intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Toàn cấu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế

Chia sẻ: Nguyễn Hoa | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:18

723
lượt xem
59
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận "Toàn cấu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế" gồm các nội dung chính được trình bày như sau: Khái niệm về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nhận thức về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, thời cơ và thách thức,...Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Toàn cấu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế

  1. 1
  2. DANH SÁCH THÀNH VIÊN CỦA NHÓM Phạm Thị Mỹ Oanh – 16051778 Nguyễn Hương Giang ­ 16050043 Nguyễn Hồng Nhung – 16052324 Trần Quỳnh Hoa ­ 16051742 Nguyễn Thị Hoa ­ 16051743 Lê Thị Minh Thu – 16050150 Nguyễn Hương Giang – 16050043 Nguyễn Thị Hải Yến (18/09) ­ 16051812 2
  3. I, Khái niệm về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế 1.  Khái niệm về toàn cầu hoá.  Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để  miêu tả  các thay đổi trong xã hội và  trong nền kinh tế thế  giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng  tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh  tế, v.v... trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu   hoá hầu như  được dùng để  chỉ  các tác động của thương mại nói chung  và tự do hóa thương mại hay "tự do thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ  kinh tế, người ta chỉ  thấy các dòng chảy tư  bản ở  quy mô toàn cầu kéo  theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hóa 2.  Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế  Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ  biến trên thế  giới, là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội  nhập kinh tế đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy   mô toàn cầu đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi  đế quốc La Mã xâm  chiếm   thế   giới   và   mở   mang   mạng   lưới   giao   thông,   thúc   đẩy   lưu  thông hàng hóa trong toàn bộ  lãnh địa chiếm đóng rộng lớn của họ  và áp  đặt đồng tiền của họ cho toàn bộ các nơi. Trong các giáo trình nhập môn về kinh tế học quốc tê, hội nhập kinh tế  thường được cho là có sáu cấp độ: khu vực/hiệp định thương mại ưu đãi,  khu vực/hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường  chung, liên minh kinh tế tiền tệ, và hội nhập toàn diện. Tuy nhiên trong  thực tế, các cấp độ hội nhập có thể nhiều hơn và đa dạng hơn. Hội nhập kinh tế có thể là song phương ­ tức là giữa hai nền kinh tế,  hoặc khu vực ­ tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương ­ tức là  3
  4. có quy mô toàn thế giới giống như những gì mà Tổ chức Thương mại  Thế giới đang hướng tới. II, Nhận thức về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế  1. Nhận thức về toàn cầu hóa Toàn cầu hóa xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối  liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả  các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Toàn cầu hóa thể  hiện sự biến đổi tương quan giữa quan hệ sản xuất nhằm tới sự điều  chỉnh thích ứng lực lượng sản xuất biến thiên liên tục trên quy mô thế  giới.  Toàn cầu hóa làm cho các nền kinh tế quốc gia hoà nhập vào và được cấu  trúc lại trên quy mô quốc tế thông qua một loạt quy trình, giao lưu, trao  đổi Như vậy, toàn cầu hoá không chỉ là sự phụ thuộc lẫn nhau, dù là phụ  thuộc toàn diện giữa các nền kinh tế mà là sự hoà nhập các nền kinh tế  này để xu thế hình thành nên một nền kinh tế toàn cầu thống nhất. Ngày nay toàn cầu hoá mà trước hết và về thực chất là toàn cầu hoá kinh  tế đang trở thành một xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế hiện đại. Hiện  nay tuy có rất nhiều những quan niệm không giống nhau về toàn cầu hoá  kinh tế nhưng có thể thấy nét chung nhất là thừa nhận mối quan hệ qua  lại của các