Tiểu luận triết học: Phân tích và chứng minh nhận định sau: Các nhà triết học cổ Hy Lạp là những nhà biện chứng bẩm sinh, còn Aristoteles là ”bộ óc bách khoa toàn thư” thời cổ Hy Lạp
lượt xem 11
download
Tiểu luận triết học: Phân tích và chứng minh nhận định sau: Các nhà triết học cổ Hy Lạp là những nhà biện chứng bẩm sinh, còn Aristoteles là ”bộ óc bách khoa toàn thư” thời cổ Hy Lạp nhằm trình bày tổng quan về triết học Hy Lạp cổ, cuộc đời của Aristoteles, nhận định Aristoteles là ”bộ óc bách khoa toàn thư” thời cổ Hy Lạp và ảnh hưởng của Aristoteles.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận triết học: Phân tích và chứng minh nhận định sau: Các nhà triết học cổ Hy Lạp là những nhà biện chứng bẩm sinh, còn Aristoteles là ”bộ óc bách khoa toàn thư” thời cổ Hy Lạp
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC ĐỀ TÀI 10: Phân tích và chứng minh nhận định sau: CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ HY LẠP LÀ NHỮNG NHÀ BIỆN CHỨNG BẨM SINH, CÒN ARISTOTELES LÀ ”BỘ ÓC BÁCH KHOA TOÀN THƯ” THỜI CỔ HY LẠP. GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA SVTH: ĐINH VŨ HỒNG LINH LỚP: ĐÊM 1 – K.19 TP.HCM, tháng 02 năm 2010
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa MỤC LỤC Nội dung Trang Lời nói đầu..............................................................................................2 1. Tổng quan về triết học Hy Lạp cổ.................................................3 1.1. Giới thiệu..................................................................................3 1.2. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tiêu biểu.................................3 2. Cuộc đời của Aristoteles.................................................................6 3. Aristoteles – ”Bộ óc bách khoa toàn thư” của nhân loại thời cổ Hy Lạp.....................................................................................................10 3.1. Logic học.................................................................................12 3.2. Khoa học xã hội.......................................................................14 3.2.1. Ngôn ngữ và Nghệ thuật..............................................14 3.2.2. Quan niệm về Đạo đức.................................................14 3.2.3. Quan niệm về Chính trị ‐ xã hội...................................16 3.3. Khoa học tự nhiên...................................................................17 3.3.1. Vật lý học.....................................................................17 3.3.2. Siêu hình học................................................................18 3.3.3. Thiên văn học...............................................................19 3.3.4. Thực vật học và sinh học..............................................19 3.4. Triết học..................................................................................22 4. Ảnh hưởng của Aristoteles...........................................................29 Kết luận..................................................................................................31 Tài liệu tham khảo...............................................................................32 SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 1
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa LỜI NÓI ĐẦU Aristoteles là nhà triết học, tự nhiên học danh tiếng nhất của nền văn minh Hy Lạp cổ. Cuộc đời ông là một câu chuyện thú vị bởi ngoài tư cách là một nhà khoa học vĩ đại thời cổ ông còn là một người học trò lớn của nhà triết học Platon, là một người thầy, một người bạn tâm giao của nhà quân sự và chính trị lẫy lừng nhất thời bấy giờ- Alexander Đại Đế. Với những gì mà ông để lại bao gồm hệ thống các ghi chép để nói chuyện hoặc giảng bài, bao quát rất nhiều ngành kiến thức khác nhau như: sinh học, tâm lý, chiêm tinh học, địa lý học, địa chất học, giải phẫu học, lý luận triết học siêu hình, thẩm mĩ học, chính trị, thơ ca và văn biện luận. Có nhận định cho rằng: Aristoteles là ”Bộ óc bách khoa toàn thư thời cổ Hy Lạp”, một nhà tư tưởng thông hiểu tất cả sự vật sự việc trong thế giới này lúc bấy giờ. Liệu nhận định trên hay câu nói ”Những gì mà người Hy Lạp biết, Aristoteles đều biết” chỉ là những mỹ từ dành cho ông? Bởi trước và sau thời ông cũng có rất nhiều các nhà tư tưởng Hy Lạp vĩ đại như Socrates, Platon...Chúng ta cùng tìm hiểu. SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 2
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 1. TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ: 1.1 Giới thiệu: Triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học được tạo nên từ thế kỷ VI trước Công Nguyên đến thế kỷ VI sau Công Nguyên, tượng trưng cho thành tựu rực rỡ của văn minh phương Tây, và là cái nôi của văn hoá châu Âu. Trong đó phải kể đến sản phẩm vĩ đại của Triết học Hy Lạp cổ đại nói riêng và Triết học thời kỳ này nói chung chính là Phép biện chứng duy vật chất phác. Tuy còn mang tính trực quan, cảm tính, phi khoa học do đạt được từ việc quan sát trực tiếp, trình độ khoa học và tư duy chưa tiến bộ nhưng các nhà triết học tự nhiên Hy Lạp đã góp phần to lớn đặt nền tảng cho Phép tư duy biện chứng duy tâm khách quan và duy vật sau này. 1.2 Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại: tiêu biểu gồm: Socrate (sinh năm 469 – mất năm 399 trước Công Nguyên) là người đầu tiên đặt vấn đề con người với tư cách là một sinh thể có đạo đức vào trọng tâm của triết học. Tự giới thiệu như một người chẳng biết gì cả, kích thích suy nghĩ bằng cách liên tục đặt ra những cân hỏi, ông đã nghiên cứu bản chất nhân đạo của con người, thế nào là thiện, ác, chính nghĩa, tình yêu, lương tâm, danh dự, … tức là những điều tạo thành bản chất tâm hồn của con người. Ông hướng triết học đến với sự tự nhận thức, nhận thức chính mình, một con người, một nhân cách có đạo đức và mang ý nghĩa xã hội. Con người đức hạnh đạt tới sự tuyệt vời khi điều mình muốn biết phải là điều thiện thực sự. Thế giới đầy những bấp bênh nhưng bao nhiêu bất hạnh của bạn cũng sẽ không đáng kể miễn là linh hồn bạn giữ được sự thanh cao. Ông đã sống và chết xác tín như vậy. SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 3
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Platon (sinh năm 427 – mất năm 347 trước Công Nguyên) là người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm, một trào lưu mạnh và có nội dung phong phú nhất trong lịch sử tư duy nhân loại. Triết học Platon là hệ thống các quan điểm hoàn chỉnh về tất cả các bộ phận cơ bản của triết học: bản thể luận, nhận thức luận, triết học chính trị, đạo đức, mỹ học. Cái căn bản trong triết học Platon là học thuyết về ý niệm. Nhận thức thông thường cho chúng ta hình ảnh về thế giới hiện tượng, nó không mang tính chân thực, chỉ là cái bóng mờ của bản chất sự vật. Hiện thực đích thực không phải là cái mà nó hiện ra, mà là cái làm cho sự vật là cái nó có, được tinh thần nắm bắt và thể hiện ra trong ngôn ngữ. Thế giới bản chất thuần tuý – đó là thế giới ý niệm, nó nằm ngoài không gian, thời gian và không thay đổi. Có thể nhận thức thế giới ý niệm bằng trí tuệ nhờ phép biện chứng hoặc thông qua hồi tưởng. Aristoteles (sinh năm 385 – mất năm 322 trước Công Nguyên) là học trò của Platon, nhưng ông không tán đồng quan điểm của thầy mình. Ý niệm phản ánh cái phổ biến của sự vật, song cái phổ biến luôn được biểu hiện từ cái đơn nhất và như vậy ý niệm nằm trong sự vật chứ không phải bên ngoài chúng. Aristoteles đã đưa ra những kết luận quan trọng: • Thế giới chỉ có một, đó là thế giới vật chất – tinh thần, tồn tại hiện thực. • Các sự vật và quá trình của thế giới hiện thực có thể được nhận biết từ bản thân nó, tức là nghiên cứu thực tế. • Khoa học là nhận thức về thế giới hiện thực, khoa học cần phải có những công cụ, tức các khái niệm. Tư duy cũng có những quy luật của nó. Các hình thức và quy luật của tư duy là đối tượng nghiên cứu của logic học và chính ông đặt nền móng cho khoa học này. SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 4
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Bên cạnh đó còn có Thales, Pythagoras, Democritus, Epicurus, Hypatia thành Alexandria…Các nhà triết học Hy Lạp đầu tiên có khuynh hướng chung là tư duy về nguồn gốc và bản chất của thế giới. Ví dụ như đối với Thales đó là bản chất của vạn vật là nước, Pythagor tìm cái chìa khoá phổ quát của hiện thực trong các con số. Đặc biệt là Democritus, cùng với Leucippus tạo ra thuyết nguyên tử thô sơ. Ông cho rằng mọi vật chất đều được tạo thành từ những nguyên tử, là những phần tử nhỏ nhất, không thể phân chia được nữa và số lượng của chúng là vô hạn. Héraclite đưa ra quan niệm mọi sự vật của thế giới luôn thay đổi, sự kết hợp của các yếu tố vật chất là vô hạn, vì vậy cái bất biến trong thế giới chỉ có thể được thừa nhận chính là sự biến đổi, chuyển hoá vĩnh hằng đó. Nổi bật trong các nhà triết học thời Hy Lạp cổ là Aristoteles. Cùng với Platon, Aristoteles được coi là một trong các nhà triết học Hy Lạp quan trọng nhất của triết học Hy Lạp cổ đại cũng như triết học thế giới ngày xưa cũng như nay. Aristoteles được xem là “Bộ óc bách khoa toàn thư của nhân loại”, có ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ về sau. Tuy là học trò của Platon nhưng Aristoteles có lập luận, tư duy riêng, và cơ bản đối lập với người thày của mình. Ông là người thiết lập môn lý luận học và cũng là người đầu tiên thiết lập một phương cách tiếp cận với triết học bằng việc quan sát và trải nghiệm trước khi đi tới tư duy trừu tượng. Bên cạnh đó, ông còn được xem là nhà giáo dục và nhà khoa học đã tạo nên ảnh hưởng hết sức lớn lao trong nền Văn Minh Tây Phương. Tuy cũng có một số ý kiến cho rằng, Aristoteles là “kẻ đạo văn lớn nhất của mọi thời đại” với lý luận rằng sau khi Alexandrea đại đế chinh phục được Ai Cập, ông đã cho thày của mình là Aristoteles tiếp cận với thư viện Ai Cập và những ý tưởng của ông do xuất phát từ đây, nhưng không thể phủ nhận được những đóng góp của ông đối với sự phát triển của khoa học và đặc biệt là triết học nhân loại. 2. CUỘC ĐỜI CỦA ARISTOTELES: Aristoteles ra đời tại Stagira thuộc miền Thrace năm 384 trước Công nguyên. Thrace cổ xưa (tức là nơi mà các dân tộc trên lãnh thổ Thracians sống) ngày nay SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 5
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa bao gồm Bulgaria, châu Âu - Thổ Nhĩ Kỳ, phía đông-bắc Hy Lạp và các phần của phía đông Serbia và phía đông nước Cộng hoà Macedonia. Cha Aristoteles, ông Nichomachus, là một thầy thuốc danh tiếng tại triều đình Vua Amyntas II, cha của Vua Philip, nước Macedonia. Trong 17 năm đầu, Aristoteles đã sống với cha mẹ và được cha dạy cho về Y Khoa. Năm 18 tuổi, Aristoteles tới thành Athens và theo học tại Trường Academos của Platon – học trò của Socrates, được xem là một trong các nhà tư tưởng vĩ đại. Vào thời gian này, Platon 61 tuổi và đã liên quan tới nền chính trị của Syracuse. Vì vậy Hàn Lâm Viện Academos đặc biệt chú trọng về Luật Pháp, Chính Trị, thêm vào là Toán Học và Thiên Văn. Aristoteles được coi là một trong số học viên chăm chỉ nhất và xuất sắc hơn các bạn về trí thông minh và lòng nhiệt thành. Muốn giảm bớt thời giờ ngủ và tăng thêm số giờ làm việc, Aristoteles đã nghĩ ra phương pháp sau: khi đọc sách hay lúc làm việc về khuya, ông cầm nơi tay trái một quả cầu bằng đồng ở phía trên một chiếc chậu. Nếu vì ngủ gật mà quả cầu rơi xuống thì tiếng động sẽ đánh thức ông dậy. Aristoteles bị đau dạ dày và để làm giảm bớt nỗi đau đớn, ông thường đeo ở trước ngực một cái bị đựng dầu đun nóng. Theo như truyền thống, những học viên giỏi sẽ được trợ giảng cho thầy. Aristoteles phụ trách giảng dạy môn Tu Từ Pháp (Rhetoric). Ông cũng soạn ra vài tập Đối Thoại theo khuôn mẫu của Thầy Platon. Các tác phẩm này đều trở nên rất nổi tiếng vì cách viết rõ ràng, dễ hiểu. Ông học với Platon vào khoảng từ 8 đến 20 năm, con số 20 năm có lẽ đúng hơn nếu xét mức độ ảnh hưởng của Platon trong các tác phẩm của Aristoteles. Có người cho rằng thời kỳ sống cùng Platon là một thời gian đẹp nhất trong cuộc đời Aristoteles, một môn đệ thông minh xuất chúng được ở gần một giáo sư toàn năng. Platon công nhận rằng Aristoteles là một môn đệ thông minh xuất chúng, hiếu học vì Aristoteles là một trong những người đầu tiên trong lịch sử nhân loại biết sưu tầm những tài liệu viết tay thời bấy giờ để lập thành một thư viện. Nhà của SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 6
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Aristoteles được Platon gọi là nhà đọc sách, nhiều người cho đó là một lời khen, nhưng cũng có người cho đó là một lời chê có ý ám chỉ đến tinh thần quá chú trọng vào lý thuyết, sách vở của Aristoteles. Người ta còn kể rằng Platon đã phải gọi Aristoteles là “Trí Tuệ của Nhà Trường” (l'entendement de l'Ecole). Danh hiệu trên là thành tựu đầu tiên của Aristoteles khi có được sự công nhận của một người thông tuệ như Platon. Tuy có thể mối quan hệ giữa hai thầy trò không phải luôn luôn tốt đẹp, do khoảng cách tuổi tác 43 tuổi, sự thông cảm không phải dễ dàng có. Đặc biệt, vào cuối đời Platon, Aristoteles tỏ thái độ quan điểm đối lập về tư tưởng với thầy mình. Có nhiều tài liệu cho rằng điều này làm Platon rất bất bình và coi Aristoteles như một đứa con vô ơn. Còn đối với Aristoteles, có lẽ tuy bất đồng ý kiến song ông lúc nào cũng kính trọng Thầy và gìn giữ lòng biết ơn, cụ thể khi Platon qua đời vào năm 347, Aristoteles viết một bài điếu văn trong đó ca tụng Thầy. Vào năm 347 khi Platon qua đời, Speusippus trở thành người đứng đầu trường Academos. Aristoteles đã cùng với Xenocrates và một vài môn đệ của Platon, rời thành Athens tới Assos, sống với Hermias là một học trò cũ của Platon và cũng là bạo chúa của hai tỉnh Atarneus và Assos trong miền Tiểu Á. Aristoteles có cảm tình rất nhiều với Hermias và đã kết hôn cùng Pithias, em gái của Hermias. Vì không cảm thấy an toàn tại Atarneus, Aristoteles đã theo lời khuyên của Theophrastus, một môn đệ, ông dọn tới Mitylene thuộc miền Lebos vào năm 344. Chính tại nơi này, Aristoteles đã nghiên cứu trong hai năm môn Sinh Học, đặc biệt là ngành Hải Sinh Học. Năm 342, Aristoteles được mời tới Macedonia để dạy dỗ Thái Tử Alexander khi đó mới 13 tuổi. Lời mời của Vua Philip II có thể là do lúc tuổi trẻ, Aristoteles đã từng sống tại triều đình này, có thể là do danh tiếng của SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 7
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa ông nhờ các tập Đối Thoại, nhưng cũng chính vì Aristoteles đã từng liên lạc chặt chẽ với Hermias là người đã tỏ ra thiên về Macedonia và chống lại Ba Tư. Aristoteles đã ở lại Macedonia trong 7 năm. Theo như thông lệ, nhà Đại Hiền Triết đã dạy cho Thái Tử về Chính Trị và Tu Từ Pháp, và Aristoteles cũng soạn một tác phẩm của Homer để giảng cho Alexander. Aristoteles đã cố gắng làm phát triển nơi Thái Tử các đức tính về điều độ và lý trí mà đối với ông, rất cần thiết cho một vương quốc. Có lẽ chính vào dịp này, Aristoteles đã soạn ra cuốn “Khảo Sát về Vương Quyền” (Traité de la Royauté) để giáo huấn Thái Tử nhưng tác phẩm này đã bị thất lạc hoàn toàn. Năm 340 khi vua Philip đi chinh chiến nơi xa, Thái Tử Alexander nắm giữ quyền hành. Vào thời gian này, ông cũng giành thời gian cho riêng mình để học hỏi thêm. Aristoteles cũng khuyên Alexander cho kiến thiết lại Stagira, nơi đã bị tàn phá vài năm trước thành một thành phố hiến pháp. Alexander rất quyến luyến ông Thầy và khi đã thay cha lên ngôi vua, vẫn lưu giữ Aristoteles bên cạnh. Thái Tử luôn luôn tỏ lòng biết ơn đối với Thầy cũ bằng cách biệt đãi nhà Đại Hiền Triết trong mọi công việc. Tuy vậy, dù rất mến yêu Thầy nhưng trái lại, ít khi nghe theo lời khuyên bảo của Thầy vì “một sự di truyền kỳ lạ hình như đã gieo vào tâm hồn Thái Tử tính tự kiêu vô hạn, với một ý chí muốn ngồi ngang hàng cùng các thần linh”. Những cố gắng của Aristoteles để làm dịu sự bồng bột của Alexandre hình như không đem lại nhiều kết quả. Theo một vài sử gia Alexandre coi Aristoteles như cha ruột của mình và về phần Alexandre cũng đã từng tuyên bố muốn học hỏi và coi trọng sự hiểu biết hơn là chinh phục thế giới. Nhưng đó chỉ là những lời lẽ xã giao vì không đúng với sự thật. Alexandre luôn luôn là một chiến sĩ thích chinh phục, sau khi thọ giáo 2 năm với Aristoteles, Alexandre nối ngôi cha và bắt đầu chinh phục thế giới. Sự thành công của Alexandre có lẽ một phần nào do ảnh hưởng của Aristoteles và người ta thường so sánh thiên tài của Aristoteles trong lãnh vực triết lý với thiên tài của SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 8
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Alexandre trong lãnh vực chính trị. Cả hai vĩ nhân này đều có công với nhân loại: một bên thống nhất thế giới, một bên thống nhất triết lý. Vào năm 335 khi Đại Đế Alexander đi chinh phục châu Á thì Aristoteles tự thấy rằng nhiệm vụ của mình đã chấm dứt. Ông đề nghị để người cháu tên là Callisthenes thay mình làm cố vấn cho Đại Đế. Sau khi từ biệt Alexander, Aristoteles trở lại thành Athens và lập ra trường Lyceum, gần đền Apollon Lycien, vì vậy ngày nay được gọi là “Lycée”. Trường Lyceum là nơi tôn thờ Thần Muse, vị nữ thần chủ về Văn Chương, Nghệ Thuật và Khoa Học. Nhà trường có rất nhiều học cụ, kể cả bản đồ, lại có một thư viện rất đầy đủ. Tại ngôi trường này, Aristoteles trình bày các ý tưởng và giảng giải cho học viên trong các cuộc dạo chơi ngoài vườn, vì vậy ngôi trường của Aristoteles còn được gọi là “Trường Dạo Chơi”. Bên cạnh đó, Lyceum của Aristoteles chuyên nghiên cứu về sinh lý học và động vật học. Năm 323 khi Đại Đế Alexander qua đời, cuộc sống của Aristoteles cũng bị ảnh hưởng. Mặc dù Aristoteles chỉ còn rất ít liên lạc với Alexander, nhất là khi người cháu của ông bị tử hình, nhưng nhà Đại Hiền Triết thường đi lại với Antipater và được viên tổng trấn này che chở. Đảng Quốc Gia thành Athens do Demosthenes lãnh đạo đã nổi dậy chống lại phe Macedonia sau khi Đại Đế Alexander không còn nữa. Aristoteles nhận thấy đời sống và tài sản của mình bị đe dọa. Người ta đã tố cáo ông phạm tội bất kính vì 20 năm trước, ông đã sáng tác một bài thơ tưởng niệm Hermias trong khi danh dự này phải giành cho Thượng Đế. Aristoteles nhớ lại số phận của Socrates rồi không đợi tòa án xét xử, vì chắc chắn ông sẽ bị kết án, Aristoteles rời bỏ thành Athens, trốn về quê mẹ là miền Chalcis. Ông tuyên bố “Tôi sẽ không để người Athens vi phạm Triết Học lần thứ hai” (I will not let the Athenians offend twice against Philosophy). SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 9
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sống tại Chalcis được vài tháng, Aristoteles qua đời vào năm 322 có lẽ do bệnh đau dạ dày, một căn bệnh đã hành hạ ông trong nhiều năm trường, cũng có giả thuyết là ông chết do tự tử. Ông để lại hai người con, con trai cùng tên với ông nội là Nichomachus và người con gái mang tên mẹ Pithias. Theo như lời yêu cầu, nắm xương tàn của nhà Đại Hiền Triết được chôn cất tại Stagira cùng với hài cốt của Pithias, vợ ông. 3. ARISTOTELES – “BỘ ÓC BÁCH KHOA TOÀN THƯ” THỜI CỔ HY LẠP Những năm tháng học tại Hàn Lâm Viện cùng giáo sư tài hoa Platon, những nỗ lực học tập, nghiên cứu không mệt mỏi cùng tố chất thông minh, tư duy sắc bén, Aristoteles được xem là cha đỡ đầu của một số các ngành khoa học tự nhiên như Vật lý học, Thiên văn học, sinh vật học…, đặc biệt trở thành nhà triết học có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến các triết gia sau này tuy những phương tiện nghiên cứu của Aristoteles vô cùng thô sơ so với những phương tiện nghiên cứu hiện đại ngày nay. Ông phải đo lường thời gian mà không có đồng hồ, đo lường nhiệt độ mà không có hàn thử biểu, xem thiên văn mà không có kính viễn vọng, đoán thời tiết mà không có phong vũ biểu. Những phương tiện duy nhất mà Aristoteles đã sử dụng là một cái thước và một cái la bàn. Sức hút của Trái Đất, hiện tượng phát điện, áp lực không khí, nguyên lý ánh sáng, nhiệt lượng và hầu hết những lý thuyết tân tiến của khoa học hiện đại đều hoàn toàn chưa được phát minh. Cuộc đời của ông, đặc biệt trong thời gian ở trường Lycyum, Aristoteles tập trung đọc sách, nghiên cứu, giảng dạy và viết sách. Hệ thống các tác phẩm của Aristoteles hầu hết là những ghi chếp để nói chuyện hoặc giảng bài. Nó bao quát rất nhiều ngành kiến thức khác nhau như: sinh học, tâm lý, chiêm tinh học, địa lý học, địa chất học, giải phẫu học, lý luận triết học siêu hình, thẩm mĩ học, chính trị, thơ ca và văn biện luận. Số lượng tác phẩm của Aristoteles lên đến hàng trăm cuốn, có người bảo 400 cuốn, có người bảo 1.000 cuốn. Những cuốn còn lại đến nay chỉ là một số nhỏ khoảng 40 cuốn nhưng cũng có thể lập thành một tủ sách. SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 10
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Các tác phẩm của Aristoteles được chia làm ba loại: (1) các bài viết phổ thông (popular writings), (2) các sách ghi chép (memoranda); và (3) Các sách luận đề (treatises). Các bài viết phổ thông đa số gồm các tập đối thoại theo mẫu của Plato và được viết ra khi Aristoteles còn cư ngụ tại trường Academos. Với văn phong trong sáng, các công trình sáng tạo này được Aristoteles gọi là các bài viết phổ biến bên ngoài với ý định dành cho công chúng bên ngoài trường học, hơn là các học viên của trường. Ngoại trừ một số đoạn rời rạc còn sót lại, hầu hết các tập đối thoại này đã bị thất lạc. Các sách ghi chép là tập hợp nhiều tài liệu khảo cứu và các sử liệu. Những sách này do Aristoteles và các môn đệ của ông thực hiện với chủ đích dùng làm nguồn tư liệu cho các học giả. Giống như các bài viết phổ thông, hầu hết loại sách ghi chép đều bị thất tán. Còn lại cho tới ngày nay là các sách luận đề, được viết ra dùng làm sách giáo khoa hay lời ghi giảng tại Trường Lyceum, liên quan tới mọi ngành của Kiến Thức và Nghệ Thuật. Không giống như các bài viết phổ thông, các sách luận đề chỉ được dùng cho học viên trong trường. Danh tiếng của Aristoteles được căn cứ vào các công trình này và đây là các tác phẩm mà các nhà biên tập đời sau đã thu thập và xếp đặt. Trong số đó, chủ yếu là Organon (công cụ nhận thức) gồm 6 luận văn về luận lý học; Physics (vật lý học); Metaphysics (siêu hình học); De Anima (bàn về loài vật); Nichomachean Ethics và Eudemian (đạo đức học); Rhetoric (khoa hùng biện); và một chuỗi các tác phẩm về sinh học cùng vật lý học. Tới thế kỷ 19, còn tìm được cuốn Constitution of Athens (Hiến pháp Athens), trong đó ông tường trình về chính quyền của thành quốc Athens. SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 11
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 3.1 Logic học: Aristoteles luôn trung thành với phương pháp lý tính - một phương pháp mà cho đến nay, chúng ta vẫn cần phải học tập. Dưới ánh sáng của phương pháp ấy, Aristoteles luôn chủ trương đi ngược lại truyền thống với những lễ nghi và mê tín. Ông cho rằng vũ trụ không chịu dự kiểm soát của bất kì thế lực nào, dù có là quỷ thần hay những pháp thuật siêu nhiên, huyền bí. Trái lại, nó vận hành theo những quy luật tự nhiên nhất định nào đó. Trước mỗi hiện tượng thiên nhiên, ông khuyên con người không nên lo lắng, sợ hãi mà nên quan sát, thí nghiệm và phân tích logic để có kết luận cụ thể. Có lẽ chính tư duy biện chứng ấy đã giúp cho Aristoteles cảm thấy: “ không kinh ngạc trước một thứ gì”” bởi đói với ông bất cứ điều gì cũng có logic riêng của nó- một thứ logic hoàn toàn có thể khám phá. Chính tư duy độc lập này của ông đã đi ngược lại quan điểm duy tâm của thầy mình là Platon. Cho đến giờ, người ta vẫn không thể quên câu nói nổi tiếng của ông: " Ta yêu thầy học của ta nhưng ta còn yêu chân lý hơn" . Chỉ một câu nói mà bộc lộ được những đức tính tôt đẹp của Aistotle trong cuộc sống cũng như trong khoa học. Cũng qua câu nói ấy, ta hiểu rằng, con người ấy đã thuộc về khoa học. Chân lý khoa học mới chính là cái đích lớn lao trong suốt cuộc đời ông. Aristoteles là nhà triết học đầu tiên đã phân tích phương pháp nhờ đó một số định đề được suy diễn theo luận lý là đúng, căn cứ vào một số định đề khác đã được công nhận. Ông tin rằng tiến trình suy diễn luận lý này được đặt trên một hình thức tranh luận mà ông gọi là Tam Đoạn Luận (Syllogism). Trong một tam đoạn luận, một định đề được suy diễn từ hai định đề đúng khác. Một thí dụ của lý luận này như sau: (1) mọi người đều sẽ qua đời, (2) Socrates là một con người, vì thế có thể đi tới kết luận rằng (3) Socrates sẽ qua đời. Tam đoạn luận đã giữ một vài trò quan trọng trong nền Triết Học sau này do tạo nên các hệ thống lý luận phức tạp hơn. Trong phép luận lý, Aristoteles đã phân SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 12
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa biệt rõ hai thứ: biện chứng và phân tích. Theo nhà Đại Hiền Triết, biện chứng chỉ trắc nghiệm các ý kiến xét theo tính nhất quán về lý luận, còn các công trình phân tích được suy diễn từ các nguyên tắc dựa trên các kinh nghiệm và quan sát rõ ràng. Đây là sự khác biệt với lập trường của Hàn Lâm Viện của Platon, nơi cho rằng biện chứng là phương pháp duy nhất thích hợp với Khoa Học và Triết Học. 3.2 Khoa học xã hội 3.2.1. Ngôn ngữ và nghệ thuật: Nền giáo dục do Aristoteles chủ trương gồm hai phần: phần truyền khẩu và phần công khai phổ biến ra bên ngoài. Nhà Đại Hiền Triết đề cập tới các câu hỏi hoàn toàn lý thuyết cho các học viên mới vào buổi sáng còn buổi chiều, Aristoteles giảng dạy những học viên cũ về nhiều điều làm mở mang kiến thức trong đó môn Tu Từ Pháp chiếm phần lớn thời gian. Trong 12 năm liền, Aristoteles vừa thuyết giảng, vừa viết sách và phổ biến nhiều tác phẩm đề cập tới hầu hết kiến thức của thời đại. Trong các năm cuối cùng sống tại Lyceum, Aristoteles đã thiết lập bảng liệt kê các thế vận kỳ, cũng như lập ra bảng niên biểu kịch nghệ của thành Athens mà về sau, bảng này đã được dùng làm căn bản để ấn định ngày tháng của các vở kịch Hy Lạp. 3.2.2. Quan niệm về Đạo đức: Aristoteles tìm kiếm các nguyên tắc căn bản nhất và tổng quát nhất của kiến thức và sự thật. Bởi vì chỉ có Thượng Đế là không thay đổi, nhà Đại Hiền Triết gọi ngành nghiên cứu Thượng Đế là Thần Học (theology). Đối với ông, hai bộ môn Đạo Đức Học (ethics) và Chính Trị Học (politics) đều khảo cứu kiến thức thực tế, đây là sự hiểu biết cho phép con người hành động đúng cách và sống hạnh phúc. Qua tác phẩm đề tặng cho con trai tên là Nichomachus và được gọi tên là Nichomachean Ethics (Đạo Đức Học của Nichomachus), Aristoteles đã phân tích cá tính và trí thông minh khi những yếu tố này liên quan đến hạnh phúc, và ông cho rằng một cuộc đời hạnh phúc của con người là cuộc đời làm theo lý trí, là cơ SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 13
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa sở của điều thiện, là nền tảng của phẩm hạnh con người; còn ngu dốt, sai lầm là nguồn gốc của cái ác. Phẩm hạnh của con người chỉ là thói quen thấy hiểu chân lý (thông qua giáo dục và đào tạo) hay lẽ phải đời thường (thông qua tập quán lâu đời của cộng đồng), và làm theo chúng một cách tự nhiên, không gò bó. Vì vậy có hai loại phẩm hạnh là phẩm hạnh lý tính và phẩm hạnh luân lý. Ông cho rằng hạnh phúc của con người không chỉ bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan như sự khôn ngoan của lý trí, đức hạnh trong hành vi, sự khoái lạc trong trạng thái…mà còn bị chi phối bởi các điều kiện khách quan như tiền bạn, sức khỏe, tình bạn, xã hội công bằng…Quan niệm này thực sự vẫn đúng trong thời đại ngày nay. Vài tác phẩm quan trọng khác của Aristoteles là các cuốn Rhetoric (Tu Từ Pháp), Politics (Chính Trị) và Poetics (Thơ Phú). Qua tác phẩm sau cùng này, Aristoteles khảo cứu bản chất của bi kịch, lấy dẫn chứng từ bi kịch Oedipus Rex của Sophocles, và tin rằng bi kịch đã ảnh hưởng tới khán giả do gợi lên các cảm xúc như sợ hãi, thương xót, và cách tẩy sạch những xúc động này được ông gọi là “carthasis”. Toàn thể các tác phẩm có thể xem là một bộ bách khoa của Hi Lạp nhưng khác với bộ bách khoa của các nước khác ở chỗ chỉ do một người viết ra. Công trình của Aristoteles xứng đáng được so sánh với công trình của Alexandre. Văn chương của Aristoteles không bóng bẩy và thi vị như của Platôn, đó là một loại văn chương chính xác và khoa học. Aristoteles phải đặt thêm nhiều từ ngữ mới để có thể diễn tả tư tưởng. Những từ ngữ Âu Mĩ hiện nay phải mượn ở những tác phẩm của Aristoteles như faculty, mean, maxim, category, energy, actuality, motive, principle, form .... Những chữ này không khác gì những viên gạch để xây dựng tư tưởng và góp phần rất lớn trong công cuộc phát triển tư tưởng đời sau. Aristoteles còn viết nhiều tác phẩm văn chương nhưng đến nay đã thất truyền. Có người cho rằng những tác phẩm của Aristoteles không phải do chính Aristoteles soạn thảo mà do các môn đệ soạn thảo sau khi ghi chú các bài giảng của Aristoteles. Phần lớn những tác phẩm này được xuất bản sau khi Aristoteles SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 14
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa qua đời. Chỉ có một số ít tác phẩm về luận lý và văn chương được xuất bản khi Aristoteles còn sống. Một số những tác phẩm khác về siêu hình học và chính trị được sưu tầm từ đống giấy tờ do Aristoteles để lại. Có người cho rằng trong tất cả các tác phẩm và Aristoteles chúng ta có thể tìm thấy một lối viết văn giống nhau, điều này chứng tỏ rằng các môn đệ của Aristoteles thấm nhuần tư tưởng của thầy một cách sâu xa, nếu không phải tự tay Aristoteles soạn thảo ra các tác phẩm của mình thì các tư tưởng trình bày chắc chắn là của Aristoteles. 3.2.3. Quan niệm về Chính trị- xã hội: Trật tự xã hội chiếm hữu nô lệ bấy giờ ông xem là một trật tự xấu, nhưng đó là một trật tự cần thiết. Aristoteles xem xét cả mối liên hệ giữa đạo đức và kinh tế trên bình diện xã hội. Theo ông, công bằng trong trao đổi sản phẩm là nền tảng của công bằng xã hội và bình đẳng giữa các cá nhân trong cộng đồng. Aristoteles đòi hỏi phải quan tâm đến lao động và phân công lao động. Khi phê phán lý luận về nhà nước lý tưởng của Platon, xem đó là xa rời thực tế, quá đề cao công ích coi thường lợi ích và sáng kiến cá nhân…, Aristoteles tự vận dụng thuyết trung dung để xây dựng lý luận chính trị - xã hội của riêng mình. Trung tâm của lý luận này là học thuyết về nhà nước. Con người không chỉ là sinh thể biết nhận thức, biết sống có đạo đức mà còn biết làm chính trị. Con người về bản chất phải thuộc về nhà nước. Sứ mạng của nhà nước là đảm bảo cho mọi người (trừ nô lệ) trong cộng đồng một cuộc sống hạnh phúc với mức độ phúc lợi ngày càng cao. Để thực hiện sứ mạng này, nhà nước phải tiến hành hoạt động trên ba lĩnh vực: lập pháp, hành chính và xét xử. Theo ông chính quyền nên thuộc về tầng lớp chủ nô trung lưu. Bên cạnh đó, Aristoteles đã viết cuốn “Hiến Pháp của Thành Athens” (The Constitution of Athens), biên khảo về Hiến Pháp tuy nhiên, ngày nay chỉ còn lại tác phẩm “Khảo Sát về Hiến Pháp của Thành Athens” (On the Athenian Constitution). SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 15
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Aristoteles còn có sở thích sưu tập các bản Hiến Pháp. Nhờ người học trò lớn Alexander Đại đế hỗ trợ, Thư Viện Lyceum của ông đã sưu tập được 158 bản Hiến Pháp của dân Hy Lạp và các quốc gia khác nhau. 3.3 Khoa học tự nhiên: 3.3.1 Vật lý học: Đối với Aristoteles, bản chất của thiên nhiên là thay đổi và ông đã định nghĩa môn triết học của thiên nhiên là sự khảo sát các sự vật đổi thay. Trong tác phẩm Physics (Vật Lý), Aristoteles đã phân biệt “hình thể” (form) với “chất liệu” (matter) của một vật, chẳng hạn như khi một nhà điêu khắc tạc ra một bức tượng bán thân bằng đồng, chất liệu là đồng và hình thể là hình nửa người. Aristoteles đã nghiên cứu các nguyên nhân của sự thay đổi và phân biệt bốn loại: (1) nguyên nhân chất liệu (material cause) là thứ mà một vật được làm ra, (2) nguyên nhân hữu hiệu (efficient cause) là hành động của nhà điêu khắc, là nguồn gốc của chuyển động (source of motion), (3) nguyên nhân hình thể (formal cause) là hình dáng bên ngoài, là loại (kind, type) để xếp hạng và (4) nguyên nhân cuối cùng (final cause) là chương trình (plan), là kiểu mẫu (design) hay mục đích của người sáng tạo hay phát minh. Khoa Vật Lý của Aristoteles là khoa học thiên nhiên bao gồm bên trong các bộ môn Thiên Văn, Khí Tượng, Thực Vật Học và Sinh Học, các bộ môn này có mối quan hệ mật thiết và tương hỗ nhau. Có sáu hình thức vận động là: phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí. Aristoteles đã dừng lại trước quan niệm vận động tự thân của vật chất mà thừa nhận cái hích đầu tiên của Thượng đế nằm bên ngoài giới tự nhiên là nguồn gốc thần thánh của mọi vận động xảy ra trong giới tự nhiên. Ông cho rằng vũ trụ là hữu hạn, liên tục và khép kín trong không gian nhưng vĩnh viễn về thời gian. Vạn vật trong vũ trụ đều được cấu thành từ 5 yếu tố: đất, nước, lửa, không khí (từ mặt trăng trở xuống trái đất), và éther (bên ngoài mặt trăng bao SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 16
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa trùm toàn vũ trụ). Xuất phát từ quan điểm cho rằng vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ, và mỗi yếu tố có một xu hướng vận động riêng, chiếm giữ một vị trí riêng trong trật tự cấu trúc vũ trụ, Aristoteles đặt nền móng cho thuyết vũ trụ địa tâm. Bên cạnh đó, ông còn xây dựng nên cả một hệ thống các định luật vật lý mà ngày nay được gọi là vật lý Aristoteles, tuy dù hệ thống vật lý này sau này bị Galilei chứng minh là sai lầm và bác bỏ. 3.3.2 Siêu hình học: Siêu hình học là một nhánh triết học quan tâm đến việc giải thích bản chất của thế giới. Đây là một môn học về sự tồn tại hoặc sự thật. Nó quan tâm đến các câu hỏi như: Bản chất của sự thật là gì? Đâu là vị trí đầu tiên của con người trong vũ trụ? Màu sắc là chủ quan hay khách quan? Liệu thế giới có xuất hiện bên ngoài trí óc của chúng ta hay không? Bản chất của vật thể, sự kiện, nơi chốn là gì? Aristoteles được xem là cha đẻ của siêu hình học. 3.3.3 Thiên văn học: Trong quan điểm về thế giới của Aristotle, Trời đất luôn gắn liền với sự hoàn hảo, các vật thể trên bầu trời tồn tại như một quả cầu hoàn hảo có quỹ đạo tròn hoàn hảo; trong khi đó Trái Đất thuộc về sự không hoàn hảo; 2 quan điểm này không được xem là có liên quan với nhau. Aristoteles cũng nghiên cứu chuyển động của các thiên thể qua tác phẩm On the Heavens (Về Bầu Trời) và tìm hiểu các thay đổi khi một vật được tạo ra hay bị hủy diệt. 3.3.4 Thực vật học và sinh học: SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 17
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Trong một bức thư gửi cho bạn mình, Charles Darwin (1809-1882), nhà Sinh học nổi tiếng người Anh với thuyết Tiến hoá đã viết: “...Linnaeus ((1707-1778), nhà Thực vật học người Thụy Điển) và Cuvier ((1769-1832), nhà Cổ sinh vật học người Pháp) đều là thần tượng của tôi, theo những cách hiểu khác nhau, nhưng cả hai người đó đều chỉ là những học trò nhỏ so sánh với ông thầy vĩ đại Aristoteles”. Hẳn lời nhận xét trên cũng đủ để xác định tầm cỡ và mức giá trị của Aristoteles, nhà Sinh học thời Cổ đại. Ðược Alexander Ðại đế hỗ trợ, Aristoteles lập thảo cầm viên đầu tiên của loài người để làm cơ sở học hỏi. Tại hai nơi đó, người ta kể rằng thầy lẫn trò trong các buổi học tập đều đi tới đi lui không ngừng. Có tài liệu ghi, Alexander ra lệnh cho các nhà săn bắn và chài lưới phải đem nộp cho Aristoteles tất cả những giống vật mới lạ. Tục truyền có cả thảy một đội quân 1.000 người rải rác khắp Hi Lạp và châu Á để sưu tầm những giống vật mới lạ, Aristoteles là người đầu tiên đã lập nên vườn bách thảo và sở bách thú trên toàn thế giới. Ông đã nhận được sự cộng tác, hỗ trợ quý giá của Thephrastus (về Thực vật học) và Meno (về Y học), các mẫu và tài liệu quý giá từ học trò mình lấy từ Ba Tư và Ấn Độ, Ai Cập. Các bài viết về Lịch sử tự nhiên và Khoa học, trong đó quan trọng nhất là các tập “Lịch sử động vật”, “Bàn về các bộ phận của động vật” “Về sự tiến triển của động vật” (đề cập đến bản chất và nguyên nhân các sinh thái), “Hoạt động của giới động vật”, “Quá trình tái tạo của động vật” (bàn về các chức năng chung của cơ thể và linh hồn) ra đời. Cuốn “Nghiên cứu các động vật” là một tập hợp những dữ kiện về đời sống các loài vật. Ông đã mô tả khoảng 500 loại động vật (phần lớn thu thập từ đảo Lebos). Chính Aristoteles đã đặt ra nhiều thuật ngữ Giải phẫu học như: “aorta” (động mạch, để chỉ một động mạch xuất phát từ tim), “rectum” (trực tràng, để chỉ đoạn ruột đi thẳng xuống hậu môn). Aristoteles cũng phân biệt các loại mô khác nhau (như mỡ, xương, limphô...) và nhiều cấu trúc Giải phẫu học (như thực quản, khí quản, các xoang mũi, mê cung tai, đại tràng, SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 18
- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa manh tràng...) Bản thân Aristoteles không viết tài liệu về Thực vật, lĩnh vực này ông dành cho người học trò danh tiếng của ông là Theophratus. Có lẽ người cha vốn là một thầy thuốc giỏi đã ảnh hưởng tác động mạnh đến tâm trí của Aristoteles từ tuổi ấu thơ nên ông đã sớm có xu hướng tìm hiểu thế giới sinh vật. Đặc điểm nổi trội nhất trong toàn bộ công trình nghiên cứu Sinh học của ông là khối lượng to lớn những nhận xét phong phú khi mô tả giới động vật. Trong khối lượng đó, các nhà khoa học của thế kỷ XX vẫn hứng thú vì tìm thấy những dữ kiện về đời sống động vật, những nguyên nhân tạo ra các hình thái sống, các chức năng chung của cơ thể và linh hồn. Trong suốt quá trình nghiên cứu Sinh học, Aristoteles đã phát hiện ra chu trình biến đổi của thiên nhiên: các sinh thái luôn cố gắng tự thân để hoàn thiện hơn, nhưng các động vật luôn luôn là những cá thể không vĩnh cửu nên chúng cũng phải tuân theo một chu trình sống và chết, hình thái liên tục này giống như bản sao chép vòng quay của vật chất. Kết quả đó là hiện tượng đến để tồn tại rồi qua đi, liên tục và không ngưng nghỉ. Như vậy hình thành và hủy hoại là những bậc thang của mọi giống loài. Người sinh ra người và cây sồi lại tạo ra cây sồi. Quan niệm này có lẽ phần nào đã loại bỏ mọi quá trình tiến hóa của các loài. Aristoteles xác nhận rằng nguồn gốc sâu thẳm của mọi hoạt động ở các hình thái sống chính là sức nóng mà ông thường gọi là “nhiệt nội sinh” hoặc “thở hít”, đây cũng là “dụng cụ” của linh hồn tác động bằng cách đẩy và kéo những bộ phận khác nhau của cơ thể nhằm tạo hiệu quả phục vụ cho những ham muốn của linh hồn. Quan điểm này là nội dung chính của luận thuyết “khí hợp sinh” (connate pneuma) nổi tiếng của Aristoteles. Theo cách nhìn này, Aristoteles là nhà khoa học đầu tiên đã phân loại giới động vật thành hai hệ thống lớn: hệ có máu (nghĩa là máu đỏ) và hệ không máu, đây là cách xếp loại dựa trên nội dung “nhiệt” và là đặc điểm đầu tiên của cách phân loại động vật. Một đặc điểm thứ hai trong cách phân loại động vật của Aristoteles là dựa vào phương thức tái tạo: giống đực cung cấp hình thái (nghĩa là linh hồn) SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận triết học - Vận dụng quan điểm triết học Mác về bản chất của con người để phân tích tầm quan trọng của nhân tố con người trong nền kinh tế tri thức
25 p | 1694 | 654
-
Tiểu luận triết học "Phân tích nội dung qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn của anh chị vào trong hoạt động thực tiễn"
13 p | 1285 | 422
-
Tiểu luận Triết học: Tư tưởng triết học nho gia và sự ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội
10 p | 844 | 259
-
Tiểu luận triết học Đề tài: “Phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức”
12 p | 2130 | 194
-
Tiểu luận triết học “Vận dụng lý luận phương thức SX phân tích sự phát triển của nhà máy nước Rạng Đông”
11 p | 570 | 130
-
Tiểu luận triết học: Phân tích thực chất cuộc cách mạng triết học của Mác - Ănghen và ý nghĩa
17 p | 555 | 127
-
Tiểu luận triết học "Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó”
14 p | 349 | 111
-
Tiểu luận Triết học: Phân tích chủ trương Xây dựng nông thôn mới
14 p | 481 | 108
-
Tiểu luận Triết học: Vận dụng Lý luận hình thái kinh tế – xã hội để phân tích vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế Việt nam hiện nay
26 p | 332 | 103
-
Tiểu luận Triết học số 19 - Tín dụng: Cơ sở lí luận và thực tiễn ở Việt Nam
17 p | 284 | 35
-
Tiểu luận Triết học Mác: Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó
18 p | 234 | 29
-
Tiểu luận Triết học số 31 - Phân tích những thành tựu và hạn chế của phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật trước Mác
21 p | 369 | 27
-
Tiểu luận Triết học: Phân tích nội dung qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn của anh chị vào trong hoạt động thực tiễn
13 p | 180 | 27
-
Tiểu luận Triết học số 24 - Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó
19 p | 146 | 21
-
Tiểu luận Triết học số 49 - Phép biện chứng về mâu thuẫn và việc phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
13 p | 133 | 10
-
Tiểu luận Triết học số 32 - Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó
19 p | 114 | 7
-
Tiểu luận Triết học số 25 - Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích nhà máy phích nước – bóng đèn Rạng Đông
13 p | 91 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn