Tham khảo bài viết 'tìm hiểu nguyên nhân sự khủng hoảng kinh tế tài chính ở đông nam á_3', tài liệu phổ thông, ôn thi đh-cđ phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: tìm hiểu nguyên nhân sự khủng hoảng kinh tế tài chính ở Đông Nam Á_3
- tìm hiểu nguyên nhân sự
khủng hoảng kinh tế tài chính
ở Đông Nam Á
Nam Dương
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách
tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá
hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8,
đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ
tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả
nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp
một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ
Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra
ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả
giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống
mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty
Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài
- của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy
mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội
tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo
yêu cầu của IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và
xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo
động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã
có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và
khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm
1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào
khoảng 2000 : 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã
giảm xuống mức 18.000 : 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo
Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi.
Hậu quả
Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng,
bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm
- giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị phá
sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng
nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng
nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan.
Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự
ra đi của Suharto ở Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái
Lan. Tâm lý chống phương Tây gia tăng cùng với sự phê phán
gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các
phòng trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi
chính quyền trung ương của nước này suy yếu.
Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình
quân đầu người tính bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương
đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện
tượng này. Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình
quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD năm
1997 xuống còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia giảm
từ 4.600 USD xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm từ 11.100
USD xuống 10.400 USD.
Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó
góp phần dẫn tới khủng hoảng tài chính Nga và khủng hoảng
- tài chính Brasil. Một số nước không bị khủng hoảng, nhưng
kinh tế cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm và do FDI
vào giảm.
Ý nghĩa
Khủng hoảng tài chính Đông Á làm người ta nhận thức rõ hơn
sự cần thiết phải có một hệ thống tài chính - ngân hàng vững
mạnh, minh bạch. Điều này thôi thúc Quỹ Tiền tệ Quốc tế và
Ngân hàng Thanh toán Quốc tế đổi mới các quy chế về ngân
hàng và các tổ chức tín dụng nói chung.
Chính phủ nhiều nước đang phát triển cho rằng các dòng vốn
đầu tư gián tiếp nước ngoài và vốn vay ngân hàng nước ngoài
có thể đem lại những tác động bất lợi với nền kinh tế của họ. Do
đó, nhiều chính phủ đã ban hành những quy chế nhằm điều tiết
các dòng vốn này.[9]
Bên cạnh đó,những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển
một hệ thống phòng ngừa khủng hoảng tái diễn đã được thúc
đẩy ở châu Á, ví dụ như Sáng kiến Chiang Mai, Tiến trình Đánh
giá và Đối thoại Kinh tế ASEAN+3, Sáng kiến Thị trường Trái
phiếu Châu Á, ...
- Về mặt học thuật, các nhà nghiên cứu kinh tế đã nhận thấy sự
hạn chế của các mô hình lý luận về khủng hoảng tiền tệ trước
đây trong việc giải thích nguồn gốc và sự lây lan của khủng
hoảng tài chính Đông Á. Đã có nhiều nỗ lực nhằm đưa ra một
mô hình mới về khủng hoảng tiền tệ, chẳng hạn như mô hình
phương pháp tiếp cận bảng cân đối tài sản, lý thuyết bong
bóng, lý thuyết về nguồn gốc khủng hoảng từ chính sách tài
chính và chính sách tiền tệ[1][2],...
Các biện pháp khôi phục kinh tế sau khủng hoảng
Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn,
các nền kinh tế Đông Á bị ảnh hưởng nặng đều tiến hành các cải
cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: cải tổ cách thức quản lý trong khu
vực doanh nghiệp, cải cách tài chính, đẩy mạnh hội nhập quốc
tế, đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô, và đổi mới cả
phương thức tăng trưởng kinh tế.
Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô
Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã và đang thực thi một chế
độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và cơ chế ổn định giá cả. Cụ thể, các
- nước từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái neo và hướng tới chế độ mục
tiêu lạm phát. Đồng thời, các nước nỗ lực gia tăng lượng dữ trự
ngoại hối nhà nước của mình. Từ 1997 đến 2005, năm nước bị
ảnh hưởng nặng nhất của khủng hoảng đã tăng lượng dự trữ
ngoại hối của mình lên bốn lần, đạt 378 tỷ USD.
Cải cách khu vực tài chính
Các nước Đông Á đã thực thi các biện pháp, chính sách sau để
cải cách khu vực tài chính: (1) Xóa và giảm nợ xấu, tái vốn hóa
các thể chế tài chính; (2) Đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ,
(3) Tăng cường giám sát và áp dụng các tiêu chuẩn quản trị, kế
toán mới đối với các tổ chức tín dụng và tài chính khác; (4) Đẩy
mạnh chuyên môn hóa các thể chế tài chính; (5) Tăng cường
giám sát và điều tiết các tổ chức tín dụng đồng thời với nâng
cao kỷ luật thị trường. Yellen (2007) cho thấy các ngân hàng
của Hàn Quốc đã áp dụng phương thức quản trị hiện đại của
phương Tây và đã giảm được tỷ lệ sở hữu gia đình tại các ngân
hàng, tăng cường lợi ích cho các giám đốc bằng cách cho họ
quyền chọn mua cổ phiếu, v.v... Còn các ngân hàng Malaysia đã
thay đổi tập quán cho vay của mình. Giờ đây, họ cho các xí
nghiệp nhỏ và vừa vay nhiều hơn.
- Cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp
Các nước Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện các
thủ tục về phá sản, nỗ lực tái cơ cấu nợ của các xí nghiệp, củng
cố các quy định và tiêu chuẩn về cáo bạch, bảo vệ quyền lợi của
các cổ đông nhỏ cũng như nâng cao quyền lực và trách nhiệm
của ban giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán
theo thông lệ quốc tế, tăng cường mức vốn tự có của doanh
nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động mua lại và sáp nhập
kể cả với doanh nghiệp trong nước cũng như với doanh nghiệp
nước ngoài.
Cải cách các thị trường
Các nước Đông Á đã và đang phát triển thị trường trái phiếu
định danh bằng nội tệ của mình. Đồng thời, cải cách thị trường
lao động đã cho phép các xí nghiệp tuyển dụng và sa thải lao
động dễ dàng hơn, giúp xí nghiệp của các nước Đông Á trở nên
linh hoạt hơn.