intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: PHÂN TÍCH HIỆN TƯỢNG “BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH” Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Chia sẻ: Lotus_123 Lotus_123 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

654
lượt xem
91
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đối với nền kinh tế Việt Nam, thách thức từ “bẫy thu nhập trung bình” là rất rõ ràng, khi nguồn nhân lực giá rẻ có thể sẽ không còn là một lợi thế trong tương lai...Khái niệm "bẫy thu nhập trung bình" gần đây được sử dụng rộng rãi, để nói về việc một nền kinh tế vượt qua ngưỡng thu nhập bình quân 1000 USD/người/năm, nhưng vì nhiều lý do sẽ khó có thể đạt được mức thu nhập cao hơn nữa...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: PHÂN TÍCH HIỆN TƯỢNG “BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH” Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

  1. TIỂU LUẬN PHÂN TÍCH HIỆN TƯỢNG “BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH” Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM.       1 
  2. MỤC LỤC Phần 1: LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................2 Phần 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................................4 Phần 3: NỘI DUNG ĐỀ TÀI ........................................................................................5 I. Khái quát hiện tượng “bẫy các nước thu nhập trung bình”.......................................3 1. Các quan niệm về hiện tượng “bẫy các nước thu nhập trung bình”...................5 2. Nguyên nhân tình trạng vướng vào “bẫy thu nhập trung bình” .........................6 3. Các giải pháp để thoát ra tình trạng “bẫy thu nhập trung bình” ……………..7 3.1 . Các giải pháp để thoát khỏi “bẫy thu nhập trung trung bình” dưới góc nhìn của chuyên gia……………………………………………………..7 3.2. Chính sách công nghiệp tiên phong……………………………………...8 II. Bẫy thu nhập trung bình ở Malayxia và Thái Lan ....................................................9 III. Sức ép từ “bẫy thu nhập trung bình” đối với những nền kinh tế mới nổi…….12 IV. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và đề xuất giải pháp.....................................18 1. Khái quát kinh tế Việt Nam ..............................................................................18 2. Bài học cho Việt Nam từ kinh nghiệm của Hàn Quốc và Thái Lan .................21 3. Đề xuất giải pháp………..…………………………………………………...23   2 
  3. V. Kết luận…………………………………………………………………………...25 Phần I LỜI MỞ ĐẦU Nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong những năm vừa qua và đạt được nhiều kết quả tích cực, thể hiện rõ nhất qua tăng trưởng nhanh gắn liền với giảm tỷ lệ nghèo. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ đó, nhiều hạn chế được bộc lộ như hiệu quả đầu tư thấp, hạ tầng kỹ thuật ngày càng bất cập so với mức độ và nhu cầu phát triển kinh tế; nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường; hệ thống pháp luật và hành chính còn quá nhiều rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; hệ thống an sinh xã hội còn mỏng nên chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội. Tốc độ tăng trưởng nhanh cũng làm xuất hiện ngày càng nhiều hơn những vấn đề xã hội mới và ô nhiễm môi trường rất đáng lo ngại. Những hạn chế nêu trên cho thấy chất lượng tăng trưởng kinh tế, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong những năm qua còn chưa cao.Dù suy giảm kinh tế từ năm 2008 là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, nhưng phần lớn những suy giảm vẫn là do nguyên nhân nội tại của nền kinh tế. Vì thế, một câu hỏi ngày càng trở nên cấp thiết được đặt ra là trước những diễn biến phức tạp của khủng hoảng tài chính thế giới, suy giảm kinh tế toàn cầu và bối cạnh tranh ngày một gay gắt hơn sau khủng hoảng, làm thế nào để tăng trưởng nhanh, bền vững đi liền với cải thiện năng suất, chất lượng cuộc sống của người dân trong giai đoạn tới? Từ năm 2009, Việt Nam chính thức trở thành nước có thu nhập trung bình theo cách phân loại của Ngân hàng Thế giới. Đây là cột mốc vô cùng quan trọng, mở ra nhiều cơ hội mới cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Thế nhưng trên thực tế, có nhiều nền kinh tế ở châu Á từ nghèo chuyển thành có thu nhập trung bình, nhưng có rất ít trong số đó vượt lên như trường hợp của Đài Loan và Hàn Quốc.Philippines là quốc gia điển hình của tình trạng vướng vào bẫy thu nhập trung bình đã không thể vượt qua ngưỡng 2.000 USD trong nhiều thập niên. Indonesia cũng mất hơn một thập niên để từ trên 1.000 USD vượt lên hơn 2.000 USD/người.Còn Thái Lan thì bất ổn kéo dài từ sau 2005 và cũng mất hơn hai thập niên mới vượt qua con số 3.000 USD. Để quá trình phát triển không dừng lại ở mức thu nhập trung bình, hay tránh rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, Việt Nam phải hoạch định con đường phát triển đất nước theo hướng duy trì tốc độ tăng trưởng cao một cách bền vững. Đặc biệt, Việt Nam cần có năng lực bao quát và tầm nhìn phát triển một cách phù hợp, triển khai hiệu quả các biện   3 
  4. pháp thực hiện tầm nhìn ấy. Trên con đường ấy, có rất nhiều khó khăn, thách thức mà Việt Nam cần phải vượt qua như mức độ ngày càng gay gắt của cạnh tranh trên thị trường thế giới, tăng trưởng phải gắn lien với bền vững và bình đẳng xã hội; nâng cao năng lực quản trị của nhà nước; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo công khai, minh bạch; đẩy mạnh việc đa dạng hóa thị trường vốn; tự do hóa thương mại dịch vụ; mở rộng các hệ thống giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức. Điều này đòi hỏi cần phần nhìn nhận một cách toàn diện hơn bản chất mô hình tăng trưởng ở nước ta, nhất là chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong giai đoạn vừa qua để có đối sách kịp thời. Trong bối cảnh đó, việc tiến hành nghiên cứu, phân tích tác động của “bẫy thu nhập trung bình” ở các nước đang phát triển, từ đó đề xuất các biện pháp cho Việt Nam tránh “bẫy thu nhập trung bình”, cũng như chỉ ra những thách thức có thể nảy sinh đối với một nước thu nhập trung bình là một nhiệm vụ mang tính cấp thiết và có ý nghĩa thực sự quan trọng. Đó cũng chính là lý do nhóm tiến hành nghiên cứu, thực hiện đề tài : “Phân tích hiện tượng “bẫy thu nhập trung bình” ở các nước đang phát triển & Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam hiện nay.”   4 
  5. Phần 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN Lý thuyết cho chúng ta có được một cái nhìn tổng quan về các hiện tượng các quy luật trong cuộc sống. Vì vậy cơ sở lí luận của một vấn đề nào đó là một phần rất quan trọng trong quá trình đào sâu tìm hiểu và phân tích nó. Trong đề tài này chúng tôi tham khảo và ứng dụng những lý thuyết làm nền tảng như sau: • Quan điểm lý luận về “bẫy các nước thu nhập trung bình” , các giải pháp để thoát khỏi tình trạng “bẫy của các nước thu nhập trung bình” dưới góc nhìn của các chuyên gia như Indermit Gill, cố vấn và Homi Kharas, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng thế giới. • Quan điểm lý luận về “bẫy các nước thu nhập trung bình” hay “Bẫy thu nhập trung bình” và khái niệm“chiếc trần thủy tinh vô hình”.của GS. Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia Tokyo. • Kinh nghiệm và phương hướng của một số nhà lãnh đạo như Thủ tướng Malaixia Najib Tun Razak,...   5 
  6. Phần 3 NỘI DUNG ĐỀ TÀI I. KHÁI QUÁT HIỆN TƯỢNG “ BẪY CỦA CÁC NƯỚC THU NHẬP TRUNG BÌNH” Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN. 1. CÁC QUAN NIỆM VỀ HIỆN TƯỢNG “BẪY CỦA CÁC NƯỚC THU NHẬP TRUNG BÌNH” Theo đúng nghĩa, phát triển phải hình thành nhờ nâng cao chất lượng vốn con người hơn là nhờ may mắn vì có được nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào hay vị trị địa lý thuận lợi để dễ dàng tiếp nhận hỗ trợ và đầu tư nước ngoài. Nếu phụ thuộc vào những yếu tố không tự mình tạo ra, quốc gia có thể tăng trưởng đến mức thu nhập thấp, trung bình hay cao với một chút nỗ lực, nhưng rồi cuối cùng cũng sẽ bị mắc kẹt ở mức thu nhập đó nếu không xây dựng được ý thức quốc gia và những thể chế để khuyến khích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tình trạng này được gọi là “Bẫy phát triển”. Nếu đất nước có chút ít lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý, đất nước đó sẽ dễ bị rơi vào “Bẫy thu nhập trung bình” Theo Indermit Gill, cố vấn và Homi Kharas, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng thế giới “ Bẫy của các nước thu nhập trung bình” hay “Bẫy thu nhập trung bình” là tình trạng không đáp ứng nổi những đòi hỏi cao và rất cao khi nền kinh tế đã đạt đến mức thu nhập trung bình. Có hai mốc quan trọng: GDP trên 1000 USD người/năm và khoảng 10.000 USD người/năm. Chỉ có nền kinh tế nào vượt qua mốc thứ nhất và sau đó tiếp tục tăng trưởng mạnh để đạt tới mốc thứ hai, rồi vẫn tiếp tục tăng trưởng thì mới trở thành nền kinh tế công nghiệp hóa. Trong khi đó, GS. Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia Tokyo lại cho rằng : “ Bẫy của các nước thu nhập trung bình” hay “Bẫy thu nhập trung bình” có thể được hình dung giống như “chiếc trần thủy tinh vô hình” ngăn cản sự phát triển kinh tế giữa giai đoạn II với giai đoạn III trong quá trình 4 giai đoạn của sự tăng trưởng và phát triển . Bốn giai đoạn của sự tăng trưởng và phát triển và “chiếc trần thủy tinh vô hình” được thể hiện qua sơ đồ dưới đây:   6 
  7. “Chiếc trần thủy tinh vô hình” giữa giai đoạn II và giai đoạn III chính là “bẫy thu nhập trung bình”. Vượt qua được sự ngăn cản của chiếc trần thủy tinh này, nền kinh tế sẽ chuyển từ giai đoạn phụ thuộc một phần vào ngoại lực sang hoàn toàn dựa vào nội lực. Lúc đó, nguồn nhân lực trong nước đủ trình độ thay thế hoàn toàn lao động nước ngoài, nền kinh tế đủ trình độ là nhà xuất khẩu năng động với các sản phẩm chất lượng cao đáp ứng và cạnh tranh với nền kinh tế thế giới. Như vậy, “bẫy thu nhập trung bình” trong quan niệm của Kenichi Ohno và của Homi Kharas có khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta có thể rút ra khái niệm ngắn gọn về “ Bẫy của các nước thu nhập trung bình ” như sau: “ Bẫy của các nước thu nhập trung bình” hay “Bẫy thu nhập trung bình” là một thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng mắc kẹt của nhiều quốc gia đã thoát nghèo, gia nhập vào nhóm nước có thu nhập trung bình nhưng mất nhiều thập niên vẫn không trở thành quốc gia phát triển.   7 
  8. 2. CÁC NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG VƯỚNG VÀO “BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH”: Các quốc gia đang phát triển lại vướng vào “ bẫy thu nhập trung bình” là do các nguyên nhân chính sau : + Sự suy giảm hiệu quả vốn đầu tư sau quá trình kích thích tăng trưởng. + Tiếp tục tình trạng của một nền kinh tế gia công . + Sự phân hóa thu nhập dẫn đến phân cực và bất ổn. Ngoài ra, quá trình phát triển từ thu nhập thấp đến thu nhập trung bình cũng ngầm chứa nhiều yếu tố là nguyên nhân để một nước rơi vào bẫy trung bình. Đó là sự hủy hoại môi trường sống mà phải mất nhiều nguồn lực và thời gian khắc phục, sự thay đổi môi trường xã hội dễ tạo ra những xung đột, tâm lý đòi thưởng công trạng biểu hiện ở nhu cầu hưởng thụ sớm. Thực tế, có nhiều nền kinh tế ở châu Á từ nghèo chuyển thành có thu nhập trung bình, nhưng có rất ít trong số đó vượt lên như trường hợp của Đài Loan và Hàn Quốc. Philippines là quốc gia điển hình của tình trạng vướng vào bẫy thu nhập trung bình đã không thể vượt qua ngưỡng 2.000 USD trong nhiều thập niên. Indonesia cũng mất hơn một thập niên để từ trên 1.000 USD vượt lên hơn 2.000 USD/người. Còn Thái Lan thì bất ổn kéo dài từ sau 2005 và cũng mất hơn hai thập niên mới vượt qua con số 3.000 USD. Nước ta với mức thu nhập bình quân đầu người khoảng 1.200 USD như hiện nay, nếu không rút kinh nghiệm từ các nước láng giềng trên đây, cũng như không học tập mô hình phát triển của Đài Loan và Hàn Quốc thì liệu 15 đến 20 năm nữa có vượt qua bẫy thu nhập trung bình hay không? Chính vì thế mà Việt Nam phải cẩn trọng để tránh vướng vào “bẫy thu nhập trung bình”. 3. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ THOÁT KHỎI TÌNH TRẠNG “ BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH” : 3.1 Các giải pháp để thoát khỏi tình trạng “Bẫy thu nhập trung bình” dưới góc nhìn của các chuyên gia Ở bất kỳ giai đoạn nào, nếu muốn nền kinh tế có những thành tựu trong tăng trưởng và phát triển, mỗi nền kinh tế đều cần phải được quản lý sáng tạo và điều chỉnh không ngừng. Tuy nhiên, nếu chỉ như thế, nền kinh tế vẫn không vượt qua được bẫy thu nhập trung bình. Những đòi hỏi cao và rất cao để vượt qua bẫy này, theo Indermit Gill, Homi Kharas và các chuyên gia WB, gồm:   8 
  9. + Chuyển từ đa dạng hóa sang chuyên môn hóa: Khi bắt đầu tăng trưởng, các nền kinh tế đều có xu hướng đa dạng hóa. Nhưng xu hướng này đảo ngược thành chuyên môn hóa khi nền kinh tế đạt tới một ngưỡng nào đó về hiệu quả tính trên quy mô tương ứng. Ở Singapore, ngưỡng này là 2500 USD người/năm. Một số nước khác từ 5000 - 8000 USD người/năm. + Có ý chí và có phương thức đổi mới công nghệ: Khi các doanh nghiệp trong một nền kinh tế đạt tới “biên giới công nghệ” thì cần phải khuyến khích sự xuất hiện của các doanh nghiệp mới với công nghệ mới. Điều này đòi hỏi phải thay đổi từ luật lệ, chính sách đến bản thân doanh nghiệp. Chọn thời điểm thực hiện bước chuyển này và xử lý được sự phản kháng của các nhóm lợi ích là thách thức lớn đối với các chính phủ + Biết ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học: Chuyển ưu tiên từ đầu tư chung cho giáo dục sang đầu tư cho các nghiên cứu khoa học (R&D) khi nền kinh tế đạt tới trình độ nào đó về chuyên môn hóa, đòi hỏi phải sản xuất được những sản phẩm mới với các quy trình công nghệ mới. Thông thường, do không biết chính xác các hoạt động R &D nào cần đầu tư, các chính phủ buộc phải ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại học và sau đại học. 3.2 .Chính sách công nghiệp tiên phong: Chính sách công nghiệp tiên phong nhằm củng cố sự cân bằng vốn rất mong manh và hay thay đổi giữa chỉ đạo của nhà nước và định hướng thị trường, giữa cam kết toàn cầu hóa và duy trì công cụ chính sách, giữa lãnh đạo quyết đoán với nhu cầu lắng nghe doanh nghiệp tư nhân một cách cẩn trọng. Chính sách này rất khó thực hiện so với việc đơn giản buông lỏng thị trường hoặc kiểm soát mọi việc bằng cỗ máy nhà nước. Hợp phần chủ đạo của chính sách này là chấp nhận cơ chế thị trường và toàn cầu hóa, tinh thần học hỏi linh hoạt của cả chính phủ và khu vực tư nhân, và mối tương tác phức tạp, không ngừng thay đổi giữa hai khu vực này. Cụ thể hơn, chính sách công nghiệp tiên phong phải thỏa mãn tất cả những điều kiện sau: • Phát triển theo cơ chế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa: khu vực tư nhân tham gia chủ yếu vào hoạt động sản xuất, đầu tư, thương mại và các hoạt động kinh tế khác trong môi trường cạnh tranh mở do cơ chế thị trường và quá trình toàn cầu hóa tạo ra. Nhà nước không tham gia vào hoạt động sản xuất, trừ những lĩnh vực khu vực tư nhân chưa sẵn sang tiếp quản vai trò của nhà nước. • Nhà nước mạnh: Nhà nước đảm đương vai trò vững chắc và chủ động trong việc định hướng và hỗ trợ phát triển mặc dù về nguyên tắc, mọi hoạt động sản xuất đều do tư nhân tiếp nhận là chủ yếu. • Giữ lại những công cụ chính sách phù hợp cho các nước công nghiệp hóa đi sau • Phát triển năng lực động: Nâng cao năng lực chính sách và tính năng động của khu vực tư nhân   9 
  10. • Nội lực hóa kỹ năng và công nghệ có trong nguồn vốn con người của công dân các nước: Đây là phần quan trọng nhất của mục tiêu và giải pháp chính sách công nghiệp. • Cộng tác công tư hiệu quả: Xây dựng mối quan hệ hợp tác hiệu quả giữa hai khu vực nhà nước và tư nhân một cách vững chắc trên sự tin tưởng lẫn nhau và tham gia một cách tích cực từ hai phía. • Kiến thức sâu rộng về công nghiệp: nhằm tránh đánh giá sai chính sách và gây ảnh hưởng chính trị. Chính phủ cần phải tích lũy đầy đủ những kiến thức về ngành công nghiệp mà mình muốn can thiệp. Trên thực tế, có rất nhiều dẫn chứng về chính sách công nghiệp tiên phong đã được thực hiện, mà cụ thể là ở các nước Đông Á như Singapore, Malayxia, Thái Lan. II. “ BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH” Ở MALAIXIA VÀ THÁI LAN Đông Á được biết đến với mức tăng trưởng bứt phá đầy ấn tượng, nhưng không phải tất cả các nền kinh tế trong khu vực đều phát triển thành công. Điển hình như Nhật Bản bắt đầu công nghiệp hóa từ rất sớm, Đài Loan và Hàn Quốc cũng đạt được thu nhập và năng lực công nghiệp tương đối cao. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Malaixia và Thái Lan vẫn “khựng” lại ở mức thu nhập trung bình dù các nước này đã tiến hành công nghiệp hóa cùng thời điểm với Đài Loan và Hàn Quốc từ những năm 1960. Trong khu vực ASEAN, Malaixia với GDP bình quân đầu người là 7.750 đô la Mỹ (theo số liệu sơ bộ của quốc gia năm 2009) và Thái Lan, với GDP bình quân đầu người là 3.973 đô la Mỹ ( theo ước tính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm 2009) có thể là nạn nhân của “bẫy thu nhập trung bình”. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2009): “ Thách thức về trung hạn quan trọng nhất đối với kinh tế Malaixia là gia nhập vào nhóm các nước có thu nhập cao. Malaixia đã tăng trưởng vững chắc trọng vài thập kỷ qua, nhưng vẫn còn phụ thuộc vào mô hình kinh tế dựa vào tích lũy vốn là chủ yếu .Mặc dù đã đạt được nhiều thành công trong quá khứ nhưng khả năng tăng trưởng của Malaixia vẫn tụt hậu so với các nền kinh tế khác trong khu vực. Nền kinh tế dường như bị mắc vào bẫy của thu nhập trung bình- không thể duy trì tính cạnh tranh của một nhà sản xuất khối lượng lớn với chi phí thấp, cũng như không thể nâng cấp chuỗi giá trị và tăng trưởng nhanh bằng cách thâm nhập vào các thị trường hàng hóa và dịch vụ mang tính tri thức và sáng tạo đang tăng trưởng mạnh”. Thủ tướng Malaixia Najib Tun Razak, người nắm quyền vào tháng 4 năm 2009, đã coi việc vượt qua bẫy thu nhập trung bình là mục tiêu kinh tế quan trọng nhất của chính   10 
  11. phủ. Để đạt được mục tiêu đề ra, thủ tướng Najib muốn huy động các chính sách và nguồn lực hiện có để tự do hơn nữa nền kinh tế, thúc đẩy đầu tư tư nhân, hình thành các ngành tạo giá trị mới, cải cách ngân sách, phát triển nguồn nhân lực- được coi là năm trụ cột trong “Mô hình kinh tế mới” của ông: Mô hình kinh tế mới của Malaixia Ngược lại, Thái Lan đang nỗ lực từng bước phát triển công nghiệp bằng cách tiếp tục con đường đang đi của mình. Thái Lan vẫn tiếp tục khuyến khích FDI vào lĩnh vực chế tạo, thúc đẩy công nghệ khuôn mẫu, tăng cường năng lực và liên kết các nhà sản xuất linh kiện nội địa. Việc tiếp tục củng cố các cụng công nghiệp ô tô vẫn là trụ cột trong chính sách công nghiệp của Thái Lan.   11 
  12. Một trong các dự án hỗ trợ nỗ lực này là Dự án phát triển nguồn nhân lực trong ngành công nghiệp ô tô hiện đang được triển khai với sự hỗ trợ toàn diện của bốn công ty sản xuất ô tô lớn của Nhật Bản. Một định hướng chính sách khác là phát triển sản xuất ô tô sinh thái. Đồng thời, Thái Lan cũng khuyến khích phát triển các lĩnh vực mới như du lịch khám chữa bệnh, công nghệ sinh học và ITC. Dựa trên các thành quả đạt được trong quá khứ, Thái Lan áp dụng cách tiếp cận hai chiều, vừa phát triển cơ sở công nghiệp cũ đồng thời tìm kiếm các nguồn tăng trưởng mới. 5 chiến lược và 12 kế hoạch hành động của ngành công nghiệp ô tô Thái Lan Một điểm khác nhau dễ dàng nhìn thấy giữa Malaixia và Thái Lan đó việc lựa chọn lực đẩy cơ bản của chính sách công nghiệp. Trong khi Thái Lan hoàn toàn theo thị trường và toàn cầu hóa, nỗ lực xây dựng một môi trường kinh doanh mở và tự do, không kỳ vọng vào việc tạo ra các thương hiệu quốc gia, thì Malaixia lại áp dụng các biện pháp chỉ đạo và hành chính để dẫn dắt khu vực tư nhân hoặc khu vực nước ngoài đi theo một định hướng nhất định, trong đó bao gồm cả việc phát triển và thúc đẩy việc sản xuất ô tô mang thương hiệu quốc gia. Malaixia đang đặt cược vào cú nhảy cóc trong khi Thái Lan vẫn đi trên con đường cũ. Cả hai đều kỳ vọng thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, nhưng cách thức mỗi nước lựa chọn để đạt được mục tiêu tương đối khác nhau.   12 
  13. III. SỨC ÉP CỦA “BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH” ĐỐI VỚI NHỮNG NỀN KINH TẾ MỚI NỔI 1. TRUNG QUỐC Tăng trưởng những năm gần đây của Trung Quốc ấn tượng đến mức tưởng chừng khiến người ta phát ngại nếu trót đặt câu hỏi liệu nước này có thể tiếp tục duy trì được tốc độ như vậy hay không? Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế Barry Eichengreen thuộc ĐH California, Berkeley, và Donghyun Park của Ngân hàng Phát triển châu Á cùng Kwanho Shin của ĐH Hàn Quốc, vấn đề thu nhập trung bình đang ảnh hưởng xấu tới Trung Quốc và các nước khác. Họ nghiên cứu tình hình ở các quốc gia thu nhập trung bình (thu nhập đầu người trên 10.000 USD tính theo mức giá năm 2005), những nước có tăng trưởng GDP bình quân ít nhất 3,5% duy trì vài năm trong vòng 50 năm nhưng tốc độ tăng trưởng sau đó đã giảm xuống ít nhất 2 điểm phần trăm. Nghiên cứu khẳng định, việc mất đi dộng lực tăng trưởng chủ yếu là do sự trưởng thành của nền kinh tế hơn là do thiếu hụt lao động hay suy giảm đầu tư. Lực lượng lao động vẫn giữ tốc độ tăng như cũ sau suy giảm và chất lượng lại liên tục cải thiện. Tăng trưởng vốn vật chất (nhà xưởng, văn phòng, đường sá, máy móc...) cũng thu hẹp lại, nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong suy giảm tăng trưởng GDP. Thay vào đó, phần lớn sự đi xuống đó là do sự đình trệ "năng xuất tổng các yếu tố" - tức hiệu quả của lao động và dòng vốn sử dụng. Eichengreen và nhóm nghiên cứu chia sẻ: "Suy giảm tăng trưởng, nói cho gọn, là suy giảm năng suất-tăng trưởng". Năng suất tổng các yếu tố sẽ giảm khi giai đoạn tăng trưởng "dễ dàng" của nền kinh tế đến lúc kết thúc. Việc di chuyển lao động từ các vùng nông thôn kém phát triển ra làm việc tại các nhà máy và văn phòng với các thiết bị máy móc nhập khẩu giúp tăng năng suất. Nhưng khi bộ phận lao động nông thôn được khai thác hết thì khả năng cải thiện năng suất cũng không còn. Theo ba nhà kinh tế, kiểu suy giảm này xuất hiện phổ biến nhất khi thu nhập trung bình đạt khoảng 16.000 USD tính theo mức giá năm 2005; khi thu nhập đầu người tăng bằng 58% của các nền kinh tế dẫn đầu; hay khi tỷ lệ lao động trong khu vực chế tạo đạt đến 23%. Ba ngưỡng trên - trong đó thu nhập là yếu tố quan trọng nhất - sẽ không nhất   13 
  14. thiết đạt đến vào cùng một thời điểm. Trung Quốc có thể đã đạt đến ngưỡng về chế tạo sản xuất, và nếu nền kinh tế này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 9%, ngưỡng thu nhập trung bình cũng sẽ sớm bị vượt qua. Nhưng ngưỡng thu nhập tương đối thì vẫn còn cách xa. Theo IMF, thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc năm 2010 bằng 16% của Mỹ. Nghiên cứu chỉ ra, các nền kinh tế như Trung Quốc, với đồng tiền bị định giá thấp hơn giá trị thực tế và tỷ lệ chi tiêu tiêu dùng thấp, có nguy cơ chịu kiểu suy giảm tăng trưởng này hơn. Các kết luận trên được đưa ra dựa trên nghiên cứu của nhiều nước từng trải qua các đợt suy giảm bất ngờ, và kinh nghiệm của các nước cũng rất khác nhau, Eichengreen cảnh báo. Đây không phải là những quy luật bất di bất dịch. Mặc dù vậy, gần như chắc chắn sự suy giảm sẽ diễn ra một khi giai đoạn bắt kịp dễ dàng chấm dứt. Câu hỏi ở đây là liệu Trung Quốc có thể giảm nhẹ đà suy giảm thông qua thay đổi mô hình tăng trưởng hay không. Đó là mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, do đó, nhu cầu hầu hết từ nước ngoài. Để đáp ứng nhu cầu đó, Trung Quốc đã huy động lực lượng lao động khủng lồ, cộng thêm một khối vốn vật chất không ngừng tăng cao, phần lớn đều được nhập khẩu và tài trợ bằng tiền