Tiểu luận: Quá trình hình thành đồng tiền chung EURO, SDR, ACU
lượt xem 21
download
Tiểu luận: Quá trình hình thành đồng tiền chung EURO, SDR, ACU nhằm trình bày cơ sở lý luận cho việc ra đời một đồng tiền chung, quá trình ra đời một đồng tiền chung trên thế giới EURO, SDR, ACU và tác động của nó đến nền kinh tế thế giới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Quá trình hình thành đồng tiền chung EURO, SDR, ACU
- Tiểu luận Quá trình hình thành đồng tiền chung EURO, SDR, ACU 1/48
- LỜI NÓI ĐẦU Nhân loại đang chuẩn bị hành trang cho một kỷ nguyên mới đó là hội nhập quốc tế, một trong các đặc trưng cơ bản là xu hướng hợp tác, liên kết giữa các Quốc gia để giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và môi trường mang tính chất toàn cầu. Ngày nay trong quá trình phát triển của mình, các quốc gia trên thế giới đang từng bước tạo lập nên các mối quan hệ song phương và đa phương nhằm từng bước tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với nhiều mức độ khác nhau, đem lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên. Chính các liên kết kinh tế quốc tế là biểu hiện của xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá đang diễn ra hết sức sôi động trong những năm gần đây. Một minh chứng cho những vấn đề này là Đó là sự ra đời của Liên minh tiền tệ châu Âu EMU và đồng tiền chung châu Âu EURO Sự thành công và bài học kinh nghiệm của các nước châu Âu đã cho các nước Đông Nam á niềm tin vào triển vọng hình thành một đồng tiền chung cho khu vực. Trên thực tế, khả năng hình thành một liên minh tiền tệ ở Đông Nam á đã được một số nhà kinh tế học bắt tay nghiên cứu từ năm 1994. Nhưng phải đến sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997, đề tài này mới trở thành mối quan tâm thực sự đối với các nhà lãnh đạo cũng như các nhà kinh tế học ở Đông Nam Á. ASEAN hy vọng đồng tiền chung sẽ thúc đẩy nền kinh tế khu vực tăng trưởng ổn định, bền vững, giảm bớt nguy cơ khủng hoảng và giúp ASEAN khẳng định được vị trí của mình trên các diễn đàn kinh tế thế giới. Từ những điều kỳ diệu mà thế giới đã làm và sẽ tiếp tục hoàn thiện đã truyền cảm hứng cho nhóm chúng tôi nghiên cứu đề tài “ Quá trình hình thành đồng tiền chung EURO, SDR, ACU”. Bố cục cụ thể của tiểu luận gồm hai chương như sau: CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC RA ĐỜI MỘT ĐỒNG TIỀN CHUNG CHƯƠNG II : QUÁ TRÌNH RA ĐỜI MỘT ĐỒNG TIỀN CHUNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ 2/48
- CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC RA ĐỜI MỘT ĐỒNG TIỀN CHUNG I.1 Lý thuyết "Khu vực tiền tệ tối ưu"- cơ sở lý luận hình thành liên minh tiền tệ. Lý thuyết "Khu vực tiền tệ tối ưu" do các nhà kinh tế Mỹ R.Mundell (1961) và R.Mc Kinnon (1963) đưa ra, trong đó nêu lên những đặc tính cơ bản nhất để xác định một "Khu vực tiền tệ tối ưu". Khái niệm: khu vực tiền tệ tối ưu Trước hết, để hiểu được khái niệm "Khu vực tiền tệ tối ưu", chúng ta cần tìm hiểu khái niệm khu vực tiền tệ. Một khu vực tiền tệ là một khu vực trong đó tỷ giá hối đoái là cố định hoặc tồn tại một đồng tiền chung. Như vậy, mỗi nước có một đồng tiền riêng của mình đều là một khu vực tiền tệ. Vấn đề mà R.Mundell và R.Mc Kinnon đặt ra là liệu nước đó có phải là một khu vực tiền tệ tối ưu hay không, hay nói cách khác, liệu nước này có những đặc điểm cho phép nó sử dụng một cách tối ưu đồng tiền của mình hay không. Nếu câu trả lời là không thì thứ nhất, từng vùng của nước đó có phát triển tốt hơn nếu sử dụng đồng tiền riêng của vùng hay không, thứ hai, liệu nước đó có lợi hơn khi tham gia vào một khu vực tiền tệ lớn hơn thay vì sử dụng đồng tiền riêng của nước mình hay không. Để trả lời hai câu hỏi này, Mundell và Kinnon đã phát triển thành lý thuyết trong đó nêu lên khái niệm và các tiêu chuẩn của một khu vực tiền tệ tối ưu. Một khu vực tiền tệ tối ưu là một khu vực "tối ưu" về mặt địa lý trong đó phương tiện thanh toán là một đồng tiền chung hoặc là một số đồng tiền mà giá trị trao đổi của chúng được neo cố định với nhau với khả năng chuyển đổi vô hạn cho cả các giao dịch vãng lai và các giao dịch về vốn, nhưng tỷ giá hối đoái của chúng lại biến động một cách hài hoà với các nước khác trên thế giới. 1 "Tối ưu" được xác định về mặt mục tiêu kinh tế vĩ mô là duy trì cân bằng cả bên trong và bên ngoài. Cân bằng bên trong đạt được tại điểm thoả hiệp tối ưu giữa lạm phát và thất nghiệp và cân bằng bên ngoài là sự duy trì trạng thái cán cân thanh toán 3/48
- cân bằng. I.2 Điều kiện cần thiết để hình thành một đồng tiền chung 2.1 Hình thành một thị trường thống nhất về hàng hoá, vốn và sức lao động Nhìn lại lịch sử phát triển của Liên minh tiền tệ châu Âu, chúng ta thấy rằng Liên minh châu Âu đã tuần tự trải qua các giai đoạn phát triển từ thấp đến cao trước khi đạt tới trình độ của một liên minh kinh tế và tiền tệ. Đó là: khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, giai đoạn hài hoà và phối hợp chính sách kinh tế và cuối cùng là một liên minh kinh tế hoàn chỉnh với một số chính sách kinh tế được hoạch định ở cấp độ khu vực. Hoàn thành ba giai đoạn đầu chính là đã hình thành được một thị trường thống nhất về hàng hoá, vốn và sức lao động. Với châu Âu, có thể nói rằng hai giai đoạn đầu đã được hoàn tất tương đối nhanh chóng và dễ dàng. Tính đến ngày 1/7/1968, tức là chỉ 10 năm rưỡi sau khi thành lập Cộng đồng châu Âu, tất cả các hàng rào thuế quan và về số lượng đối với hàng hoá và dịch vụ xuất và nhập khẩu đã được dỡ bỏ và Cộng đồng đã xây dựng được một biểu thuế chung với các nước bên ngoài. Tuy nhiên, Liên minh thuế quan vẫn chưa phải là điều kiện đủ để đảm bảo sự di chuyển tự do của hàng hoá và dịch vụ giữa các nước trong Cộng đồng. Trên thực tế, mặc dù các hàng rào thuế quan đã được dỡ bỏ nhưng vẫn còn vô số các rào cản thương mại khác tồn tại dưới hình thức các tiêu chuẩn về y tế, vệ sinh, an toàn, kỹ thuật khác. Các hàng rào phi thuế quan này thậm chí còn là một trở lực lớn hơn đối với thương mại. Vì nếu như chỉ có các hàng rào thuế quan, các nhà xuất nhập khẩu có thể sẵn sàng nộp thuế, nhưng khi tồn tại một hàng rào kỹ thuật, các nhà xuất nhập khẩu không có cách gì khác hơn là thích nghi quy trình sản xuất của mình cho phù hợp với tiêu chuẩn của từng quốc gia hoặc chấp nhận hàng hoá của mình không thể thâm nhập thị trường nước đó. Tuy nhiên, việc tháo dỡ các rào cản phi thuế quan lại là một công việc khó khăn và phức tạp, do mỗi nước đều có nhu cầu sử dụng các biện pháp này nhằm 4/48
- bảo hộ các ngành sản xuất trong nước, bảo vệ người lao động trong nước hay có thể là bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng và môi trường sinh thái. Do đó, dỡ bỏ các hàng rào này đòi hỏi phải phối hợp nhiều chính sách và luật lệ chứ không chỉ đơn giản là cắt giảm thuế như trường hợp các hàng rào thuế quan. Các nước thành viên Cộng đồng châu Âu đã phải mất hơn một thập kỷ kể từ khi thiết lập thành công liên minh thuế quan, vất vả xoá bỏ các hàng rào cản kỹ thuật đối với thương mại mà không thu được mấy thành công. Phải đến giữa những năm 1980, Cộng đồng châu Âu mới đạt được những tiến bộ quan trọng trong lĩnh vực này, dựa trên những khuôn khổ pháp lý và thể chế vững chắc như ký kết các Hiệp định đa phương, thành lập Uỷ ban châu Âu, thành lập cơ quan hành pháp ở cấp độ khu vực như Toà án tối cao châu Âu, cơ quan lập pháp như Hội đồng Bộ trưởng. Giai đoạn "thị trường chung" được coi là chính thức hoàn thành ngày 31/12/1992, ngày hoàn tất chương trình thị trường chung do Uỷ ban châu Âu đưa ra. Tuy nhiên, kể cả cho tới ngày hôm nay, vẫn còn nhiều lĩnh vực như dịch vụ tài chính, năng lượng, viễn thông... cần được tiếp tục cải cách để thị trường của Liên minh châu Âu thực sự là một thị trường chung. Tóm lại, muốn có m ột thị trường chung cho khu vực để tiến t ới hình thành một đồng tiền chung, các nước thành viên phải đặt ra những mục tiêu và chương trình cụ thể tiến tới thiết lập một thị trường chung chứ không chỉ thể dừng lại ở tháo dỡ các hàng rào thuế quan. muốn vậy, các nước cũng cần phải chú ý hơn nữa đến việc ổn định tỷ giá hối đoái. Sao nhãng bất cứ nội dung nào trong hai nội dung trên (thiết lập thị trường chung và ổn định tỷ giá) đều cản trở việc thực hiện nội dung còn lại, và cản trở việc thực hiện mục tiêu về một đồng tiền chung. 2.2 Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo các tiêu chí thống nhất Hiệp ước Masstricht năm 1991 đã đề ra thời gian biểu chi tiết và những điều kiện để các nước tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình hội nhập tiền tệ châu Âu. Trên thực tế, việc các nước ERM điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô nhằm 5/48
- thực hiện các tiêu chí của Hiệp ước Masstricht đã làm tăng sự ổn định của môi trường tiền tệ và tỷ giá hối đoái ở châu Âu từ sau năm 1993. Để đủ điều kiện tham gia khu vực đồng tiền chung, các nước thành viên phải đạt được tỷ lệ lạm phát và lãi suất (trên thực tế là thước đo mức lạm phát dự kiến) lần lượt không vượt quá 2% và 1,5% so với mức trung bình của ba nước thành viên có tỷ lệ lạm phát thấp nhất. Hai tiêu chí này chủ yếu nhằm mục đích hạn chế sự biến động của tỷ giá thực tế khi tỷ giá danh nghĩa đã được ấn định. Thêm vào đó, các nước này còn phải duy trì được tỷ giá ổn định trong biên độ cho phép của ERM mà không đơn phương điều chỉnh tỷ giá trung tâm trong ít nhất hai năm trước khi gia nhập khu vực đồng tiền chung. Điều này sẽ buộc các nước thành viên tương lai khi hoạch định chính sách tiền tệ phải cân nhắc đến lợi ích của cả khối chứ không chỉ là lợi ích của nước mình. Ngoài ra, có hai tiêu chí về mức thâm hụt ngân sách không quá 3% GDP và tỷ lệ nợ/GDP không quá 60% hay chí ít cũng đang giảm xuống mức này với một tốc độ thoả đáng. Mục đích của hai tiêu chí này là để tránh sự mất cân đối của một nước thành viên ảnh hưởng tiêu cực đến một nước thành viên khác thông qua áp lực thực hiện chính sách tiền tệ lỏng quá mức hay thậm chí là cho vay để cứu nguy cho chính phủ nước đó. Các nước Liên minh châu Âu đặc biệt coi trọng sự ổn định về mặt tài khoá. Hiệp ước ổn định và phát triển của Liên minh thậm chí còn đề ra điều khoản phạt đối với nước nào để cho mức thâm hụt tài chính quá 3%. Hiệp ước Masstricht một phần nhằm mục đích tạo ra một cơ chế loại bỏ những nước thành viên mà khi đã tham gia liên minh tiền tệ có thể không muốn áp dụng một chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng, và khi đó sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến các nước thành viên khác trong liên minh. Mục đích cuối cùng là để hạn chế sự biến động của tỷ giá hối đoái thực tế giữa các nước thành viên EMU và tránh khả năng một số nước thi hành chính sách tài khoá lỏng, dẫn đến áp lực lạm phát trong toàn bộ liên minh. Rộng hơn nữa, các tiêu chí này còn nhằm tạo 6/48
- ra một môi trường ổn định giá cả và dần dần chuyển các chính sách kinh tế vĩ mô từ phục vụ lợi ích của từng nước sang phục vụ lợi ích của cả liên minh. Như vậy, điều chỉnh kinh tế để hội nhập là một tiền đề quan trọng để tránh sự bất ổn định về kinh tế vĩ mô do những thay đổi trong khả năng cạnh tranh và chính sách tiền tệ gây ra, và do đó, là một yêu cầu quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của một đồng tiền chung. Nói chung, kinh nghiệm của các nước châu Âu cho thấy rằng chính sách tài khoá và tiền tệ nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô là một tiền đề để ổn định tỷ giá hối đoái. Và chính sách tiền tệ chung và/hoặc các thoả thuận tỷ giá hối đoái chỉ có thể thành công nếu các chính sách này được tiến hành kết hợp với một chính sách nhằm điều chỉnh kinh tế vĩ mô để hội nhập. 2.3 Thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá Nhìn lại quá trình phát triển của cơ chế liên kết tỷ giá ở châu Âu, chúng ta có thể thấy cơ chế này đã trải qua ba giai đoạn lớn như sau: Giai đoạn một bắt đầu từ khi thành lập Cộng đồng vào năm 1957 cho đến khi thiết lập hệ thống tiền tệ Châu âu năm 1979. Sự phối hợp trên lĩnh vực tỷ giá hối đoái ở giai đoạn này nhìn chung còn lỏng lẻo, kể cả trong khuôn khổ Hệ thống Bretton Woods cũng như cơ chế "Con rắn tiền tệ" của các nước Châu Âu. Trên thực tế, các nước đều đã nhận thấy nhu cầu phối hợp trong lĩnh vực tỷ giá hối đoái cũng như chính sách tài chính và tiền tệ và đã thành lập một số uỷ ban nhằm mục đích thúc đẩy các hoạt động này như Hội đồng các Bộ trưởng Tài chính, Uỷ ban châu Âu, Hội đồng các thống đốc NHTW của Cộng đồng... Tuy nhiên, sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ và cuộc khủng hoảng dầu lửa lần thứ nhất nổ ra năm 1973, các nước đã không thể thống nhất được về một biện pháp đối phó chung. Mỗi nước tự đưa ra chính sách tài khoá và tiền tệ riêng của mình để đối phó và tỷ giá hối đoái càng trở nên bất ổn định. Cuối cùng, các nước áp dụng chính sách kinh tế vĩ mô lỏng đã buộc phải rút lui khỏi cơ chế "Con rắn tiền tệ" và thả nổi đồng tiền của mình. 7/48
- Giai đoạn hai được đánh dấu bằng sự ra đời của Hệ thống tiền tệ châu Âu và kéo dài đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng cơ chế tỷ giá ERM vào năm 1992- 1993. Giai đoạn này, các nước châu Âu đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực liên kết tỷ giá hối đoái, và dần dần đã đạt được một mức độ phối hợp đáng kể trong lĩnh vực chính sách tài chính, tiền tệ. Giai đoạn đầu của Hệ thống tiền tệ Châu âu cũng gặp phải những vấn đề hệt như giai đoạn "Con rắn tiền tệ", các nước thành viên liên tục phải điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, dần dần, với một ngân hàng trung ương độc lập và chính sách tiền tệ theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả, đồng Mark Đức đã trở thành nước neo giá danh nghĩa cho đồng tiền các nước trong hệ thống. Một số nước, cụ thể như Pháp, đã sử dụng tỷ giá hối đoái so với đồng D-Mark làm phương tiện chính để ổn định kinh tế vĩ mô. Các lần điều chỉnh tỷ giá trở nên thưa hơn và kể từ năm 1987 cho đến cuộc khủng hoảng của ERM vào năm 1992 thì không có lần điều chỉnh tỷ giá trung tâm nào. Thời kỳ cuối của giai đoạn này đã chứng kiến một cuộc khủng hoảng tỷ giá, Italia và Anh rời bỏ cơ chế tỷ giá còn biên độ dao động của các nước còn lại được mở rộng tới ±15%. Giai đoạn cuối cùng bắt đầu từ năm 1993 và kéo dài cho tới nay. Đây là giai đoạn phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô thành công với các mục tiêu chung về các chính sách tài khoá, tiền tệ, và tỷ giá hối đoái theo Hiệp ước Masstrict. Việc biên độ dao động được mở rộng tới ±15% vào tháng 8/1993 đã cho phép các nước có được một sự linh hoạt nào đó trong vấn đề tỷ giá hối đoái, giảm bớt sự căng thẳng của thị trường ngoại hối và nguy cơ các cuộc tấn công đầu cơ. Giai đoạn này đem lại một bài học bổ ích cho bất cứ nhóm nước nào xem xét việc thành lập một liên minh tiền tệ trong tương lai. Trong điều kiện ngày nay, các dòng vốn càng ngày càng được tự do di chuyển, gây khó khăn cho việc ổn định tỷ giá hối đoái. Chính vì vậy, để hình thành một liên minh tiền tệ . 2.4 Tạo lập một đồng tiền khu vực và hình thành một ngân hàng trung ương độc lập với chính sách tiền tệ thống nhất 8/48
- Một liên minh tiền tệ không thể tồn tại nếu thiếu một đồng tiền chung. ở Liên minh tiền tệ châu Âu, đồng tiền chung với tên gọi đồng Euro đã được phát triển từ đơn vị kế toán của châu Âu lên thành đơn vị tiền tệ châu Âu, đồng ECU. So với đơn vị kế toán châu Âu, đồng ECU tồn tại với một hình thái cụ thể hơn, không chỉ được sử dụng để tính toán mà còn được sử dụng làm giá trị trung tâm của cơ chế tiền tệ châu Âu, làm cơ sở để nhận biết sự biến động khỏi biên độ cho phép của một đồng tiền thành viên, làm phương tiện thanh toán trong các giao dịch giữa các NHTW trong Cộng đồng. Sau đó, khi đã chuẩn bị đầy đủ các tiền đề khác, ngày 1/1/1999, một đồng tiền chung, đồng Euro, đã chính thức ra đời và tồn tại với đầy đủ các chức năng của một đồng tiền. Đồng Euro thay thế đồng ECU với tỷ lệ 1:1 và các nước châu Âu thậm chí đã chờ thêm ba năm nữa trước khi phát hành đồng Euro để sử dụng rộng rãi trong dân chúng. Nói đến EMU không thể không nói đến Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) và hệ thống các NHTW các nước thành viên. Trên thực tế, NHTW châu Âu đã được phát triển từ Quỹ hợp tác tiền tệ châu Âu (EMCF) và sau này là Viện tiền tệ châu Âu (EMI). Khi EMI ra đời, các mục tiêu hoạt động của EMCF được chuyển giao cho EMI (1/1994) và sau đó lại được chuyển giao cho Hệ thống Ngân hàng trung ương châu Âu (ESCB) đảm nhiệm (1998). Mục tiêu quan trọng nhất của ECB là duy trì sự ổn định giá cả của toàn khu vực đồng Euro, vì EU cho rằng sự ổn định giá cả sẽ là điều kiện tiên quyết để tạo ra một môi trường ổn định để khuyến khích các hoạt động kinh tế, tạo công ăn việc làm, và nói một cách tổng quát là tăng phúc lợi xã hội, do đó, sẽ góp phần đạt được các mục tiêu chung của Cộng đồng. Tất nhiên, trong quá trình phát triển của mình, rất có thể có những giai đoạn một hoặc một vài nước thành viên muốn hy sinh mục tiêu ổn định giá cả để giải quyết các ưu tiên khác, như vấn đề thất nghiệp chẳng hạn. Chính vì vậy mà sự tồn tại của một ngân hàng trung ương độc lập với một chính sách tiền tệ thống nhất là một điều kiện vô cùng quan trọng cho sự tồn tại của một liên minh tiền tệ. 9/48
- Ngân hàng trung ương của liên minh và hệ thống các ngân hàng trung ương quốc gia phải đảm bảo sự độc lập trong quá trình hoạch định và thực thi các nhiệm vụ về chính sách tiền tệ của mình. Chỉ khi có được sự độc lập đó thì mục tiêu ổn định giá cả mới có thể được thực hiện một cách hiệu quả. Trên thực tế, hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu đã và đang tồn tại độc lập, không chịu sức ép của một thế lực chính trị nào nhằm phục vụ cho các mục tiêu và lợi ích ngắn hạn của họ. Hàng năm ECB công bố mục tiêu ổn định giá cả của mình và cam kết thực hiện chúng, dưới sự giám sát và đánh giá một cách dễ dàng của tất cả các nước thành viên. Tóm lại, một liên minh tiền tệ nhất thiết sẽ đòi hỏi sự ra đời một ngân hàng trung ương và một đồng tiền chung. Và để ra đời một ngân hàng và một đồng tiền như vậy, đòi hỏi phải có một quá trình chuẩn bị như tồn tại một thể chế khu vực dưới dạng quỹ tiền tệ khu vực, một đơn vị kế toán hay thanh toán chung của khu vực. Có như vậy, ngân hàng trung ương và đồng tiền chung mới có thể ra đời một cách xuôn xẻ và hiệu quả I.3 Lợi ích của việc hình thành đồng tiền chung 3.1 Lợi ích ngăn ngừa, kiểm soát khủng hoảng của khu vực Thực tế này nói lên rằng tất cả các nước trong khu vực đều không thể thờ ơ trước một cuộc khủng hoảng xảy ra ở một nước thành viên, vì những hậu quả nghiêm trọng của một cuộc khủng hoảng như vậy rất có thể lây lan từ nước này sang nước khác và gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Đây chính là điều khiến một nước trong khu vực quan tâm đến các chính sách kinh tế vĩ mô . Một động cơ khác là nhu cầu tiếp cận với các nguồn vốn của các nước láng giềng trong trường hợp xảy ra các cuộc tấn công đầu cơ vào đồng tiền một nước thành viên. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 đã cho thấy rằng các cơ chế quốc tế để hỗ trợ tài chính hiện có (do IMF phối hợp) là không đủ đối với các nước. Các nguồn vốn do IMF nỗ lực cung cấp không những chưa đủ về quy mô, tốc độ giải ngân quá chậm và thường đi kèm với những điều kiện kinh tế vĩ mô không phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của các quốc gia bị khủng hoảng. 10/48
