intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: “Thực trạng và các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tại Mỹ”

Chia sẻ: Mai Tam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:15

351
lượt xem
114
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: “thực trạng và các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản của việt nam tại mỹ”', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: “Thực trạng và các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tại Mỹ”

  1. TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. ----- ----- TIỂU LUẬN Thực trạng và các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tại Mỹ 1
  2. Mục lục Lời mở đầu.............................................................................1 I.Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt nam Mỹ ......................2 II.Những hạn chế, khó khăn trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam sang thị trường Mỹ.................................................6 III.Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Việt nam sang thị trường Mỹ 1. Giải pháp mang tầm vĩ mô ................................................9 2. Giải pháp cấp doanh nghiệp ..............................................10 Kết luận..................................................................................13 2
  3. Lời mở đầu Trong nền kinh tế của Việt Nam, thuỷ sản là thế mạnh và là ngành kinh tế mũi nhọn. Với lợi thế Việt Nam có hơn 3260 Km bờ biển, 112 cửa sông, lạch, hơn 2 triệu km2 thềm lục địa, hơn một triệu km2 mặt nước, sự phong phú về các loại thuỷ hải sản nên ngành thuỷ sản của nước ta có điều kiện rất thuận lợi để phát triển và thực tế nó đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Từ năm 1990 đến nay ngành ngư nghiệp đã phát triển mạnh. Hàng năm Việt Nam đã đánh bắt từ 1,2 triệu đến 1,7 tấn hải sản. Hàng thuỷ sản Việt Nam hiện đã có mặt trên 60 quốc gia và Mỹ là một trong những bạn hàng lớn nhất của Việt Nam trong lĩnh vực này. Mỹ là một quốc gia nhập khẩu lớn thứ hai trên thế giới với giá trị nhập 10 tỷ USD bình quân mỗi năm. Do đó, Mỹ là một thị trường luôn sôi động và hấp dẫn cả về nhu cầu, số lượng, chủng loại, chất lượng và giá cả thu hút trên 130 nước xuất khẩu. Trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, tuy nhiên thực trạng của ngành thuỷ sản xuất khẩu sang Mỹ vẫn đang gặp những khó khăn, thách thức.. Do đó em chọn và nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tại Mỹ”. 3
  4. I.Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt nam vào thị trường Mỹ Bắt đầu từ năm 1994, sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam, những lô hàng thuỷ sản Việt nam đầu tiên đã có mặt trên thị trường Mỹ. Từ đó trở đi cho đến tháng 7-2000, mặc dù chưa ký được Hiệp định thương mại Việt-Mỹ nhưng giá trị xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt nam vẫn tăng đều đặn. Từ sau năm 2004, do ảnh hưởng của các vụ kiện chống bán phá giá (CBPG) đối với cá tra, basa và tôm của Việt Nam, mức thuế nhập khẩu của các mặt hàng này bị áp đặt với mức rất cao, khiến nhiều nhà NK của Mỹ không thể chịu nổi và các nhà xuất khẩu của Việt Nam cũng không thể đáp ứng yêu cầu đóng kỹ quỹ thuế CBPG với một khoản tiền quá lớn và phức tạp về mặt thanh khoản. Nguyên nhân cơ bản này đã khiến nhập khẩu thủy sản VN của Mỹ đang từ mức tăng trưởng rất mạnh, gần 20% về giá trị sụt giảm xuống mức tăng trưởng âm (- 24%). Mỹ đã dần trở thành nhà nhập khẩu thứ hai rồi xuống thứ 3 trong số các nhà nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Sang năm 2005 và 2006, các vấn đề về đánh giá hành chính đối với cá tra, basa đã có thuận lợi hơn, nhiều công ty đã được giảm tương đối về mức thuế CBPG. Những phức tạp về thuế CBPG và đóng ký quỹ cho Hải quan Mỹ cũng một phần 4
  5. được ổn định. Mức thuế CBPG tôm của Mỹ áp đặt với VN thấp hơn so với một số nước cùng xuất mặt hàng này cho Mỹ, vì vậy xuất khẩu sang thị trường Mỹ đã dần được cải thiện. Năm 2007 đánh dấu một sự phục hồi đáng kể trên thị trường Mỹ. Sức tăng trưởng nhập khẩu tăng dần từ quý II sang quý III và quý IV đã tăng trưởng khá mạnh với 18,4% về giá trị, đưa tăng trưởng cả năm lên 8,5% về giá trị. Đây là mức tăng lớn nhất kể từ sau thời kỳ suy thoái 2004, 2005 và giai đoạn phục hồi 2006, 2007. Xuất khẩu thủy sản VN sang Mỹ 1997- 2007 Năm Khối lượng (tấn) Tăng trưởng (%) Giá trị (USD) Tăng trưởng (%) 1997 6.084 39.064.554 1998 10.909 79 80.152.259 105 1999 18.595 70 129.468.234 62 2000 39.668 113 298.220.266 130 2001 70.931 79 489.034.963 64 2002 98.665 39 655.654.511 34 2003 123.472 25 782.238.334 19 2004 89.768 -27 592.824.065 -24 2005 91.674 2 633.984.549 7 2006 98.883 8 664.339.579 5 2007 99.769 1 720.524.455 8 Năm 2007, Mỹ tiếp tục là một thị trường hấp dẫn đối với nhiều nhà xuất khẩu thủy sản thế giới bởi sức tiêu thụ khá mạnh, khối lượng và giá trị mua hàng rất lớn, đơn giá hầu như đạt mức cao nhất so với các thị trường lớn khác như Nhật Bản và EU... Đối với xuất khẩu thủy sản của VN, Mỹ vẫn là một thị trường tiêu thụ rất quan trọng, là nhà nhập khẩu lớn thứ 3 về giá trị, năm 2007 Mỹ đã nhập khẩu gần 100 nghìn tấn thủy sản VN, trị giá trên 720,5 triệu USD, tương đương về khối lượng so với năm 2006, nhưng giá trị tăng 8,5%. 5
  6. Hiện nay, thị trường Mỹ chiếm khoảng 20,4% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của VN, sau EU (25,7%) và Nhật Bản (21,1%). Đây là sự phân bố tỷ trọng khá cân bằng và hợp lý cho đầu ra của thủy sản VN. Vì vậy việc đẩy mạnh và duy trì tỷ trọng giá trị của thị trường Mỹ là rất quan trọng. Tuy nhiên, năm 2007 vừa qua cũng đánh dấu những chuyển đổi khá quan trọng về thị hiếu tiêu dùng trên thị trường Mỹ, cá rôphi đã ngày càng phổ biến hơn và vượt qua cá da trơn (catfish) lên đứng thứ 5 trong tốp 10 mặt hàng thủy sản được tiêu thụ nhiều nhất ở Mỹ. Khối lượng nhập khẩu cá rôphi vào Mỹ tăng lên rất mạnh. Thế mạnh của philê cá rôphi là có vị ngọt, cơ thịt chắc, ngấm gia vị, giá cả rất cạnh tranh và nguồn cung cấp lại là các nước nằm trong khu vực Nam Mỹ. Xu hướng thứ 2 là Mỹ tăng cường nhập khẩu các loại tôm chân trắng. Các nước như Thái Lan, Êcuađo, Mêhicô, Inđônêxia và Trung Quốc đã đạt được rất nhiều tiến bộ về chất lượng và phẩm cấp. Kích cỡ tôm đã được cải thiện rất nhiều. Tỷ trọng tôm đạt kích cỡ lớn tăng lên đáng kể, do vậy tôm chân trắng đã đạt được những lợi thế mà trước đây chỉ tôm sú mới có, bên cạnh đó tôm chân trắng lại có lợi thế cơ bản khác là giá cả thấp hơn đáng kể so với tôm sú. Nguồn cung cấp tôm chân trắng dồi dào và đảm bảo ổn định hơn do nhiều nước đã tập trung sản xuất tôm chân trắng và giảm đầu tư cho tôm sú. Mêhicô và Êcuađo là những nguồn cung cấp tôm chân trắng cỡ lớn được ưa chuộng nhất của thị trường Mỹ hiện nay. Các nước sản xuất tôm hiện nay cũng đang tập trung mạnh hơn vào thị trường Mỹ với các loại sản phẩm tôm chế biến giá trị gia tăng, cả từ tôm sú và tôm chân trắng. 7 tháng đầu 2009, kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước đạt 2.17 tỷ USD, giảm 8.9% so với cùng kỳ năm trước. Mỹ là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 2 của Việt Nam, chỉ đứng sau Nhật Bản. Xuất khẩu thủy sản 7 tháng đầu năm của Việt Nam vào Mỹ đạt 380.83 triệu USD, tăng 11.36% và là một trong ít thị trường có kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng. Kim ngạch xuất khẩu 7 tháng năm 2009 và so với cùng kỳ năm 2008 6
