Đỗ Hằng Nga<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
65(03): 96 - 99<br />
<br />
TÌM HIỂU CÁC HÌNH THỨC GIỮ GÌN TRẬT TỰ TRỊ AN<br />
TRONG HƢƠNG ƢỚC LÀNG XÃ HUYỆN PHÚ BÌNH – THÁI NGUYÊN<br />
THỜI THUỘC PHÁP<br />
Đỗ Hằng Nga*<br />
<br />
Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên<br />
TÓM TẮT<br />
Hương ước là phần lệ làng đã được văn bản hóa dùng để điều chỉnh các mối quan hệ phổ biến<br />
trong phạm vi làng xã. Hương ước Phú Bình thời thuộc Pháp đề cập khá sâu sắc đến vấn đề bảo vệ<br />
trật tự trị an làng xã như quy định về việc tuần phòng, lệ khen thưởng và trừng phạt, việc giải<br />
quyết tranh chấp kiện cáo, việc tổ chức ứng cứu khi làng gặp tai ương, ... Những quy ước tỉ mỉ và<br />
nghiêm ngặt trong hương ước đã giúp cho các làng xã huyện Phú Bình phát huy được vai trò tự<br />
quản và khả năng chủ động cao độ trong việc giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương. Đây là điều rất<br />
cần thiết để mỗi xóm làng thực hiện nếp sống văn minh.<br />
Từ khoá: trật tự trị an, hương ước, làng xã, Phú Bình, thuộc Pháp.<br />
Làng<br />
<br />
xã Việt Nam nói chung và các làng xã<br />
huyện Phú Bình nói riêng vốn có tính cố kết<br />
bền chặt. Một trong những biểu hiện là chốn<br />
hương thôn thường có ước hẹn riêng với nhau,<br />
lập ra sổ sách, đồng dân kí kết, gọi là hương<br />
ước hay khoán ước. Theo tác giả Phan Ngọc<br />
Liên trong cuốn “Từ điển thuật ngữ lịch sử<br />
phổ thông” thì “Hương ước là văn bản quy<br />
định những điều (do thoả thuận) mà mọi người<br />
trong làng phải làm theo. Thời phong kiến, ở<br />
Việt Nam từ thời Lê sơ đến thời Nguyễn, mỗi<br />
làng đều phải có bản hương ước riêng của<br />
mình”. Như thế, hương ước là phần lệ làng đã<br />
được văn bản hóa thành “bộ luật” riêng của<br />
mỗi làng Việt dùng điều chỉnh các mối quan<br />
hệ phổ biến trong phạm vi làng xã. Hương ước<br />
là một bộ phận của văn hoá làng, đồng thời là<br />
di sản văn hoá dân tộc có tính chất pháp lí khá<br />
độc đáo của làng xã cổ truyền Việt Nam.<br />
Các hương ước của huyện Phú Bình mà<br />
chúng tôi thu thập được gồm 39 bản của các<br />
thôn làng được lập vào thời thuộc Pháp mà<br />
chủ yếu là hương ước năm 1942. Đó là hương<br />
ước của: xã Kha Sơn Hạ, xã Mai Sơn, xã Úc<br />
Sơn, làng La Đình, làng Kha Nhi, xã La Sơn,<br />
xã Bằng Cầu, làng Phương Độ, làng Hà<br />
Trạch, xã Nga My, xã Diệm Dương, xã An<br />
Châu, xã Hà Châu, xã Bình Giang, xã Điềm<br />
Thụy, xã Ngọc Long, xã Triều Dương, xã Úc<br />
Kỳ, xã Thanh Lương, làng Giếng Mật, xã Tân<br />
Hoà, xã Lương Tạ, xã Tiên La, xã Phú Mỹ, xã<br />
Lương Trình, xã Phao Thanh, xã Nô Dương,<br />
<br />
<br />
Tel: 0977599877<br />
<br />
, Email:<br />
<br />
làng Đức Liên, xã Dương Nhân, xã Lũ Yên,<br />
xã Chỉ Mê, xã Cô Giạ, xã Thuần Lương, xã<br />
Ninh Sơn, làng Nông Cúng, xã Quan Tràng,<br />
xã Dưỡng Mông, làng Đào Xá, xã Đình Kiều.<br />
Nội dung các hương ước đề cập đến nhiều<br />
vấn đề cụ thể, nhìn chung có thể chia ra làm<br />
hai phần: phần Chính trị (gồm những điều<br />
khoản về việc lập xã, bộ máy quản lý làng xã,<br />
việc chi thu, việc sưu thuế, việc kiện cáo, việc<br />
tuần phòng, việc cứu tế, việc vệ sinh, việc các<br />
của công, việc xét gian lận, việc giáo dục,<br />
việc ngụ cư ký táng, việc phu lính, việc<br />
khuyến nông) và phần Tục lệ (gồm những<br />
điều khoản về việc hôn lễ, việc tang, việc tế<br />
tự, việc khao vọng, việc ngôi thứ).<br />
Từ những nội dung trên, chúng tôi đi vào tìm<br />
hiểu các quy định về vấn đề trật tự trị an được<br />
nêu lên trong hương ước, khái quát một số<br />
hình thức bảo an của các làng xã huyện Phú<br />
Bình trước năm 1945 như sau:<br />
Tuần phòng<br />
Hầu hết các hương ước Phú Bình mà chúng<br />
tôi nghiên cứu đều có điều khoản về công tác<br />
tuần phòng.<br />
Trước hết quy định trách nhiệm thực hiện<br />
việc tuần phòng. Điều 9 hương ước xã Úc<br />
Sơn, tổng La Đình ghi rõ: “Việc tuần phòng<br />
thì dân cử lý trưởng cùng phó lý tuần phòng<br />
trong làng để phòng giữ những kẻ gian phi<br />
trộm cướp, còn ở ngoài đồng thì đã có trương<br />
tuần cùng tuần phu coi giữ lúa má cùng các<br />
hoa màu”. Tuần phu ở đây được chỉ rõ là<br />
những “tráng đinh từ 18 tuổi trở lên cho đến<br />
60 tuổi hiện ở làng không có chức phận gì”.<br />
<br />
96<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đỗ Hằng Nga<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Người thực hiện nhiệm vụ tuần phòng được<br />
làng trả công. Có hai hình thức trả công chính<br />
là trả công bằng thóc (gọi là sương túc) và<br />
bằng tiền. Mức trả đối với thóc dao động từ<br />
10 – 20 đấu/mẫu/năm, đối với tiền là từ 1 – 5<br />
hào/mẫu. Ngoài ra, hương ước xã Diệm<br />
Dương, xã An Châu, xã Hà Châu còn đề cập<br />
tới hình thức trả công bằng hoa màu bên cạnh<br />
việc trả công bằng thóc và bằng tiền. Mức<br />
công trả là 1/10 số hoa lợi.<br />
Hương ước xã An Châu quy định trong điều<br />
24, 25 và 28: “Đến ngày cắt lúa yên rồi thời<br />
các điền chủ cho mỗi mẫu 10 đấu thóc … Lệ<br />
hoa màu ngoài đồng điền đồng niên làng cho<br />
mỗi tuần xã mười phần cho một. Lệ dân đồng<br />
niên cho mỗi tuần xã trâu mỗi con một hào,<br />
bò mỗi con 6 xu”.<br />
Cùng với quy định trả công cho người làm<br />
nhiệm vụ tuần phòng thì các hương ước cũng<br />
có quy định về việc đền bù khi tuần phòng bất<br />
cẩn. Nhìn chung, các làng xã không quy định<br />
mức đền bù cụ thể. Phần lớn hương ước<br />
thường chỉ ghi ngắn gọn rằng “nếu sơ phòng<br />
để mất trộm thì phải bồi thường y kỳ giá”. Rất<br />
ít hương ước có quy định cụ thể như hương<br />
ước làng La Đình quy định mất trộm một sào<br />
lúa đền ba nồi thóc, làng Hà Trạch quy định<br />
mất trộm trâu bò đền mỗi con một đồng bạc,<br />
xã Hà Châu quy định mất bốn phần đền hai<br />
hay hương ước xã An Châu trong điều 27 chỉ<br />
rõ từng trường hợp đền bù cụ thể rằng “Lệ<br />
trong làng khi nào hoặc người nào mất trộm<br />
trâu bò ban đêm mà ra thẳng cổng thời không<br />
phải đền vật ấy, nếu có cắt rào đào ngạch<br />
thời tuần xã phải đền tài chủ y giá ”.<br />
Khen thƣởng - trừng phạt<br />
Hương ước quy định tuần phu hay người dân<br />
bắt được kẻ gian được làng khen thưởng<br />
bằng tiền. Mức thưởng thì mỗi làng một<br />
khác, song thường là từ 5 hào đến 1 đồng<br />
bạc và tuỳ theo việc khinh trọng mà xét<br />
thưởng. Nếu là bắt được kẻ cướp, làng có thể<br />
thưởng đến 10 đồng bạc.<br />
Khi tham gia bảo vệ trị an làng xã, nếu chẳng<br />
may bị thương hoặc mất mạng, làng lại có<br />
chính sách hậu đãi riêng. Quy định này được<br />
ghi trong hương ước các làng xã khá thống<br />
nhất, đó là đối với người bị thương thì làng<br />
<br />
65(03): 96 - 99<br />
<br />
trợ cấp tiền, đối với người không may thiệt<br />
mạng thì làng làm ma, cấp tuất và nhiêu phu<br />
cho người kế tự.<br />
Chẳng hạn, điều 19, 20 hương ước xã Diệm<br />
Dương, tổng Hà Châu quy định: “Tuần bắt<br />
được kẻ gian và tang vật sẽ được thưởng 1<br />
đồng trở lên (sự chủ thưởng một nửa, dân<br />
thưởng một nửa) … nếu bắt được kẻ cướp,<br />
làng và sự chủ sẽ liệu thưởng cho, nếu bị<br />
thương sẽ liệu trợ cấp, nếu bị chết sẽ liệu cấp<br />
tuất cho và sẽ nhiêu phu cho người thừa kế”.<br />
Song song với quy định về việc khen thưởng,<br />
hậu đãi là những quy định về việc trừng phạt<br />
kẻ làm sự trái phép, trộm cướp, gian phi.<br />
Theo nội dung ghi trong hương ước, tuần<br />
phiên hay người dân bắt được kẻ gian, tường<br />
lên lí dịch hay hội đồng, căn cứ vào lỗi lớn<br />
nhỏ, tội nặng nhẹ mà hội đồng nghiêm phạt<br />
hoặc giải trình quan trên phán xét. Với kẻ<br />
phạm là vậy, với “tuần bắt được kẻ gian …<br />
nếu dung túng, tuần cũng phải phạt như là<br />
kẻ phạm” (điều 28, hương ước xã Hà Châu,<br />
tổng Hà Châu).<br />
Về phía làng, chủ yếu là phạt tiền, truất ngôi<br />
thứ, ghi danh sách thành tích bất hảo, … Mức<br />
phạt các làng xã không giống nhau.<br />
Sự sáng tạo của “bộ luật làng” được thể hiện rõ<br />
trong hình thức xử phạt. Xin dẫn một ví dụ:<br />
Hương ước làng Đức Liên (tổng Đức Liên) quy<br />
định việc xử phạt trong điều 17, 18, 19, 20.<br />
“17. Trong xã ai mà làm việc phi pháp đi ăn<br />
trộm ăn cướp làm tàn dân hại vật thì dân xét<br />
xem tội lỗi mà bắt vạ nhiều ít tuỳ ở trong<br />
điều làm lỗi ấy.<br />
18. Trong xã ai mà làm việc gian giả phi<br />
pháp đồng dân bắt vạ mà không chịu vạ thì cả<br />
dân cùng nhường cho kẻ ấy ăn ngồi một<br />
mình, dân không ai được ăn ngồi mấy và<br />
những lúc có việc công hay tư cũng thế.<br />
19. Trong xã ai mà không tuân lời dân mà<br />
còn đồng tình mấy kẻ gian mà dân đã<br />
nhường thì dân cũng bắt vạ mà lại nhường<br />
cả cho kẻ ấy nốt.<br />
20. Trong xã mà những người dân đã nhường<br />
còn sống thì nhà không ai đến, cửa không ai<br />
qua, lúc chết không ai khiêng đi chôn”.<br />
Như thế ta thấy, hương ước không dùng hình<br />
phạt của Nhà nước mà dùng hình phạt của<br />
<br />
97<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đỗ Hằng Nga<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
cộng đồng nông thôn là khai trừ khỏi cộng<br />
đồng đối với người vi phạm. Tuy không làm<br />
hao tổn tiền bạc, không gây đau đớn về thể<br />
xác nhưng hình phạt này tác động rất mạnh<br />
đến tinh thần và danh dự của người phạm tội.<br />
Đây là một nỗi nhục khó rửa, khó bào chữa<br />
thanh danh không chỉ đối với cá nhân kẻ<br />
phạm mà còn với cả gia đình, dòng họ người<br />
đó. Cách làm như vậy có phần khắt khe nhưng<br />
nó thực sự hiệu quả trong việc phòng ngừa, răn<br />
đe mọi người không làm điều trái. Nhờ đó mà<br />
chốn hương thôn giữ được sự yên bình.<br />
Việc tranh chấp, kiện cáo<br />
Đã thành nếp, người dân Việt Nam nói<br />
chung và người dân chốn thôn quê nói riêng<br />
đều không muốn cãi cọ, kiện cáo, nhưng<br />
trong cuộc sống làm sao tránh được sự đụng<br />
chạm lẫn nhau. Tìm hiểu hương ước Phú<br />
Bình, chúng tôi nhận thấy việc giải quyết các<br />
tranh chấp, kiện cáo trong hương thôn thường<br />
được quy định trong mục “Quyền tư pháp”<br />
hoặc mục “Việc quan”. Hương ước các làng<br />
xã đều thống nhất ở chỗ giải quyết các tranh<br />
chấp, kiện cáo từ cấp thấp đến cấp cao. Cấp<br />
thấp gồm có trước hết là huynh thứ trong làng,<br />
sau là hội đồng chức dịch, giải quyết các việc<br />
khinh; còn việc trọng thì được giải quyết ở cấp<br />
cao hơn là quan bề trên và toàn án sơ cấp.<br />
Nhìn chung, cách giải quyết theo hướng tích<br />
cực, thể hiện ở việc luôn lấy hoà giải làm đầu.<br />
Với lối sống “dĩ hoà vi quý”, khi xảy ra tranh<br />
chấp, xích mích thì trước tiên “người trong<br />
nhà đóng cửa bảo nhau”.<br />
“Trong làng có người nào cãi chửi nhau<br />
sinh sự bất bình thì cho huynh thứ trong làng<br />
phân xử, nếu hoà giải không nghe thì làm<br />
giấy kí kết đệ trình thầy chánh phó tổng,<br />
chánh phó tổng phân giải nếu cũng không<br />
nghe thì đệ lên quan trên xử khoán cũng như<br />
dân đã xử thì dân chiểu lệ phạt một đồng bạc<br />
để sung công” (điều 17, hương ước làng Hà<br />
Trạch, tổng Hà Châu).<br />
Rõ ràng, nếu chú ý hoà giải thì việc to sẽ trở<br />
thành nhỏ, việc nhỏ thì trở thành điều dễ dàng<br />
cho qua. Ngược lại, nếu không biết hoà giải<br />
thì việc nhỏ thành việc lớn, việc có thể dàn<br />
xếp nội bộ thì phải đưa nhau ra toà án, mâu<br />
thuẫn bình thường trở nên gay gắt.<br />
<br />
65(03): 96 - 99<br />
<br />
Tinh thần hoà giải trong hương ước Phú Bình<br />
cần được nghiên cứu để duy trì và phát triển<br />
trong xã hội ngày nay, nhất là khi đất nước đã<br />
chuyển sang nền kinh tế thị trường.<br />
Quy định về hiệu lệnh và việc tổ chức ứng<br />
cứu khi làng gặp tai ƣơng<br />
Nội dung nhiều bản hương ước quy định khi<br />
trong làng có sự cần cấp cứu như thuỷ, hoả,<br />
đạo tặc thì nổi hiệu lệnh để tập hợp dân. Hiệu<br />
lệnh có thể là trống hoặc mõ, thường dùng là<br />
trống, đánh 1 hồi 3 tiếng, 2 hồi 6 tiếng hoặc 3<br />
hồi 9 tiếng tuỳ từng làng quy ước với nhau.<br />
Nghe hiệu lệnh, trừ bậc “lão hạng, tàn tật, đi<br />
vắng”, còn dân đinh “phải đem theo khí giới<br />
đến ngay chỗ đánh trống theo cùng lí phó<br />
trưởng để tuỳ sự sai phái” (điều 5, hương ước<br />
xã Lũ Yên, tổng Lý Nhân). Một số hương<br />
ước quy định độ tuổi cụ thể phải ra ứng<br />
cứu: từ 18 – 49 tuổi (xã Lũ Yên), 18 – 50<br />
tuổi (làng Giếng Mật) hay 18 – 60 tuổi (xã<br />
Dương Nhân).<br />
Nếu không duyên cớ mà không ra cứu giúp sẽ<br />
bị làng phạt tiền (từ 5 hào đến 3 đồng), nặng<br />
hơn nữa có làng còn giải trình toà trị tội vì<br />
nghi cho là đồng đảng với kẻ gian.<br />
Ngoài những nội dung trên, hương ước Phú<br />
Bình còn có các quy ước nhằm thực hiện nếp<br />
sống văn minh như quy ước về sự cư xử của<br />
người trong làng với nhau, rằng “trong làng<br />
sự ăn ở phải trên kính dưới nhường, nếu có<br />
người nào ngạo mạn với kỳ lão hoặc người<br />
trên thì đồng dân phạt 6 hào và một cành cau<br />
tạ làng, nếu không chịu thì làm giấy kí kết đệ<br />
trình xin quan trên trừng phạt” (điều 16,<br />
hương ước làng Hà Trạch, tổng Hà Châu), …<br />
Như vậy, hương ước đã đấu tranh loại trừ cái<br />
xấu để hoàn thiện nhân cách con người, góp<br />
phần tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa các<br />
thành viên trong làng xã. Người cùng làng phải<br />
luôn hướng tới cuộc sống thuận hoà, tôn trọng,<br />
nhường nhịn lẫn nhau, có ý thức đền ơn giúp<br />
đỡ, … Những hành vi thiếu văn minh làm<br />
huyên náo xóm thôn không chỉ bị chê bai mà<br />
còn bị xử phạt. Hương ước khuyên con người ta<br />
ở trong gia đình hay ra chốn đình trung phải biết<br />
cư xử là người mực thước, ý nhị và lịch thiệp.<br />
Như tác giả Phan Kế Bính đã viết trong cuốn<br />
“Việt Nam phong tục”: “Khoán ước trong<br />
làng như một từ điển khuyến trừng của nhà<br />
<br />
98<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đỗ Hằng Nga<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
nước, khuyên người làm lành, ngăn kẻ làm dữ<br />
nên nhờ có khoán ước mà có thuần phong mỹ<br />
tục thì điều ấy cũng là một việc rất hay”<br />
Tìm hiểu hương ước thấy rằng những quy ước<br />
tỉ mỉ và nghiêm ngặt về công tác trật tự trị an<br />
đã giúp cho các làng xã huyện Phú Bình trước<br />
năm 1945 phát huy được vai trò tự quản, ý<br />
thức tự lực và khả năng chủ động cao độ<br />
trong việc bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự ở địa<br />
phương. Không có những quy ước chặt chẽ<br />
ấy, làng xã khó có thể duy trì một cuộc sống<br />
yên bình, là môi trường thuận lợi cho con<br />
người phát triển sản xuất, chinh phục thiên<br />
nhiên, sinh hoạt văn hoá cộng đồng.<br />
Vì được quy định trong hương ước nên công<br />
tác giữ gìn trật tự trị an không còn là việc<br />
riêng của cá nhân người nào mà đã là người<br />
cùng làng cùng xóm thì ai cũng có trách<br />
nhiệm tham gia. Người dân thôn làng trở nên<br />
quan tâm hơn tới các việc công ích, chung sức<br />
vì lợi ích tập thể. Để rồi những nghĩa vụ và<br />
quyền lợi chung đó lại ràng buộc họ với nhau.<br />
Và khi làng gặp tai ương, trộm cướp phá<br />
<br />
65(03): 96 - 99<br />
<br />
phách, trương tuần, tuần phu không chống lại<br />
được thì nổi hiệu lệnh để tập hợp dân cùng<br />
ứng cứu, rồi sau bao nhiêu thiệt hại “thời xã<br />
dân cùng chịu”. Rõ ràng, càng trong hoàn<br />
cảnh ngặt nghèo, tinh thần đoàn kết và cố kết<br />
cộng đồng vốn là truyền thống tự xưa của dân<br />
tộc càng được tăng cường. Nó đã gắn bó<br />
những người nông dân với nhau, gắn bó họ<br />
với làng xã. Từ đây, mỗi người dân làng<br />
không chỉ tìm thấy trong cộng đồng của mình<br />
chỗ dựa về vật chất mà quan trọng và chủ yếu<br />
là chỗ dựa về tinh thần. Đó chính là yếu tố làm<br />
nên sức mạnh của đơn vị tụ cư bé nhỏ này.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1] Bùi Xuân Đính (1985), Lệ làng phép nước,<br />
Nxb Pháp lí, Hà Nội<br />
[2] Bùi Xuân Đính (1998), Hương ước và quản lí<br />
làng xã, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội<br />
[3] Lê Đức Tiết (1998), Về hương ước lệ làng,<br />
Nxb Chính trị, Hà Nội<br />
[4] 39 bản hương ước Phú Bình lập năm<br />
1942,aViệnTTKHXH,aHàNội<br />
<br />
RESEARCH OF THE FORMS OF PEACE AND ORDER PROTECTION IN<br />
VILLAGE CONVENTIONS OF PHU BINH DISTRICT – THAI NGUYEN<br />
UNDER THE FRENCH DOMINATION<br />
Do Hang Nga<br />
<br />
College of Science - Thai Nguyen University<br />
SUMMARY<br />
Village conventions are the village customs which are written to harmonize the common<br />
relationship in a village. Phu Binh district’s village conventions referred to the protection of peace<br />
and order profoundly under the Frenh domination, for example the stipulation of patrol,<br />
compliment and punishment, the solution to lawsuit and the salvage of village’s disaster ... The<br />
meticulous and strict laws helped Phu Binh district’s villages to develop the role of self –<br />
governing and the highly active ability to maintain the local peace and order. This is necessary for<br />
each village and hamlet to carry out civilized life.<br />
Keywords: peace and order, village conventions, village, Phu Binh, French domination.<br />
<br />
<br />
<br />
Tel: 0977599877<br />
<br />
, Email:<br />
<br />
99<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />