intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tinh thần Võ Văn Kiệt với báo chí Việt Nam

Chia sẻ: Cao Tt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

135
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tinh thần Võ Văn Kiệt với báo chí Việt Nam Gặp nhà báo, ông Võ Văn Kiệt thường đặt câu hỏi trước, lắng nghe, để thấu rõ dân tình qua một kênh thông tin từ người đọc, công dân, người đóng thuế. Gặp Võ Văn Kiệt, với nhà báo là cơ hội săn tin, khai thác các tầng sâu đằng sau các sự kiện, nói thẳng những gì còn lẩn khuất giữa những dòng chữ. Có lúc bất đồng, ông sẵn sàng tranh luận, tuyệt nhiên không bao giờ ông đối xử với nhà báo như cán bộ cấp thấp dưới...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tinh thần Võ Văn Kiệt với báo chí Việt Nam

  1. Tinh thần Võ Văn Kiệt với báo chí Việt Nam Gặp nhà báo, ông Võ Văn Kiệt thường đặt câu hỏi trước, lắng nghe, để thấu rõ dân tình qua một kênh thông tin từ người đọc, công dân, người đóng thuế. Gặp Võ Văn Kiệt, với nhà báo là cơ hội săn tin, khai thác các tầng sâu đằng sau các sự kiện, nói thẳng những gì còn lẩn khuất giữa những dòng chữ. Có lúc bất đồng, ông sẵn sàng tranh luận, tuyệt nhiên không bao giờ ông đối xử với nhà báo như cán bộ cấp thấp dưới quyền, nên không bao giờ áp đặt hay cán thuốc. Chính phủ thời ông Võ Văn Kiệt là chính phủ đầu tiên xác định: "Báo chí là một kênh thông tin rất quan trọng, không thể thiếu đối với người lãnh đạo và điều hành việc nước” . Tháng 9-1975, báo Tuổi Trẻ ra đời ở TP.HCM thì báo Sài Gòn Giải Phóng đã phát hành đến số thứ 120, với 90.000 bản mỗi ngày. Báo Công Nhân Giải Phóng 25.000 bản, Phụ Nữ 25.000 bản. Phát hành sau gần 5 năm, Tuổi Trẻ cũng chỉ là một nội san với số lượng phát hành không quá 10.000 bản một tuần. (Bây giờ là hơn 450.000 bản mỗi ngày).
  2. Tháng 4-1980, ông Võ Văn Kiệt hỏi: “Vì sao trước 1975 ai làm báo cũng giàu, bây giờ năm nào báo chí cũng ngửa tay xin tiền, xin giấy, cho đồng nào xài hết đồng ấy?”. Liệu còn có cách nào để tự lập không? Và rồi chính ông đã ra quyết định: từng bước cắt tài trợ ngân sách, trả cho báo chí quyền tự chủ và sống nhờ vào sự chi trả của người đọc. Tháng 5-1981. Khi thị trường còn là điều cấm kỵ, nền kinh tế bị trói chết trong cơ chế tập trung và chế độ bao cấp hoang phí, ông Võ Văn Kiệt đến từng nhà máy loay hoay tiến hành những cuộc thể nghiệm không có tiền lệ và ngoài vòng luật pháp hiện hành. Các doanh nghiệp mới dám nói đến chuyện hai kế hoạch, ba lợi ích, thì đã có ngay lời bàn xỉa xói “bít lợi A”. Ông kéo nhà báo đến nhà máy trò chuyện với công nhân, làm việc với các nhà khoa học, chuyên gia kinh tế tài chính, ngân hàng, với các nhà quản trị kinh doanh từng trải trong thị trường... Ông đứng sau lưng các giám đốc dám đánh đổi tất cả để sản xuất bung ra. Lúc đó, giới thạo tin nói rằng: Người Sài Gòn có thừa kinh nghiệm trong kinh tế thị trường đã cứu lấy Đảng bộ của mình, nhưng trong dư luận xã hội thì lại kháo nhau: “Ông Sáu Dân chịu chơi, dám bứt phá, mở đường”.
  3. Nhiều tờ báo đã dám sống và biết cách bước qua những rào cản bịt bùng của đêm trước đổi mới, đồng cảm với ông Võ Văn Kiệt - dám bước qua rào cản của những điều cấm kỵ, trật tự lỗi thời, từng bước giành lại quyền của người đọc trên từng trang báo, kể cả việc xoay trở điều hành tờ báo như một công ty trong cái vỏ của một cơ quan hành chính có thu (trong cái khung quản lý không khác gì khuôn mẫu của những năm đầu thập niên 1980). Thôi làm thủ tướng, ông có nhiều thời gian để chia sẻ với nhà báo những chuyện sâu kín của một chính khách, những sự thật cần cho tương lai. Ngày 30-4- 2005, ông kể: “Sau ngày 30-4-1975, khi giữ cương vị bí thư Thành ủy TP.HCM, tôi có dịp trò chuyện với cố đức tổng giám mục Nguyễn Văn Bình. Một lần, cùng cố tổng giám mục đến thăm các cháu thiếu nhi vui chơi trong vườn Tao Đàn, tôi nói với cụ: “Nhìn những cháu bé đang chơi với nhau ấy, làm sao có thể phân biệt được cháu nào có đạo, cháu nào không, cháu nào là “con quốc gia”, cháu nào là con cộng sản?". Cố tổng giám mục Nguyễn Văn Bình nhất trí với tôi: “Chỉ người lớn mới phải chịu trách nhiệm về những sự phân biệt đó”. “Giá như đổi mới sớm hơn”, đọc sử cho tương lai, ông dẫn người nghe vào nỗi đau
  4. riêng của một người từng trải ở chính trường: không giáo điều, không duy ý chí, không đố kỵ thì đâu có phải trả giá đắt như giai đoạn 1975 - 1985". Trả lời phỏng vấn báo Quốc Tế (Bộ Ngoại giao), ông Võ Văn Kiệt nói: Sau 30 năm, một sự kiện liên quan đến chiến tranh “ khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì tiếp tục làm nó thêm rỉ máu” . Với những người từng đưa quân đến xâm lược và đánh thuê trên đất nước ta, chúng ta còn khép lại quá khứ, đưa tay kết bạn huống chi là người nước mình”… Về đối nội, theo tôi, đã đến lúc ta phải nhìn nhận công lao, sự đóng góp to lớn của các tầng lớp người Việt yêu nước từng sống trong lòng chế độ cũ, hiện ở trong nước hay ở bên ngoài. Bản thân tôi cùng với anh em được giao tiếp quản Sài Gòn năm 1975, một Sài Gòn nguyên vẹn sau một cuộc chiến tranh như vậy, tôi nghĩ không thể không nói đến vai trò của nội các Dương Văn Minh và các lực lượng chính trị đối lập với Mỹ - Thiệu, có quan hệ với chính phủ Dương Văn Minh lúc bấy giờ”. Trên báo Lao Động: “Phải thông hiểu sâu sắc truyền thống của dân tộc VN, lòng yêu nước thương nòi trong mỗi trái tim người VN, cho dù sự biểu hiện có thể
  5. rất khác nhau với nhiều hoàn cảnh không giống nhau, thì mới đánh giá đúng sự kiện 30-4-1975… Chúng ta cần ôn lại để tự soi sáng cho mình trong những bước đi sắp tới… Không có một tình huống nào mà không có lối ra. Chỉ cần chúng ta biết thật sự cầu thị, dám vượt qua chính mình, chân thành lắng nghe và trân trọng tiếp thu những tiếng nói trung thực của mọi người VN vốn nặng lòng với đất nước, mở rộng dân chủ để mọi sáng kiến, mọi kế sách tâm huyết đến được với những nơi cần đến, nhất định sự nghiệp của chúng ta sẽ giành được thắng lợi”. Là người luôn có những ý tưởng đột phá, ông có cái thế mạnh của người trong cuộc, trong tổ chức, trăn trở, động não khi bị buộc phải khép mình chờ đợi, nhưng xuyên suốt vẫn là khả năng vượt qua chính mình, vượt ra khỏi cái trật tự lỗ̉i thời, ông thường gọi là “vật cản” để có được những quyết định cải cách. Bị ngộp trong không gian hẹp của những giáo điều cấm kỵ, ông tìm niềm vui sống khi tự đặt mình, đúng hơn là tìm đến với những nơi, những người có thể đặt lên bàn những cuộc tranh luận những sự kiện mới, những ý tưởng mới, những chọn lựa khác mình.
  6. Ông sợ nhất là bệ̣nh giáo điều, xa dân, xa thực tế và quay lưng với sự thật, lãnh ̣ cảm với con người và những phát kiến đổi thay. Người có lòng tốt, thông tuệ tìm đến ông, trao không cho ông cái túi khôn của thiên hạ, với nhiều kỳ vọng… Ông có nhiều bạn, nhiều cộng sự, nhiều cố vấn có tầm giải quyết những vấn đề quốc gia trong đời sống toàn cầu. Ông “giàu vì bạn” và mang “nợ kỳ vọng” của nhiều người. Đó là những gì ông Võ Văn Kiệt đã gử̉i lại cho các nhà báo Việt Nam, gử̉i lại cho những trang báo của ngày mai. Ý kiến của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt về nạn bằng cấp giả Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã từng gửi thư tới Thường trực Chính phủ bày tỏ lo lắng trước thực tế không ít cán bộ có bằng cấp, học vị, học hàm "không thực chất". Nội dung có đoạn như sau: "Vấn đề bằng cấp giả, bằng cấp không thực chất đã được đề cập trong nhiều dịp và công luận cũng rất quan tâm nhưng hầu như không giảm và trở thành như một thứ tệ nạn, thể hiện sự thiếu trung thực của người cấp và người được cấp bằng.
  7. Tôi xin đề nghị, ngoài việc cần tiếp tục phát hiện, xử lý trong xã hội, cần đặc biệt chú ý rà soát rất kỹ và xử lý thật nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên sử dụng văn bằng giả hoặc tìm cách để có các văn bằng không thực chất để được bố trí vào các vị trí công tác quan trọng hơn. Những đối tượng đó không đủ phẩm chất đạo đức của người Đảng viên, của công chức nhà nước. Thực tế có không ít trường hợp cán bộ có chức vụ học tại chức rất hình thức, không tới nơi tới chốn mà vẫn được cấp bằng. Có người không có bằng phổ thông (hoặc có bằng kiểu bổ túc qua loa) mà “học” được mấy bằng đại học, thậm chí bằng thạc sĩ, tiến sĩ… Hiện tượng “mua điểm, mua bằng” không phải là hiếm. Tôi biết một số trường hợp và rất ngạc nhiên khi thấy họ được chuyển công tác, được đề bạt… sau khi có bằng này, bằng khác. Tôi chắc các đồng chí cũng biết không ít trường hợp tương tự. Vấn đề phong Phó Giáo sư, Giáo sư cũng có phần không kém. Số này tuy diện hẹp hơn nhưng liên quan tới những vị trí công tác quan trọng hơn (cán bộ trung,
  8. thậm chí cao cấp). Có người hầu như không tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học thực sự nhưng cũng bằng đủ cách để được phong học hàm. Cá biệt, có trường hợp vận động để được một Viện nghiên cứu ở nước ngoài phong làm Viện sĩ để rồi khuếch trương, cố ý “đánh đồng” với những nhà khoa học tên tuổi được các Viện Hàn lâm quốc gia có uy tín trên thế giới bầu là Viện sĩ. Tình trạng tốt xấu lẫn lộn đó làm mất ý nghĩa, giá trị của những bằng cấp, học vị, học hàm chân thực và làm những nhà khoa học, nhà giáo có trình độ, có phẩm chất rất băn khoăn. Tôi thấy vấn đề rất đáng lo ngại và nếu chúng ta không có giải pháp chấn chỉnh đủ mạnh thì sẽ để lại những tai hại to lớn, lâu dài".
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2