hoạt động kinh tế hiện nay đã bao trùm gần như tất cả các  nước trên thế giới vượt qua khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi  toàn cầu trên cơ sở lực lượng sản xuất cũng như trình độ khoa học kỹ  thuật mạnh mẽ và sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính  chất xã hội hoá của sản xuất càng ngày càng tăng. Toàn cầu hoá kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh  tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau  giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh  tế thế giới thống nhất, sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở  rộng mức độ và qui mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dòng  vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu. Toàn cầu hoá kinh tế là dưới sự tác động của quốc tế hoá sản xuất và  cách mạng khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, tính dựa dẫm vào  4
  5. nhau, bổ sung cho nhau của nền kinh tế các nước ngày càng gia tăng, yếu  tố cản trở sản xuất đang ngày càng mất đi bởi sự tự do lưu thông toàn  cầu.  Mặc dù vậy, toàn cầu hoá kinh tế vẫn ở trong giai đoạn đầu của nó. Lĩnh  vực then chốt hợp tác toàn cầu hoá kinh tế vẫn chỉ là mậu dịch, tự do lưu  thông nguồn vốn và sức lao động còn là vấn đề trong tương lai.  2 .    Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế:  Nhận thức chung về hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay,  người ta đều thấy rằng, nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là  một vấn đề thời sự. Các quốc gia đều khẳng định cần xây dựng nhận  thức thống nhất trong nội bộ rằng hội nhập là cần thiết, phù hợp với xu  thế chung, nhất là việc nước ta đã tham gia WTO sẽ tạo thuận lợi cho sự  phát triển của đất nước: Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm  mà trọng tâm là mở cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực  trong nước và quốc tế, mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị  trí phù hợp nhất có thể trong quan hệ kinh tế quốc tế. Như vậy hội nhập  kinh tế quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội tại của sự  phát triển kinh tế mỗi nước. Khi đã tham gia WTO, phải tranh thủ các cơ  hội kinh doanh, để có tiếng nói trong quá trình hình thành luật lệ kinh tế,  thương mại quốc tế có lợi cho mình. Không thể né tránh việc hội nhập kinh tế quốc tế mà vấn đề then chốt là  cần phải nhận thức trước, tính toán đầy đủ cái giá phải trả cho việc tổ  chức và vận hành các hiệp định quốc tế, phải đề ra được những chính  sách, biện pháp đúng để hạn chế trả giá ở mức thấp nhất và tranh thủ cao  nhất những cơ hội để phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và  ngay trong thị trường nội địa. Để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả,  phải ra sức tăng cường nội lực, cải cách và điều chỉnh cơ chế, chính sách,  luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế trong nước để phù với "luật  chơi chung" của quốc tế. Điều này không có nghĩa là các nước bị ép phải  cải cách, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế nhưng thực ra cải cách, hội  nhập kinh tế quốc tế là vì sự phát triển của mình. Chính sách hội nhập  kinh tế quốc tế phải dựa và gắn chặt với chiến lược phát triển của đất  nước, đồng thời cải cách kinh tế, hành chính phải gắn chặt với yêu cầu  5
  6. của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cải cách trong nước và hội nhập  kinh tế quốc tế là "Con đường hai chiều". Cải cách bên trong quyết định  tốc độ và hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời hội nhập kinh tế  quốc tế sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, qua đó nâng  cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cần phải nhận thức rằng dù có hội  nhập kinh tế quốc tế hay không thì vẫn tiếp tục cải cách, cải cách mạnh  hơn, nhanh hơn vì sự phát triển của mình. Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan  trọng để phát triển kinh tế­xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia;  thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa; mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối  lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý và các  nguồn lực quan trọng khác; tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân trí và  cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và  đưa quan hệ của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen  lợi ích, góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất  nước; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của  Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; quảng bá hình  ảnh đất nước và con người Việt Nam, nâng cao uy tín và vị thế của nước  ta trên trường quốc tế. Hiện nay, tình hình trong nước, khu vực và thế giới đã có nhiều thay đổi,  đang diễn biến phức tạp, khó lường. Bên cạnh thời cơ, thuận lợi, đất  nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong phát  triển kinh tế­xã hội, khả năng bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định  chính trị­xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, bảo đảm phát triển nhanh  và bền vững, môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa  dân tộc. Hội nhập kinh tế quốc tế không phải để được hưởng ưu đãi, nhân  nhượng đặc biệt. Hội nhập kinh tế quốc tế là mở rộng các cơ hội kinh  doanh, thâm nhập thị trường, có môi trường pháp lý và kinh doanh ổn định  dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập kinh tế quốc tế, không  bị phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính tị hay những lý do khác  cản trở việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Từ ổn định về thị  trường, các nước sẽ có điều kiện thuận lợi để xây dựng kế hoạch đầu tư,  sản xuất, kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế  6
  7. hội nhập kinh tế quốc tế, không bị phân biệt đối xử, không bị các động cơ  chính trị hay những lý do khác cản trở việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ và  đầu tư. Ngoài ra, các nước có thể sử dụng những luật lệ, quy định, cơ chế  giải quyết tranh chấp của các thể chế hội nhập kinh tế quốc tế để bảo  vệ lợi ích chính đáng của mình. Cần tăng cường công tác thông tin truyên truyền, nhằm giải thích cho các  tổ chức, cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp, người dân… về hội nhập kinh  tế quốc tế để chúng ta có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Bộ  Công Thương đã xây dựng “Đề án tăng cường công tác thông tin tuyên  truyền về hội nhập kinh tế quốc tế”, với mục tiêu triển khai sâu rộng, với  sự tham gia phối hợp của tất cả các bộ, ngành và các cơ quan liên quan,  nhằm tạo sự lan toả trong xã hội; quán triệt những nhiệm vụ của giai  đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới, quán triệt quan điểm về tuyên truyền  trong giai đoạn mới, với nhiều nội dung mới. III, Thời cơ và thách thức  1.  Xu hướng chủ đạo của toàn cầu hóa  ­ Xu hướng thứ nhất là sự thay đổi về khoa học công nghệ, đây là xu  hướng có ảnh hưởng sâu sắc nhất. Khoa học và công nghệ có vai trò  quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của các quốc gia. ­ Xu hướng thứ hai là việc ngày càng có nhiều Chính phủ theo đuổi  chính sách tự do hóa, mở cửa thị trường và loại bỏ những luật lệ cản  trở các hoạt động kinh tế. ­ Xu hướng thứ ba là sự kết hợp của những công nghệ mới và những thị  trường tự do hơn, tạo điều kiệ cho các khu vực kinh doanh ở nhiều  nước có thể quốc tế hóa các hoạt động cảu mình  Cả ba xu hướng này làm cho các quốc gia phụ thuộc nhau hơn về mặt  kinh tế, tạo ra những cơ hội và thách thức lớn về kinh tế, chính trị xã  hội cho các quốc gia. 2.  Thời cơ  Toàn cầu hóa mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế thế giới và  cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập: 7
  8. ­ Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy  việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ được lợi ích  của việc phân bổ nguồn tài lực hợp lý trên bình diện quốc tế từ đó  phát huy cao độ nhân tố sản xuất hữu dụng của từng quốc gia. ­ Tự do hóa luân chuyển hàng hóa dịch vụ và vốn với việc hạ thấp hàng  rào thuế quan, đơn giản hóa trong khâu thủ tục , cắt giảm kiểm soát  hành chính sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất, đầu tư, tăng lượng ,  giảm thất nghiệp, và tăng thêm lợi ích cho người tiêu dùng. ­ Toàn cầu hóa tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng quay  vốn và tạo điều kiện để đa dạng hóa các loại hình đầu tư nhờ đó vừa  nâng cao hiệu quả vừa hạn chế rủi ro đầu tư. ­ Toàn cầu hóa thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ,chuyển giao  vốn kỹ năng quản lý , qua đó mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước  phát triển đồng thời giúp các nước tiếp nhận đầu tư có cơ hội phát  triển. 3.  Thách thức   Thách thức đầu tiên là sự bất ổn định của thị trường tài chính quốc tế .  Thực vậy, có sự khác biệt cơ bản giữa tư bản công nghiệp và tài chính ,  hay nói cách khác là khác biệt giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư tài chính .  Các nhà đầu tư trực tiếp đã bỏ tiền đầu tư xây dựng nhà xưởng thì không   dễ gì một sớm một chiều có thể rút lại vốn đầu tư. Trong khi đó , các nhà  đầu tư tài chính có lợi thế linh hoạt hơn nhờ tính chuyển nhượng cao của  chứng khoán. Mặt khác ngườn tài chính được phân bổ không đồng đều ,  tập chung vào một số trung tâm tài chính lớn là các nước công nghiệp phát  triển hàng đầu thế giới. Quá trình hội nhập và toàn cầu hóa càng làm cho   dòng  vốn chảy mạnh hơn dễ dàng hơn và tất nhiên rủi ro sẽ lớn hơn.  Nguy cơ tiếp theo là tụt hậu của một số quốc gia. Một số quốc gia tranh  thủ được lợi ích của hội nhập mậu dịch quốc tế và thị trường tài chính  quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng, mở  rộng thương mại, thu hẹp dần khoảng cách với các nước phát triển, thì  một số nước khác lại không có khả năng hội nhập vào quá trình  phát  triển thương mại, thu hút vốn đầu tư và kết cục tất yếu là sẽ bị đẩy lùi  xa hơn nữa về phía sau, chính sách tiền tệ ­ tài chính của các nước yếu bị  phụ thuộc vào chính sách của các nước mạnh. 8
  9.  Mối đe dọa của quá trình toàn cầu hóa đó chính là xu hướng hình thành  thế độc quyền, tập chung quyền lực vào một số tập đoàn đầu sỏ quốc tế.  Xu hướng sát nhập đang diễn ra mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử phát  triển kinh tế thế giới cận đại. Vậy thế thì đâu là điểm dừng cuả xu thế  sát nhập này? Bởi lẽ nếu xu thế sát nhập tiếp tục gia tăng chắc chắn sẽ  tác động xấu đến thị trường cạnh tranh hoàn hảo ­ nhân tố đã góp phần  thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế trong suốt hàng thế kỷ qua.  Quá trình toàn cầu phát triển phải giảm dần thuế và bỏ hàng rào phi quan  thuế , nghĩa là bỏ hàng rào mậu dịch, thì các hàng hóa nước ngoài sẽ ồ ạt  đổ vào, bóp chết hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Quá trình toàn cầu hóa phát triển làm tan vỡ các hàng rào bảo hộ của các  quốc gia. Do vậy các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực của quá  trình này mà còn phải chịu những chấn động của hệ thống kinh tế toàn  cầu trong các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, nguyên nhiên liệu…Các nước  càng yếu kém, các chính sách kinh tế vĩ mô càng  không đủ thông thoáng  phù hợp với các định chế quốc tế, tệ nạn tham nhũng quan liêu càng nặng,  hệ thống ngân hàng ­ tài chính càng lạc hậu thì càng chịu tác động nặng  nề hơn. Quá trình toàn cầu hóa phát triển, không chỉ có các lực lượng kinh tế tiến  bộ tham gia vào quá trình này mà còn có cả các thế lực phẩn động, bọn  maphia, các tổ chức khủng bố… Mạng lưới toàn cầu của maphia hiện  đang lan khắp toàn cầu, các đường dây buôn lậu ma túy đã len lỏi đến cả  các trường học. Các thế lực phản động cũng không bỏ lỡ thời cơ xâm   nhập vào nước ta phá hoại chính sách dúng đắn là phải ngăn chặn, chống  lại mọi hoại. Nhưng không thể vì nó mà đóng cửa đất nước hay hạn chế  sự  hội nhập cả đất nước vào quá trình toàn cầu hóa.   Toàn cầu hóa đã phân phối không cân bằng các cơ hội và lợi ích giữa các  khu vực, giữa các quốc gia và trong từng nhóm dân cư. Do đó TCH làm gia  tăng thêm tình trạng bất công, phân hoá giàu nghèo. Với việc hội nhập kĩ thuật, công nghệ hiện đại được du nhập tạo ra khả  năng, nâng cao năng suất lao động, đồng thời các dòng hàng hoá dịch vụ  của các nước phát triển có lợi thế sẽ lấn át sản phẩm của các quốc gia  9
  10. kém phát triển. Từ đó nảy sinh cạnh tranh gay gắt, nảy sinh thất nghiệp,  phá sản, làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội. Toàn cầu hóa đem đến tăng trưởng kinh tế nhưng lại kèm theo hậu quả  về môi trường xã hội (mất đi bản sắc dân tộc đối với các lớp trẻ sinh  ngoại Vd: một số trẻ em hiện nay sống ở nước ngoài không biết nói tiếng  Việt, không biết về quê cha đất tổ, cội nguồn ông, bà mình ở đâu?; Âu  hoá, Mỹ hoá trên chính quê hương mình Vd: xem đồng tiền là trên hết, ăn  mặc không hợp với mọi người xung quanh, ít quan tâm và giúp đỡ đến  hàng xóm xung quanh, mặc dù mình có khả năng giúp… )  IV. Kinh tế Việt Nam với toàn cầu hóa và hội nhập 1.  Tiến trình hội nhập của Việt Nam  Chặng đường gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam từ  1986 đến nay là một quá trình đồng hành đầy thử thách, khó khăn. Những  thành công đạt được có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề và động lực để Việt  Nam bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển mạnh  mẽ, toàn diện hơn. Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu,  do bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa con người với nhau.  Ngày nay, quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng nhanh hơn,  mạnh hơn dưới sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó kinh tế thị trường  và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ là động lực hàng đầu.  Hội nhập quốc tế đã, đang là một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác  động sâu sắc đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia.         Để không bị gạt ra khỏi ngoài dòng chảy phát triển của xu hướng  toàn cầu hóa, bất cừ nước nào cũng đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế  chung, điều chỉnh các chính sách, giảm dần hàng rào quan thuế, luân  chuyển vốn, lao động, công nghệ và kỹ thuật trên phạm vi thế giới ngày  càng thông thoáng hơn. Việt Nam không phải ngoại lệ, vấn đề là phải  chọn tiến trình hội nhập sao cho phù hợp với hoàn cảnh và quá trình phát  triển của mình.          Đại hội VI (1986) của Đảng đã mở đầu cho thời kỳ đổi mới toàn  diện đất nước. Cũng chính từ đại hội VI, bước đầu nhận thức về hội  nhập quốc tế của Đảng ta được hình thành. Đảng cho rằng: “Muốn kết  10
  11. hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia  sự phân công lao động quốc tế” và “ một đặc điểm nổi bật của thời đại là  cuộc cách mạng khoa học ­ kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành  bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất”. Tiếp đến đại hội thứ  VII, tư duy về hội nhập quốc tế tiếp tục đước Đảng ta khẳng định, đó là:  “cần nhạy bén nhận thức, dự báo được những diễn biến phức tạp và thay  đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng  sản xuất và xu hướng quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới để có những  chủ trương đối ngoại phù hợp”.         Tại đại hội VIII (1996), lần đầu tiên thuật ngữ “Hội nhập” chính  thức được đề cập trong Văn kiện của Đảng, đó là: “ Xây dựng một nền  kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”. Tiếp theo đến Đại hội IX,  tư dung về hội nhập được Đảng chỉ rõ và nhấn mạnh hơn “Gắn chặt  việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế  quốc tế”. Đến Đại hội X, tinh thần hội nhập từ “Chủ động” được Đảng  ta phát triển và nâng lên một bước cao mới, đó là “Chủ động và tích cực  hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh  vực khác”. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tư duy nhận thức  của Đảng về hội nhập đã có một bước phát triển toàn diện hơn, đó là từ  “Hội nhập kinh tế quốc tế” trong các kỳ Đại hội trước chuyển thành  “Hội nhập quốc tế”. Đảng ta đã khẳng định, “Chủ động và hội nhập quốc  tế”. Khẳng định làm sâu sắc hơn tinh thần này, ngày 10/04/2013, Bộ Chính  trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 22/NQ­TW “Về hội nhập quốc tế”.         Mục tiêu lớn trong Nghị quyết số 22 đưa ra đó là: Hội nhập quốc tế  phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện  quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời  sống nhân dân; Giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh  thổ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa; Quảng bá  hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; Tăng cường sức  mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước;  Góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và  tiến bộ xã hội trên thế giới.         Như vậy, việc ban hành Nghị quyết số 22 “Về hội nhập quốc tế”  cho thấy nhận thức của Đảng và hội nhập quốc tế đã có một quá trình  11
  12. phát triển ngày một sâu sắc, toàn diện hơn. Toàn bộ nội dung của Nghị  quyết đã xác định rõ hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên  nhiều lĩnh vực, đặc biệt hội nhập kinh tế phải gắn liền với yêu cầu đổi  mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu kinh tế. Với tầm quan trọng của  hội nhập quốc tế, vấn đề này cũng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp  năm 2013 của Việt Nam.         Chúng ta đã nỗ lực thúc đẩy hợp tác với tất cả các nước và thể chế  chính trị khác nhau. Chungsta đã phá đước thế bao vây cô lập về chính trị,  cấm vận về kinh tế; thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 quốc gia,  trong đó có tất cả các nước lớn, phát triển quan hệ thương mại với hơn  130 quốc gia và lãnh thổ. Đồng thời, chúng ta đã khai thông được quan hệ  với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB và các tổ chức  phát triển khác trong hệ thống liên hợp quốc. Chúng ta cố gắng cải cách  cơ chế quản lý kinh tế, bao gồm cả lĩnh vực pháp lý và xây dựng cơ chế  thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,  phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Bước phát triển tiếp theo đó là chúng ta tiếp tục thúc đẩy tiến trình hội  nhập qua việc tham gia các tổ chức hợp tác kinh tế, thương mại khu vực  và thể giới. Dưới đây là sơ đồ “Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của  Việt Nam”. 12
  13.                2.  Nguyên tắc của nhà nước ta trong  toàn c   ầu hóa  và h   ội nhập của    V i  ệt Nam  2.1. ́ ̣ ̣ Nguyên tăc hôi nhâp o ́ ̀ ̉ Nguyên tăc binh đăng ́ ̀ ̀ ̀ ̉ ̣ ́ ̣ ́ ̣ ́ Nguyên tăc bay la nên tang cho viêc thiêt lâp môi quan hê tiêng noi chung  ́ giữa cac quôc gia, đam bao t ́ ́ ̉ ̉ ư cach pham nhân cua môi quôc giatrong công  ́ ́ ̉ ̃ ́ ̣ đông quôc tê trên c ̀ ́ ́ ơ sở binh đăng tr ̀ ̉ ước phap luât quôc tê va quan hê cua  ́ ̣ ́ ́ ̀ ̣ ̉ ́ ̣ ương. kinh tê thi tr ̀ ̣ ̣ ́ ́ ́ ực hiên nguyên tăc nay cung cân Tuy nhiên trong hôi nhâp kinh tê quôc tê, th ̣ ́ ̀ ̃ ̀  ́ ự đau tranh kiên tri cua cac quôc gia , nhât la cac quôc gia nho va đang co s ́ ̀ ̉ ́ ́ ́ ̀ ́ ́ ̉ ̀   ̉ phat triên. ́ o ́ ̀ ́ ợi Nguyên tăc cung co l Nguyên tắc này là nền tảng kinh tế  để  thiết lập các mối quan hệ  đối  ngoại, đảm bảo duy trì và phát triển lâu dài mối quan hệ kinh tế giữa các   nước, đồng thời nó là cơ  sở  để  xây dựng đường lối, quan điểm, chính  sách kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia. Quan điểm của Đảng cộng sản  13
  14. Việt Nam: “Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở  những nguyên tắc cơ  bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp  quốc tế” . o Nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ  quyền, không can thiệp vào công  việc nội bộ của mỗi quốc gia. Thực hiện nguyên tắc này, đòi hỏi từng bên tham gia phải:      ­   Tôn trọng các điều khoản đã ký kết trong nghị  định thư, hợp đồng  kinh tế. Nói bao quát, các quốc gia cần phải tuân thủ  và tôn trong các luật  pháp và thông lệ quốc tế. Mọi bất đồng hay tranh chấp cần phải xử lý trên   nguyên tắc đàm phán và đồng thuận, tránh sử dụng vũ lực vũ trang.    ­  Không đưa ra các điều kiện có phương hại đến lợi ích của nhau.     ­  Không được dùng thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc nội  bộ của quốc gia có quan hệ, nhất là dùng thủ đoạn kinh tế, kỹ thuật và kích  động để can thiệp vào đường lối chính trị của quốc gia đó. Đảng cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: "Phát triển quan hệ với tất cả các   nước, các vùng lãnh thổ  trên thế  giới và các tổ  chức quốc tế  theo nguyên  tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào  công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực; giải   quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình; tôn  trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi". o Nguyên tắc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm mục đích thúc  đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ­ xã hội. Nội dung này vừa là nguyên tắc đồng thời cũng là mục tiêu của hoạt động   kinh tế  đối ngoại, hội nhập quốc tế. Mở  rộng quan hệ  kinh tế   đối ngoại   không đơn thuần để  giải quyết vấn đề  kinh tế  mà phải kết hợp giải quyết  tốt mối quan hệ giữa kinh tế, chính trị và xã hội. Đối với nước ta, mở  rộng hợp tác quốc tế  phải nhằm đưa đất nước nhanh  chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đạt tốc độc tăng trưởng và phát triển   kinh tế ­ xã hội cao, phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao năng lực sản   xuất của nền kinh tế Việt Nam. Từ đó, kinh tế đối ngoại tạo đà cho sự phát  14
  15. triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng mục tiêu   chiến lược "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". 2.2. Phương châm hội nhập  “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp   tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hoá quan hệ, chủ  động và tích   cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm  trongcộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt  Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh” Phương châm mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong giai   đoạn 2011 ­ 2020 được thể hiện như sau:  Một là, đa phương hoá quan hệ  đối ngoại và đa dạng hoá các hình thức   đối ngoại; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng   đồng quốc tế.  ­  Sẵn sàng mở  rộng quan hệ  với tất cả các nước không phân biệt   chế độ chính trị xã hội.   ­  Hợp tác đa phương diện, gồm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,   an ninh, quốc phòng...  ­  Sử  dụng tất cả  các hình thức đối ngoại để  có thể  đẩy mạnh và  nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế.   Hai là, chủ  động, tích cực hội nhập quốc tế  sâu rộng và có hiệu   quả.  ­  Thừa nhận toàn cầu hoá là quá trình tất yếu của lịch sử.  ­  Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là sự thể hiện khả  năng tự chủ  về  kinh tế, trước hết là sự  tự  chủ  trong xây dựng đường  lối và các chính sách phát triển kinh tế  ­ xã hội theo hướng hội nhập  quốc tế.   ­   Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc phải được coi là yếu tố  quyết định.   ­  Yếu tố  thời đại là yếu tố  quan trọng để  phát triển nền kinh tế  độc lập, tự chủ, bền vững. 15
  16.   ­   Chủ  động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá  trình hội nhập quốc tế, đối phó tích cực với các thách thức an ninh phi   truyền thống.  ­  Nhận thức đầy đủ và tuân thủ nghiêm các quy định, luật lệ quốc   tế và cam kết quốc tế.  3 .   Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam  a. Cơ hội  Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập  khẩu của Việt Nam: Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường  cho nhau, vì vậy khi Việt Nam ra nhập các tổ chức kinh tế quốc tế  sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng ưu đãi  về thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ  khác đã tạo điều kiện cho hàng hóa của Việt Nam thâm nhập thị  trường quốc tế.  Tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và  giải quyết vấn đề nợ quốc tế: Tham gia hội nhập kinh tế là cơ hội  để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà  đầu tư. Hơn nữa, nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song  phương và đa phương, các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam  về cơ bản đã được giải quyết. Điều đó góp phần ổn định cán cân  thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho các chương trình phát  triển kinh tế xã hội trong nước.  Tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến:  Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để khai thông thị trường  nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn  và có hiệu quả. Qua đó mà các kỹ thuật, công nghệ mới có điều  kiện du nhập vào nước ta, đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa  chọn kỹ thuật, công nghệ nước ngoài nhằm phát triển năng lực kỹ  thuật, công nghệ quốc gia.  Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tạo thêm những cơ hội buôn bán  mới do có nhiều sự tương đồng về văn hóa, luật pháp, quan hệ dân  tộc và các hệ thống phân phối. 16
  17.  Sự cạnh tranh tăng lên: những cải tiến công nghệ, tri thức được  tăng lên qua nhập khẩu hoặc thực tế công việc , hạn chế tham  nhũng và ăn chênh lệch giá.                 b. Thách thức  Nếu như những ưu đãi về hàng rào thuế quan và xóa bỏ phí thuế  quan tạo điều kiện để nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu ra các  nước thì nó cũng gây ra những thách thức khá nghiêm trọng đối với các  doanh nghiệp Việt Nam: Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và  khu vực, nước ta phải giảm dần thuế quan và gỡ bỏ hàng rào phi thuế  quan. Khi đó, hàng hóa nước ngoài sẽ ồ ạt đổ vào nước ta, chèn ép  nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước, kéo theo hệ quả xấu về  việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Bởi hàng hóa Việt  Nam do kỹ thuật, công nghệ và quản lý còn kém nên chất lượng thấp,  giá thành lại cao. Trong khi đó, nước ngoài với dây chuyền công nghệ  hiện đại, tay nghề lao động vững vàng, trình độ quản lý cao, vốn lớn  nên sản phẩm làm ra mẫu mã đẹp, chất lượng tốt lại không phải nộp  thuế khi xuất khẩu sang thị trường Việt Nam nên giá thành phù hợp.  Sức cạnh tranh bấp bênh của các doanh nghiệp trong nước được thể  hiện rõ.  Xét về mặt cơ cấu kinh tế, Việt Nam vẫn là một nước nông  nghiệp, sản xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn. Sự chuyển dịch  lao động từ nông nghiệp và nông thôn sang các ngành nghề khác còn  rất khó khăn, tỷ lệ lao động có trình độ tay nghề cao còn khá thấp.  Thêm vào đó, nền công nghiệp lại phân bố không đều, tập trung chủ  yếu ở hai đầu của đất nước, người lao động có trình độ cao chủ yếu  tập trung về các thành phố lớn. Do đó, sự phát triển công nghiệp ở các  vùng sâu vùng xa đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.  Việt Nam hội nhập sau nhiều nước trong khu vực và trên thế giới  đã hoạt động nửa thế kỷ, do đó, năng lực canh tranh của nền kinh tế  tuy có tiến bộ nhưng vẫn còn thấp xa so với yêu cầu phát triển và hội  nhập kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, Việt Nam phải cố gắng theo kịp  17
  18. tiến độ chung trong khi đang có xu hướng muốn đẩy nhanh quá trình tự  do hóa với quy mô rộng hơn và mức độ sâu sắc hơn.  Các cơ chế của một nền kinh tế thị trường ở nước ta còn đang hình  thành, hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, nhiều luật lệ và chính sách  liên quan đến kinh tế đối ngoại còn thiếu hoặc chưa phù hợp với quốc  tế. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2