- Các nghiên cứu về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á thường có cùng chung một kết luận là cuộc khủng hoảng đã bắt nguồn từ những yếu kém trong lĩnh vực tài chính và khu vực doanh nghiệp và các chương trình cải cách sau khủng hoảng nên tập trung vào các vấn đề trên. 2.2 Lợi ích ổn định tỷ giá hối đoái: Hai thập kỷ qua đã chứng kiến sự biến động tỷ giá hối đoái danh nghĩa và thực tế giữa các đồng tiền lớn - đôla Mỹ, yên Nhật, các đồng tiền châu Âu trong EMS cả trong ngắn hạn và trong trung hạn. Tỷ giá giữa các đồng tiền chính biến động mạnh sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ (từ 1945 đến 1971). Trong trung hạn, tỷ giá cũng biến động mạnh như giai đoạn lên giá của đồng đôla Mỹ 1980-85. Các nước công nghiệp lớn vẫn chủ trương thả nổi tỷ giá và hạn chế can thiệp trên thị trường tiền tệ, ngoại trừ những lần căng thẳng và mất cân đối cao độ đe dọa trực tiếp triển vọng kinh tế nước họ. Tóm lại, có rất nhiều khó khăn cho các nước đang phát triển trong việc tìm giải pháp đơn phương để kiểm soát thị trường tiền tệ và ngăn ngừa khủng hoảng tài chính bởi vì vẫn chưa có các thỏa thuận quốc tế để thiết lập hệ thống tỷ giá ổn định. Một vấn đề đặt ra là: liệu các cơ chế khu vực có thể giải quyết được khó khăn này không? Các nước Đông Nam Á giờ đây đã chú ý nhiều hơn đến khu vực hóa, đó cũng là giải pháp và đồng thời cũng là lợi ích mang đến một cơ chế phòng hộ tập thể trước những bất ổn hệ thống khi hình thành một đồng tiền chung của khu vực . CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐỒNG TIỀN CHÂU ÂU EURO – NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ II.1 Quá trình hình thành đồng tiền Châu âu Euro Giai đoạn 1 (1990-1993) và hiệp ước Masstricht Giai đoạn 1 của EMU bắt đầu từ 1/7/1990 và kết thúc ngày 31/12/1993. Giai đoạn này phải hoàn tất toàn bộ các công việc chuẩn bị trước khi Hiệp ước 11/48
- Masstricht có hiệu lực. Cụ thể, các rào cản còn lại đối với sự di chuyển vốn tự do giữa các nước trong Cộng đồng châu Âu và giữa Cộng đồng và các nước thứ ba phải đã được dỡ bỏ. Các nước bắt đầu chú trọng vào tiến trình hội nhập kinh tế, bước đầu áp dụng các chương trình hội nhập nhiều năm với những mục tiêu cụ thể cho các biến số về lạm phát và ngân sách. Các chương trình này chịu sự đánh giá của Hội đồng các Bộ trưởng Kinh tế và Tài chính (ECOFIN) có mục tiêu là nhằm đảm bảo duy trì lạm phát thấp, tài chính nhà nước vững mạnh và ổn định tỷ giá hối đoái giữa các nước thành viên - theo đúng yêu cầu của Hiệp ước Masstricht, nhằm chuẩn bị cho việc phát hành đồng Euro làm đồng tiền chung của Cộng đồng. Hiệp ước Masstricht là sự sửa đổi bổ sung của Hiệp ước Rome (1957) về cải cách trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nó tạo các điều kiện pháp lý cần thiết để hình thành các tổ chức nhằm thúc đẩy quá trình hình thành EMU, ví dụ cho phép hình hành NHTW châu Âu (ECB). Hiệp ước cũng quy định những điều kiện cụ thể để một quốc gia được coi là đủ tư cách gia nhập EMU. Để gia nhập EMU, các nước phải: -Đạt được mức độ ổn định cao về giá cả, thể hiện ở tỷ lệ lạm phát (trong 12 tháng trước đó) không quá 1,5% so với tỷ lệ lạm phát của 3 nước thành viên có tỷ lệ lạm phát thấp nhất. -Duy trì tình hình tài chính của chính phủ ổn định, thể hiện ở ngân sách chính phủ không có thâm hụt quá lớn, thâm hụt không quá 3% GDP trong điều kiện bình thường, và tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP không vượt quá 60%. Hiệp ước cho phép một sự linh hoạt nhất định khi đánh giá tiêu chí này, ở chỗ nó có tính đến những tiến bộ trước đây trong việc giảm thâm hụt ngân sách và/hoặc các yếu tố bất ngờ, đặc biệt gây ra sự thâm hụt đó. -Tuân thủ biên độ dao động bình thường mà cơ chế tỷ giá hối đoái của EMS cho phép trong ít nhất hai năm, cụ thể là trong giai đoạn đó, một nước thành viên không được chủ ý phá giá đồng tiền của mình so với tỷ giá trung tâm với một 12/48
- đồng tiền của một nước khác. -Duy trì tỷ lệ lãi suất dài hạn sao cho trung bình của thời kỳ mười hai tháng trước đó không quá 2% so với mức trung bình của ba nước thành viên có giá cả ổn định nhất khu vực. Giai đoạn 2 (1994-1999) Giai đoạn 2 của EMU bắt đầu ngày 1/1/1994 và kéo dài đến ngày 31/12/1998. Giai đoạn này nhằm tiếp tục chuẩn bị cho các nước thành viên áp dụng đồng tiền chung. Sự thay đổi chính về mặt thể chế của giai đoạn này là việc thành lập Viện Tiền tệ châu Âu (EMI). Viện này là tiền thân của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) sau này và nhiệm vụ chính của nó là cụ thể hoá các khuôn khổ pháp lý, thực hiện các công việc tổ chức và hậu cần cần thiết khác để ECB thực hiện nhiệm vụ của mình kể từ đầu giai đoạn 3. Viện này cũng chịu trách nhiệm củng cố sự phối hợp các chính sách tiền tệ trước khi hình thành EMU và có thể tư vấn cho các ngân hàng các quốc gia thành viên về mặt này. Ngày 2/5/1998, Hội đồng họp với sự tham gia của các nguyên thủ quốc gia, bỏ phiếu quyết định việc thành viên nào sẽ áp dụng đồng Euro bắt đầu từ giai đoạn 3. Quyết định này dựa trên sự đề đạt của ECOFIN trên cơ sở những đánh giá độc lập của Uỷ ban châu Âu và Viện tiền tệ châu Âu về tình hình các nước thành viên ERM đáp ứng các tiêu chuẩn hội nhập của Hiệp ước Masstricht và các nghị định thư kèm theo. Sau khi có quyết định của Hội đồng châu Âu, ECB chính thức được thành lập và bắt đầu chuẩn bị cho việc hoạch định và thi hành một chính sách tiền tệ chung kể từ ngày 1/1/1999. Giai đoạn 3: Đồng Euro đi vào lưu thông Giai đoạn 3 của EMU bắt đầu ngày 1/1/1999. Từ đầu giai đoạn này, đồng Euro trở thành đồng tiền theo đúng nghĩa của nó và tỷ lệ chuyển đổi các đồng tiền quốc gia của các nước thành viên áp dụng đồng Euro được ấn định không thay đổi. Các đồng tiền quốc gia ban đầu sẽ lưu hành song song với đồng Euro. Đồng Euro sẽ thay thế đồng ECU với tỷ lệ 1:1. 13/48
- Việc đồng ECU thay thế các đồng bản tệ sẽ được tiến hành dần dần trong giai đoạn này và chỉ chính thức thay thế hoàn toàn các đồng tiền quốc gia tham gia liên minh vào năm 2002. Kể từ giai đoạn này, NHTW châu Âu cũng bắt đầu thi hành một chính sách tiền tệ chung cho các nước thành viên. Nhằm đảm bảo kỷ luật tài chính để tạo điều kiện cho chính sách tiền tệ chung, Hiệp ước ổn định và phát triển cũng đã bắt đầu có hiệu lực. Một cơ chế tỷ giá mới - gọi là cơ chế tỷ giá 2, ERM2 - gắn đồng tiền các nước chưa đủ điều kiện g ia nhập với đồng Euro cũng sẽ đi vào hoạt động từ đầu giai đoạn này. Cơ chế mới nhằm thúc đẩy sự hội nhập của các nước chưa đủ điều kiện với các điều kiện kinh tế vĩ mô của khu vực đồng Euro, đồng thời giúp đảm bảo sự ổn định của tỷ giá trong Liên minh Châu Âu nói chung. Vào ngày 1/1/2002, tiền giấy và tiền xu Euro chính tức được đưa vào lưu thông và tiền giấy và tiền xu nội tệ bắt đầu rút lui khỏi lưu thông. Ngày 28/1/2002, Hà Lan là nước đầu tiên hoàn thành việc thay thế toàn bộ đồng tiền quốc gia cũ bằng đồng tiền chung. Ailen và Pháp cũng kết thúc giai đoạn tồn tại song song của hai đồng tiền vào ngày 9/2 và 17/2/2002. Với 9 nước còn lại, thời kỳ này đồng loạt chính thức kết thúc vào ngày 28/2. II.2 Những tác động CHƯƠNG III: KHẢ NĂNG, LỢI ÍCH VÀ LỘ TRÌNH TIẾN TỚI ĐỒNG TIỀN CHUNG ASEAN III.1 Khả năng hình thành một đồng tiền chung ASEAN Quá trình thành lập một liên minh tiền tệ ở ASEAN chắc chắn cũng phải trải qua một giai đoạn mà EMU đã trải qua, nghĩa là đáp ứng các tiêu chí cụ thể để hội nhập, một hình thức thoả thuận tỷ giá nào đó (có thể là thiết lập các tỷ giá trung tâm với biên độ dao động thích hợp), thiết lập các quy định về tài khoá, về cạnh tranh ở cấp độ khu vực, và tự do hoá thị trường vốn và thị trường lao động. 14/48
- Tất nhiên, ASEAN và Tây Âu có nhiều điểm khác biệt. Thứ nhất, ở ASEAN không có nước nào có thể giữ vai trò trung tâm như Đức ở Tây Âu, một nền kinh tế không chỉ lớn về quy mô mà còn có một quá trình dài kinh tế vĩ mô ổn định. Thứ hai, và không kém phần quan trọng, các nước Tây Âu không chênh lệch về mặt trình độ phát triển kinh tế như các nước ASEAN. Tuy nhiên, xem xét khả năng ra đời của một liên minh tiền tệ ở ASEAN cũng phải dựa trên việc xem xét và đánh giá các điều kiện để hình thành một liên minh tiền tệ đã phân tích ở trên. 1.1 Khả năng hình thành một thị trường tự do di chuyển các yếu tố Như đã phân tích ở trên, việc tạo ra một môi trường tỷ giá thuận lợi cho sự phát triển của thương mại giữa các nước trong khu vực, cạnh tranh lành mạnh chính là một động cơ quan trọng khuyến khích ASEAN tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tiền tệ và tỷ giá. Việc tăng cường hội nhập trong lĩnh vực thương mại, cả ở cấp độ quốc tế và khu vực đều là cách để ASEAN hợp tác tiền tệ và tỷ giá thành công. Về mặt này, các nước ASEAN hiện đã cam kết thiết lập một Khu vực Thương mại tự do ASEAN vào năm 2008, và đối với một số nước phát triển hơn là năm 2003. Tất nhiên, một khu vực thương mại tự do mới chỉ là giai đoạn đầu trên con đường tiến tới thành lập một liên minh tiền tệ 1.1.1 Sự tự do lưu thông hàng hoá Cho đến nay các nước ASEAN đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong việc tạo lập một thị trường hàng hoá tự do lưu thông. Những nỗ lực trong việc cắt giảm thuế quan theo CEPT trong những năm qua đã góp phần làm cho mức thuế trung bình của các sản phẩm CEPT trong khu vực đã giảm từ 12,76% năm 1993 xuống 2.63% (dự tính)vào năm 2003. Với thành tích đó, các chuyên viên kinh tế ASEAN đã bắt đầu thảo luận về một kế hoạch giảm thuế xuống mức 0-5% đối với 8000 mặt hàng vào năm 2002 và thêm 1000 vào năm 2003 trong tổng số 9103 mặt hàng phải giảm thuế xuống mức này. Về các hàng rào phi thuế quan, ASEAN đã đưa ra định nghĩa cụ thể về các rào cản thương mại phi quan thuế ( NTBs) thích ứng với việc thực hiện các quy 15/48
- định về AFT A, đồng thời các nước ASEAN cũng đã xác định được những NTBs chủ yếu tác động lên thương mại nội bộ khu vực, bao gồm thuế phụ thu hải quan, các biện pháp kỹ thuật, những yêu cầu về đặc điểm sản phẩm và các biện pháp độc quyền nhóm Phương thức để loại bỏ các rào cản kỹ thuật mà các nước ASEAN đưa ra là hài hoà các tiêu chuẩn sản phẩm và công nhận lẫn nhau giữa các nước thành viên về chế độ hải quan. Hợp tác hải quan cũng được tiến hành rất tích cực trong phạm vi ASEAN, thông qua hội nghị các Tổng cục trưởng hải quan ASEAN. Các vấn đề quan trọng như: Điều hoà danh mục thuế, các hệ thống xác định trị giá hải quan, đơn giản hoá và điều hoà các thủ tục hải quan, triển khai hệ thống hành lang xanh đối với hàng hoá thuộc CEPT và vấn đề ký kết Hiệp định Hải quan, đã lần lượt được đưa ra thảo luận tại các Hội nghị. Như vậy, khả năng hình thành một khu vực thương mại hàng hoá tự do là hoàn toàn hiện thực và sẽ được hoàn tất trong tương lai không xa. Nếu so sánh với tiêu chí của khu vực tiền tệ tối ưu về hội nhập thị trường hàng hoá thì các số liệu về thương mại nội bộ khối của ASEAN cũng tương đối thuận lợi. Bảng 1. cho thấy rằng nếu tính theo tỷ trọng thương mại trong tổng thương mại thì tỷ trọng trên 50% của EU cũng như khu vực đồng Euro đều cao hơn nhiều mức của ASEAN và Mercosur. Một nguyên nhân là do tầm quan trọng của thị trường khu vực đối với ASEAN và EU là khác nhau. Tuy nhiên, nếu xét tới tỷ trọng thương mại trong GDP, chúng ta thấy rằng tỷ lệ này của EU và ASEAN cũng tương đối đều nhau, và cả hai đều cao hơn nhiều so với tỷ lệ của Mercosur. Theo lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu, tỷ lệ thương mại nội bộ khu vực càng cao thì lợi ích mà một đồng tiền chung mang lại càng lớn nhờ giảm được chi phí giao dịch và những tác động tiêu cực của sự biến động tỷ giá đối với thương mại. Cũng cần nhớ rằng mặc dù tỷ trọng thương mại nội bộ trong tổng lưu lượng thương mại của ASEAN không cao như EU nhưng ổn định tỷ giá khu vực vẫn có 16/48
- một ý nghĩa quan trọng đối với ASEAN để tránh những tác động tiêu cực của sự biến động tỷ giá đối với khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu từ các nước ASEAN sang cùng một thị trường thứ ba. Điều này cũng có nghĩa là sự phối hợp tiền tệ và tỷ giá của ASEAN có thể có những điểm khác với EU. Chẳng hạn, các nước ASEAN có thể sẽ muốn có một hình thức neo giá với bên ngoài hoặc một rổ tiền tệ có chứa đồng tiền của các nước bạn hàng chính. Bảng 1. Thương mại nội bộ khu vực của ASEAN và các khối kinh tế khác 1995 2000 Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu Nhập khẩu % trong tổng thương mại khu vực ASEAN 5 23.2 17.8 22.4 22.6 ASEAN 25.3 19.1 23.9 24.3 EU 62.4 61.0 62.1 57.9 Khu vực Euro 52.1 51.3 50.8 48.1 Mercosur 22.6 20.3 23.5 23.9 % trong tổng GDP khu vực ASEAN 5 11.7 9.9 17.0 14.6 ASEAN 12.6 10.5 17.6 15.3 EU 14.6 13.6 18.0 16.8 Khu vực Euro 12.2 11.2 15.6 14.6 Mercosur 1.9 1.8 2.3 2.5 (Nguồn: IMF, World Economic Outlook, Direction of Trade Statistics,World Bank World Development Indicators, 2001) ASEAN 5: Indonesia, Malaysia, Philipin, Singapore, và Thái Lan 17/48
- Mercosur: Achentina, Brazil, Paraguay, Uruguay, Bolivia và Chile Như vậy, khả năng hình thành một thị trường thống nhất về hàng hoá, bước đầu tiên trên con đường tiến tới một liên minh tiền tệ ASEAN là hoàn toàn chắc chắn. Và như cả lý thuyết về khu vực tiền tệ tối ưu và thực tiễn của EMU đã cho thấy, một khi hàng hoá đã được tự do lưu thông giữa các nước ASEAN, yêu cầu ổn định tỷ giá hối đoái giữa các nước thành viên sẽ càng được củng cố thêm, thúc đẩy các nước này thiết lập một cơ chế ổn định tỷ giá. 1.1.2 Sự tự do di chuyển các dòng vốn và lao động Nói đến khả năng ASEAN trở thành một khu vực tự do di chuyển các dòng vốn, chắc chắn phải nhắc đến Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) với hai mục tiêu chính như sau: Thứ nhất, xây dựng một Khu vực đầu tư ASEAN có môi trường đầu tư thông thoáng và rõ ràng hơn nhằm thu hút đầu tư từ cả nguồn trong và ngoài ASEAN; cùng thúc đẩy ASEAN thành một khu vực đầu tư hấp dẫn; củng cố và tăng cường tính cạnh tranh trên các lĩnh vực kinh tế của ASEAN; giảm dần hoặc loại bỏ những quy định và điều kiện đầu tư có thể cản trở các dòng đầu tư và sự hoạt động của các dự án đầu tư trong ASEAN; Thứ hai, đảm bảo rằng việc thực hiện những mục tiêu trên sẽ góp phần hướng tới tự do lưu chuyển đầu tư vào năm 2020. Để hoàn thành các mục tiêu trên, các nước ASEAN sẽ thực hiện: Một chương trình hợp tác đầu tư ASEAN nhằm khuyến khích đầu tư mạnh mẽ hơn từ các nước ASEAN và các nước ngoài ASEAN; Chế độ đối xử quốc gia được dành cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020; Tất cả các ngành nghề được mở cửa cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020; Khu vực kinh doanh đóng vai trò to lớn hơn trong các nỗ lực hợp tác về đầu tư và các hoạt động có liên quan trong ASEAN; 18/48
- Di chuyển tự do hơn về vốn, lao động lành nghề, chuyên gia và công nghệ giữa các quốc gia thành viên. Hoàn thành kế hoạch AIA nói trên, các nước ASEAN sẽ hoàn thành tiếp bước thứ hai trên con đường tiến tới một liên minh tiền tệ ASEAN mà Cộng đồng châu Âu cũng phải tới năm 1992 mới hoàn thành. Các nghiên cứu của các nhà kinh tế trên thế giới đã thậm chí còn kết luận rằng so với các nước EU vào thời điểm ký kết Hiệp ước Masstricht, ASEAN có mức độ tự do di chuyển lao động và vốn tương đối cao. Chẳng hạn, công nhân từ các nước Inđônêxia, Malaixia, Philippin và Thái Lan chiếm khoảng 10% lao động có việc làm tại Singapore, và chiếm khoảng 2% lực lượng lao động của các nước xuất khẩu lao động. Đây là những dấu hiệu cho thấy rằng khu vực hoàn toàn có những điều kiện cần thiết đầu tiên để tạo lập một đồng tiền chung. 1.2 Khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của khối Ôn định kinh tế vĩ mô là một trong những điều kiện quan trọng để hình thành một liên minh tiền tệ tiền tệ. Môi trường kinh tế vĩ mô của các nước thành viên tương lai càng ổn định thì các nước này càng ít cần phải sử dụng đến chính sách tiền tệ của riêng nước mình để đối phó với các cú sốc, và như vậy sẽ sẵn sàng tham gia vào một khu vực đồng tiền chung hơn. Kinh nghiệm của EMU thậm chí còn cho thấy rằng ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định tỷ giá là hai mục tiêu hỗ trợ cho nhau, nghĩa là thực hiện tốt một mục tiêu sẽ hỗ trợ việc thực hiện mục tiêu kia. Bảng 2. Tình hình ngân sách chính phủ một số nước châu á 19/48
- % GDP 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Trung Quốc -1,5 -1,8 -3,0 -4,0 -3,6 -3,2 -3,2 Hàn Quốc 1,0 -0,9 -3,8 -2,7 2,5 2,0 1,2 ASEAN Indonesia -0,6 -2,1 -1,5 -2,3 -3,7 -2,5 Malaysia -2,6 -1,8 -4,1 -4,2 -5,9 -3,5 Philippines -0,6 -2,1 -1,5 -3,4 -4,1 Singapore 9,3 9,2 3,6 4,5 7,9 6,3 3,1 Thailand 2,8 -3,2 -8,4 -12,3 -4,1 (Nguồn: WB và IMF (WEO 12/2001)) Trên thực tế, tuy còn một số thành viên kém phát triển và kinh tế vĩ mô không ổn định, nhiều nước trong ASEAN thời gian qua đã đạt được tỷ lệ lạm phát tương đối thấp và mức thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ trong GDP nhỏ. Mặc dù những năm gần đây, khủng hoảng và suy thoái kinh tế khu vực đã làm môi trường kinh tế vĩ mô khu vực kém ổn định hơn trước nhưng tỷ lệ thâm hụt ngân sách của các nước ASEAN vẫn giữ ở mức thấp so với mức của các nền kinh tế đang chuyển đổi khác. Tuy các chỉ số kinh tế vĩ mô không đồng đều như của khu vực đồng tiền chung Châu Âu, nhưng môi trường kinh tế vĩ mô của ASEAN vẫn được coi là tương đối ổn định và thuận lợi cho việc hình thành một liên minh tiền tệ 20/48
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Cơ sở quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
12 p | 4254 | 727
-
Tiểu luận: " Quá trình hình thành và phát triển của tôn giáo "
18 p | 886 | 180
-
Bài tiểu luận: Quá trình hình thành, giáo lý cơ bản, sự truyền bá cũng như ảnh hưởng của đạo hồi đến đời sống kinh tế xã hội
17 p | 1132 | 82
-
TIỂU LUẬN: Quá trình hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức của Công ty kinh doanh nước sạch Hà nội
40 p | 377 | 67
-
Bài thuyết trình Tư tưởng Hồ Chí Minh: Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước (1890-1911)
14 p | 396 | 61
-
Đề tài " QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI - XÂY DỰNG BẠCH ĐẰNG "
80 p | 215 | 58
-
TIỂU LUẬN: Quá trình hình thành và phát triển, chức năng, nhiệm vụ của Công ty tu tạo và phát triển nhà
33 p | 697 | 53
-
Tiểu luận: Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
31 p | 234 | 41
-
TIỂU LUẬN:Quá trình hình thành và phát triển của công ty Kiểm toán và định giá Việt Nam cùng với chương trình kiểm toán riêng mà công ty đang áp dụng.Lời nói đầuNgay từ những năm cuối thế kỷ XX, xu hướng phát triển của hầu hết các nước là hội nhập k
60 p | 170 | 34
-
TIỂU LUẬN: Quá trình hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần May Thăng long
33 p | 187 | 31
-
Tiểu luận Văn hóa hành chính: Tầm quan trọng của văn hóa hành chính trong quá trình hình thành nhân cách người cán bộ, công chức
31 p | 285 | 26
-
Tiểu luận: Độc tố hình thành trong quá trình bảo quản và chế biến thực phẩm
46 p | 175 | 24
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình hình thành, phát triển cộng đồng người Việt ở Thái Lan
196 p | 134 | 17
-
TIỂU LUẬN: Quá trình hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức của công ty Cổ phần tư vấn Sông Đà
28 p | 135 | 14
-
TIỂU LUẬN: Quá trình hình thành và phát triển, chức năng, nhiệm vụ của Công ty tu tạo và phát triển nhà
32 p | 267 | 14
-
Tiểu luận: “Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”
30 p | 118 | 14
-
TIỂU LUẬN: Quá trình hình thành và phát triển của công ty trách nhiệm hữu hạn Phú Bình
28 p | 122 | 14
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn