intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Quan điểm triết học Mác-Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa nước ta”

Chia sẻ: Nguyễn Thị Thắm | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

1.005
lượt xem
253
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Quan điểm triết học Mác-Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa nước ta” nhằm làm rõ quan điểm triết học Mác-Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta và đưa ra một số giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Quan điểm triết học Mác-Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa nước ta”

  1. Lời nói đầu Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ  cổ  đại đến hiện đại. Từ  khi Triết học Mác­Lênin ra đời đã giải quyết  những nội dung liên quan đến con người. Khẳng định con người có vị  trí  và vai trò rất quan trọng đối với thế giới, và trong thực tế hiện nay thì con  người là một lực lượng chủ  đạo trong nền sản xuất xã hội. Trong công  cuộc đổi mới xã hội chỉ  có con người­yếu tố  quan trọng nhất trong lực   lượng sản xuất của xã hội, là nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết   định sự thành công hay thất bại.  Đảng ta đã khẳng định, tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh,   cùng với Chủ nghĩa Mác­Lê nin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nan  cho hành động của Đảng. Vì vậy, thấm nhuồn tư  tưởng chủ  nghĩa Mác­ Lê nin về  con người, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ  quá độ  đi lên chủ  nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Con người là  trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ  thể  phát triển. Tôn  trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi  ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ  của nhân dân. Kết hợp và  phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao   động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con   người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công  dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hoá, nghĩa tình; có  tinh thần quốc tế chân chính”. Đặc biệt là, trong giai đoạn hiện nay đất nước ta  đang bước vào  thời kỳ  đẩy mạnh công nghiệp hóa­hiện đại hóa, đẩy mạnh toàn diện 
  2. công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước thực hiện cơ  bản  trở  thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ngoài những nhân tố  quan trọng quyết định sự thành công, đó là vai trò lãnh đạo của Đảng, sự  quản lý điều hành của nhà nước, sự  tham gia  ủng hộ  tích cực của các  đoàn thể xã hội, chúng ta cần khẳng định rằng, yếu tố con người, nguồn   nhân lực có vị  trị  rất quan trọng như  trong Nghị quyết Đại hội đại biểu   toàn quốc lần thứ  VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi  dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố  quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa­hiện đại hóa”. Để  đóng góp và  ủng hộ  đường lối của Đảng trong công cuộc xây  dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, tôi xin chọn đề tài “Quan điểm triết  học Mac­Lênin về  con người và vấn đề  xây dựng nguồn nhân lực con  người trong sự nghiệp công nghiệp hóa­hiện đại hóa nước ta” làm đề  tài  nghiên cứu của mình. Hoàn thành tiểu luận này tôi hi vọng có thể  góp một phần nhỏ  bé  của mình trong việc làm rõ lòng tin của mọi người vào công cuộc công  nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta hiện nay, và đưa ra một số giải pháp về  nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng được nhu cầu hội  nhập kinh tế quốc tế hiện nay, và thực hiện mục tiêu của Đảng phấn đấu   đến   năm   2020   đưa   nước   ta   cơ   bản   trở   thành   nước   công   nghiệp   theo   hướng công nghiệp hóa­hiện đại hóa.
  3. MỤC 1 Quan niệm triết học Mác­Lênin về con người 1.1/­ Con người là một thực thể  thống nhất giữa mặt sinh vật   và mặt xã hội. ­  Mặt  sinh  vật  bao gồm cơ  thể  cùng những  nhu cầu cơ  thể  và  những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể con người. ­ Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ  xã hội”, những   hoạt động xã hội, đời sống tinh thần của con người.   Hai mặt này có quan hệ  khắng khít không thể  tách rời nhau, trong  đó mặt sinh học là nền tảng vật chất tự  nhiên của con người, nhưng  không phải là yếu tố quyết định bản chất của con người; mặt xã hội mới  là mặt giữ vai trò quyết định bản chất của con người . Bởi mặt xã hội của  con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Lao động sản   xuất ra của cải vật chất là yếu tố  quyết định hình thành bản chất xã hội  của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã  hội. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát  triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác  nhau nhưng thống nhất với nhau: ­ Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể
  4. ­ Những quy luật hình thành tâm lý, ý thức. ­ Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người. Ba hệ thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh  trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Bản chất của con người không phải là cái gì có sẵn, mà có quá trình  hình thành, phát triển và hoàn thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con   người. 1.2/­ Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà  những quan hệ xã hội.  Trong tác phẩm  Luận cương về  Feuerbach, K.Marx khẳng  định:  “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những   mối quan hệ xã hội”. ­ Luận đề trên đã chỉ rõ: Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống   trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Trong điều kiện lịch sử  cụ  thể đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị  vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ.   Chỉ trong toàn bộ  các mối quan hệ xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ  bản chất xã hội của mình. ­ Trong khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học   Mác­Lênin không phủ  nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người, triết  học Mác­Lênin chỉ muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế  giới động vật trước hết ở bản chất xã hội. 
