intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông 2018

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

101
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung phân tích thực trạng việc tổ chức hoạt động trải nghiệm trong môn học lịch sử tại Trung tâm giáo dục thường xuyên, từ đó đề xuất các biện pháp để tổ chức hiệu quả hoạt động trải nghiệm nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông 2018

  1. HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0049 Educational Sciences, 2020, Volume 65, Issue 4C, pp. 286-295 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở CÁC TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN ĐÁP ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 2018 Nguyễn Thị Bích Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội : Tóm tắt. Hoạt động trải nghiệm được coi là một cấu phần quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam 2018, được thiết kế từ cấp Tiểu học đến Trung học phổ thông. Là môn học bắt buộc, hoạt động trải nghiệm xác định mục tiêu nhằm hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kĩ năng sống và những năng lực chung cần có ở con người trong xã hội hiện đại. Nội dung hoạt động trải nghiệm được thiết kế theo hướng tích hợp, hình thức và phương pháp tổ chức đa dạng, linh hoạt. Ở từng môn học, hoạt động trải nghiệm cũng được đặc biệt quan tâm. Giáo dục thường xuyên là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, cùng thực hiện một chương trình trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Tuy nhiên, các Trung tâm giáo dục thường xuyên có đối tượng học sinh, điều kiện dạy học với nhiều điểm khác biệt nên việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sẽ có những thuận lợi và khó khăn nhất định. Cách thức tiến hành hoạt động trải nghiệm cũng cần phải được tổ chức một cách linh hoạt để phù hợp với thực tiễn mang tính đặc thù. Bài viết tập trung phân tích thực trạng việc tổ chức hoạt động trải nghiệm trong môn học lịch sử tại Trung tâm giáo dục thường xuyên, từ đó đề xuất các biện pháp để tổ chức hiệu quả hoạt động trải nghiệm nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. Từ khóa: hoạt động trải nghiệm, tổ chức, dạy học lịch sử, học sinh, Trung tâm giáo dục thường xuyên. 1. Mở đầu John Dewey (1859-1952) - nhà lí luận giáo dục có ảnh hưởng nhất của thế kỉ XX cho rằng nhà trường có nhiệm vụ chuẩn bị những điều kiện cho trẻ em tự mình tạo dựng kiến thức cho chính mình bằng các công cụ của chúng như đôi mắt, đôi tai, đôi tay, đôi chân, đặc biệt là tư duy. Trẻ em cần được phát triển hết khả năng, sẵn sàng sử dụng mọi công cụ của chúng, đó chính là sự chuẩn bị đích thực cho cuộc sống tương lai. Với cách nhìn như vậy, John Dewey đã đưa ra triết lí: “Việc học của trẻ em phải đi từ trải nghiệm của chúng. Trải nghiệm vừa là nội dung vừa là phương pháp… Không có nội dung hoặc giá trị giáo dục hoặc giá trị bản thân mang tính tuyệt đối, bất biến được áp đặt từ bên ngoài cho trẻ em. Mọi thứ đều phải do từng cá nhân trẻ em tự mình tìm ra. Khi trẻ em tự mình trải nghiệm thì chúng mới tìm ra được giá trị của điều chúng trải nghiệm” [1, tr.16]. Triết lí của John Dewey, tập trung vào ba vấn đề: i. Hoạt động trải nghiêm (HĐTN) là cần thiết và việc học của học sinh (HS) nên bắt đầu từ HĐTN; ii. Trải nghiệm vừa được xem là nội dung học tập vừa là phương pháp dạy học (PPDH) trong nhà trường phổ thông; iii. Tham gia vào HĐTN, HS khẳng định được năng lực và giá trị của chúng. Triết lí của John Dewey đã có ảnh rất lớn đến những nghiên cứu sau này của các nhà giáo dục về HĐTN. Ngày nhận bài: 2/3/2020. Ngày sửa bài: 18/3/2020. Ngày nhận đăng: 25/3/2020. Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Bích. Địa chỉ e-mail: bichnt@hnue.edu.vn 286