  7. Nguồn: TCTK và Vietstock tổng hợp Quan sát biểu đồ trên cho thấy, 10 thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất trong 7 tháng đầu năm 2009 (chiếm 65.73% kim ngạch xuất khẩu thủy sản) có 5 thị trường tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2008. Trung Quốc tăng lớn nhất với gần 46%, tuy nhiên giá trị xuất khẩu vào thị trường này tương đối nhỏ (chỉ 52 triệu USD trong 7t/2009). Các thị trường khác như Hàn Quốc, Đức và Tây Ban Nha cũng đạt được tốc độ tăng trưởng khá. Từ biểu đồ trên ta cũng thấy được tầm quan trọng của Hoa Kỳ đối với mặt hàng thủy sản của Việt Nam. Tôm là sản phẩm xuất khẩu lớn của Việt Nam vào Mỹ.Phân theo mặt hàng, tôm vẫn là mặt hàng có giá trị lớn nhất trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ, kim ngạch 7 tháng năm 2009 đạt 185 triệu USD chỉ đứng sau thị trường Nhật Bản (242 triệu USD). Tôm xuất khẩu vào Mỹ chiếm 24.5% kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam. Điều này cho thấy Mỹ vẫn là một thị trường quan trọng đối với tôm xuất khẩu của Việt Nam. Sản phẩm từ cá tra và basa đứng thứ 2 trong số các mặt hàng thủy sản lớn nhất xuất khẩu vào Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2009 đạt 88 triệu USD, chiếm 9.64% giá trị xuất khẩu của mặt hàng này. Kể từ sau vụ kiện chống bán phá giá “Cat fish” ở Mỹ năm 2002 đến này, kim ngạch xuất khẩu loại cá này không ngừng tăng và thị trường cũng được mở rộng rất nhiều nước. 7
  8. Ngoài tôm, cá tra và basa, các sản phẩm khác như cá ngừ, trứng cá và cua đều đạt kim ngạch trên 10 triệu USD, các sản phẩm còn lại trị giá 53 triệu USD. Cá tra và cá basa của Việt nam đã dành được thị phần không nhỏ trong tổng khối lượng nhập khẩu loại cá này vào Mỹ. Giới tiêu dùng Mỹ đã quen dùng cá basa của Việt nam đây là một lợi thế lớn để Việt nam đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này vào Mỹ. Các sản phẩm khác như cá ngừ , cá philê đông, cua tươi, cá biển đông, cá nước ngọt đông, cua đông…cũng chiếm được thị phần không nhỏ trên thị trường Mỹ. Nguồn: Bộ công thương và Vietstock tổng hợp Theo đánh giá của người tiêu dùng Mỹ thì các sản phẩm thuỷ sản của ta có chất lượng tốt, mùi vị thơm ngon vì nuôi chủ yếu theo kiểu quảng canh và quảng canh cải tiến nên vị tôm ngọt tự nhiên, ngon hơn tôm nuôi công nghiệp của Thái Lan và Indonesia nên thường bán được với giá cao hơn. II.Những hạn chế, khó khăn trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam sang thị trường Mỹ. Thứ nhất, các mặt hàng thuỷ sản của ta xuất khẩu vào Mỹ chủ yếu vẫn ở dạng sơ chế, giá trị chưa cao trong khi với hơn 100 mặt hàng thuỷ sản thực phẩm nhập khẩu Mỹ có nhu cầu cao về các mặt hàng đã qua tinh chế (tôm luộc, tôm bao bột, 8
  9. tôm hùm, cá philê, hộp thuỷ sản ). Cụ thể, với mặt hàng cá ngừ hiện nay Việt nam mới chỉ xuất khẩu phần lớn cá ngừ tươi hoặc đông vào Mỹ (chiếm 90% giá trị xuất khẩu cá ngừ), trong khi cá ngừ đóng hộp là mặt hàng được tiêu thụ nhiều ở Mỹ thì giá trị xuất khẩu của Việt nam không đáng kể ( 5%). Mỹ coi trọng cả nhập khẩu thuỷ sản phi thực phẩm bao gồm các sản phẩm hoá học gốc thuỷ sản (thức ăn gia súc, dầu cá, bột cá ), ngọc trai, cá cảnh… nhưng ta chỉ mới chú trọng đến xuất khẩu thuỷ sản thực phẩm. Vì vậy có thể nói là chưa có sự phù hợp cao trong việc xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt nam với yêu cầu nhập khẩu của thị trường Mỹ. Thứ hai, tuy hàng hoá Việt nam vào thị trường Mỹ sẽ được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường, nhưng hàng thuỷ sản Việt nam vẫn gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt chẳng những về giá cả, chất lượng mà cả phương thức đối với nhiềi địch thủ trên thị trường Mỹ. Hiện nay có hơn 100 nước xuất khẩu đủ các mặt hàng thuỷ sản vào Mỹ, trong đó có nhiều nước có truyền thống lâu đời trong buôn bán thuỷ sản với Mỹ như: Thái Lan (tôm sú đông, đồ hộp thuỷ sản…) Trung Quốc ( tôm đông, cá rô phi…), Canada ( tôm hùm, cua…), Indonesia (cua,cá ngừ, cá rô phi…), Philippin (hộp cá ngừ, cá ngừ tươi đông, tôm đông và rong biển…) nên sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng quyết liệt. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thuỷ sản Việt nam còn rất yếu, theo phòng thông tin và công nghiệp Việt nam thi trong hai ngành mà Việt nam có khả năng thâm nhập vào thị trường Mỹ là dệt may và thuỷ sản thì tỷ lệ doanh nghiệp có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ là thấp: chỉ có khoảng 50 trong tổng 3000 thành viên của hiệp hội dệt may và 60 –70 trong tổng số hàng trăm thành viên của ngành thuỷ sản là có được năng lực cạnh tranh này. Không những thế các sản phẩm về cá của thuỷ Việt nam lại gặp phải sự cạnh tranh của chính các doanh nghiệp Mỹ, đặc biệt đó là các loại cá nheo hiện chiếm đến 95% sản lượng cá nước ngọt xuất khẩu của ta. Hơn nữa thị trường Mỹ qúa xa Việt nam nên chi phí vận chuyển và bảo hiểm chuyên trở hàng hoá rất lớn, điều này làm cho chi phí kinh doanh từ Mỹ sang Việt nam tăng lên, không những thế thời gian vận chuyển đã làm cho hàng tươi sống giảm về chất lượng, tỷ lệ hao hụt tăng lên, đây cũng là nhân tố khách quan làm giảm tính cạnh 9
  10. tranh của hàng Việt nam xuất khẩu sang Mỹ so với các nước Châu Mỹ la tinh. Điều đó đã làm cho lợi thế so sánh trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam bị giảm sút nhiều và không đạt được hiệu quả như mong muốn vì giá thấp. Thứ ba, thị trường Mỹ đòi hỏi sản phẩm nhập khẩu phải có chất lượng tốt, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nên họ đã đặt ra những luật lệ rất nghiêm ngặt về vấn đề này: hàng rào phi thuế quan của Mỹ khắt khe hơn so với nhiều thị trường khác, từ sau 18-12-1997 Mỹ áp dụng tiêu chuẩn HACCP cho việc nhập khẩu hàng thuỷ sản. Theo quy định này hàng nhập vào Mỹ phải có chứng chỉ của cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu chứng nhận lô hàng được sản xuất tại cơ sở đã ứng dụng HACCP. Nội dung HACCP của Mỹ tập chung vào việc đảm bảo an toàn thực phẩm, các yếu tố chất lượng được gắn với hệ thống quy phạm sản xuất ( GMP ) và các yếu tố vệ sinh (SSOP). Luật quy định về nhãn hiệu lực từ 8-05-1994 áp dụng các quy định về dán nhãn đồ hộp cá, các sản phẩm tôm và các yếu tố thông báo về chất lượng và các tiêu chuẩn khác. Bên cạnh đó, lấy lý do là bảo về nguồn lợi thiên nhiên và môi trường thế giới nói chung nên Mỹ còn đưa ta các rào cản kỹ thuật nhằm gây ra khoa khăn cho các nhà xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ. Thí dụ, với một số nước như Thái Lan, ấn Độ…muốn xuất khẩu được thuỷ sản vào Mỹ doanh nghiệp phải có giấy chứng nhận công nghệ đánh bắt không mang tính huỷ diệt các hải sản quý hiếm hoặc quy trình nuôi không gây ô nhiễm môi trường xung quanh…Đây chính là những vấn đề mà Việt nam cần phải nghiên cứu vì trước sau Mỹ cũng sẽ áp dụng những quy định này đối với các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam . Thứ tư, sự hiểu biết của các doanh nghiệp thuỷ sản Việt nam về thị trường Mỹ, về luật lệ làm ăn của Mỹ còn quá ít. Hệ thống luật của Mỹ khá phức tạp, chặt chẽ và mới lạ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam. Với 50 tiểu bang riêng biệt với hai hệ thống pháp luật cùng song song tồn tại: luật liên bang và luật của từng bang sẽ tạo ra nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp Việt nam. Chính vì vậy, nếu không nghiên cứu tìm hiểu rõ thì doanh nghiệp Việt nam sẽ phải gánh chịu những thua thiệt nặng nề trong kinh doanh. Có thể đơn cử một số luật sau: 10
  11. luật chống độc quyền hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh sẽ phạt tiền đền 1 triệu USD hoặc tù 3 năm đối với tư nhân. Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm, theo đó người tiêu dùng bị thiệt hại có thể kiện nhà sản xuất về mức bồi thường thiệt hại quy định gấp nhiều lần thiệt hại thực tế. Các doanh nghiệp Việt nam còn bị động trong việc tìm kiếm khách hàng , xây dựng hợp đồng, xác định giá cả mua bán thuỷ sản …, yếu về công tác Marketing, xúc tiến thương mại. Cho đến nay chỉ có một số doanh nghiệp là tham gia hội chợ thuỷ sản Boston tại Mỹ tổ chức vào tháng 3 hàng năm, mới chỉ có hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt nam có văn phòng đại diện tại Mỹ . Trong khi đó các nước xuất khẩu thuỷ sản lớn vào Mỹ đều đã thiết lập các văn phòng ở khắp các thành phố khác nhau trên nước Mỹ để kịp thời nắm bắt thông tin và những biến động của thị trường Mỹ nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước. Thứ năm, hàng hoá của nước ngoài xuất khẩu vào Mỹ sẽ phải trải qua một thủ tục hải quan khá chặt chẽ. Hệ thông thuế của Mỹ (gọi tắt là HTS) hiện không được thi hành ở Mỹ mà hầu hết các quốc gia thương mại lớn của thế giới đang áp dụng. Nhiều loại thuế của Mỹ đánh theo tỷ lệ trên giá trị hàng hoá, tức là mức thuế được xác định dựa trên tỷ lệ phần trăm giá trị hàng nhập khẩu, mức thuế xuất biến động từ 1%-40% trong đó mức thông thường từ 2%-7% giá trị hàng nhập khẩu. Một số hàng hoá phải chịu thuế gộp tức là loại thuế kết hợp cả mức thuế tỷ lệ trên giá trị và mức thuế theo số lượng… Thứ sáu, mặc dù đã có những cố gắng và đạt kết quả tương đối tốt hiện nay ngành thuỷ sản Việt nam vẫn còn vấn đề cần giải quyết như: khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên ven bờ, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp ồ ạt, thiếu quy hoạch, thiếu giống, thiếu trình độ chuyên môn. Trong chế biến vẫn còn 2/3 số doanh nghiệp co quy mô vưa và nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu đối với sản xuất và quản lý theo tiêu chuẩn ngành về an toàn vệ sinh thực phẩm. Công nghệ chế biến thuỷ sản nhập từ nước ngoài vừa cũ vừa lạc hậu do đó không đảm bảo được chất lượng phục vụ cho xuất khẩu . Như vậy chúng ta phải có công nghệ tiên tiến có lượng 11
  12. vốn lớn. Giải quyết vấn đề vốn là bài toán khó đối với mọi quốc gia đặc biệt là những nước nghèo và những nước đang phát triển như Việt nam hiện nay. III.Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Việt nam sang thị trường Mỹ 1. Giải pháp mang tầm vĩ mô . Từ khi thực hiện chính sách mở cửa nề kinh tế tới nay chúng ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được đề ra trong các văn kiện của đảng, mục tiêu của Đảng. Mục tiêu của đảng , chính phủ là mở rộng giao lưu kinh tế với quốc tế trong đó đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu hàng đầu và ngành thuỷ sản được quan tâm với thị trường tiềm năng là Mỹ. Để đạt được mục tiêu mở rộng thị phần, đem lại nguồn thu lớn hơn nữa trong việc xuất khẩu thuỷ sản, chính sách vĩ mô ở đây là: - Bảo vệ và mở rộng nguồn nguyên liệu thuỷ sản: Nhà nước và Bộ thuỷ sản cần có chính sách giải pháp kịp thời, hiệu quả để tăng nguồn lợi thuỷ sản. Trước hết phải ban hành luật bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, hỗ trợ vốn và kỹ thuật nuôi trồng cho nhân dân, phát triển lực lượng khai thác xa bờ. Tập chung vốn vào các khoản viện trợ ODA để nâng cấp cơ sở hạ tầng đặc biệt ở những vùng cung cấp nguyên liệu chủ yếu. - Quy hoạch, quản lý thông nhất hệ thống chế biến thuỷ sản : giao việc cấp giấy phép đầu tư xây dựng mới và nâng cấp nhà máy chế biến thuỷ sản cho một đầu mối duy nhất là Bộ thuỷ sản, chuyển việc đầu tư cho lĩnh vực kỹ thuật là chính sang đầu tư theo 4 chương trình mục tiêu đã xây dựng trong chiến lược xuất khẩu thuỷ sản . - Thực hiện chính sách ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp thuỷ sản mở rộng quy mô sản xuất mở rộng thị trường kinh doanh. Thực hiện chế độ ưu đãi cho vay vốn hoặc cho giữ lại vốn khấu hao để khuyến khích tái đầu tư, cho trích một phần thuế xuất khẩu để các doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm với giá trị ngày càng tăng. Thành lập cơ quan 12
  13. thông tin tiếp thị thuỷ sản, cho phép ngành thuỷ sản trích một phần nào đó trong thuế xuất khẩu để thành lập quỹ xuất khẩu thuỷ sản . - Để ổn định và tăng nguồn hàng xuất khẩu vào thị trường thế giới trong đó đặc biệt là thị trường Mỹ, giải pháp chung cho toàn ngành thuỷ sản Việt nam vẫn là tiếp tục thực hiện ba chương trình lớn đã được Chính phủ phê duyệt, đó là chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản và chương trình xuất khẩu thuỷ sản, đưa ngành thuỷ sản nước ta từng bước chuyển sang một ngành có hiệu quả và phát triển bền vững, xứng đáng là một ngành kinh tế mũi nhọn . 2. Giải pháp cấp doanh nghiệp . Khi chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước thực hiện tốt thu hút vốn đầu tư nước ngoài hoặc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất hướng xuất khẩu. Nhưng đây mới chỉ là điều kiện cần, còn chủ yếu là sự vận động linh hoạt của các tổ chức, các doanh nghiệp trong chiến lược kinh doanh của đơn vị. Thực tế cho thấy tuy Việt nam có nguồn nhân lực dồi dào về số lượng nhưng trình độ tay nghề kỹ năng kỹ sảo chưa cao. Để các doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường đầy tính cạnh tranh này thì cần thiết phải thực hiện thật tốt chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: thường xuyên mở các lớp đào tạo ngắn ngày, mở các cuộc thảo luận, hội thảo về các chủ đề đang được nhiều người quan tâm. Trong khâu tuyển dụng, tuyển chọn phải đảm bảo tuyển đượch những nhân viên tốt nhất là về kỹ thuật, có tay nghề cao, có tinh thần trách nhiệm cao. Trong chiến lược sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phải được đặt lên hàng đầu nó phải được coi là yếu tố đầu tiên quyết định thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp . Đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu theo hướng chế biến sâu và gia tăng tỷ trọng các mặt hàng thuỷ sản phi thực phẩm. Muốn vậy một mặt các doanh nghiệp Việt nam phải tìm hiểu kỹ thị trường Mỹ để nắm bắt được các nhu cầu từng loại sản phẩm, đồng thời cần mở rộng các hình thức liên doanh hợp tác với các nhà đầu tư Mỹ và các nhà đầu tư nước ngoài khác để sản xuất ra những sản phẩm phù hợp 13
  14. với nhu cầu của thị trường Mỹ như thành công mà chúng ta đã làm với các nhà đầu tư Nhật Bản trong những năm qua. Tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm thuỷ sản Việt nam trên thị trường Mỹ. Trước hết, phải giảm giá thành bằng cách giảm lượng nuôi trồng chết, giảp thất thoát sau thu hoạch, tận dụng nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ để sản xuất các sản phẩm thuỷ sản phi thực phẩm, từng bước xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Bên cạnh đó, phải tìm mọi cách để tiết kiệm chi phí đầu vào như : điện, nước, thông tin vận tải đồng thời phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm bằng cách đầu tư ngay ở khâu đánh bắt, đảm bảo giống tốt và công nghệ nuôi trồng tiên tiến để đạt tiêu chuẩn vệ sinh, đổi mới công nghệ chế biến, thực hiện nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm. Bắt buộc các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản phải đạt được tiêu chuẩn HACCP, khuyến khích xây dựng tiêu chuẩn ISO9000 đây chính là những giấy thông hành để đưa hàng vào Mỹ. Cần chú ý rằng quan trọng nhất vẫn là an toàn vệ sinh thực phẩm bởi vì nếu chỉ chú tâm đến việc tìm mọi cách để giảm chi phí đầu vào tạo giá cạnh tranh trên thị trường Mỹ có thể lại dẫn đến tác dụng ngược tức bị mang tiếng là bán phá giá như các vụ kiện cá Basa gần đây. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị và xúc tiến thương mại thuỷ sản. Vai trò của tiếp thị là rất quan trọng nhất là với mội thị trường rộng lớn, đa dạng và luật lệ làm ăn nghiêm ngặt như Mỹ. Ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp cần làm tốt công tác tiếp thị ở tầm vi mô như lập bộ phận nghiêm cứu thị trường, tiếp thị qua hội chợ triển lãm, tiếp thị qua mạng Internet, gửi thư giới thiệu những mặt hàng mới, xây dựng bộ phận đại diện thương mại của công ty ở thị trường Mỹ, tiếp cận các siêu thị và hãng kinh doanh siêu thị để giới thiệu sản phẩm thuỷ sản của Việt nam, từng bước xây dựng và củng cố thương hiệu sản phẩm của công ty trên thị trường thế giới . Làm quen với các vụ kiện tụng, giải quyết tốt các tranh chấp. Thông qua các vụ kiện trong thời gian vừa qua như: hiệp hội cá nheo Mỹ kiện không cho doanh nghiệp Việt nam sử dụng tên gọi Catfish đối với cá tra và cá Basa xuất khẩu vào 14
  15. Mỹ, vụ kiện Việt nam bán phá giá mặt hàng này và gần đây nhất là vụ kiện Việt nam bán phá giá cả tôm vào thị trường Mỹ cho thấy một mặt các doanh nghiệp phải thật am hiểu về luật pháp của thị trường Mỹ cũng như luật thương mại quốc tế, mặt khác phải có một đội ngũ chuyên viên thành thạo, đủ sức đối phó với các vụ kiện, sớm nắm bắt được các thông tin để tư vấn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có thể điều chỉnh kịp thời trước những biến động của thị trường. Bên cạnh đó, một sự hợp tác, liên kết và học tập kinh nghiệm xử lý của các nước cũng bị kiện như mình là rất quan trọng. Kết luận Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt nam, đã có những bước tiến vượt bậc trong xuất khẩu thời gian qua.Thị trường Mỹ đang mở ra nhiều triển vọng đối với sản phẩm thuỷ sản của Việt nam đặc biệt là sau khi hiệp định thương mại được ký kết. Tuy vậy, để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của thuỷ sản Việt nam trên thị trường Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cần nỗ lực nghiên cứu thị trường Mỹ, tiếp cận thông tin một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác, đánh giá đúng khả năng sản xuất và mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị, nâng cao trình độ chế biến và áp dụng quy trình quản lý chất lượng chặt chẽ hàng thuỷ sản xuất khẩu.Chỉ có như vậy, những cơ hội kinh doanh mở ra cho xuất khẩu Việt nam mới được nắm bắt kịp thời. Với bề dày phát triển của ngành thuỷ sản Việt nam trong thời gian qua, cùng với sự quan tâm của Chính phủ Việt nam đã luôn hoàn thiện những chính sách kinh tế nói chung và chính sách thương mại xuất nhập khẩu nói riêng theo hướng mở cửa thị trường, cộng với nỗ lực của Bộ, ngành và các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản mấy năm gần đây, trong tương lai chúng ta có quyền tin tưởng rằng ngành thuỷ 15
  16. sản Việt nam sẽ là mũi nhọn, thực sự vững vàng trong mọi sự cạnh tranh, đồng thời là ngành tiên phong của đất nước trong quá trình hội nhập, giao lưu theo xu hướng “ toàn cầu hoá” nền kinh tế thế giới. 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0