  5. ­ Sự  hình thành, phát triển con người là quá trình gắn liền với lịch   sử sản xuất vật chất: + Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức   vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực  xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. "Có  thể  phân biệt con người  với súc vật, bằng  ý thức, bằng tôn giáo, nói  chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự  tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư  liệu sinh hoạt của mình ­ đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con   người quy định. + Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người   đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình. Thông qua  hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự  nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất  ra toàn bộ giới tự nhiên. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt   động sản xuất vật chất; hoạt động  sản xuất vật chất biểu hiện một cách   căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản   xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ  đời  sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan  hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã   hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng  đồng xã hội. 1.3/­ Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
  6. ­ Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại  con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu   dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn   là chủ thể của lịch sử ­ xã hội. ­ Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác  động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động,  phát triển của lịch sử xã hội. ­ Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch   sử  của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ  thể  sáng tạo ra lịch sử  của chính bản thân con người. Bản chất của con   người không phải là một hệ  thống đóng kín, mà là hệ  thống mở, tương  ứng với điều kiện tồn tại của con người. C.Mác đã khẳng định: "Cái học   thuyết duy vật chủ  nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những   hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con   người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải  được giáo dục". Trong tác phẩm Biện chứng của tự  nhiên, Ph.Ăngghen  cũng cho rằng: "Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử  nguồn gốc  của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện   nay của chúng. Nhưng lịch sử   ấy không phải do chúng làm ra và trong   chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn  ra mà chúng không hề  biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược   lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ  này bao  nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý  thức bấy nhiêu”.
  7. Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần  phải cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Con người tiếp  nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở  lại hoàn cảnh trên  nhiều phương diện khách nhau. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa  con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài  người. MỤC 2 Con người là nhân tố quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp  công nghiệp hóa­hiện đại hóa đất nước 2.1. Quan niệm của Đảng ta về con người Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng từ ngày thành lập  (3­2­1930) đến nay. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định "con người là vốn  quý nhất chăm lo cho hạnh phúc của con người mục tiêu phấn đấu cao  nhất của chế  độ  ta". Trên thực tế  trong suốt những năm tháng lãnh đạo  cách mạng Việt Nam đi từ  thắng lợi này đến thắng lợi khác Đảng ta đã 
  8. cố  gắng làm nhiều việc theo hướng đó. Dân sự  chăm lo cho hạnh phúc  con người chưa có nhiều thành công như  mong  muốn, việc nâng cao đời  sống vật chất và tinh thần cho những người lao động còn thấp, song phần  nào đã đáp  ứng nguyện vọng của nhân dân, của những người lao động  chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân". Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết  sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh" đã được Đảng ta đặt  lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ Trung tâm.  Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công việc đối với con người là mục tiêu  quan trọng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của đời mình.  Mong  muốn cháy bỏng của Người là làm sao cho con người được hưởng đầy  đủ  quyền sống, quyền tự  do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong Di  chúc, khi đề  cập đến công việc đầu tiên đối với con người, Người đã  dành sự  quan tâm sâu sắc tới mọi đối tượng xã hội, mọi tầng lớp nhân  dân, vì con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng, xây  dựng con người là chiến lược hàng đầu của sự  nghiệp xây dựng chủ  nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, Đảng và Nhà nước phải có chủ  trương,   kế  hoạch đúng đắn để  phát huy nhân tố  con người, để  dùng con người   mà làm lợi cho con người. Lời dạy của Chủ  tịch Hồ Chí Minh ­ "Vì lợi  ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" và "muốn xây   dựng chủ  nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ  nghĩa" ­ đã trở  thành tư  tưởng quán xuyến toàn bộ  sự  nghiệp cách mạng   của Đảng ta với tư cách là Đảng cầm quyền ngay từ đầu mọi chủ trương,  chính sách, đường lối của Đảng đều quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng  và phát huy nhân tố con người.
  9. Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ  nghĩa xã hội"  Đảng ta đã chỉ  rõ: "Phương hướng lớn của chính sách xã  hội là: Phát huy nhân tố  con người trên cơ  sở  đảm bảo công bằng, bình   đẳng về  nghĩa vụ  và quyền lợi công dân kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế  với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp  ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với  tập thể và cộng đồng xã hội". Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó chính  là thể hiện tư tưởng vì con người, của mục tiêu phát triển con người Việt   Nam, toàn diện trong công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã  hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Như  vậy, Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc cho con  người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế  độ  ta. Đảng ta coi trọng  việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát triển nguồn lực to lớn của con  người Việt Nam là nhân tố  quyết định thắng lợi công cuộc công nghiệp  hóa, hiện đại hóa; khẳng định con người Việt Nam phát triển toàn diện cả  về thể lực, trí lực, khả năng lao động, năng động, sáng tạo và tính tích cực  chính trị­xã hội, cả về đạo đức, tâm hồn, và tình cảm là mục tiêu, là động  lực   của   sự   nghiệp   công   nghiệp   hóa,   hiện   đại   hóa...Mọi   chủ   trương,  đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều nhằm quán  triệt tư tưởng chăm lo, bồi dưỡng và phát huy nhân tố  con người, hướng  tới mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam. 2.2. Con người là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp đổi mới  nước ta hiện nay. Để  đạt được tiêu cơ  bản trở  thành nước công nghiệp theo hướng  hiện đại vào năm 2020, nền kinh tế  Việt Nam phải có mức tăng trưởng 
  10. cao và bền vững. Nghiên cứu tăng trưởng kinh tế  của các nước trên thế  giới qua nhiều giai đoạn lịch sử, các lý thuyết tăng trưởng  đã chỉ ra nguồn   nhân lực được coi là yếu tố quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế. Các  yếu tố như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ  có thể phát huy tối đa hiệu quả bởi con người có trình độ chuyện môn, kỹ  thuật. Lý thuyết tăng trưởng của C.Mác cho rằng việc sử dụng tư bản bất  biến không tạo ra giá trị  thặng dư  (lợi nhuận) bởi các nhà tư  bản phải  mua tư bản bất biến với giá trị bằng giá trị tư bản bất biến đó sẽ  tạo ra.   Chỉ  có tư  bản khả  biến mới đem lại giá trị  thặng dư  trong quá trình sản   xuất tư bản chủ  nghĩa, bởi giá trị  sử  dụng của hàng hóa sức lao động có   đặc điểm đặc biệt trong qua trình sử dụng nó tạo ra một giá trị mới (v+m)  lớn hơn giá trị  bản thân nó. Do đó, trong lực lượng sản xuất, yếu tố con   người là yếu tố tích cực, chủ động, sáng tạo là yếu tố quyết định các yếu   tố khác. C.Mac cũng chỉ ra năng lượng giá trị của hàng hóa có quan hệ mật   thiết với mức độ phức tạp của lao động. Lao động phức tạp tạo ra giá trị  nhiều hơn so với lao động giản đơn. Điều này có nghĩa là chất lượng   nguồn nhân lực càng cao thì lượng giá trị của hàng hóa càng tăng lên nhanh   chóng, tức là tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Frederik Harbison thì cho rằng nguồn nhân lực là nền tảng chủ yếu   tạo ra của cải. Tiền vốn và các tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố  thụ  động trong sản xuất là những nhân tố  thụ  động trong sản xuất, con  người là những nhân tố  tích cực, chủ  động tích lũy vốn, khai thác thiên  nhiên, xây dựng các tổ chức xã hội, kinh tế, chính trị và đưa sự nghiệp đất  nước tiến lên. Vì vậy các ông cho rằng nước nào bất lực trong việc phát   triển tay nghề và kiến thức cho người dân và không sử dụng nó một cách 
  11. hiện hữu trong nền kinh tế  quốc dân sẽ  không thể  phát triển bất cứ  thứ  gì. Thực tiễn phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, đặc biệt là  sự phát triển thần kỳ của nhiều nước ở Châu Á như Nhật, Hàn Quốc, Đài   Loan...phần lớn là nhờ vào nguồn nhân lực có chất lượng cao. Như vậy về mặt lý thuyết và thực tiễn ở nhiều nước cho thấy phát  triển nguồn nhân lực, tạo ra lực lượng lao động có học vấn, tay nghề,  chuyên môn kỹ thuật và khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi trên  thế giới, đặc biệt là sự phát triển thần kỳ của nhiều nước  ở Châu Á như  Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan... phần lớn là nhờ vào nguồn nhân lực có chất   lượng cao. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực, tạo ra lực lượng lao động  có học vấn, tay nghề, chuyên môn kỹ  thuật và khả  năng thích ứng nhanh  với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ  sản xuất là một yếu tố  then chốt cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Nắm vững quan điểm đó, Đảng ta đã xác định nguồn nhân lực là  một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với phát triển kinh tế xã  hội của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: con người nếu chỉ  có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị  vững vàng, mà thiếu đi tri  thức, kiến thức khoa học, tức là có đức mà không có tài, thì chẳng khác gì  một ông bụt ngồi trên tòa sen, không làm việc gì xấu nhưng cũng không  làm điều gì có lợi cho đời. Tri thức, trí tuệ  thực sự  là yếu tố  thiết thực   của mỗi con người, bởi vì, tất cả những gì thúc đẩy con người hành động  đều phải thông qua trí tuệ của họ.
  12. Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giời, người lao động còn  phải biết chủ  nhập hội nhập quốc tế. Khác với toàn cầu hóa, hội nhập  quốc tế là hành động chủ quan, có chủ đích của con người nhằm khai thác   nguồn lực từ bên ngoài để tăng cường sức mạnh cho đất nước mình. Hội   nhập quốc tế  cũng có nghĩa là chấp nhận cạnh tranh với thế  giới bên   ngoài; hội nhập nhưng không hòa tan, vẫn bảo tồn bản sắc văn hóa dân  tộc mình và nhất là bảo vệ  được nền độc lập dân tộc. Trong điều kiện   như  vậy, người lao động, ngoài bản lĩnh chính trị  vững vàng, ý thức dân  tộc cao, còn cần có trình độ trí tuệ ngang tầm. Có thể nói Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào với quy mô dân số  lớn­đứng thứ 13 thế giới, mật độ dân số 263 người/km 2­gấp 5 lần so với  mật độ  dân số  trung bình của thế  giới và bắt đầu bước vào thời kỳ  cơ  cấu “dân số vàng”. Thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” chỉ diễn ra trong chu kỳ  nhất định, thường kéo dài khoảng thời gian từ  15­40 năm và được coi là  cơ hội vàng để nền kinh tế bứt phá, phát triển. Tình trạng thể lực của người Việt Nam được cải thiện đáng kể sau  25 năm đổi mới. Trình độ học vấn của lực lượng lao động những năm qua   không ngừng tăng lên: ở Việt Nam cứ 1 cán bộ  tốt nghiệp đại học thì có   1,16 cán bộ  tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp và 0,92 công nhân kỹ  thuật; cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học. Đây là một điều kiện quan   trọng và là chỉ báo về nâng chất lượng nguồn nhân lực. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn đụng chạm đến các  vấn đề  phức tạp trong quan hệ  giữa con người với tự nhiên. Nó đòi hỏi  con người phải có hiểu biết và có trách nhiệm trong việc bảo vệ, cải   thiện môi trường thiên nhiên vì sự phát triển bền vững, nói một cách ngắn  
  13. gọn là phải có văn hóa sinh thái. Song con người trong quá trình công  nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ  môi phải được nâng lên thành văn hóa  sinh thái: con người phải có nhận thức, thái độ, cách ứng xử đúng đắn của   con người đối với tự nhiên; cả về phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hậu quả  do sản xuất gây ra; cải thiện môi trường tự  nhiên, bảo tồn thiên nhiên,   thích nghi với tự nhiên và đấu tranh chống lại việc tàn phá tự nhiên. Nguồn nhân lực chất lượng của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại  hóa phải là “những con người phát triển cả  về  trí lực và thể  lực, cả  về  khả năng lao động , về tính cực chính trị­xã hội, về đạo đức, trình độ học   vấn, chuyên môn nghiệp vụ và kỹ  năng ứng dụng tri thức vào hoạt động  thực tiễn...đó chính là những nhân tố  tạo nên chất lượng nguồn nhân lực  nói chung chất lượng nguồn nhân lực cũng trở  thành mục tiêu hàng đầu  của giáo dục, đào tạo. Không thể  có nguồn nhân lực chất lượng tốt nếu   không thông qua giáo dục.
  14. MỤC 3 Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam phục  vụ sự nghiệp công nghiệp hóa­hiện đại hóa đất nước 3.1/­ Những thách thức của quá trình Công nghiệp hóa, hiện  đại hóa ở nước ta. Việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước  đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá trị lớn  lao và có ý nghĩa quyết định của nhân tố con người chủ thể của mọi sáng  tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá tinh thần. Phải có sự thay đổi  sâu sắc cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động của con người và coi việc  bồi dưỡng phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một cuộc  cách mạng. Hơn nữa, với tính tất yếu khách quan của sự nghiệp xây dựng   đất nước theo định hướng xã hội chủ  nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại  hoá đất nước và cách mạng con người phải được nhận thức là hai mặt   thống nhất, không thể tách rời của sự nghiệp xây dựng đó. Thực trạng nguồn nhân lực Việt nam dồi dào về  số  lượng, nhưng  lại thiếu hụt nhân lực có trình độ cao, năng suất lao động xã hội thấp hiện   nay đặt ra nhiều thách thức cho nền kinh tế trong bối cảnh Việt Nam hội   nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
  15. Một là, thách thức về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Lợi thế  cạnh tranh của một quốc gia được cấu thành từ  những yếu tố  như: hạ  tầng, thể  chế, môi trường kinh doanh, nhân lực...trong đó nhân lực được   coi là yếu tố  cạnh tranh có tính riêng biệt, quyết định đối với mỗi quốc  gia. Mặc dù Việt nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá trong  10 năm qua, những năng lực cạnh tranh của nền kinh tế  vẫn chưa được  hoàn thiện nhiều. Theo báo cáo của diễn đàn kinh tế  thế  giới (WEF),   trong 5 năm qua Việt Nam không có những cải thiện đáng kể nào về vị trí  xếp hạng và năng lực cạnh tranh. Điều này có nhiều nguyên nhân, một   trong những nguyên nhân quan trọng là do chất lượng nguồn nhân lực của  Việt Nam hiện đang còn thấp. Vì vậy Việt Nam muốn nâng cao năng lực   cạnh tranh của Việt Nam thì một trong những yếu tố  quyết định là phải   nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hai là, hạn chế  khả  năng chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế  từ  chủ  yếu dựa vào vốn và nguồn nhân lực với số  lượng dồi dào, giá trị  nhân công rẻ  sang mô hình tăng trưởng dựa vào nguồn nhân lực có chất   lượng lượng cao, nâng cao sự đóng góp của nhân tố năng suất cao.  Ba là, Việt Nam đang sẽ  khó vượt qua ngưỡng thu nhập trung bình  nếu tăng trưởng kinh tế  chỉ  dựa vào vốn, nguồn tài nguyên và lao động  giản đơn chưa qua  đào tạo. Do  đó phát triển và nâng cao chất lượng   nguồn nhân lực được xem là các yếu tố then chốt đưa nước ta thoát khỏi   thu nhập trung bình trong những năm tới.
  16. 3.2/­ Những giải pháp xây dựng con người Việt Nam đáp  ứng  thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay Một là, gắn chiến lược phát triển con người với chiến lược phát  triển kinh tế. Đây được coi là một trong những nền tảng của sự  thành  công về  mặt kinh tế, khoa học kỹ thuật. Nước ta phải lấy sự phát triển   nguồn nhân lực làm động lực cho tăng trưởng kinh tế  thông qua sự  kết   hợp chặt chẽ các chiến lược kinh tế và chiến lược phát triển nguồn nhân  lực. Trong những năm gần đây, đã có sự quan tâm gắn kết chiến lược phát  triển nguồn nhân lực với chiến lược phát triển kinh tế  thể  hiện qua xu   hướng đào tạo theo nhu cầu xã hội, sự  hợp tác giữa nhà trường với các   doanh nghiệp đào tạo nhân lực. Mấu chốt của vấn đề  là chúng ta phải  thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa các chiến lược phát triển nhân   lực với các chiến lược phát triển kinh tế. Giải quyết được điều này chúng  ta mới giải quyết được tình trạng thiếu hụt nhân lực có trình độ, tay nghề  và kỹ  năng cần thiết cho sự  phát triển kinh tế, biến gánh nặng dân số  hiện nay thành lợi thế cạnh tranh của nước ta trong qua trình hội nhập. Hai là, cải cách giáo dục đại học và đào tạo nghề  nhằm nâng cao   chất lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Chất lượng giáo dục và  đào tạo được coi là chìa khóa để  phát triển nguồn nhân lực. Thế  nhưng  hiện nay hệ  thống giáo dục và đào tạo  ở  nước ta chưa đáp  ứng với yêu   cầu của xã hội và sự  phát triển của nền kinh tế. Do đó, để  phát triển   nguồn nhân lực cần thực hiện cải cách căn bản nền giáo dục, đào tạo.  Trong đó, yêu cầu bức bách hiện nay là cần phải cải cách phát triển giáo  dục đại học, giáo dục đào tạo nghề  để  có  ảnh hưởng đến chất lượng   nguồn nhân lực. Trong tình trạng hiện tại, có hai vấn đề  quan trọng, cấp  
  17. bách và có ý nghĩa lâu dài trong việc cải thiện sớm thực hiện, đó là: Phải   gắn kết đào tạo của nhà trường với yêu cầu của thị trường lao động. Đào   tạo những kỹ  năng cần thiệt là một trong những yếu tố  quan trọng để  nguồn nhân lực có thể  đap  ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng; Nhà nước  xây dựng cơ  chế  khuyến khích các doanh nghiệp tham gia và trở  thành  một chủ  thể  quan trọng trong quá trình đào tạo: đảm bảo cung cấp đầy  đủ, thường  xuyên thông tin về  tình hình làm việc, kỹ  năng  đào tạo...;  khuyến   khích   đào   tạo   nghề   tại   dây   chuyền   sản   xuất   của   các   doanh   nghiệp. Gắn đào tạo giáo dục với ứng dụng các khao học kỹ thuật. Ba là, huy động các nguồn lực đầu tư  cho sự  phát triển nhân lực.   Ngoài việc chi từ nguồn ngân sách nhà nước, chúng ta cần phải huy động  và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế  trong   và ngoài nước cho sự  phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập   kinh tế  và cạnh tranh toàn cầu. Chú trọng đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt   động giáo dục; ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng kêu gọi các nhà đầu tư... Bốn là, nâng cao chất lượng quản lý của nhà nước đối với nguồn   nhân lực. Chúng ta phải quản lý có hiệu quả  về  nhân lực trước trước   những yêu cầu mới của phát triển nền kinh tế  thị  trường, hội nhập và  cạnh tranh. Nhà nước cần phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế  phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực  hiện các chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực. Năm là, nâng cao nhận thức của xã hội về  phát triển nguồn nhân  lực. Chúng ta xác định đây không chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà còn  là nhiệm vụ của toàn xã hội. Chúng ta phải xác định nguồn nhân lực quý   giá, là động lực cho sự  phát triển; phát triển nguồn nhân lực không chỉ 
  18. giúp chúng ta đạt được những mục tiêu ngắn hạn mà còn là tiền đề  cho  sự  phát triển lâu dài của đất nước. Do đó nhà nước cần có những chính  sách tác động đến nhận thức của toàn xã hội về trách nhiệm trong vấn đề  đào tạo nguồn nhân lực. Kết luận Sự   nghiệp   công   nghiệp   hóa­hiện   đại   hóa   đất   nước   đang   đặt   ra  những yêu cầu cần thiết cần phải có nhân tố  con người có tri thức, kỹ  năng, phẩm chất để  phục vụ  sự  nghiệp phát triển đất nước.  Ở  hầu hết  các nước phát triển, nguồn lực là một trong nhwunxg mối quan tâm hàng  đầu, tất cả các nước đều coi trọng yếu tố con người và có chính sách phát   triển nguồn nhân lực. Thấm nhuồn chủ nghĩa Mac­Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta  đã xác định thắng lợi của sự  nghiệp đổi mới cũng là thành công của quá  trình xây dựng và phát triển con người mang tính toàn diện, là một trong  những nhân tố quan trọng hàng đầu đơi với việc phát triển kinh tế­xã hội,   xây dựng nước ta một nước công nghiệp, theo hướng công nghiệp hóa­ hiện đại hóa.
  19. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp  ứng thời kỳ  công nghiệp  hóa, hiện  đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ  nghĩa là chủ  trương lớn của Đảng ta, là con đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước  mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giáo dục, đào tạo, phát triển  nguồn nhân lực  phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa luôn là   nhiệm vụ, yêu cầu cấp thiết, lâu dài của toàn Đảng và toàn hệ  thống  chính trị ở nước ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình triết học Mác­Lê nin, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội,  2011. 2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,  1995. 3. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000. 4. Tư tưởng Triết học Hồ Chí Minh, GS.TS Lê Hữu Nghĩa chủ biên.
  20. 5. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX,  Đảng Cộng sản  Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2001. 6. Tạp Chí Cộng sản, số 833, tháng 3/2012 7. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 260, tháng 6/2012.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2