Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
TÌNH HÌNH VÀ CÁC YẾU TỐ DẪN ĐẾN VIỆC UỐNG RƯỢU BIA<br />
TRONG HỌC SINH THPT TẠI HUYỆN BẾN LỨC,<br />
TỈNH LONG AN, NĂM 2008<br />
Bùi Thị Hy Hân*, Dương Thị Minh Tâm*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đặt vấn đề: Uống rượu bia là vấn đề đang được quan tâm tại Việt Nam, đặc biệt với đối tượng học sinh<br />
THPT, do hậu quả gây ra từ vấn đề này ngày càng nghiêm trọng.<br />
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tình hình uống rượu bia của học sinh THPT huyện Bến Lức vào năm 2008,<br />
và mối liên quan giữa uống rượu bia với các yếu tố liên quan.<br />
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang mô tả. Thu thập số liệu theo bộ câu hỏi soạn sẵn tại trường THPT<br />
Bán Công Bến Lức, huyện Bến Lức, Long An.<br />
Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ uống rượu bia là 32,8%. Lý do uống rượu bia lần đầu cũng như lần sau là vì<br />
muốn giao tiếp. Học sinh thường uống rượu bia với bạn bè, uống với bạn bè học chung trong lớp học chiếm<br />
41,6%, và bạn bè ngoài lớp học chiếm 44,9%, và thường uống vào các dịp lễ tết lớn (49,4%). Phần lớn học sinh<br />
đều cho rằng uống rượu bia thì không tốt (79,43%) và đều nhận thức uống rượu bia sẽ gây tai nạn giao thông và<br />
gây nhiều bệnh tật về sau (61,6% và 54,0%). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa giới tính, nghề nghiệp cha,<br />
thái độ về hành vi uống rượu bia của người khác với uống rượu bia<br />
Kết luận: Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở giúp Ban giám hiệu cũng như các cấp chính quyền có những giải<br />
pháp thích hợp nhằm nâng cao ý thức về uống rượu bia của học sinh trong lứa tuổi học đường.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
THE SITUATION AND THE FACTORS RESULTS IN DRINKING ALCOHOL<br />
IN STUDENTS’ THE BEN LUC PRIVATE HIGH SCHOOL, 2008.<br />
Bui Thi Hy Han, Duong Thi Minh Tam<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 83 - 88<br />
Background: Drinking alcohol is the important problem which is paid more attention to in Viet Nam,<br />
especially in high school students, as its consequence is more and more serious.<br />
Objectives: To investigate the prevalence and the factors results in drinking alcohol in students’ the Ben<br />
Luc private high school, and the relationship between drinking alcohol and its related factors.<br />
Method: cross-sectional study. Collecting data by structured questionnaire, of the Ben Luc private high<br />
school’s 384 students, Ben Luc district, Long An province.<br />
Results: drinking alcohol proportion is 32.8%. Either reason of first-drinking alcohol or of second one is to<br />
communicate. Study population usually drinks with friends, such as: with their classmates (41.6%) and with<br />
outdoor ones (44.9%). They usually drink at Tet or the special dates of our country (49.4%). The majority of<br />
students say that drinking alcohol is not good (79.43%), and will cause traffic accidents and many diseases<br />
afterward (61.6% và 54.0%). There are the differences between sex, the students’ father’s job, attitude about<br />
drinking alcohol behavior of someone and drinking alcohol.<br />
Conclusion: The results will help either the board of managers of the private high school Ben Luc or the local<br />
*<br />
<br />
Viện Vệ Sinh – Y tế Công Cộng TPHCM<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
officials in Ben Luc district to give appropriate solutions in order to raise the students’ awareness of drinking<br />
alcohol.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
<br />
Mục tiêu nghiên cứu<br />
<br />
Thanh thiếu niên là lực lượng lao động trí<br />
thức cần thiết cho sự phát triển của đất nước. Sự<br />
giàu có và phồn vinh của quốc gia được cấu<br />
thành từ nhiều yếu tố- trong đó có yếu tố con<br />
người, và có sự góp sức của lứa tuổi thanh thiếu<br />
niên. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền<br />
công nghệ tiên tiến, toàn cầu hóa đang diễn ra<br />
mọi nơi trên thế giới, thanh niên Việt Nam cũng<br />
có cơ hội hòa vào dòng thác công nghệ, nhiều cơ<br />
hội để phát hiện và phát triển bản thân. Tuy<br />
nhiên, bên cạnh những cơ hội đó, thì thanh niên<br />
Việt Nam phải đối đầu với những thách thức<br />
mới: đó là sư xâm nhập lối sống tự do, tệ nạn xã<br />
hội, những thước phim quảng cáo rượu, bia<br />
mang tính toàn cầu. Lối sống được du nhập từ<br />
phương Tây: hút thuốc lá, uống rượu, ma túy và<br />
tình dục không an toàn đang là vấn đề lớn của<br />
thanh thiếu niên. Bên cạnh vấn đề ma túy, vấn<br />
đề lạm dụng rượu bia cũng đang diễn ra trầm<br />
trọng. Hiện nay, tình hình sử dụng rượu, bia tại<br />
Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng, đặc biệt<br />
là với thanh niên. “Điều tra quốc gia về vị thành<br />
niên và thanh niên Việt Nam” (SAVY) năm 2003,<br />
kết luận: tỷ lệ thanh niên đã có uống rượu, bia<br />
rất cao, chủ yếu là nam, trong đó có một nhóm<br />
nhỏ say bia rượu thường xuyên(2).<br />
<br />
Mục tiêu tổng quát<br />
Xác định tình hình uống rượu bia của học<br />
sinh THPT huyện Bến Lức vào năm 2008, và<br />
mối liên quan giữa uống rượu bia với các yếu<br />
tố liên quan.<br />
<br />
Bến Lức là một trong những vùng nổi tiếng<br />
với những loại rượu, lò rượu như: Gò Đen.<br />
Chính vì thế việc mua, bán và sử dụng rượu tại<br />
địa phương khá dễ dàng. Đặc biệt với đối tượng<br />
học sinh, thành phần lao động trí thức quan<br />
trọng cho xã hội, cũng có thể dễ dàng mua và sử<br />
dụng rượu, bia?<br />
Vậy tình hình sử dụng rượu, bia trong học<br />
sinh huyện Bến Lức hiện nay như thế nào? Tại<br />
sao họ uống rượu, bia? Nhận thức của học sinh<br />
về vấn đề này như thế nào? Đó là những câu<br />
hỏi thúc đẩy chúng tôi tiến hành cuộc nghiên<br />
cứu này.<br />
<br />
Mục tiêu cụ thể<br />
Xác định tỷ lệ uống rượu bia, lý do, thời<br />
điểm, đối tượng uống rượu bia chung của học<br />
sinh THPT Bán Công Bến Lức năm 2008.<br />
Xác định số lượng rượu bia trung bình học<br />
sinh THPT Bán Công Bến Lức uống.<br />
Xác định sự khác biệt giữa uống rượu bia với<br />
các yếu tố liên quan (tuổi, giới, hoàn cảnh gia<br />
đình, nghề nghiệp cha, nghề nghiệp mẹ, thái độ,<br />
yếu tố thúc đẩy)<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Thiết kế nghiên cứu<br />
Cắt ngang mô tả<br />
<br />
Dân số nghiên cứu<br />
Học sinh lứa tuổi 15-18 tại trường THPT BC<br />
Bến Lức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An, năm<br />
2008.<br />
<br />
Cỡ mẫu<br />
Ước lượng cỡ mẫu theo tỷ lệ với p=0,5. Vậy n<br />
= 384<br />
<br />
Cách chọn mẫu<br />
Trường THPT BC Bến Lức có 3 khối lớp (10,<br />
11 và 12). Khối 10 có 11 lớp, khối 11 có 8 lớp,<br />
khối 12 có 9 lớp. Trung bình một lớp có 40 học<br />
sinh.<br />
Lập danh sách các lớp, tại mỗi khối lớp chọn<br />
3 lớp bằng cách bốc 3 thăm ngẫu nhiên, tổng<br />
cộng có 9 lớp được khảo sát và khảo sát hết tất cả<br />
học sinh trong lớp ấy.<br />
Trong trường hợp nếu khảo sát hết tất cả 9<br />
lớp, mà không đủ mẫu thì ta tiếp tục chọn ngẫu<br />
nhiên 1 lớp, sau đó khảo sát cho đủ cỡ mẫu.<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008<br />
Trong trường hợp nếu khảo sát hết tất cả 9<br />
lớp, tổng cộng có nhiều hơn 384 học sinh, thì ta<br />
chỉ lấy sao cho đến 384 phiếu điều tra.<br />
<br />
Phương pháp thu thập dữ liệu<br />
Các dữ liệu thu thập bằng cách hướng dẫn<br />
đầy đủ, sau đó phát cho học sinh bộ câu hỏi soạn<br />
sẵn và học sinh tự điền ngay tại lớp dưới sự<br />
giám sát các cán bộ tham gia nghiên cứu.<br />
<br />
Công cụ thu thập dữ liệu<br />
Bộ câu hỏi soạn sẵn.<br />
<br />
Xử lý và phân tích số liệu<br />
Nhập số liệu: Epidata 3.02. Phân tích số liệu<br />
bằng phần mềm Stata 8.0.<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
của Điều tra Quốc gia (90,9%) (theo Điều tra Liên<br />
trường SAVY)(2).<br />
Nghề nghiệp cha, nghề nghiệp mẹ: đa số học<br />
sinh có cha hoặc mẹ làm nghề nông dân, công<br />
nhân và buôn bán. Mô hình kinh tế chủ yếu của<br />
Long An, đặc biệt là Bến Lức chủ yếu là nông<br />
nghiệp. Vì thế kết quả của nghiên cứu được xem<br />
là hợp lý.<br />
Dựa vào những kết quả về đặc tính của mẫu<br />
nghiên cứu, hầu hết đều tương tự với đặc điểm<br />
của trường. Vì thế có thể nói mẫu của nghiên<br />
cứu (n=384) đại diện cho học sinh khối 10,11 và<br />
12 của trường<br />
<br />
Tỷ lệ uống rượu bia ở học sinh THPT<br />
<br />
Làm sạch số liệu: kiểm tra lại phiếu điều tra<br />
hợp lệ<br />
<br />
32.8%<br />
<br />
Thống kê mô tả: tần số và tỉ lệ<br />
<br />
67.2%<br />
<br />
không<br />
có<br />
<br />
Thống kê phân tích: kiểm định chi bình<br />
phương nhằm xác định mối quan hệ.<br />
<br />
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN<br />
Nhóm tuổi: tỷ lệ nhóm từ 16-17 tuổi chiếm<br />
nhiều nhất (54,7%). Việc phân nhóm tuổi như<br />
trên vì hầu hết thanh thiếu niên đã trải qua quá<br />
trình dậy thì ở độ tuổi 14-17, (theo Điều tra Liên<br />
trường SAVY)(2) là lứa tuổi đã có thể làm quen<br />
với môi trường xã hội. Và nhóm tuổi từ 18 trở<br />
lên là nhóm tuổi đủ trưởng thành để có thể uống<br />
rượu bia theo quy định của Pháp luật. Tuy<br />
nhiên, nếu đúng theo độ tuổi đi học trường<br />
THPT thì chỉ nằm trong độ tuổi từ 16-18 thôi.<br />
Như vậy, nhà trường vẫn còn một số đối tượng<br />
ở lại lớp, những đối tượng này cần được quan<br />
tâm chú ý, vì họ dễ dàng có thể bắt chước theo<br />
những thói quen xấu ảnh hưởng đến sức khỏe.<br />
Khối lớp: tỷ lệ phân bố đều giữa 3 khối lớp,<br />
tuy nhiên số lượng học sinh giảm một ít, có thể<br />
do học sinh nghỉ học hoặc ở lại lớp.(lớp 10:<br />
35,7%, lớp 11: 33,3%, lớp 12: 31%)<br />
Giới tính: tỷ lệ học sinh nam nhiều hơn học<br />
sinh nữ. (57,6% so với 42,4%)<br />
Hoàn cảnh gia đình: tỷ lệ học sinh sống<br />
chung với cha và mẹ chiếm nhiều nhất (89,6%),<br />
kết quả này cũng tương tự với báo cáo kết quả<br />
<br />
Hình 1: Tỷ lệ uống rượu, bia ở học sinh THPT Bán<br />
Công Bến Lức<br />
Theo kết quả của SAVY, cho biết có 34,9%(2)<br />
đối tượng trong độ tuổi 14-17 có uống rượu bia,<br />
đối tượng nghiên cứu trong nghiên cứu này<br />
cũng nằm trong độ tuổi trên, và kết quả tương<br />
ứng của nghiên cứu: tỷ lệ uống rượu bia ở học<br />
sinh THPT là 32,8%. Ngoài ra, trong kết quả<br />
Đánh giá tình hình lạm dụng rượu bia tại Việt<br />
Nam cho biết tỷ lệ uống rượu bia tại các địa bàn<br />
nghiên cứu là 33,5%(5).<br />
<br />
Lý do uống rượu bia lần đầu tiên và lần sau<br />
60<br />
50<br />
40<br />
<br />
lần đầu<br />
lần sau<br />
<br />
30<br />
20<br />
10<br />
0<br />
giao tiếp<br />
<br />
buồn,<br />
giải sầu<br />
<br />
giải trí<br />
<br />
ép uống bạn rủ rê chứng tỏ<br />
<br />
Hình 2: So sánh lý do giữa 2 lần uống rượu, bia: lần<br />
đầu và lần sau<br />
Cả 2 lý do chính của việc uống rượu, bia lần<br />
đầu cũng như lần sau đều là để giao tiếp. Kết<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008<br />
quả này khác với Đánh giá tình hình lạm dụng<br />
rượu, bia tại Việt Nam cho rằng: Lý do của việc<br />
sử dụng rượu, bia chủ yếu là do sự tác động của<br />
bạn bè và trạng thái hưng phấn của cá nhân<br />
người sử dụng(5). Có thể sự khác biệt này là do<br />
trong nghiên cứu này chỉ điều tra khảo sát đối<br />
tượng học sinh. Hơn thế nữa, theo Điều tra y tế<br />
quốc gia 2001-2002 cho biết: trình độ càng cao,<br />
vai trò của gia đình càng ít và vai trò của nơi làm<br />
việc càng nhiều(3). Điều này cho biết rằng ở<br />
những lớp cao hơn thì ảnh hưởng từ gia đình<br />
không lớn bằng từ bạn bè từ những giao tiếp xã<br />
hội bên ngoài.<br />
So sánh tỷ lệ uống rượu, bia lần đầu tiên và<br />
lần sau, do bị ép uống giảm 10,3% còn 6,3% so<br />
với lần sau. Còn giao tiếp, giải sầu, giải trí tăng<br />
lên. Điều này chứng tỏ rằng: lần đầu uống<br />
thường do tác động bên ngoài, còn lần sau uống<br />
do tự nguyện, tự lựa chọn của chính bản thân<br />
đối tượng.<br />
<br />
Đối tượng cùng uống và thời điểm uống<br />
rượu bia<br />
Đa số học sinh đều uống rượu bia với bạn<br />
bè (trong lớp cũng như ngoài lớp: 41,6% và<br />
44,9%). Theo kết quả của SAVY cho biết: nam<br />
thanh niên chịu, áp lực bạn bè là yếu tố tác<br />
động lớn nhất đến việc họ uống rượu bia, cao<br />
hơn cả so với việc hút thuốc lá, sử dụng ma<br />
túy, quan hệ tình dục và xem phim ảnh khiêu<br />
dâm(2). Có thể học sinh uống rượu bia để cùng<br />
nhập cuộc với những người khác, để được bạn<br />
bè công nhận và để thể hiện các hành vi người<br />
lớn như họ mong muốn. Chính vì thế cần phải<br />
chú ý đến cả áp lực bên ngoài cũng như bên<br />
trong khi muốn thực hiện các biện pháp<br />
truyền thông nhằm thay đổi hành vi(7).<br />
Dịp lễ tết (49,4%) là dịp mà đối tượng<br />
nghiên cứu thường uống rượu bia. Tập quán<br />
phổ biến ở Việt Nam là thường dùng rượu bia<br />
để ăn mừng các sự kiện hoặc các ngày lễ lớn<br />
trong năm. Vì vậy, phong tục tập quán và bối<br />
cảnh xã hội cũng góp phần tạo ra thói quen<br />
uống rượu bia trong thanh thiếu niên. Trong<br />
dịp hè, học sinh ở nhà với bố mẹ, bị bố mẹ<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
quản lý nên không được đi chơi nhiều, không<br />
tiếp xúc với bạn bè nhiều nên không uống<br />
rượu bia nhiều, chính vì thế, vào những dịp<br />
nghỉ hè, tỷ lệ uống rượu bia rất thấp (5,6%).<br />
<br />
Mức độ sử dụng rượu bia<br />
Tỷ lệ học sinh uống rượu bia không thường<br />
xuyên < 1 lần / tháng là 75,7%. Tỷ lệ này cao hơn<br />
so với Các yếu tố nguy cơ của các bệnh không<br />
lây do Viện Vệ Sinh Y Tế Công Cộng TPHCM<br />
thực hiện, với tỷ lệ là 33,3%(6). Sự khác biệt này là<br />
do đối tượng nghiên cứu của đề tài Các yếu tố<br />
nguy cơ của các bệnh không lây là những người<br />
>30 tuổi, ở lứa tuổi này có đủ nhận thức về việc<br />
làm của mình về việc uống rượu bia.<br />
Mỗi lần uống trung bình từ 4,48 ly chuẩn,<br />
và lần uống nhiều nhất trung bình 7,72 ly<br />
chuẩn. Theo tiêu chuẩn nhận biết nghiện<br />
rượu(4), với số lượng trên, học sinh ở Bến Lức<br />
uống nhiều rượu, bia.<br />
<br />
Thái độ và nhận thức của học sinh về uống<br />
rượu bia<br />
Đa số học sinh đều có thái độ đúng về hành<br />
vi uống rượu bia, họ cho rằng uống rượu bia là<br />
không tốt, và nếu uống rượu bia sẽ gây TNGT,<br />
và nhiều bệnh tật về sau (61,6% và 54%). Điều<br />
này có thể đánh giá tốt các hoạt động giáo dục<br />
và truyền thông của y tế địa phương và nhà<br />
trường. Đồng thời, cũng có thể do các học sinh<br />
đa số đều sống chung với cha và mẹ nên việc<br />
giáo dục, quản lý cũng nghiêm ngặt hơn.<br />
<br />
Các sự khác biệt giữa các yếu tố sau với<br />
uống rượu bia<br />
Bảng 1: Sự khác biệt giữa các yếu tố (giới tính, nghề<br />
nghiệp cha, thái độ với hành vi uống rượu, bia của<br />
người khác) với uống rượu bia<br />
Các đặc tính<br />
Tần số (n) %<br />
Nam<br />
98<br />
44,3<br />
Giới tính<br />
Nữ<br />
28<br />
17,2<br />
Nghề nghiệp cha<br />
Nông nhân, công nhân,<br />
73<br />
28,9<br />
buôn bán<br />
Nhân viên văn phòng<br />
12<br />
48,0<br />
Khác<br />
41<br />
38,7<br />
Thái độ đối với hành vi uống rượu, bia *<br />
<br />
χ2<br />
<br />
p<br />
<br />
31,4<br />
<br />
60%)(3). Kết quả trong nghiên cứu cũng<br />
đưa ra nhận xét tương tự, với tỷ lệ uống rượu<br />
bia ở nhóm nghề nhân viên văn phòng là 48%.<br />
Có thể do nhân viên văn phòng (nhà nước cũng<br />
như tư nhân) là những đối tượng có nhiều mối<br />
quan hệ nên việc giao tiếp qua những bữa tiệc có<br />
rượu bia phải chăng là chuyện bình thường, đặc<br />
biệt Bến Lức là nơi có thể dễ dàng mua rượu bia<br />
ở bất cứ đâu. Hơn thế nữa, xét về khía cạnh văn<br />
hóa, nữ uống rượu, bia ít hơn nam là do rào cản<br />
về văn hóa, xã hội. Xã hội có khuynh hướng<br />
chấp nhận hình ảnh nam giới uống rượu hơn nữ<br />
giới, và đánh giá thấp những phụ nữ uống rượu,<br />
bia. Điều này giải thích cho tỷ lệ uống rượu, bia<br />
ở nữ giới thấp<br />
<br />
Tỷ lệ uống rượu, bia là 32,8%. Và bắt đầu<br />
uống từ khi học cấp 3 (chiếm cao nhất 42,8%). Đa<br />
số học sinh đều trả lời lý do uống rượu, bia lần<br />
đầu cũng như lần sau là vì muốn giao tiếp. Họ<br />
thường xuyên uống với bạn bè (trong lớp cũng<br />
như ngoài lớp) vào những dịp như lễ tết. Tuy<br />
nhiên, họ vẫn còn là học sinh, vẫn còn được giáo<br />
dục và kiểm soát của nhà trường, nên đa số<br />
uống rượu, bia không thường xuyên (< 1 lần /<br />
tháng chiếm 75,7%). Nhưng mỗi lần uống trung<br />
bình từ 4,48 ly chuẩn, và lần uống nhiều nhất<br />
trung bình 7,72 ly chuẩn. Với số lượng này, học<br />
sinh hiện vẫn còn uống trong 12 tháng vừa qua<br />
được xếp vào loại uống nhiều rượu, bia.<br />
<br />
Thái độ đối với hành vi uống rượu bia của<br />
người khác: người có thái độ đối với hành vi<br />
uống rượu bia của người khác là vừa có lợi vừa<br />
có hại thì uống rượu bia nhiều nhất (chiếm<br />
50,8%), tiếp đến là đối tượng cho rằng uống<br />
rượu bia sẽ tốt. Có thể quan điểm của họ cho<br />
rằng: uống rượu bia là tốt. Nhưng khi được hỏi<br />
tiếp đến lợi ích của rượu bia, thì chỉ có 2 người<br />
trả lời rằng chỉ có ích khi uống ít, với số lượng<br />
vừa phải. Chính vì thế, tỷ lệ uống rượu bia ở đối<br />
tượng này cao cũng có thể lý giải được.<br />
<br />
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa giới<br />
tính, nghề nghiệp cha, thái độ về hành vi uống<br />
rượu, bia của người khác với uống rượu, bia. Cụ<br />
thể như sau: nam uống nhiều hơn nữ (44,3% so<br />
với 17,2%), học sinh có cha làm nhân viên văn<br />
phòng uống nhiều hơn các ngành nghề khác, và<br />
học sinh nào cho rằng uống rượu, bia là không<br />
tốt (28,5%) thì sẽ ít uống rượu, bia hơn những<br />
thái độ còn lại.<br />
<br />
Đa số học sinh đều cho rằng uống rượu, bia<br />
là không tốt. Và hậu quả của việc uống rượu, bia<br />
là sẽ gây TNGT và gây nhiều bệnh tật về sau.<br />
<br />