa bảo hộ và mở rộng sản xuất trong nước đồng thời tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường ngoài nước và thúc đẩy xuất khẩu phát triển. II. Nội dung của hoạt động nhập khẩu: Xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Song mua bán ở đây cũng có những nét riêng phức tạp hơn mua bán trong nước rất nhiều. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả trong kinh doanh xuất nhập khẩu, yêu cầu mỗi doanh nghiệp phải thực hiện đúng và đầy đủ các khâu nghiệp vụ trong quá trình kinh doanh. 1. Nghiên cứu thị trường: Nghiên cứu thị trường là hoạt động đầu tiên cần thiết đối với bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường. Đối với doanh nghiệp thương mại nhập khẩu để bán hàng kiếm lời thì thị trường nghiên cứu phải bao gồm cả thị trường đầu ra
  10. và thị trường đầu vào, trong kinh doanh nhập khẩu thì đó là thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. 1.1 Nghiên cứu thị trường trong nước, xác địng mặt hàng nhập khẩu: Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó giúp doanh nghiệp xác định được nhu cầu cụ thể về :  Mặt hàng mà thị trường trong nước cần  Quy cách chủng loại hàng hoá  Số lượng hàng hoá  Thời hạn tiêu dùng  Giá cả thị trường  Chu kỳ sống của mặt hàng 1.2 Nghiên cứu thị trường quốc tế : Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới có rất nhiều ý nghĩa trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả các quan hệ kinh tế, đặc biệt là trong công tác nhập khẩu hàng hoá của mỗi doanh nghiệp. Mỗi loại hàng hoá nào đó sẽ có rất nhiều nước khác nhau cùng sản xuất, kinh doanh nhiều loại sản phẩm, mà kết quả kinh doanh lại phụ thuộc vào từng đối tác cụ thể. Vì vậy, việc nghiên cứu thị trường quốc tế bao gồm các vấn đề sau :  Nghiên cứu môi trường kinh doanh  Điều kiện về chính trị và pháp luật  Điều kiện về kinh tế, sự phát triển của nền kinh tế, của nội thương và ngoại thương…  Điều kiện về vị trí địa lý, yếu tố này cho phép doanh nghiệp giảm các chi phí vận tải, bảo hiểm…  Điều kiện về con người, tâm lý và tập quán thương mại của mỗi quốc gia
  11.  Điều kiện về kỹ thuật công nghệ Các điều kiện trên là những nhân tố không thể kiểm soát được đối với các doanh nghiệp nhưng nó có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Bởi vậy, doanh nghiệp cần phải điều khiển và đáp ứng các nhân tố đó. 1.3 Lựa chọn đối tác kinh doanh: Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng nói chung là những người có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá - dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật liên quan đến mua bán hàng hoá. Việc lựa chọn các đối tác để giao dịch cần dựa trên các cơ sở nghiên cứu sau:  Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực kinh doanh và phạm vi kinh doanh để thấy được khả năng cung cấp lâu dài, thường xuyên, khả năng đặt hàng và liên doanh liên kết.  Sức mạnh và tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của đối tác cho phép ta thấy được những ưu thế trong thoả thuận giá cả, các điều khoản về thanh toán.  Thái độ và quan điểm kinh doanh, uy tín và quan hệ trong kinh doanh của đối tác. Ngoài ra việc lựa chọn đối tác còn phải dựa vào kinh nghiệm của người nghiên cứu và truyền thống mua bán của doanh nghiệp 1.4 Xác định và dự báo biến động của quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới: Đây thực chất là việc nghiên cứu dung lượng thị trường hàng hoá. Nghiên cứu dung lượng thị trường hàng hoá cần xác định nhu cầu và nguồn một cách thực tế, xác định toàn bộ lượng hàng hoá bán ra trên thị trường đối với các sản phẩm ( kể cả lượng sản phẩm dự trữ ), xu hướng biến động trong từng thời điểm, từng vùng và từng lĩnh vực sản xuất tiêu dùng. Cùng với việc nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường ( bao gồm việc xem xét các đặc điểm, tính chất, khả năng sản xuất
  12. hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán... ) và tính chất thời vụ của sản xuất, tiêu dùng loại hàng hoá đó trên thị trường thế giới. Từ đó có các biện pháp thích hợp cho từng giai đoạn, đảm bảo cho việc nhập khẩu có hiệu quả. Dung lượng thị trường không ổn định, nó chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau trong những giai đoạn nhất định, đó là: Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến động có tính chất chu kỳ như sự vận động của nền kinh tế, tính thời vụ của sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài như tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các biện pháp, chính sách của Nhà nước, thị hiếu tập quán người tiêu dùng, khả năng sản xuất hàng thay thế. Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường như hiện tượng đầu cơ, các yếu tố tự nhiên: thiên tai, lũ lụt, hạn hán…, các yếu tố về chính trị xã hội như đình công, biểu tình… Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu: Xu hướng biến động giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới rất phức tạp. trong cùng một thời gian, giá cả hàng hoá có thể biến động theo những hướng trái ngược nhau với những mức độ nhiều ít khác nhau. Thêm vào đó là việc nắm bắt tình hình xu hướng biến động của giá cả thị trường thế giới là hết sức khó khăn, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Giá cả tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vậy, các doanh nghiệp cần phải luôn luôn theo dõi sự biến động của giá cả, đồng thời phải có các biện pháp để tính toán, xác định một cách chính xác và khoa học mức giá để có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh. Để có thể dự đoán được xu thế biến động của giá cả mỗi loại hàng hoá có trên thị trường, cần phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự đoán tình hình thị trường hàng hoá đó cũng như các nhân tố tác động đến giá cả như: nhân tố chu kỳ, nhân tố lạm phát, nhân tố cung cầu, nhân tố thời vụ, nhân tố xã hội… Ngoài việc xác định tính toán giá nhập khẩu hợp lý, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu. ( Đây là số bản tệ có thể thu được khi chi ra một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu ). Nếu tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu lớn hơn tỷ giá hối đoái thì việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu đó là có hiệu quả và ngược lại.
  13. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới trong thương mại quốc tế nói chung và nhập khẩu nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Đây là bước chuẩn bị, bước tiền đề để xuất nhập khẩu hàng hoá được thực hiện một cách có hiệu quả do nó giúp doanh nghiệp lựa chọn được thị trường, mặt hàng kinh doanh, đối tác, giá cả, phương thức thanh toán, tín dụng và các luật áp dụng. Để nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp có thể thu thập các thông tin trong và ngoài nước, và có thể áp dụng một trong hai phương pháp sau để tiến hành nghiên cứu:  Phương pháp nghiên cứu tại văn phòng: Thực chất đây là việc thu thập thông tin từ các nguồn tư liệu, kể cả những nguồn tư liệu xuất bản và không xuất bản. Đây là phương pháp nghiên cứu phổ thông mà bất cứ doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường đều phải sử dụng do nó ít tốn kém về thời gian và chi phí, cho phép doanh nghiệp có thể nhìn được một cách khái quát về thị trường mặt hàng cần nghiên cứu. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là thông tin thường không cập nhật, mức độ tin cậy có hạn và là phương pháp mang tính lý thuyết.  Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường: Đây là phương pháp thu thập thông tin thông qua việc quan sát, tiếp xúc với mọi người tiêu dùng trên thương trường. Phương pháp này khắc phục được các nhược điểm của phương pháp trên nhưng đây là phương pháp nghiên cứu phức tạp và rất tốn kém mà không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thực hiện được. Nó còn phụ thuộc vào khả năng tài chính cũng như trình độ của các cán bộ, nhân viên nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp. Trong quá trình nghiên cứu thị trường, cần phải kết hợp cả hai phương pháp trên để hạn chế những thiếu sót và phát huy được những điểm mạnh của mỗi phương pháp, từ đó mới nâng cao được hiệu quả của công tác nghiên cứu thị trường . 2. Lựa chọn phương thức giao dịch: Trong hoạt động nhập khẩu có một số phương thức giao dịch sau:
  14. Giao dịch thông thường: Là phương thức giao dịch mà người mua và người bán trực tiếp quan hệ với nhau bằng cách gặp mặt trực tiếp hoặc qua thư từ điện tín để bàn bạc và thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch. Giao dịch qua trung gian: Là phương thức giao dịch mà mọi quan hệ giữa người mua và người bán về việc quy định các điều kiện mua bán phải thông qua một người thứ ba, gọi là người trung gian. Buôn bán đối lưu: Là phương thức giao dịch xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi có giá trị tương đương. Đấu giá quốc tế: Là phương thức bán hàng đặc biệt được tổ chức công khai ở một nơi xác định, tại đó những người mua tự do cạnh tranh trả giá. Và cuối cùng hàng hoá sẽ được bán cho người nào trả giá cao nhất. Ngoài những phương thức giao dịch trên, trong thực tế vẫn còn một số hình thức giao dịch khác như : giao dịch tại sở giao dịch, giao dịch tại triển lãm hàng hoá, hay giao dịch tại các hội chợ… 3. Tiến hành giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng nhập khẩu: Đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu là việc hai bên mua và bán tiến hành trao đổi thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch ( điều kiện mua bán, điều kiện hợp tác kinh doanh…) mà mỗi bên có thể chấp nhận được. Đàm phán có vai trò quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu, nó là cơ sở để có thể có được các hợp đồng và nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia. 3.1 Các hình thức đàm phán:  Đàm phán qua thư tín. Hai bên tiến hành trao đổi thoả thuận thông qua thư từ điện tín  Đàm phán qua điện thoại
  15.  Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: hai bên tiến hành gặp gỡ trực tiếp để thực hiện các hoạt đông trao đổi, bàn bạc, thống nhất và ký kết hợp đồng. Hình thức đàm phán qua thư tín, điện thoại chỉ được sử dụng trong trường hợp đối tác là bạn hàng lâu năm, quan hệ tốt và có sự tin tưởng lẫn nhau. Đàm phán trực tiếp sử dụng trong trường hợp hợp đồng có giá trị lớn, nội dung phức tạp và có nhiều điều khoản bắt buộc phải giải thích một cách cặn kẽ. Mỗi hình thức giao dịch đều có những ưu điểm và hạn chế khác nhau. Tùy trong từng trường hợp mà doanh nghiệp kết hợp các hình thức trên sao cho quá trình đàm phán, giao dịch đạt hiệu quả cao nhất. 3.2 Trình tự đàm phán: Hỏi giá: được coi là lời thỉnh cầu bước vào giao dịch do người mua thực hiện, trong đó phải nêu rõ tên hàng, quy cách phẩm chất, số lượng thời hạn giao hàng, giá cả… Phát giá: Đây là vấn đề chào hàng nếu do người bán tiến hành và là vấn đề phát giá nếu do người mua tiến hành. Đặt hàng: được coi là lời ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được dưa ra dưới hình thức đặt hàng. Trong thực tế người ta chỉ đặt hàng với các khách hàng có quan hệ thường xuyên và trong đặt hàng nêu cụ thể về hàng hoá và tất cả các nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng. Hoàn giá: là bước mặc cả để hai bên có thể xích lại gần nhau khi đơn đặt hàng chưa được thực sự làm cho các bên hài lòng. Khi có hoàn giá đơn chào hàng trước đó không còn giá trị. Chấp nhận: thể hiện sự đồng ý tất cả các điều kiện của chào hàng ( hoặc đặt hàng ) mà phía bên kia đưa ra. Khi đó có thể coi hợp đồng đã được thiết lập. Xác nhận: là sự khẳng định những điều khoản thoả thuận để phân biệt với những điều kiện mua bán ban đầu bằng văn bản. 3.3 Tổ chức ký kết hợp đồng nhập khẩu:
  16. Sau khi đàm phán thành công thì dẫn đến việc ký kết hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu. Hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên có quốc tịch khác nhau theo đó một bên được gọi là người bán ( người xuấtkhẩu ), phải có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của bên kia ( người nhập khẩu ) một lượng tài sản nhất định gọi là hàng hoá. Còn bên nhập khẩu phải có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán cho bên xuất khẩu. Thông thường một hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu bao gồm các điều khoản chính sau:  Tên hàng: là một điều khoản quan trọng của hợp đồng, nó nói lên chính xác đối tượng mua bán trao đổi.  Phẩm chất và cách xác định phẩm chất: là điều khoản quy định mặt chất của hàng hoá mua bán  Số lượng, trọng lượng và cách xác định  Giao hàng: quy định thời hạn giao hàng, địa điểm giao hàng, phương thức giao hàng và điều kiện cơ sở giao hàng  Giá cả và cách xác định: quy định đồng tiền tính giá, mức giá phương pháp xác định giá cả, cơ sở của giá cả và việc giảm giá  Thanh toán: quy định đồng tiền thanh toán, địa điểm thanh toán, thời hạn thanh toán và phương thức thanh toán  Bao bì và ký mã hiệu hiệu hàng hoá: Điều khoản này thường quy định chất lượng của bao bì, phương thức cung cấp bao bì, giá cả của bao bì và những yêu cầu ký mã hiệu trên bao bì  Kiểm tra giám định hàng hoá : quy định cơ quan giám định hàng hoá và bên thực hiện việc giám định hàng hoá.  Quy định về giải quyết tranh chấp, phạt và bồi thường thiệt hại
  17. Ngoài ra còn một số điều khoản khác như : lắp ráp, bảo hành… 4. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu: Sơ đồ 1: Các bước thực hiện hợp đồng nhập khẩu: Chuẩn bị thủ Đôn Mua tục Mở đốc bên Thuê bảo kinh L/C bán tàu hiểm doanh giao hàng xuất hàng hoá nhập khẩu
  18. Giải Làm Kiểm Nhận Làm quyết thủ tục tra hàng thủ tục khiếu thanh hàng hoá hải nại toán hoá quan 4.1 Chuẩn bị thủ tục kinh doanh xuất nhập khẩu: Theo nghị định 57/CP ra ngày 31/7/1998 của Chính phủ quy định các doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu không cần phải xin phép ( trừ các hàng hoá cấm xuất khẩu, nhập khẩu hoặc kinh doanh có điều kiện ) mà thực hiện đăng ký mã số kinh doanh xuất nhập khẩu với Hải quan tỉnh, thành phố. Trong đó đăng ký mã số hải quan cho hàng hoá xuất nhập khẩu trong phạm vi đăng ký kinh doanh. Nghị định cũng quy định chi tiết danh mục các mặt hàng cấm xuất khẩu, nhập khẩu hoặc kinh doanh có điều kiện. Như vậy đối với những hàng hoá thông thường, khi tiến hành nhập khẩu, doanh nghiệp không phải xin giấy phép. Đối với những hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch, để nhập khẩu doanh nghiệp cần phải có giấy phân bổ hạn ngạch và thường phải có được trước khi ký hợp đồng. Để có được hạn ngạch nhập khẩu, doanh nghiệp phải xây dựng luận chứng kinh tế, kỹ thuật xin cấp hạn ngạch và được bộ chủ quản phê duyệt, trình Chính phủ thông qua Bộ Thương Mại. 4.2 mở thư tín dụng L/C:
  19. Khi hoạt động nhập khẩu quy định tiền hàng thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ thì bên nhập khẩu phải mở L/C theo yêu cầu của bên xuất khẩu. L/C là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng yêu cầu đối với khách hàng của mình cam kết trả tiền cho người xuất khẩu ký phát nếu họ xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những yêu cầu đề ra trong L/C. 4.3 Thuê tàu trở ( hoặc uỷ thác thuê tàu): Căn cứ tiến hành thuê tàu dựa vào hợp đồng nhập khẩu đã ký. Người mua sẽ chịu chi phí thuê tàu nếu nhập khẩu theo điều kiện nhóm F. Tuỳ theo khối lượng và đặc điểm hàng hoá cần chuyên trở mà doanh nghiệp thuê tàu cho phù hợp và phải đảm bảo thuận lợi, nhanh chóng và an toàn Có thể lựa chọn các phương thức vận tải như: vận tải đường sắt, đường bộ, đường không, đường thuỷ hay vận tải đa phương thức sao cho việc vận chuyển đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. 4.4 Mua bảo hiểm: Hiện nay phần lớn hoạt động thương mại quốc tế thực hiện thông qua vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Hình thức vận chuyển này có ưu điểm song cũng chứa nhiều rủi ro và tổn thất. Do đó bảo hiểm hàng hoá trên đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Người mua sẽ phải mua bảo hiểm nếu nhập khẩu theo nhóm F. Khi mua bảo hiểm người nhập khẩu sẽ phải ký hợp đồng với công ty bảo hiểm trong đó xác định điều kiện mà hợp đồng nhập khẩu quy định. 4.5 Làm thủ tục hải quan:
  20. Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để nhập khẩu hay xuấtkhẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan bao gồm các bước chủ yếu sau:  Khai báo hải quan ( làm thủ tục về mặt giấy tờ tại các cơ quan địa phương )  Kê khai hàng hoá tại kho hàng: doanh nghiệp sẽ phải đưa hàng hoá đến nơi để kiểm tra ( thường là các cảng đầu mối ), tại đó nhân viên hải quan sẽ tiến hành đối chiếu hàng hoá kê khai trên giấy tờ so với thực tế.  Thực hiện quyết định xử lý với cơ quan hải quan: sau khi kiểm tra hàng hoá và giấy tờ cơ quan hải quan sẽ dưa ra các quyết định như cho hàng hoá qua biên giới, cho hàng hoá qua biên giới một cách có điều kiện... 4.6 Nhận hàng: Theo nghị định 200/CP ra ngày 31/12/1993 của Chính phủ, mọi việc giao nhận hàng hoá nhập khẩu đều phải uỷ thác cho cơ quan vận tải ( Ga, cảng, sân bay ). Nhà nhập khẩu phải xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch nhận hàng nhập khẩu, phải cung cấp đầy đủ tài liệu cần thiết cho việc nhận hàng, thanh toán cho cơ quan vận tải...Khi hàng về, cảng sẽ báo cáo cho chủ hàng biết và chủ hàng sẽ làm các thủ tục nhận hàng. 4.7 Kiểm tra hàng hoá: Sau khi nhận hàng, bên nhập khẩu sẽ làm thủ tục kiểm tra hàng hoá. Cũng theo nghị định 200/CP và Thông tư liên bộ Giao thông vận tải, ngoại thương số 52/TTLB ngày 25/1/1995, hàng nhập khẩu cần được kiểm tra kỹ càng, mỗi cơ quan tuỳ theo chức năng của mình tiến hành công việc kiểm tra đó. Vật tư nhập khẩu sẽ được 3 cơ quan kiểm tra, đó là: Cơ quan giao thông ( ga, cảng, sân bay ): các cơ quan này phải kiểm tra, niêm phong, kẹp chì trước khi dỡ hàng hoá ra khỏi phương tiện vận tải. Đơn vị kinh doanh nhập khẩu: Với tư cách là một bên đứng tên trên vận đơn phải lập thư dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thực sự thấy vật tư có tổn thất, thiếu hụt không đồng bộ, không phù hợp với hợp đồng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2