  2. Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên... Nghiên cứu về vai trò của HĐTN, Kurt Lewin [2] cho rằng học tập tốt nhất là được đặt trong môi trường, ở đó kinh nghiệm của cá nhân là thành phần quan trọng để trải nghiệm. Carl Rogers [3] phân tích: kiến thức chỉ có ý nghĩa khi nó được vận dụng vào thực tiễn, vai trò của học tập qua trải nghiệm là rất quan trọng hướng tới cung cấp nhiều cơ hội cho HS tương tác với các đối tượng học tập, với môi trường học tập. Học tập trải nghiệm tạo điều kiện cho cá nhân tham gia, được đánh giá bởi người học, tạo các hiệu ứng rộng rãi đến người học. Susan Hart [4] đưa ra một cách tiếp cận mới đầy thách thức để tăng cường học tập của trẻ em thông qua một quá trình phản ánh được gọi là “tư duy đổi mới” để xem xét và phản ánh các trải nghiệm trong lớp học. Marjorie Schiering [5] cho rằng HS thường thích cách học tập thông qua các hoạt động mang tính tương tác, người dạy nên tập trung vào thiết kế các hoạt động vui nhộn để HS tham gia vào quá trình tương tác với bạn bè, với giáo viên (GV). Sự cần thiết phải tổ chức cho HS tham gia vào các HĐTN trở thành quan điểm được đưa vào trong triết lí cải cách giáo dục của nhiều quốc gia. Tại Trung Quốc, Lữ Đạt, Chu Mãn Sinh trong 4 tập sách xuất bản [6] đã nêu ra quan điểm và kinh nghiệm quan trọng cho giáo dục ở các nước, trong đó đưa ra yêu cầu GV cần để HS tham gia tích cực vào quá trình học tập, cần sử dụng nhiều biện pháp học tập gắn liền với thực tế. Đề cập đến các hình thức HĐTN, các nhà giáo dục Mĩ đã xuất bản bộ sách được nhà xuất bản Giáo dục dịch Việt Nam dịch năm 2011, gồm 4 cuốn: 1. “Các phương pháp dạy học hiệu quả” [7]; 2. “Những phẩm chất của người giáo viên hiệu quả” [8]; 3. “Tám đổi mới để trở thành người giáo viên giỏi” [9]; 4. “Nghệ thuật và khoa học dạy học” [10] chỉ ra HĐTN được thực hiện thông qua các hoạt động thực hành, thực tế và nâng lên thành lí thuyết học tập trải nghiệm nhằm phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Lí thuyết học tập dựa vào trải nghiệm (Experiential Learning Theory - ELT) được David Kolb giới thiệu [11] cung cấp một mô hình học tập dựa vào trải nghiệm để ứng dụng trong trường học, các tổ chức kinh tế và hầu như bất cứ nơi nào con người được tập hợp với nhau. Mô hình này là một vòng tròn khép kín gồm 4 giai đoạn: a. Kinh nghiệm cụ thể; b. Quan sát, đối chiếu và phản hồi; c. Hình thành khái niệm trừu tượng; d. Thử nghiệm trong tình huống mới, cho thấy HĐTN là một phần quan trọng đối với sự hình thành bất kì một giá trị nào của người học. Nó là sự tương tác giữa kiến thức mới hoặc kinh nghiệm mới và kinh nghiệm đã có của người trải nghiệm. Ở Việt Nam, khi triển khai đổi mới giáo dục theo Nghị quyết 29/NQTW, HĐTN đã trở thành một môn học bắt buộc trong Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới 2018. Từ đây các nghiên cứu về HĐTN đã được nhiều tác giả quan tâm. Phan Trọng Ngọ (2016) đã đi sâu nghiên cứu về học tập trải nghiệm trong GDPT và trong đào tạo năng lực nghề cho sinh viên Đại học sư phạm [12]; Nguyễn Hoàng Đoan Huy (2016) đã có những nghiên cứu mới về “Vận dụng lí thuyết học tập trải nghiệm trong phát triển chuyên môn nghiệp vụ cho GV- bài học kinh nghiệm từ Ailen”[13] và “Định hướng vận dụng lí thuyết học tập trải nghiệm vào dạy học các môn khoa học tự nhiên ở trường THCS”[14]; Nguyễn Thị Hằng (2017) làm rõ lí thuyết học tập trải nghiệm và định hướng vận dụng vào tổ chức HĐTN sáng tạo [15]; Nguyễn Thanh Bình (2017) đi vào nghiên cứu những yêu cầu trong thiết kế, tổ chức hoạt động giáo dục trải nghiêm [16]; Dương Dáng Thiên Hương (2017) [17], Nguyễn Thị Kim Dung và Trần Thị Tuyết Mai (2017) [18] cũng có những bài viết xoay quanh chủ đề tổ chức HĐTN. Trong dạy học lịch sử (DHLS) ở trường phổ thông Việt Nam, từ bộ giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” của các tác giả Hoàng Triều, Hoàng Trọng Hanh, Lê Khắc Nhãn [19] cho đến những bộ giáo trình sau này tuy không dùng khái niệm HĐTN, nhưng đã khẳng định được tinh thần và cốt lõi của việc tổ chức các HĐTN: “thực tiễn cuộc sống là một nguồn nhận thức lịch sử, do đó, tổ chức cho học sinh thâm nhập thực tế xã hội không chỉ thực hiện nguyên lý giáo dục của Đảng về gắn nhà trường với đời sống mà còn là một phương thức để nâng cao chất lượng giáo dục” [20, tr.103]. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu chuyên khảo về hình thức tổ chức dạy học cũng đưa ra quan điểm DHLS phải gắn bó, phục vụ trực tiếp cho cuộc sống thông qua việc tăng cường các hoạt động tham quan, ngoại khóa, công tác công ích xã hội “tham gia 287
  3. Nguyễn Thị Bích công tác công tác công ích xã hội là một biện pháp quan trọng gắn lịch sử với cuộc sống” [21, tr.103]. Nhóm tác giả Tưởng Duy Hải, Hồ Thị Hương, Nguyễn Hồng Liên, Phạm Quỳnh [22] đã trình bày cụ thể nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức HĐTN trong môn học lịch sử để phát triển năng lực HS. Điểm lại những nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu về HĐTN và tổ chức các HĐTN trong dạy học nói chung, DHLS nói riêng đã có nhiều tác giả và công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, việc tổ chức HĐTN trong DHLS ở các TTGDTX thì chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu. Cho nên, đây là vấn đề mới và cần được quan tâm nghiên cứu để vận dụng tổ chức các HĐTN trong DHLS tại các TTGDTX được tốt hơn. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Hoạt động trải nghiệm và vai trò, ý nghĩa của nó trong dạy học lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên Thuật ngữ “hoạt động trải nghiệm” xuất hiện lần đầu tiên ở Việt Nam trong bản “Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể sau năm 2015” của Bộ giáo dục và đào tạo. Đinh Thị Kim Thoa [23] phân biệt thuật ngữ học đi đôi với hành, học thông qua làm và học từ trải nghiệm sáng tạo trong trường học từ nghiên cứu mô hình và chu trình học từ trải nghiệm của David Kolb. Tác giả đưa ra quan điểm rằng để phát triển sự hiểu biết khoa học, chúng ta có thể tác động vào nhận thức của người học nhưng để phát triển và hình thành năng lực, phẩm chất thì người học phải trải nghiệm… Chương trình GDPT Việt Nam 2018 đã giải thích rõ:“HĐTN là HS dựa trên sự huy động tổng hợp kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực giáo dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình, xã hội, tham gia hoạt động hướng nghiệp và hoạt động phục vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn tổ chức của nhà giáo dục, qua đó hình thành những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và một số năng lực thành phần đặc thù của hoạt động này như: năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động, năng lực định hướng nghề nghiệp, năng lực thích ứng với hoạt động, năng lực định hướng nghề nghiệp, năng lực thích ứng với những biến động trong cuộc sống và những kĩ năng sống khác” [24, tr.28]. Từ quan niệm này, chúng tôi cho rằng: “tổ chức HĐTN cho HS trong DHLS là quá trình GV định hướng nhiệm vụ, gợi ý cách thức hoạt động cho HS, điều hành các hoạt động ấy bằng các PPDH tích cực, HS thực sự trải nghiệm để đạt được mục tiêu, hình thành các phẩm chất và năng lực học tập lịch sử”. Trong DHLS, nguyên lí “học phải đi đôi với hành” luôn phát huy vai trò chủ thể trong nhận thức của HS, khắc phục cách học giáo điều, nhồi sọ. Tổ chức hoạt động học cho HS thông qua trải nghiệm mang lại cho người học nhiều lợi ích. Tổ chức UNESCO tại Hội nghị thượng đỉnh Liên hiệp quốc về Phát triển bền vững năm 2020 với chủ đề “Dạy và học vì một tương lai bền vững” đã nhấn mạnh “giáo dục trải nghiệm” xem nó như là một triển vọng tương lai tươi sáng cho giáo dục toàn cầu trong các thập kỉ tới, trong đó có Việt Nam. Vậy tổ chức HĐTN trong môn học lịch sử mang lại cho HS lợi ích gì?. Tổ chức HĐTN có vị trí đặc biệt trong Chương trình GDPT mới, có vai trò, ý nghĩa quan trọng đối với cả GV và HS. Trong DHLS, tổ chức tốt HĐTN là môi trường để GV và HS đều thể hiện đúng năng lực của mình. Đối với HS, học tập chính là quá trình mà trong đó kiến thức được tạo ra thông qua việc chuyển đổi kinh nghiệm, trải nghiệm. HS không tiếp thu kiến thức của mình chỉ từ các GV mà thay vào đó, người học thông qua quá trình trải nghiệm dựa trên các kinh nghiệm hiện có của bản thân để thu nhận thông tin mới trong môi trường học tập thực tiễn và kiểm tra nó lại bằng kinh nghiệm của mình. Học tập trải nghiệm vì thế là con đường để HS hoàn thiện năng lực của bản thân. Cho nên, GV cần sử dụng nhiều các hình thức trải nghiệm để đáp ứng sự đa dạng về trí tuệ của HS. Thông qua trải nghiệm được “làm” những tri thức HS tiếp nhận vững chắc hơn và việc học tập của HS như vậy là sự tự nguyện, hứng thú, hiệu quả học tập đạt được cũng như phẩm chất, năng lực của bản thân được khẳng định. 288
