intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: MỘT SỐ ĐIỂM MỚI VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM QUA VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

546
lượt xem
155
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khẳng định bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Đại hội XI, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích những điểm mới ấy. Đó là: 1, Về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; 2,

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: MỘT SỐ ĐIỂM MỚI VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM QUA VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG

  1. TIỂU LUẬN: MỘT SỐ ĐIỂM MỚI VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM QUA VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG
  2. Khẳng định bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Đại hội XI, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích những điểm mới ấy. Đó là: 1, Về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; 2, Thực tiễn quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm đổi mới vừa qua; 3, Những giải pháp cụ thể cần triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ ngày 12/1/2011 đến ngày 19/1/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020; Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Nhiều chủ đề nêu trong các văn kiện này đang được các cơ quan, ban, ngành triển khai quán triệt và học tập nhằm đưa Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập và phân tích một số điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đưa ra trong các văn kiện này. Trong công cuộc đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta đã xác định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được xây dựng, tổ chức và vận hành theo thể chế Nhà nước pháp quyền.(*)Đây là chủ trương, đường lối có tính chiến lược của Đảng, xuất phát từ yêu cầu tất yếu, khách quan của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Những yêu cầu tất yếu, khách quan đó bao gồm: Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của tiến trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ yêu cầu quản lý và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
  3. hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ yêu cầu phát triển xã hội theo hướng dân chủ, hài hòa và bền vững. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bản chất là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân chính là nhân tố không thể thiếu trong việc đảm bảo sự ổn định chính trị, giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội, tạo điều kiện cho người dân thực hành các quyền tự do dân chủ, hướng tới xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó đồng thời cũng là những phẩm chất đảm bảo cho xã hội phát triển theo hướng dân chủ, hài hòa và bền vững. Từ những yêu cầu trên đây, bắt đầu từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01/1994), Đảng Cộng sản Việt Nam đã sử dụng khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và khẳng định sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước pháp quyền như một điều kiện không thể thiếu để phát triển nền dân chủ thực sự vì nhân dân. Trong Văn kiện Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”(1). Từ Nghị quyết Đại hội IX, tại Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đã ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(2). Trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ
  4. quan công quyền”(3). Từ nhận thức lý luận, tiếp thu có chọn lọc các giá trị phổ biến của Nhà nước pháp quyền nói chung và từ thực tiễn lãnh đạo quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua các văn kiện Đại hội của Đảng, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quan điểm của Đảng ta: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội; Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Qua khảo sát, tìm hiểu vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01/1994) cho đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, trên cơ sở đối chiếu, so sánh với Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, có thể rút ra một số điểm mới được nêu trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Thứ nhất, quan niệm về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thể hiện tại các văn kiện, nghị quyết khác nhau của Đảng và trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Trong Văn kiện Đại hội XI, các đặc trưng cơ bản đó đã được khái quát một cách cô đọng, tập trung tại một luận điểm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) có ghi rõ: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
  5. hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương”(4). So sánh với quan niệm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được nêu trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, có thể khẳng định rằng, luận điểm được nêu trong Văn kiện Đại hội XI là luận điểm thể hiện đầy đủ và tập trung nhất các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cái mới của luận điểm trên thể hiện ở chỗ, Đảng ta đã nhấn mạnh rằng, chức năng của Nhà nước là phục vụ nhân dân; khẳng định mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Nhà nước với nhân dân, thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Hơn nữa, Nhà nước còn phải có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Có thể coi đây là sự bổ sung thêm một đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm khẳng định bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta. Thứ hai, đối chiếu giữa Báo cáo chính trị tại các Đại hội IX, Đại hội X với Báo cáo chính trị tại Đại hội XI, chúng ta thấy rằng, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IX, Đảng ta chỉ dành một mục nhỏ “1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” ở phần “IX- Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”(5) để nói về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội X, vấn đề này được đề cập tại mục “2. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” ở phần “XI- Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”(6). Còn trong Báo cáo chính trị tại Đại
  6. hội XI, Đảng ta đã dành hẳn một phần “XI- Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để chuyên bàn về vấn đề này. Điều đó cho thấy, trước hết, về mặt hình thức trình bày, Đảng ta đã dành sự chú ý thỏa đáng và sự quan tâm sâu sắc hơn đối với vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thứ ba, đánh giá về thực tiễn quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong những năm qua, Văn kiện Đại hội XI đã ghi nhận: “Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên”(7). Tuy nhiên, Đại hội XI cũng thẳng thắn, nghiêm túc đánh giá, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước”. Những hạn chế cụ thể được chỉ ra trong Văn kiện Đại hội XI là: “Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm...”(8). Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên đây, như Văn kiện Đại hội XI đã chỉ ra, ngoài các nguyên nhân khách quan, nhưng trực tiếp và quyết định nhất vẫn là các nguyên nhân chủ quan, như công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nói chung, thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới, trong đó có vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, còn hạn chế, thiếu thống nhất. “Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất cập”(9). Các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể và khả thi chưa được xác định đầy đủ, rõ ràng và chậm được triển khai trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
  7. chủ nghĩa Việt Nam... Việc chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm đó là một điểm mới trong Văn kiện Đại hội XI cần được ghi nhận; bởi lẽ, trong các văn kiện, nghị quyết trước đây, vấn đề này hầu như chưa được đề cập đến. Đây cũng chính là cơ sở khoa học, thực tiễn để Đảng ta đề ra những nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp cơ bản cần triển khai nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong những năm tới. Thứ tư, từ việc tập trung xác định rõ các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của việc xây dựng Nhà nước đó trong thời gian qua, trong Văn kiện Đại hội XI, lần đầu tiên, Đảng ta xác định rõ những giải pháp cụ thể cần triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những giải pháp cụ thể gồm: 1. Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Trước tiên, phải nâng cao nhận thức về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: không chỉ là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mà còn phải “bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo”; không chỉ là Nhà nước quản lý, điều hành theo pháp luật, mà còn phải “nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương”; không chỉ là nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mà còn phải “nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”; không chỉ là đề cao vai trò của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, mà còn phải “tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc”(10)... (những chữ in nghiêng là do tác giả nhấn mạnh). Điểm mới ở đây là, cùng với yêu cầu nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI còn chỉ ra những nhiệm vụ thiết thực, cụ thể nhằm từng bước hiện thực hóa việc xây
  8. dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 2. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước Đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước là khâu then chốt đảm bảo sự thành công của việc xây dựng, sự vận hành có hiệu lực, hoạt động có hiệu quả cao của Nhà nước pháp quyền xã hội hội nghĩa Việt Nam. Với ý nghĩa đó, Văn kiện Đại hội XI đã đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước: Thứ nhất, “đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đảm bảo Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất...”. Muốn đạt được mục đích đó, công tác bầu cử đại biểu Quốc hội cần có sự đổi mới, hoàn thiện về cơ chế để cử tri có thể lựa chọn và bầu được những người đủ đức, đủ tài, xứng đáng trở thành đại biểu của nhân dân trong Quốc hội. Thực tiễn công tác chuẩn bị bầu cử Quốc hội khóa XIII đang đặt ra yêu cầu này. Vấn đề gia tăng tính dân chủ, công khai, đối thoại trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở trong các phiên thảo luận và hoạt động chất vấn trên diễn đàn Quốc hội cũng phải được chú trọng và tăng cường hơn nữa. Thứ hai, “tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống...”. Đây cũng đang là đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn đời sống pháp luật, khi mà các luật, pháp lệnh của Nhà nước cứ phải thường xuyên sửa đổi, bổ sung. Để nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật thì cần phải tăng cường hoạt động khảo sát thực tiễn các quan hệ xã hội đang cần có pháp luật điều chỉnh; làm thật tốt công tác dự báo pháp luật. Thứ ba, “nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Từ sự nghiên cứu đó, có lẽ, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) theo hướng mở rộng, tăng thêm thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch nước là một giải pháp cần được tính đến. Thứ tư, “tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng
  9. nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh; có hiệu lực, hiệu quả; tổ chức tinh gọn và hợp lý; tăng tính dân chủ và pháp quyền trong điều hành của Chính phủ...”. Chính phủ là cơ quan hành pháp nên có vai trò quan trọng hàng đầu trong hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Năng lực của chính phủ, của từng thành viên chính phủ trong việc dự báo, ứng phó, giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... mới nảy sinh sẽ là điểm mấu chốt trong thực hiện giải pháp này. Thứ năm, “đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân...”. Thực tế cho thấy, dù đã thúc đẩy mạnh mẽ, quyết liệt tiến trình cải cách hành chính, trong đó có các thủ tục hành chính; song, kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng sự mong đợi của nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang đặt ra đòi hỏi phải chuyển hoàn toàn từ nền hành chính cai trị sang nền hành chính vì dân, phục vụ nhân dân. Thứ sáu, “đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người...”. Đối với nội dung này, Văn kiện Đại hội XI nêu ra một loạt vấn đề cần tập trung làm tốt hơn trong thời gian tới, như hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp; đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp; đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của các cơ quan tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp... Thứ bảy, “tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương...”(11); trong đó, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp phải là vấn đề được chú trọng hàng đầu; đồng thời, tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Thực ra, những giải pháp cụ thể trên đây đã từng được Đảng ta đề cập trong các Văn kiện Đại hội IX và X, nhưng chúng không gắn liền với vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc đưa tất cả các giải pháp trên tập trung vào phần “XI- Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trong
  10. Văn kiện Đại hội XI cho thấy, Đảng ta quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, mạnh mẽ việc đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước - một trong những nhân tố đảm bảo cho việc xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây cũng là một điểm mới của Văn kiện Đại hội XI. 3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới Đội ngũ cán bộ, công chức là khâu chủ yếu thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải được đội ngũ cán bộ, công chức triển khai trên thực tế thì mới có thể đi vào trong đời sống xã hội. Họ là những người trực tiếp chuyển từ “pháp luật trên giấy tờ” thành “pháp luật trong hành động” trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới vừa là nhiệm vụ, vừa là giải pháp hết sức quan trọng của quá trình đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Văn kiện Đại hội XI nhấn mạnh: “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân”(12). Trong các văn kiện, nghị quyết trước đây, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cũng đã được Đảng ta đề cập nhiều lần, nhưng còn ít gắn với nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Còn trong Văn kiện Đại hội XI, việc tách riêng vấn đề này và đặt nó là một trong bốn nội dung gắn liền với việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chứng tỏ rằng, Đảng ta đã và đang hết sức coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 4. Tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí Nhận thức một cách sâu sắc những tác hại nghiêm trọng mà nạn tham nhũng gây ra đối với sự tồn vong của một chính thể, đang thực sự là nguy cơ đối với công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã phát động cuộc chiến
  11. chống tham nhũng. Vấn đề đấu tranh chống tham nhũng đã được Đảng ta đề cập trong các văn kiện Đại hội IX và X, nhưng không trực tiếp gắn liền với vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nay, trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta coi việc tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí là một trong những nội dung không thể thiếu của việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây cũng là một điểm mới và hoàn toàn hợp lý; bởi lẽ, tham nhũng được coi là một thứ “quốc nạn”, một thứ “giặc nội xâm”, gây phương hại đến tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. “Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài”(13) trong quá trình đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tóm lại, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ trương, đường lối có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, xuất phát từ đòi hỏi tất yếu, khách quan của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Nhận thức, quan điểm của Đảng ta về các đặc trưng cơ bản, về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành, phát triển và hoàn thiện dần qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Trong Văn kiện Đại hội XI chứa đựng nhiều điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cả trên phương diện hình thức trình bày, cách diễn đạt, cả trên phương diện nội dung các đặc trưng cơ bản, các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, những nội dung liên quan đến vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu trong Văn kiện Đại hội XI là sự thể hiện bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (13) ******************** (*) Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.131-132. (2) Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về việc sửa đổi,
  12. bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.178. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.45. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.85-86. (5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.131. (6) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.125-126. (7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.159. (8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.171-172. (9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.179-180. (10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.246-247. (11) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.248-251. (12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.252. (13) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.252-253. CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V.I.LÊNIN VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA ĐẢNG TA VŨ TRỌNG DUNG (*) Đưa ra và luận giải những nội dung căn bản trong chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin, đồng thời chỉ rõ ý nghĩa to lớn của nó không chỉ đối với công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế ở nước Nga Xôviết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, mà còn đối với công cuộc phát triển kinh tế ở Việt Nam trong những năm đổi mới, tác
  13. giả đã khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra trên tinh thần vận dụng sáng tạo chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin là đúng đắn và cần thiết để đưa nền kinh tế nước ta từng bước tiến lên. Chính sách kinh tế mới (NEP) của V.I.Lênin được ban hành và áp dụng ở nước Nga Xôviết cách đây đã chín mươi năm. Qua mỗi bước thăng trầm của lịch sử, bản chất cách mạng và sáng tạo của nó lại một lần nữa được khẳng định. Chúng ta đều biết, thời kỳ sau Cách mạng Tháng Mười, nước Nga Xôviết đã phải trải qua một chặng đường phát triển đầy mâu thuẫn và phức tạp. Tháng 2 năm 1921, V.I.Lênin đã xác định nhiệm vụ cho nước Nga Xôviết như sau: “Trong một số vấn đề kinh tế, chúng ta cần rút lui về những vị trí của chủ nghĩa tư bản nhà nước”(1). “Chủ nghĩa tư bản nhà nước” mà V.I.Lênin nói tới ở đây là chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. Nếu như trong những năm đó, đôi khi V.I.Lênin có nói tới “Chủ nghĩa cộng sản”, thì điều đó chỉ có nghĩa là ông nói nó xuất hiện ở giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì, chủ nghĩa cộng sản trọn vẹn, chín muồi là sự nghiệp của một tương lai lâu dài. Chính sách kinh tế mới được xem là khâu chính của thời kỳ quá độ cũng là đối sách của V.I.Lênin do hoàn cảnh khách quan trong nước những năm 1920 - 1921 tạo ra. Vì vậy, để hiểu rõ thực chất chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin, trước tiên cần phải xem xét tình trạng của nước Nga Xôviết thời kỳ sau nội chiến (1920).(1) Như mọi người đều biết, tình trạng kinh tế của nước Nga Xôviết sau nội chiến vô cùng tồi tệ: “Hậu quả của nội chiến đạt tới mức độ khổng lồ”, tình trạng phân tán và tản mạn của những người tiểu sản xuất, sự nghèo đói, vô văn hoá và mù chữ của họ, mối liên hệ trao đổi hàng hóa giữa thành thị và nông thôn bị ngừng trệ. Nội chiến những năm 1918 - 1920 làm khánh kiệt đất nước, cản trở công việc tái thiết lực lượng sản xuất vốn đã bị tàn phá nặng nề. Thêm vào đó là nạn mất mùa năm 1920, nạn dịch súc vật; vì vậy tăng thêm những vùng bị đói, việc đó lại càng cản trở việc khôi phục giao thông và công nghiệp. Theo đà ngày càng suy thoái của tình trạng kinh tế đất nước, tình thế chính trị cũng tiếp tục trầm trọng hơn. Khá phổ biến là sự dao động về chính trị của người tiểu sản
  14. xuất. Cuộc nổi loạn ở Crônstát và cuộc khởi nghĩa của nông dân ở vùng Tambốp đã thể hiện một cách đặc trưng cho sự dao động của tầng lớp tiểu tư sản và tính tự phát của nông dân nói chung. Những sự kiện diễn ra vào mùa xuân năm 1921 chứng tỏ Đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng và những người mensêvích muốn thực hiện “chuyển giao chính quyền” cho những phần tử tư bản chủ nghĩa. Nguyên nhân làm nảy sinh tình trạng này đã được V.I.Lênin chỉ rõ rằng, đó là do “chúng tôi đã tiến quá xa trong cuộc tấn công về mặt kinh tế… Chúng tôi chưa đủ sức để chuyển trực tiếp sang những hình thức thuần túy xã hội chủ nghĩa, sang việc phân phối thuần túy xã hội chủ nghĩa; và nếu chúng tôi lại tỏ ra không có khả năng lùi bước, để chỉ đóng khung trong những nhiệm vụ dễ hơn mà thôi, thì có lẽ chúng tôi đã bị nguy cơ diệt vong rồi” (2). ở đây, V.I.Lênin muốn nói rằng, nếu như “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” trước đây được rất nhiều người trong Đảng hiểu như là một chính sách cần phải được tiếp tục trong chặng đường tiếp theo của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì thực tế đã cho thấy, sau chiến tranh, không thể tiếp tục con đường đó, bởi nó đối lập Đảng với quần chúng nhân dân, công nhân với nông dân và chỉ làm trầm trọng thêm nền kinh tế vốn đã hoang tàn của đất nước. Tháng 2 năm 1921, tại Hội nghị lần thứ XI, Đảng Cộng sản (b) Nga đã nhất trí thông qua chính sách kinh tế mới. Đảng đã quyết định áp dụng ở nước Nga Xôviết những biện pháp khẩn cấp, kiên quyết nhằm cải thiện tình cảnh của nông dân và phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn. Qua nhiều bài viết và nói của V.I.Lênin, chúng ta thấy rõ lúc đó ông đã thay đổi quan điểm của mình về các thành phần kinh tế trong nước và sự tác động qua lại lẫn nhau của chúng, về vai trò của giai cấp tư sản mới, và nhất là về vai trò của hợp tác xã và quan hệ thị trường. Cần nhấn mạnh rằng, những quan điểm đó còn tiếp tục thay đổi trong những tác phẩm cuối cùng của V.I.Lênin. Đối với ông, việc thay đổi đó là hoàn toàn tự nhiên. Ông luôn vận dụng phương pháp của phép biện chứng duy vật để giải quyết những mâu thuẫn mới nảy sinh và phát triển. Ông chỉ rõ rằng, khi tình hình đã thay đổi thì không thể áp dụng những phương pháp cũ. Rằng, chúng ta không tránh khỏi sai lầm khi vẫn duy trì tình trạng cả xã hội chỉ là một văn phòng và một nhà máy cùng lao động như nhau, hưởng cùng một mức lương. Vì vậy, sau nội chiến,
  15. ông đã kịp thời thay đổi chủ trương, chuyển từ cái gọi là “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” sang chính sách kinh tế mới. V.I.Lênin đã rút ra kết luận là: Trong điều kiện thực tế của nước Nga, giai cấp vô sản đã giảm nhiều sau hai cuộc chiến tranh lại vừa mới giành chính quyền về tay, họ không có kinh nghiệm quản lý và do vậy, không có khả năng khẳng định sở hữu xã hội đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã hội. Để phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện mới hình thành, cần phải kiên quyết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần. Điều đó có nghĩa là, ngoài phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa mới chỉ phôi thai và về nguyên tắc, được công nhận là có vai trò chủ đạo, cần phải cho phép tồn tại những phương thức sản xuất khác và hơn nữa cần phải phát triển ở mức độ nhất định một số thành phần kinh tế khác. Trong khi vận dụng chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin đã dùng từ “quá độ” để chỉ rõ trong nền kinh tế của nước Nga khi đó “có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội”(3). Nền kinh tế nhiều thành phần là nét đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đầu thế kỷ XX, ở nước Nga khi đó có những thành phần kinh tế sau đây: “1. Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên; 2. Sản xuất hàng hoá nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mỳ); 3. Chủ nghĩa tư bản tư nhân; 4. Chủ nghĩa tư bản nhà nước; 5. Chủ nghĩa xã hội”(4). ở đây xuất hiện vấn đề là, thành phần kinh tế nào trong những thành phần kinh tế ấy có thể chấp nhận được đối với chủ nghĩa xã hội tương lai, các thành phần kinh tế tác động qua lại theo hướng nào trong mối quan hệ tương hỗ ấy? Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin cho phép sử dụng ở từng khâu sản xuất và lưu thông những phương thức kinh tế đa dạng và đang từ từ biến đổi với quy mô lớn; có chú ý tới trình độ trang bị kỹ thuật nhằm phát huy cao độ khả năng của tất cả các thành phần kinh tế khác nhau và từng bước liên kết chúng, trong khi vẫn duy trì và phát huy vai trò chủ đạo của khu vực nhà nước, hướng hoạt động của nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa. Quyết định mang ý nghĩa chiến lược này có tác dụng
  16. mở ra mọi khả năng phát triển lực lượng sản xuất và thiết lập một cơ cấu kinh tế hợp lý. Đó chính là phương sách đúng đắn như V.I.Lênin đã chỉ ra: “Để chúng ta có thể làm tròn một cách thắng lợi nhiệm vụ của chúng ta, tức là chuyển thẳng lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết để chuyển từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”(5). Chính chủ nghĩa tư bản cũng phải bắt đầu bằng cách ấy. Nhấn mạnh vai trò của chủ nghĩa tư bản như là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, V.I.Lênin đã kiên trì giải thích rằng, nước Nga chưa đủ sức để chuyển trực tiếp từ tiểu sản xuất sang chủ nghĩa xã hội, và trong điều kiện như vậy, chủ nghĩa tư bản ở một mức độ nhất định là không tránh khỏi, giống như sản phẩm tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi hàng hoá; nhưng nhiệm vụ trực tiếp là: “Chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng cường lực lượng sản xuất lên”(6). Đương nhiên, chủ nghĩa tư bản nhà nước đúng với nghĩa của nó không phải là giải pháp trực tiếp đưa nền sản xuất nông nghiệp sang nền nếp xã hội chủ nghĩa. Song, theo V.I.Lênin, ở giai đoạn phát triển này của nền kinh tế nước Nga, chủ nghĩa tư bản có thể là chủ nghĩa tư bản đặc biệt, bởi nó tồn tại và chịu sự quản lý, điều tiết của chính quyền Xôviết. Vì vậy, cho dù giữa hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội còn có sự cạnh tranh, song đó chính là động lực phát triển của lực lượng sản xuất. V.I.Lênin nhận xét rằng, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn đóng vai trò hỗ trợ cho chủ nghĩa xã hội và chính quyền Xôviết có được lợi ích trước mắt dưới dạng phát triển lực lượng sản xuất và tăng khối lượng sản phẩm cho những nhu cầu thiết yếu trong một thời gian ngắn. Đây là lý do cắt nghĩa vì sao cần sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như một phương tiện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để phát triển nhanh lực lượng sản xuất ở nước Nga Xôviết trong những năm 20 của thế kỷ XX, cần thiết phải sử dụng không những chủ nghĩa tư bản trong nước, mà cả ở nước ngoài nữa, khi cần phải học tập kinh nghiệm của phương Tây, và nói chung, cả kinh nghiệm của những nước phát triển. V.I.Lênin chỉ rõ: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền xô viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ
  17. thuật và cách tổ chức các tơrớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. + + = tổng số = chủ nghĩa xã hội”(7). Liên quan tới vấn đề này, V.I.Lênin còn thẳng thắn phê phán những đảng viên chỉ muốn mơ ước về “sự trong sạch” của chủ nghĩa cộng sản, sính thảo ra những dự án, quy chế và quy tắc khác nhau nhưng lại không thúc đẩy được công việc thực tế tiến lên. Như vậy, có thể nói, khi vạch ra kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đã coi thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước là điều kiện cần thiết để chuyển sang chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông như nước Nga. Ông đã chỉ rõ vai trò đặc biệt và vị trí cần thiết của thành phần kinh tế này đối với nền kinh tế nước Nga: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế hiện nay của nước ta… Chủ nghĩa tư bản nhà nước không có gì là đáng sợ đối với Chính quyền Xôviết, vì nước Xôviết là một nước mà trong đó chính quyền của công nhân và nông dân nghèo đã được bảo đảm”(8). Không chỉ thế, ông còn nhấn mạnh rằng, “đối với thứ chủ nghĩa tư bản mà chúng ta đã cho phép tồn tại, thì cần phải để cho nó tồn tại. Nếu chủ nghĩa tư bản đó là quái đản và không tốt, thì chúng ta có thể uốn nắn nó, vì chính quyền nằm trong tay chúng ta, và chúng ta chẳng có gì mà sợ cả. Tất cả mọi người đều thừa nhận điều đó, và sẽ là lố bịch nếu lẫn lộn điều đó với việc gieo rắc tâm trạng hoang mang. Nếu chúng ta sợ thừa nhận điều đó, thì chắc chắn chúng ta sẽ tiêu vong. Nhưng chúng ta sẽ học tập điều đó, chúng ta sẽ có quyết tâm học tập điều đó; đây là điều đã được chứng minh trong ba, bốn, và năm năm nay là những năm mà chúng ta đã học tập được những điều còn phức tạp hơn trong một thời gian ngắn hơn”(9). V.I.Lênin cho rằng, chúng ta có thể học tập chủ nghĩa tư bản nhà nước của người Đức, dốc hết sức ra bắt chước nó và không ngại dùng biện pháp độc tài để đẩy nhanh nước Nga cổ dã man bắt chước con đường phát triển của Tây Âu đó và không ngần ngại dùng những thủ đoạn dã man để đấu tranh với tình trạng dã man. Chính sách kinh tế mới còn có ý nghĩa to lớn đối với nông thôn, nông dân. Mặc dù thực chất của vấn đề là ở sự điều chỉnh mối quan hệ trao đổi giữa thành phố (công nghiệp) và nông thôn (nông nghiệp), song đó chính là sự sống còn của nông thôn và người nông dân.(8)Không phải vô cớ mà V.I.Lênin đánh giá rất cao vai trò của chính sách thuế lương thực và cơ chế thị trường. Trên thực tế, thực hiện chính sách thuế
  18. lương thực không chỉ là sự thay thế việc trưng thu lương thực thừa, mà còn có nghĩa là tự do buôn bán lúa mì thừa và các sản phẩm khác sau khi đã nộp thuế. Đây là một chính sách thông minh và hợp lý. Bởi lẽ, thứ nhất, nó củng cố khối liên minh công nông với tư cách nền tảng giai cấp của chủ nghĩa xã hội tương lai; thứ hai, tạo ra sự phát triển thương mại tự do, chủ động và góp phần khôi phục toàn bộ nền kinh tế thông qua việc hồi sinh các quan hệ tư bản tư nhân. Theo V.I.Lênin, tự do thương mại chính là đòn bẩy phát triển lực lượng sản xuất của nền kinh tế nông nghiệp và tiểu công nghiệp, cũng như mở rộng cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa quan liêu trong kinh tế. Ông viết: “Cơ sở kinh tế” của sự tiêu vong của chủ nghĩa quan liêu, của sự tiêu vong các tầng lớp trên và tầng lớp dưới, của sự tiêu vong sự bất bình đẳng...” là ở “việc trao đổi hàng hoá với nông dân”(10). Rằng, “kinh tế nông dân, với tư cách là một nền kinh tế tiểu nông, không thể đứng vững được, nếu không có một sự tự do trao đổi nào đó, và không có những quan hệ tư bản chủ nghĩa gắn liền với tự do trao đổi đó”(11). Do vậy, theo ông, với nước Nga khi đó, thương nghiệp là “phương sách kiểm nghiệm” đời sống kinh tế nhà nước, là “mối ghép” duy nhất, là cái có thể liên minh đội ngũ tiên tiến của giai cấp vô sản với nông dân để từ đó, mới có thể có sự phát triển kinh tế. Nhờ có chính sách kinh tế mới và quá trình sản xuất nên chỉ trong vòng một năm rưỡi nhân dân Liên Xô đã đạt được những kết quả rực rỡ, có ý nghĩa quyết định trong kinh tế; tình cảnh của nông dân và đa số những người tiểu sản xuất đã được cải thiện; trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ đã có sự tiến triển, không còn cảnh công nhân bất bình; trong lĩnh vực công nghiệp nặng đã bắt đầu tích luỹ được vốn cần thiết để vực nền công nghiệp nặng đi lên. Thế nhưng, không phải tất cả những người bônsêvích đều ủng hộ chính sách kinh tế mới, trong dư luận xã hội vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Vì vậy, điều quan trọng là phải hiểu đúng thực chất của chính sách kinh tế mới. Bởi lẽ, một số người cho rằng, chính sách kinh tế mới chỉ là biện pháp nhất thời; số người khác lại coi đó chỉ là thời kỳ khôi phục kinh tế đất nước sau nội chiến; số thứ ba thì nhìn nhận đó là tổn thất của cách mạng, là sự chệnh hướng sang tư bản chủ nghĩa. Chỉ có một số người hiểu đúng rằng, chính sách kinh tế mới là một trong những hình thức, phương thức hợp lý nhất để chuyển từ “chế độ cộng sản thời chiến” sang chủ nghĩa xã hội. (10)
  19. Như vậy, ở đây là cả một quá trình, trong đó cách đặt vấn đề về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội của V.I.Lênin đã có sự thay đổi. Nhưng bản thân V.I.Lênin vẫn chưa nói đến việc thay đổi căn bản quan niệm về chế độ xã hội chủ nghĩa. Công thức về “chế độ của những người xã viên văn minh” dĩ nhiên không thể bao hàm tất cả bản chất của chủ nghĩa xã hội cũng như công thức “Chính quyền xô viết cộng với điện khí hóa toàn quốc”. Chúng ta không thể tán thành quan điểm cho rằng, dường như chính sách kinh tế mới là mô hình “mới” của chủ nghĩa xã hội do V.I.Lênin nghĩ ra lúc cuối đời. Chính sách kinh tế mới không phải là mô hình mới của chủ nghĩa xã hội, mà chỉ là hướng mới trong việc xây dựng nền móng của chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực kinh tế, thông qua việc lợi dụng nền kinh tế nhiều thành phần để tránh chủ nghĩa giáo điều trong việc quản lý kinh tế của nhà nước. Cơ chế kinh tế của chính sách kinh tế mới theo quan niệm của V.I.Lênin, về cơ bản, vẫn là cơ chế đặc trưng không phải cho chủ nghĩa xã hội, mà là cho thời kỳ quá độ xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Với V.I.Lênin, chính sách kinh tế mới là sự kết hợp nhiều hình thức sở hữu khác nhau và do vậy, trong nó có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các quan hệ sản xuất khác nhau. Đường lối phát triển này là sự củng cố từ từ nhằm tăng cường phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa trong công nghiệp và nông nghiệp để nó đủ khả năng phục hồi kinh tế đất nước và sau đó, phát triển nhanh lực lượng sản xuất ở nước Nga Xôviết. Rất tiếc rằng, mấy năm sau khi V.I.Lênin qua đời, chính sách kinh tế mới đã sớm bị dừng lại, không được tiếp tục hoàn chỉnh, bổ sung trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận thức và vận dụng sáng tạo chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin vào điều kiện lịch sử - cụ thể của nước ta. Từ Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta đã thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là đặc trưng của cơ cấu kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và đưa ra chủ trương chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế nhiều thành phần. Nếu thời kỳ trước đổi mới, ở nước ta chỉ có một thành phần kinh tế là “thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể”, thì giờ đây, phải “bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”(12).
  20. Đây là lúc thực tiễn đặt ra cho chúng ta cần phải nhận thức đúng đặc điểm của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ như V.I. Lênin đã chỉ ra là có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện đó, không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ bằng thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; nghĩa là khi đề ra đường lối kinh tế phải tính tới tất cả các thành phần kinh tế hợp thành nền kinh tế quốc dân, không được bỏ sót một thành phần kinh tế nào. Chỉ có như vậy, chúng ta mới khai thác được mọi tiềm năng của sản xuất, khai thác được sức mạnh của toàn dân trong tất cả các thành phần kinh tế, mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.(12). Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã được nêu ra từ Đại hội VI của Đảng, Đại hội X của Đảng (năm 2006) đã xác định năm thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đó là: 1. Thành phần kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước (trước đây thường gọi là kinh tế quốc doanh) và các sở hữu khác của Nhà nước, kể cả phần vốn của Nhà nước trong các đơn vị liên doanh. Đảng ta khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”(13). 2. Thành phần kinh tế tập thể. Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh của tập thể để giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống. Trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, “Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(14). 3. Thành phần kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Mục tiêu đổi mới của chúng ta là xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta có kinh tế tư nhân, nhưng chúng ta không tư nhân hoá nền kinh tế. “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”(15). Vì vậy, Đảng ta chủ trương phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Và, để phát triển kinh tế tư nhân - thành phần kinh tế năng động nhất, chiếm số lượng doanh nghiệp và số người tham gia đông nhất, còn nhiều
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2