tiết kiệm trong nước. Do theo đuổi mô hình tăng trưởng cần nhiều vốn, nên chi tiêu tiêu dùng của Trung Quốc cũng chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong GDP: năm 2010 tỷ lệ này còn giảm xuống chỉ còn 34% . Điều này càng làm tăng tính lệ thuộc vào xuất khẩu. Cơ chế tài chính Trung Quốc càng củng cố mô hình này. Dòng vốn qua biên giới bị kiểm soát chặt chẽ. Trung Quốc hạn chế tăng giá nội tệ để đảm bảo tính cạnh tranh cho hàng xuất khẩu bằng việc mua về lượng lớn ngoại tệ, tổng dự trự của nước này đã lên tới 3,2 nghìn tỷ USD, bằng 54% GDP năm 2010. Hệ thống ngân hàng được đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm chưa đầy 2% tổng tài sản ngân hàng. Tiền mặt in ra để giúp giữ đồng NDT yếu hơn so với các đồng tiền chủ chốt khác được "hấp thụ" bằng cách yêu cầu các ngân hàng Trung Quốc phải mua trái phiếu "khử trùng" với lãi suất thấp hoặc phải giữ lượng dự trữ tiền mặt lớn hơn. Lãi suất được ấn định có lợi cho các doanh nghiệp nhà nước (thường là nhà cung cấp độc quyền cho các công ty xuất khẩu) và ít mang tính khuyến khích chi tiêu với các hộ gia đình. Tín dụng tiêu dùng còn khan hiếm. Nhưng khi tỷ trọng trong nền kinh tế thế giới của Trung Quốc tăng lên, nước này không thể dựa dẫm mãi vào chi tiêu của các nước khác. Gánh nợ treo lơ lửng tại nhiều   14 
  15. quốc gia giàu có đồng nghĩa với việc khách hàng nước ngoài của Trung Quốc sẽ chi tiêu dè xẻn hơn. Có thể nói Trung Quốc hái ra tiền từ khai thác nhu cầu của thế giới: thặng dư tài khoản vãng lai tăng lên trên 10% GDP năm 2007, dù đã giảm một nửa từ đó đến này. Đây chính là nguyên nhân gây căng thẳng: người Mỹ đang phàn nàn về việc chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc đem lại những ưu đãi không công bằng cho các nhà xuất khẩu trong nước và gây thiệt cho chính người lao động nước mình. Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu cũng bắt đầu mất đi sức mạnh. Tìm kiếm lao động từ vùng nông thôn vào làm việc tại các nhà máy phục vụ xuất khẩu cũng sẽ trở nên khó khăn hơn. Nếu Trung Quốc muốn tránh được cái “bẫy thu nhập trung bình”, nước này cần đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước. Trung Quốc phải từ bỏ kiểu phát triển các nhà máy, cầu cảng và các tài sản cố định khác một cách bừa bãi và phân bổ vốn cũng như lao động một cách hợp lý hơn, qua đó tạo điều kiện để các doanh nghiệp dịch vụ nhỏ có thể bùng nổ. Quá trình chuyển đổi này sẽ được thúc đẩy bởi hai nhân tố. Khi dân số trong độ tuổi lao động bắt đầu thu hẹp vào năm 2015, tiết kiệm gia đình cũng giảm do các nước với số lượng lao động chính ít hơn và tỷ lệ người phụ thuộc cao lại có xu hướng chi tiêu nhiều hơn. Và thực tế Trung Quốc đã dành phần tỷ lệ GDP cho nghiên cứu và phát triển lớn hơn các nước khác với cùng mức thu nhập. Điều này tạo cơ hội tốt hơn cho phép duy trì tăng trưởng năng suất khi lợi ích từ việc thu nhận những công nghệ hiện có dần mất đi. Nhưng những mặt khác của nền kinh tế Trung Quốc lại cản trở thay đổi. Đơn cử, Ngân hàng thế giới (WB) đã xếp Trung Quốc đứng ở hạng 65 trên 183 quốc gia có điều kiện tiếp cận tín dụng thuận lợi dành cho các doanh nghiệp, sau cả Ấn Độ (nước đứng thứ 32 trong danh sách). Các trở ngại nêu trên cũng không dễ khắc phục. Chuyển sang một nền kinh tế tập trung vào tiêu dùng cũng nghĩa là phải tái cơ cấu lại toàn bộ các ngành công nghiệp. Tăng lương tại Trung Quốc, yếu tố cần thiết cho cuộc tái cơ cấu này, đã khiến một số công ăn việc làm trong ngành dệt may bị chuyển sang Việt Nam và Campuchia. Xóa bỏ các trợ cấp ngầm về cho thuê (nhà xưởng, kho bãi...) và lãi suất sẽ khiến lợi nhuận của nhiều công ty suy giảm và dẫn tới thái độ phản đối. Các ngân hàng thường quen với việc cấp vốn theo chỉ đạo của chính phủ sẽ cần đưa ra những thẩm định chính xác hơn, hạn chế đổ tiền vào các ngành mang lại lợi nhuận thấp và chuyển sang các dự án đầu tư hứa hẹn hơn. Nhưng vấn đề lại nằm ở chỗ, liệu Trung Quốc có thể phân biệt dự án nào đáng đầu tư hay không.   15 
  16. 2. BRA ZIL Brazil là ví dụ nhãn tiền về sự suy giảm đột ngột của một quốc gia đang tăng trưởng nhanh (dù không nêu trong nghiên cứu của nhóm Eichengreen). Nền kinh tế này tăng trưởng gần 7% mỗi năm trong giai đoạn 1945-1980. Theo thống kê của Maddison, GDP bình quân đầu người tăng từ chỉ bằng 12% của Mỹ lên 28%. Nhưng sau đó mọi chuyện đột ngột đảo ngược lại. Các khoản nợ tích lũy để mua máy móc nhập khẩu trở nên vượt quá sức chịu đựng do lãi suất tăng vọt. Các ngành phục vụ thị trường được bảo hộ trong nước tỏ ra thiếu hiệu quả. Đồng tiền suy yếu và gia tăng chi phí lương thúc đẩy lạm phát và sau đó là siêu lạm phát. Một loạt các cải cách tiền tệ và tài khóa những năm 1990 giúp khống chế lạm phát và chặn đứng đà suy giảm thu nhập tương đối. Thu nhập bình quân đầu người của Brazil hiện tại bằng hơn 20% của Mỹ. Nhưng nền kinh tế cũng chứa đầy những khiếm khuyết, tuy hơi khác với Trung Quốc. Đầu tư chiếm 19% GDP, thấp hơn nhiều Trung Quốc và thấp hơn hẳn mức tiêu chuẩn của các nước giàu. Đó là một lý do tại sao năng suất không hiệu quả, bên cạnh một phần nguyên nhân từ hệ thống giáo dục yếu kém và cơ sở hạ tầng lạc hậu. Dự báo nền kinh tế đạt tăng trưởng khoảng 4%/năm, nhanh hơn hầu hết các nước giàu, nhưng chập hơn so với các thị trường mới nổi khác. Đầu tư yếu phản ánh mức tiết kiệm trong nước thấp. Brazil liên tục chịu thâm hụt tài khoản vãng lai. Sự phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài đã khiến nước này trở nên dễ tổn thương trước các cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán định kỳ, dù đã tích lũy được tới 344 tỷ dự trữ ngoại hối làm phương tiện phòng ngừa trong tương lai. Nợ nước ngoài ròng của Brazil (cả nợ công và nợ tư) đã lên tới 700 tỷ USD, so với mức tài sản ròng chừng 3 nghìn tỷ USD của Trung Quốc. Nhưng đổi lại tỷ tiết kiệm thấp của Brazil là chi tiêu tiêu dùng mạnh, chiếm khoảng 61% GDP trong năm ngoái. Kinh doanh cung cấp vay nợ cho các hộ gia đình đang bùng nổ, một phần vì BNDES (Ngân hàng phát triển của Nhà nước) cung cấp trợ cấp tín dụng cho các công ty lớn thuộc quyền điều hành của nhà nước Brazil và cho một số công ty khác. Điều này làm hạn chế cơ hội cho vay kinh doanh và vì thế các ngân hàng tư nhân phải tìm kiếm khả năng kinh doanh khác.   16 
  17. Nền kinh tế Brazil có hai điểm mạnh lớn. Dân số trong độ tuổi lao động đang tăng nhanh, và tài nguyên phong phú đúng lúc các thị trường mới nổi khác đang công nghiệp hóa với tốc độ chưa từng có. Brazil cùng với Australia là nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới về quặng sắt, đa phần sang Trung Quốc. Diện tích đất canh tác lớn cũng là điểm lợi thế lớn (một số vùng trồng cho thu hoạch 3 vụ/năm), nhờ điều kiện sáng mặt và nước sạch thuận lợi. Dưới tầng muối khu vực ngoài khơi bờ biển phía đông nam của Brazil được phát hiện có chứa ít nhất 13% tỷ thùng dầu. Bùng nổ hàng hóa cùng với việc phát hiện thêm nhiều mỏ dầu mới đã giúp Brazil thoát khỏi áp lực về cán cân thanh toán. Ngoại tệ đang đổ vào, trước sự hấp dẫn về lãi suất và những như lợi nhuận kỳ vọng tại Brazil sau khi dòng dầu bắt đầu chảy. Nhưng việc này lại gây ra vấn đề mới: khi đồng tiền mạnh lên, nó sẽ tác động xấu tới các nhà xuất khẩu khác không thuộc ngành liên quan tới khai thác tài nguyên. Giải pháp mà ai cũng biết cho loại vấn đề "Căn bệnh Hà Lan" này là nâng cao năng suất hoặc hạ thấp chi phí trong các ngành thương mại không được hưởng lợi từ sự bùng nổ tài nguyên. Tháng 8 này, chính phủ cho biết sẽ xóa bỏ thuế thu nhâp trong bốn ngành cần nhiều sức lao động: giày dép, may mặc, nội thất và phần mềm. Nhưng còn nhiều lĩnh vực khác cũng cần tiếp tục hạ thấp "chi phí Brazil" - cách gọi của dân địa phương đối với các vấn đề nổi bật tại Brazil, như đường sá xuống cấp, lãi suất cao, thuế thu nhập, thuế và bộ máy hành chính. Brazil là một trong những nước có môi trường kinh doanh khá khó khăn, đứng thứ 127 trên 183 quốc gia trong danh sách xếp hạng của Ngân hàng thế giới. Việc thuê và sa thải lao động hay đóng cửa doanh nghiệp có thể mất hàng năm. Hệ thống thuế phức tạp và khó áp dụng bởi các quy định chồng chéo, mâu thuẫn nhau. Một nhà kinh tế tại São Paulo nói vui: "Nếu bạn là người trung thực và muốn tuân thủ bộ luật thuế, bạn cần một kế toán và một luật sư thuế phục vụ mình cả đời". Lãi suất thực tại Brazil cũng thuộc hạng cao nhất thế giới. Lãi suất cơ bản của Ngân hàng Trung ương là 12% và có thể sẽ tăng hơn nữa để kiềm chế lạm phát hiện đã cao hơn nhiều mức mục tiêu 4,5%. Lãi suất cao một phần là hậu quả của cuộc lạm phát trước từng làm nản lòng người tiết kiệm. Văn hóa tiết kiệm chưa ăn sâu vào lối sống, vì thế nhu cầu tín dụng vẫn vượt quá cung. Chính sách tài khóa lỏng lẻo cũng là một phần nguyên nhân. Nền kinh tế đang vận hành vượt quá công suất. Tỷ lệ thất nghiệp là 6%, mức hiếm khi có thể thấp hơn. Ngân sách có xu hướng thặng dư. Nợ chính phủ được gia   17 
  18. hạn ba năm một lần và chèn lấn (crowd out) các khoản tiền vay khác. Nhưng một thị trường nợ với kỳ hạn dài hơn đòi hỏi phải kiểm soát chặt chẽ bảng lương tại khu vực công và các khoản trợ cấp của nhà nước. Brazil hy vọng những mỏ dầu mới phát hiện sẽ được khai thác sao cho có thể hỗ trợ thay vì thiệt hại cho các ngành khác. Chính phủ nhấn mạnh, công ty dầu mỏ nhà nước Petrobras, với toàn quyền vận hành các mỏ dầu dưới tầng muối, phải mua phần lớn sản phẩm phục vụ nhu cầu của mình ở trong nước. Eike Batista, một ông trùm có tiếng trong các ngành khai khoáng, thăm dò dầu khí và dịch vụ hậu cần, đang xây dựng một cảng hoàn thiện với một xưởng đóng tàu (hợp tác với công ty Hyundai của Hàn Quốc) để đảm bảo tuân thủ đúng các quy định về hàm lượng nội địa. "Yêu cầu của của Petrobras là hai xưởng đóng tàu", ông nói. Một cảng hiện đại sẽ khuyến khích nhà sản xuất nước ngoài đến xây dựng nhà xưởng dọc bờ biển Brazil và phục vụ thị trường trong nước. Nhưng một số người khác lại lo ngại Brazil đang theo đuổi mô hình công nghiệp hóa dưới sự chỉ đạo của nhà nước và hướng nội từng thất bại trước đó. Giáo sư ĐH Harvard Dani Rodrik so sánh sự phục hồi của Hàn Quốc sau cuộc khủng hoảng tại Đông Á năm 1998 (cũng như sau các rắc rối trước đó) với với tình trạng đình trệ mà Brazil và các quốc gia Mỹ Latinh khác phải chịu đựng trong những năm 1980. Ngành công nghiệp Hàn Quốc đã đã được khẳng định tại các thị trường xuất khẩu vì thế có thể tạo dựng phục hồi dựa trên sức mạnh công nghiệp. Brazil thiếu sức mạnh đó. Nhưng Hàn Quốc có thể phục hồi nhanh hơn còn vì mỗi nhóm lợi ích đều thống nhất chấp nhận chia sẻ một phần khó khăn từ khủng hoảng. Chính phủ cam kết sẽ nỗ lực hết sức để giúp đất nước vượt qua khủng hoảng nhưng các doanh nghiệp cũng không ngồi không chờ đợi mà góp phần vào quá trình ấy bằng cách hạn chế sa thải và công ðoàn cũng nhân nhýợng các ðòi hỏi về lương bộc. Ngược lại, ở Brazil, ai nấy đều không chịu một mức sống thấp hơn và cố gắng đẩy phần khó khăn sang cho người khác. Lạm phát tăng cao và GDP bình quân đầu người của Brazil giậm chân tại chỗ trong suốt 15 năm. 3. ẤN ĐỘ Thách thức chính của Ấn Độ là sự kết hợp giữa các khó khăn của cả Brazil và Trung Quốc đang gặp phải. Giống như Trung Quốc, Ấn Độ đang có tốc độ tăng trưởng   18 
  19. cao hơn mức trung bình tại các thị trường mới nổi, khoảng 8%/ năm. Tuy vậy, nước này vẫn còn nhiều điều phải làm: Ấn Độ nghèo hơn Trung Quốc, vì thế khoảng cách bắt kịp sẽ rộng hơn. Đầu tư chiếm 38% GDP. Phần lớn đầu tư của Ấn Độ được lấy từ chính túi tiền của các doanh nghiệp, một biểu hiện của hệ thống tài chính còn non yếu. Hầu hết các doanh nghiệp không thể trông cậy vào vốn bên ngoài, dù các tập đoàn lớn của Ấn Độ, như Tata, đều có thể khai thác thị trường vốn quốc tế. Cũng như Brazil, Ấn Độ cũng đang hết sức cần hệ thống đường sá tốt để gắn kết các thị trường quá cách xa nhau ở trong nước. Đây là quốc gia trẻ, với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động dự báo tăng 1,7%/ năm cho tới năm 2015, nhanh hơn cả Brazil. Nhưng tỷ lệ người có học vấn cao lại quá ít. Như ở Brazil, các công ty tại Ấn Độ phải đào tại lại từ đầu khi tuyển dụng mới nhân công. Hệ thống pháp luật rối rắm khiến hoạt động của thị trường lao động gặp khó khăn. Tham nhũng gây tổn thất lớn trong các dự án cơ sở hạ tầng. Nền kinh tế có xu hướng quá nóng và đang bị thâm hụt tài khoản vãng lai. Điều này nói nên một điểm yếu sâu xa của các thị trường mới nổi. Từ trước đây, họ đã không điều tiết tốt nhu cầu trong nước. Dựa vào xuất khẩu cho phép họ vừa tăng trưởng vừa tiết kiệm. Nhưng hiện nay, các nền kinh tế lớn đang gặp khó khăn khiến sự phụ thuộc này trở nên rủi ro hơn bao giờ hết. Bóng đen của cuộc khủng hoảng tại các thị trường mới nổi trong quá khứ lại hiện về: bội chi ngân sách, tăng trưởng tín dụng nhanh và lạm phát. Raghuram Rajan, cựu chuyên gia kinh tế trưởng của IMF và hiện đang công tác tại Trường Kinh doanh Booth ở Chicago, phân tích: Quá trình dịch chuyển từ nền kinh tế thu nhập trung bình sang nền kinh tế giàu phụ thuộc vào các chính sách tiền tệ, tài khóa và quản lý hợp lý. IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 1. KHÁI QUÁT KINH TẾ VIỆT NAM 1.1 Các chỉ số tăng trưởng. Nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 7,4% trong giai đoạn 1991 – 2010. Năm 1990, Việt Nam là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới với GDP bình quân đầu người là 98 USD (theo dữ liệu của ADB). Đến năm 2009, với mức GDP bình quân đầu người là 1.109 USD, Việt Nam đã được xếp vào các nước có mức thu nhập trung bình thấp theo xếp hạng của ngân hàng thế giới.   19 
  20. . Diễn đàn phát triển Việt Nam. Nguồn: Tổng cục thống kê, các chỉ số chính của Ngân hàng phát triển châu Á (2008), Các tính toán về tăng trưởng – Đại học kinh tế Quốc dân giai đoạn 1990 – 2004 Các số liệu thống kê tăng trưởng cho thấy: cho đến giữa những năm 1990, hệ số vốn trên một đơn vị sản lượng ( ICOR) ở mức thấp, mức đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp ( TFP ) ở mức cao – điều này cho thấy tăng trưởng nhanh do tăng hiệu suất. Giai đoạn sau đó, chỉ số ICOR tăng lên, đóng góp của TFP đối với tăng trưởng giảm xuống và đóng góp của vốn tăng lên đáng kể. Điều này cho thấy tăng trưởng có được nhờ đầu tư ồ ạt, nhưng mức hiệu quả sử dụng vốn thấp.   20 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2