  4. Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên... Đối với GD thường xuyên, Luật Giáo dục 2009 xác định GD thường xuyên là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, tồn tại song song cùng với giáo dục chính qui, nhằm cung cấp cho con người cơ hội được học tập thường xuyên ở bất kì thời điểm nào để củng cố tri thức, tạo điều kiện cho con người được học tập. Giáo dục thường xuyên cùng thực hiện một chương trình trong Chương trình GDPT Việt Nam 2018, trong đó HĐTN được coi là một hoạt động quan trọng trong dạy học các môn học. Việc tăng cường các HĐTN trong DHLS không chỉ giúp cho người học thêm hứng thú, được quan sát, làm việc trực tiếp với các sự kiện, hiện tượng lịch sử bằng các hoạt động thực tiễn mang tính tập thể mà còn gắn kết kiến thức với đời sống xã hội và với hoạt động nghề nghiệp trong tương lai của họ. 2.2. Thực trạng tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên HĐTN trong Chương trình GDPT Việt Nam 2018 có thời lượng 105 tiết cho mỗi cấp học: “ở cấp Tiểu học gọi là HĐTN; Ở cấp Trung học (gồm THCS và THPT) được gọi là HĐTN, hướng nghiệp) nhằm phát triển những phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi của HS, được triển khai theo 4 mạch nội dung hoạt động chính: hoạt động Hướng vào bản thân; Hướng đến xã hội; Hướng đến tự nhiên và Hướng nghiệp. Nội dung của HĐTN và HĐTN, hướng nghiệp chia theo 2 giai đoạn là giáo dục cơ bản và giáo dục định hướng nghề nghiệp” [25, tr 31]. Căn cứ vào Chương trình, các nhà giáo dục sẽ thiết kế nội dung/chủ đề HĐTN và HĐTN, hướng nghiệp phù hợp với đối tượng HS ở từng cấp học. Tuy nhiên, để chuẩn bị cho việc thực hiện Chương trình GDPT Việt Nam 2018 (bắt đầu từ năm 2020), những năm qua dựa vào Chương trình GDPT hiện hành, GV các TTGDTX đã tổ chức HĐTN trong môn học. Thực trạng việc tổ chức HĐTN trong DHLS tại các TTGDTX hiện nay như thế nào?, có bất cập, khó khăn gì? Vấn đề nào được rút ra để thực hiện tốt hoạt động này trong Chương trình GDPT Việt Nam 2018?. Để tìm hiểu vấn đề, chúng tôi đã tiến hành điều tra khảo sát 97 GV của 63 tỉnh thành trong cả nước đại diện cho 3 miền Bắc - Trung - Nam trong đợt tập huấn GV cốt cán TTGDTX về dạy học chủ đề thông qua HĐTN do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì [26]. GV cốt cán tham dự lớp tập huấn đều tốt nghiệp Đại học, có thâm niên công tác ít nhất là 5 năm trở lên. Nội dung và kết quả khảo sát được thể hiện trong các bảng dưới đây: * Quan niệm của GV về hoạt động trải nghiệm trong dạy học lịch sử ở các TTGDTX Bảng 1. Quan niệm về hoạt động trải nghiệm trong dạy học lịch sử (Đơn vị:%) Mức độ nhận thức Stt Quan niệm về hoạt động trải nghiệm (n = 97) 1 là hoạt động kết hợp giữa việc học tập và vui chơi, giải trí. 57 là hoạt động ngoại khóa tham quan, giao lưu với nhân chứng, tổ 2 67 chức các hội thi. là hình thức dạy học thực hành, tạo điều kiện cho HS vận dụng 3 kiến thức, kinh nghiệm của bản thân vào giải quyết các vấn đề 8 trong thực tiễn bằng trí tuệ và cảm xúc cá nhân. là hình thức dạy học thực hành được tổ chức trong giờ nội khóa/ngoại khóa giúp HS vận dụng vốn kiến thức để giải quyết 4 27 các vấn đề thực tiễn phù hợp với nội dung môn học nhằm phát triển các phẩm chất, năng lực của bản thân. 5 Ý kiến khác 4 (4,1%) Quan niệm về HĐTN có sự phân hóa, nhiều GV chọn hai đáp án, nhầm lẫn gắn HĐTN với 1. kết hợp việc học tập với vui chơi, giải trí (58,7%), 2. hoạt động tham quan (69%), 3. hình thức dạy học thực hành, tạo điều kiện cho HS vận dụng kiến thức, kinh nghiệm của bản thân vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn bằng trí tuệ và cảm xúc cá nhân (8,2%), 4. nhận thức 289
  5. Nguyễn Thị Bích đầy đủ về HĐTN (27%), 5. có ý kiến khác là tất cả các quan niệm trên (4,1%). Như vậy, quan niệm của GV về HĐTN đang là vấn đề đáng lo ngại và cần phải bồi dưỡng để GV có nhận thức đầy đủ về hoạt động này. * Về mức độ tổ chức hoạt động trải nghiệm trong Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành Bảng 2. Mức độ tổ chức hoạt động trải nghiệm lịch sử trong chương trình hiện hành (Đơn vị: %) Mức độ sử dụng Stt Hoạt động học tập lịch sử (n = 97) 1 2 3 4 5 1 Hỏi-đáp 0 2 Xem băng hình, phim tư liệu 0 3 Đọc sách giáo khoa, tài liệu 0 4 Bài tập về nhà 0 5 Trao đổi - thảo luận 21 6 Đóng vai lịch sử 76 7 Kể chuyện lịch sử 34 8 Trò chơi lịch sử 6 9 Đóng kịch lịch sử 37 10 Tham quan học tập tại các di tích, bảo tàng lịch sử… 87 11 Gặp gỡ nhân chứng, nói chuyện lịch sử 5 12 Hoạt động sinh hoạt câu lạc bộ lịch sử 3 13 Tham gia các cuộc thi, hội thi 28 14 Dạ hội lịch sử 0 15 Các hoạt động công ích xã hội 18 (Các số từ 1 đến 5: 1 Chưa bao giờ, 2 Hiếm khi, 3 Thỉnh thoảng, 4 Thường xuyên, 5 Rất thường xuyên; chiều từ 1 đến 5 diễn tả mức độ hứng thú tăng dần) Tham quan học tập tại các di tích, bảo tàng lịch sử là HĐTN được các TTGDTX thực hiện nhiều nhất (89,6%); tiếp đó là đóng vai (78,3%); đóng kịch lịch sử (38,1%); Kể chuyện lịch sử (35%); Tham gia các cuộc thi, hội thi (28,8%); Trao đổi, thảo luận (21,6%); Các hoạt động công ích xã hội (18,5%); ngoài ra là các hoạt động học tập lịch sử khác có thể tổ chức HĐTN cho HS nhưng số lượng giáo viên lựa chọn rất ít…Như vậy, GV ở các TTGDTX của nhiều tỉnh, thành phố đều xây dựng kế hoạch ít nhất mỗi năm một lần tổ chức các HĐTN bên ngoài lớp học dưới nhiều hình thức: tổ chức các cuộc thi, hội thi, tọa đàm với nhân chứng tại nhà văn hóa huyện, tỉnh, tổ chức tham quan kết hợp làm hướng dẫn viên du lịch tại các di tích… trong đó, tham quan là HĐTN được tổ chức nhiều nhất song hoạt động tham quan này mang tính chất là một hoạt động giáo dục chung của nhà trường hàng năm, nội dung chưa thực sự là HĐTN môn học lịch sử. * Nhận thức về hoạt động trải nghiệm trong Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành và Chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam 2018 Bảng 3. Điểm giống và khác nhau về nhận thức hoạt động trải nghiệm môn Lịch sử 290
  6. Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên... trong Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành và Chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam 2018 (Đơn vị:%) Phương án chọn Stt Tiêu chí (n = 97) Giống Khác 1 Gắn học đi đôi với thực hành 97 2 Tạo hứng thú học tập lịch sử cho HS 97 3 Là hoạt động giáo dục bắt buộc 8 4 Là hoạt động giáo dục tự nguyện 43 5 Cần tổ chức thường xuyên 35 6 Thỉnh thoảng một kì hoặc 1 năm học tổ chức 1 lần 97 7 Chỉ tổ chức trên lớp 7 8 Chỉ tổ chức ngoài giờ lên lớp 97 9 Tổ chức cả trên lớp và ngoài giờ lên lớp 74 GV nhận thức đúng (100%) về vai trò của HĐTN là gắn học đi đôi với hành, tạo hứng thú học tập cho HS. Tuy nhiên, nhiều GV chưa nhận thức đúng bản chất của HĐTN: 43,2% cho rằng trong Chương trình hiện hành HĐTN là hoạt động giáo dục tự nguyện, 35,1% cho rằng phải tổ chức thường xuyên. Có 74,5% GV đã nhận thức đúng HĐTN cần tổ chức cả trên lớp và ngoài giờ lên lớp. Một số ít GV nhầm lẫn HĐTN là hoạt động giáo dục bắt buộc và chỉ tổ chức ở trên lớp. * Về hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm trong Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành Bảng 4. Hình thức hoạt động trải nghiệm môn Lịch sử trong Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành (Đơn vị:%) Stt Hình thức hoạt động trải nghiệm Mức độ nhận thức (n = 97) 01 tổ chức cho học sinh tham quan 57 02 HS tham gia hoạt động trên lớp 8 03 tổ chức các hoạt động ngoại khóa 23 04 hướng dẫn tự học, tự lĩnh hội kiến thức 9 Nhận thức về hình thức tổ chức HĐTN của GV theo các tỉ lệ 1: 58%; 2: 8%; 3: 23%; 4: 9%. Số liệu phản ánh đa GV đang nhận thức chưa đầy đủ về hình thức tổ chứ HĐTN. Cụ thể, đa số GV chỉ xem tham quan, ngoại khóa là HĐTN. Chỉ một số ít GV cho rằng hoạt động học tập ở trên lớp như HS tham gia vào các hoạt động học tập, hướng dẫn tự học, tự lĩnh hội kiến thức cũng là một hình thức tổ chức HĐTN. * Một số thuận lợi, khó khăn khi tổ chức hoạt động trải nghiệm ở các trung tâm giáo dục thường xuyên Kết quả điều tra (qua Bảng 5) cho thấy, thuận lợi của GV trong tổ chức HĐTN cho HS ở các TTGDTX tập trung ở: Sự tự nguyện tham gia của HS; Hứng thú, tích cực của HS; Việc đảm bảo mục tiêu dạy học và hiệu quả giáo dục. Sự quan tâm, đôn đốc của lãnh đạo nhà trường chiếm 43,5% và sự ủng hộ của phụ huynh chiếm 36%. Khó khăn để tổ chức HĐTN thường lớn hơn, đứng đầu là kinh phí phục vụ cho việc tổ chức HĐTN chiếm 95,8%; Năng lực tổ chức của GV 46,4%; Điều kiện tổ chức các hoạt động học tập trải nghiệm: cơ sở vật chất, địa điểm trải nghiệm chiếm 43,2%. 291
  7. Nguyễn Thị Bích Bảng 5. Thuận lợi, khó khăn khi tổ chức các hoạt động trải nghiệm ở các trung tâm giáo dục thường xuyên (Đơn vị:%) Phương án chọn (n = 97) Stt Nội dung Thuận lợi Khó khăn 1 Sự tự nguyện của HS tham giao vào các hoạt động học 95 tập trải nghiệm 2 Hứng thú, tích cực của HS trong các hoạt động trải nghiệm 89 3 Hiểu biết của GV về hoạt động học tập trải nghiệm 41 4 Cách xây dựng kế hoạch dạy học, tổ chức hoạt động 37 học tập dựa vào trải nghiệm 5 Năng lực tổ chức của GV trong các hoạt động học tập 46 trải nghiệm 6 Việc quản lí HS khi các em tham gia vào các hoạt 21 động trải nghiệm 7 Việc đảm bảo mục tiêu dạy học và hiệu quả giáo dục 87 8 Vấn đề kinh phí phục vụ cho việc tổ chức hoạt động 93 trải nghiệm 9 Điều kiện tổ chức các hoạt động học tập trải nghiệm: 43 cơ sở vật chất, địa điểm trải nghiệm… 10 Sự quan tâm, ủng hộ của lãnh đạo nhà trường 44 11 Sự ủng hộ của phụ huynh HS 35 2.3. Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh các trung tâm giáo dục thường xuyên trong dạy học lịch sử đáp ứng Chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam 2018 2.3.1. Nâng cao nhận thức và năng lực cho giáo viên về tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên Kết quả khảo sát GV cốt cán ở các TTGDTX trên cho thấy nhận thức và quan niệm của GV về HĐTN chưa đúng, còn có những hiểu sai, lẫn lộn giữa hoạt động tự nguyện hay bắt buộc, giữa chỉ là hoạt động ngoại khóa hay hoạt động trong giờ học nội khóa trên lớp. Năng lực tổ chức HĐTN của GV cũng còn nhiều hạn chế (46% GV đã thừa nhận điều này). Bởi vậy, việc nâng cao nhận thức cũng như năng lực của GV là hết sức quan trọng. Chỉ khi nào GV có nhận thức đúng và vững vàng về năng lực thì việc tổ chức các HĐTN mới đạt hiệu quả. Muốn nâng cao nhận thức và năng lực cho GV, điều trước tiên là phải tiến hành các công việc sau: - Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho GV về HĐTN trong DHLS. Những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai tập huấn, bồi dưỡng GV, nhưng các nội dung tập huấn về trải nghiện còn ít. Vì vậy, cần tăng cường tập huấn, bồi dưỡng nhằm trang bị cho GV nhận thức đúng những vấn đề lí luận như các kiến thức về khái niệm, đặc trưng, vai trò, ý nghĩa của HĐTN trong dạy học, nhất là các yêu cầu, nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức HĐTN…Chỉ khi GV nắm vững những vấn đề này thì việc dạy học bằng trải nghiệm mới đạt kết quả như mong muốn. - Cung cấp các tài liệu tham khảo về HĐTN dưới dạng sách hướng dẫn, tài liệu tham khảo, băng hình để GV tự học, tự nghiên cứu bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực của bản thân để tổ chức tốt các HĐTN. 292
  8. Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên... - Tăng cường cho GV dự giờ các tiết học được tổ chức bằng phương thức HĐTN để chia sẻ, học tập kinh nghiệm lẫn nhau. - Kiểm tra, đánh giá thường xuyên việc tổ chức các HĐTN của GV để thúc đẩy GV tích cực tổ chức HĐTN trong dạy học. 2.3.2. Đa dạng hóa và vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh phù hợp với điều kiện thực tiễn của trung tâm giáo dục thường xuyên Để tổ chức có hiệu quả các HĐTN trong giờ học trên lớp hay các hoạt động ngoại khóa, cần thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng khác nhau. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, HĐTN trong môn học lịch sử phải được thực hiện thông qua: Các câu lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu hóa (kịch, tiểu phẩm…), tương tác, tham quan dã ngoại, các hội thi, hoạt động cộng đồng, sinh hoạt tập thể… Các hình thức này phải được tổ chức nhẹ nhàng, tự nhiên, sinh động, hấp dẫn, không khô cứng, đặc biệt là phải phù hợp với điều kiện thực tế của lớp học, của nhà trường và của đối tượng HS. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế và qua khảo sát thực trạng, chúng ta thấy các điều kiện để tổ chức các hoạy động như trên tại các TTGDTX là rất khó khăn, bởi tính đa dạng của đối tượng người học (HS không thi đỗ vào THPT, HS là người lao động phổ thông (độ tuổi trên 19) có đặc điểm nhận thức, tâm lí khác nhau), đặc biệt là điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và kinh phí. Chính vì thế, cần phải lựa chọn các hình thức tổ chức sao cho phù hợp. Đối với các TTGDTX, nên vận dụng linh hoạt một số hình thức: cho HS xem băng hình, phim tư liệu để HS được sống trong không khí của sự kiện lịch sử; học theo nhóm để tăng cường tương tác, trao đổi thảo luận; tổ chức các giờ học ngoại khóa kết hợp với tham quan bảo tàng, nhà truyền thống hay làng nghề; học tại khu di tích lịch sử; gặp gỡ nhân chứng và nghe kể chuyện lịch sử; tổ chức trò chơi đóng vai, hay các cuộc thi tìm hiểu lịch sử ….Với các hình thức này GV và HS có thể thực hiện một cách linh hoạt với qui mô và địa điểm phù hợp với điều kiện từng trường. Để tổ chức tốt các HĐTN trên, GV không chỉ thực hiện tốt khâu chuẩn bị xây dựng kế hoạch HĐTN, mà còn phải hiểu rõ mục đích, nội dung, các bước tiến hành HĐTN; nắm vững đối tượng, khả năng của từng HS để giao nhiệm vụ phù hợp, biết quản lí HS trong quá trình các em tham gia vào các HĐTN; biết cách dẫn dắt tổ chức HĐTN... Đồng thời, chủ động thiết kế các chủ đề dạy học hoặc tổ chức các HĐTN thực tế tại các di tích lịch sử, nhà bảo tàng, nhà truyền thống. 2.3.3. Tăng cường các điều kiện cơ sở vật chất, tài chính để tổ chức các hoạt động trải nghiệm trong dạy học lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên Hiệu quả của việc tổ chức HĐTN trong DHLS không chỉ phụ thuộc vào nhận thức và năng lực tổ chức của GV mà nó còn phụ thuộc một phần rất lớn vào các điều kiện cơ sở vật chất (không gian, bãi tập, sân trường, nhà truyền thống, máy tính, máy chiếu, băng hình, wife, các thiết bị, phương tiện DH khác…), đặc biệt là vấn đề tài chính... Kết quả khảo sát thực trạng trên cho thấy, 93% GV cho rằng vấn đề kinh phí tại các TTGDTX là rất khó khăn, 43% GV đánh giá cơ sở vật chất, địa điểm trải nghiệm cũng là khó khăn lớn. Vậy làm thế nào để giải quyết vấn đề này? Đây thực sự là bài toán khó đối với các TTGDTX hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, cần phải có sự hỗ trợ và vào cuộc của nhiều cơ quan, ban, ngành của địa phương. Trước hết là sự quan tâm đầu tư đối với các TTGDTX của Bộ Giáo dục và Đào tạo về chủ trương, về cơ sở vật chất phục vụ việc dạy và học sau đó là của các tỉnh/thành phố, các quận/huyện. Thứ hai, đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động sự đóng góp của xã hội và của nhân dân, nhất là các chủ doanh nghiệp trên địa bàn địa phương để xây dựng các TTGDTX khang trang, hiện đại với đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học. Thứ ba, phát huy nội lực của cán bộ, GV và HS trong toàn trung tâm cải tạo cảnh quan sư phạm, làm các thiết bị đồ dùng dạy học để bổ sung các phương tiện, đồ dùng cần thiết trong DHLS. 293
  9. Nguyễn Thị Bích Một số biện pháp đề xuất trên là những gợi ý bước đầu giúp GV các TTGDTX tiếp tục tổ chức tốt các HĐTN từ Chương trình GDPT hiện hành, chuẩn bị tâm thế tốt nhất để tổ chức hiệu quả hơn HĐTN trong Chương trình GDPT Việt Nam 2018. 3. Kết luận Bài báo đã đề xuất các biện pháp để tổ chức hiệu quả hoạt động trải nghiệm nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. Đó là: nâng cao nhận thức và năng lực cho giáo viên về tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên; đa dạng hóa và vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh phù hợp với điều kiện thực tiễn của trung tâm giáo dục thường xuyên và tăng cường các điều kiện cơ sở vật chất, tài chính để tổ chức các hoạt động trải nghiệm trong dạy học lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên. Thực tiễn việc tổ chức hoạt động trải nghiệm của giáo viên ở các trung tâm giáo dục thường xuyên cho thấy cần phải có những biện pháp phù hợp để nâng cao chất lượng tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho học sinh. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] John Dewey, 2012. Kinh nghiệm và giáo dục. Phạm Tuấn Anh dịch, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh. [2] Durham, 1938. The conceptual representation and measurement of psychological forces. NC: Duke University Press. [3] Columbus, 1969. Freedom to Learn, Ohio: Charles E. Merrill, cop. [4] Susan Hart, 2000. Thinking Through Teaching: A Framework for Enhancing Participation and Learning. [5] Workbook Edition, 2016. Teaching Creative and Critical thinking. Product Dimensions, Rl. [6] Lữ Đạt, Chu Mãn Sinh, 2010. Cải cách giáo dục ở các nước phát triển (Mỹ; Pháp & Đức; Anh; Nhật Bản & Ôtstrâylia), Nxb Giáo dục Việt Nam. [7] Robert J. Marzano, Debra J. Pickering - Jane E. Pollock (Nguyễn Hồng Vân dịch), 2011. Các phương pháp dạy học hiệu quả. Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. [8] James H. Stronge, Lê Văn Canh dịch, 2011. Những phẩm chất của người giáo viên hiệu quả. Nxb Giáo dục Việt Nam. [9] Gisell O. Martin - Kniep, Lê Văn Canh dịch, 2011. Tám đổi mới để trở thành người giáo viên giỏi, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. [10] Robert J. Marzano, Nguyễn Hữu Châu dịch, 2011. Nghệ thuật và khoa học dạy học. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [11] David A. Kolb, 1984. Experiential learning: Experience as the source of learning and development. Prentice - Hall International, Hemel Hempstead, Herts., J. of Organizational Begavior, No. of pages: xiii + 256. [12] Phan Trọng Ngọ, 2016. Học tập trải nghiệm trong trong giáo dục phổ thông và trong đào tạo năng lực nghề cho sinh viên trường đại học sư phạm. Kỉ yếu Hội thảo “Đào tạo GV đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông, tr. 21-43. [13] Nguyễn Hoàng Đoan Huy, 2016. Vận dụng lí thuyết học tập trải nghiệm trong phát triển chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên - Bài học kinh nghiệm từ Ailen. Báo cáo Hội thảo khoa học “Phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông”. Nxb Đại học Sư phạm, tr. 139. [14] Nguyễn Hoàng Đoan Huy, Bùi Thanh Diệu, 2017. Định hướng vận dụng lí thuyết học tập trải nghiệm vào dạy học các môn Khoa học Tự nhiên ở trường THCS. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Vol. 62, Issue 1A, 2017, tr. 39; 294
  10. Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên... [15] Nguyễn Thị Hằng, 2017. Lí thuyết học tập trải nghiệm - Những vấn đề lí luận cơ bản và định hướng vận dụng vào tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Vol. 62, Issue 1A, 2017, tr. 48. [16] Nguyễn Thanh Bình, 2017. Yêu cầu trong thiết kế, tổ chức hoạt động giáo dục dựa vào trải nghiêm. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Vol. 62, Issue 1A, 2017, tr. 66. [17] Dương Dáng Thiên Hương, 2017. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo - Lí thuyết và vận dụng trong dạy học tiểu học. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Vol. 62, Issue 1A, 2017, tr. 98. [18] Nguyễn Thị Kim Dung và Trần Thị Tuyết Mai, 2017. Yêu cầu của đổi mới giáo dục phổ thông và những năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cần có đối với sinh viên sư phạm. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Vol. 62, Issue 1A, 2017, tr. 125. [19] Hoàng Triều, Hoàng Trọng Hanh, Lê Khắc Nhãn, 1961. Giáo trình Sơ thảo phương pháp giảng dạy lịch sử (ở các trường phổ thông cấp II, III), tập 2, Nxb Giáo dục Việt Nam. [20] Phan Ngọc Liên (chủ biên), Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, 2010. Phương pháp dạy học lịch sử tập, 1, 2, Nxb Đại học Sư phạm. [21] Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, Lại Đức Thụ, Trần Đức Minh, 1995. Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. [22] Tưởng Duy Hải, Hồ Thị Hương, Nguyễn Hồng Liên, Phạm Quỳnh, 2017. Tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học lịch sử Trung học cơ sở. Nxb Giáo dục Việt Nam. [23] Đinh Thị Kim Thoa, 2014. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo góc nhìn từ lí thuyết và học từ trải nghiệm, Hội thảo “Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh phổ thông và mô hình trường phổ thông gắn với sản xuất, kinh doanh tại địa phương”, Tuyên Quang. [24] Chương trình giáo dục phổ thông- Ban hành kèm thông tư 32/2018/TT-BGĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, trang 28. [25] Luật Giáo dục Việt Nam 2009. [26] Chương trình Giáo dục Phổ thông - Ban hành kèm thông tư 32/2018/TT-BGĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, trang 31. [27] Quyết định số 2774, QĐ-BGDĐT, ngày 12 tháng 9 năm 2019. ABSTRACT Conducting experimental activities for students in teaching history in regular education center under the general education program 2018 - Situation and suggestions Nguyen Thi Bich Faculty of History, Hanoi National University of Education Experimental activity is an important part of the general education program 2018, which is designed for primary schools, secondary schools and high schools. Being an obligatory lesson, the aim of experimental activity is to establish and develop students’ behaviors, emotions, value and life skills to adapt with modern society. Accordingly, contents of experimental activity are designed complexly with various forms and structuring methods. This activity is focused specially in different subjects. Regular education is a part of the national general education and it is also applied the same training system in the general education program 2018. However, students and training conditions in regular education centers are quite different in comparison with other types of educational centers. Thus, what advantages and disadvantages those centers are facing while they are applying experimental activities and how to conduct the experiments to help students to learn history effectively are the questions for this research. Keywords: experimental activity, training history, students, regular education center. 295
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2