intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổ chức quân đội của nhà Nguyễn trên vùng đất An Giang thời kì 1802-1867

Chia sẻ: Danh Nguyen Tuong Vi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

55
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong chiến lược quốc phòng phương Nam nhằm ngăn chặn quân xâm lược Xiêm và giữ vững vị thế “bảo hộ” trên đất Chân Lạp cũng như phát triển vùng đất mới, chính quyền nhà Nguyễn tập trung xây dựng thế trận phòng thủ biên giới Tây Nam với trọng tâm là hệ thống phòng thủ trên vùng biên địa An Giang.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổ chức quân đội của nhà Nguyễn trên vùng đất An Giang thời kì 1802-1867

An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 89 – 96<br /> <br /> TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI CỦA NHÀ NGUYỄN TRÊN VÙNG ĐẤT AN GIANG<br /> THỜI KÌ 1802 – 1867<br /> Dương Thế Hiền1<br /> <br /> Trường Đại học An Giang<br /> <br /> 1<br /> <br /> Thông tin chung:<br /> Ngày nhận bài: 02/01/2016<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br /> 25/02/2016<br /> Ngày chấp nhận đăng: 06/2017<br /> Title:<br /> The military of Nguyen Dynasty<br /> in the area of An Giang from<br /> 1802 to 1867<br /> Keywords:<br /> Nguyen Dynasty, An Giang,<br /> defense, army<br /> Từ khóa:<br /> Nhà Nguyễn, An Giang,<br /> quốc phòng, quân đội<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Within the defense strategy in the South of Vietnam to prevent Siam invaders as<br /> well as to maintain the peace and develop play a role of the protector of the<br /> land of Chenla, Nguyen Dynasty had policies to build a defensive strategy to<br /> protect the Southwest border that was considered important for the protection<br /> of An Giang Province’ bordering area. It seems apparent that Nguyen Dynasty<br /> implemented great policies and strategies over the period.<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Trong chiến lược quốc phòng phương Nam nhằm ngăn chặn quân xâm lược<br /> Xiêm và giữ vững vị thế “bảo hộ” trên đất Chân Lạp cũng như phát triển vùng<br /> đất mới, chính quyền nhà Nguyễn tập trung xây dựng thế trận phòng thủ biên<br /> giới Tây Nam với trọng tâm là hệ thống phòng thủ trên vùng biên địa An Giang.<br /> Nhà Nguyễn đã thực thi nhiều chính sách thể hiện tầm nhìn và sự đột phá mạnh<br /> mẽ về mặt chiến lược. Việc thực thi chính sách quốc phòng nghiêm túc và đúng<br /> đắn của nhà Nguyễn trên vùng đất này đã phát huy tác dụng to lớn, đóng góp<br /> xứng đáng vào sự nghiệp vệ quốc vĩ đại của dân tộc ta thời kì 1802 - 1867.<br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> <br /> thường xuyên xảy ra tình hình bất ổn về chính trị<br /> và quân sự với các nước láng giềng (Chân Lạp,<br /> Xiêm La) trong lịch sử. Từ thời các chúa Nguyễn,<br /> vùng đất Tầm Phong Long (tức vùng đất nằm<br /> giữa sông Tiền và sông Hậu về phía Bắc) được<br /> chính thức xác nhập vào lãnh thổ nước ta thông<br /> qua quá trình tiếp nhận vào năm 1757 dưới thời<br /> chúa Nguyễn Phúc Khoát (Quốc sử quán triều<br /> Nguyễn, Viện sử học, 2007). Để quản lý vùng đất<br /> mới có hiệu quả, Nguyễn Cư Trinh xin Võ Vương<br /> cho thành lập tại đây ba đạo là Châu Đốc, Tân<br /> Châu, Đông Khẩu và đặt dưới sự quản lý của dinh<br /> Long Hồ. Để có phản ứng nhanh và hiệu quả<br /> trong việc bảo vệ biên cương, Nguyễn Cư Trinh<br /> cho dời trị sở của dinh Long Hồ từ An Bình Đông<br /> (Cái Bè) về xứ Tầm Bào (Long Hồ) (Quốc sử<br /> quán triều Nguyễn, Viện sử học, 2007). Với<br /> <br /> Trong thời kì chúa Nguyễn và vua Nguyễn, vấn<br /> đề quốc phòng trên vùng biên giới Tây Nam Bộ<br /> được chú trọng đặc biệt trong chiến lược phát<br /> triển và bảo vệ vùng đất mới. Để thực hiện chiến<br /> lược đó, lực lượng quân đội đồn trú trở thành<br /> nhân tố quan trọng nhất, vừa bảo vệ quốc gia<br /> trước các cuộc xâm lược từ phía Chân Lạp và<br /> Xiêm La, vừa đảm nhiệm công tác giữ gìn an<br /> ninh, trật tự cho công cuộc khai phá của các lưu<br /> dân, di dân, góp phần to lớn vào sự hưng khởi của<br /> vùng đất này trong giai đoạn trước khi thực dân<br /> Pháp xâm lược (1867).<br /> Trên vùng đất Nam Bộ, An Giang có vị trí<br /> quan trọng với đường biên giới án ngữ phía<br /> Nam của tổ quốc tiếp giáp với Chân<br /> (Campuchia) dài khoảng 100 km, lại là<br /> <br /> khá<br /> Tây<br /> Lạp<br /> nơi<br /> 89<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 89 – 96<br /> <br /> những hoạt động mang tính chất quân sự của<br /> chính quyền chúa Nguyễn, chúng ta dễ dàng nhận<br /> ra vai trò to lớn của vùng đất An Giang trong việc<br /> phòng thủ biên giới với Chân Lạp, ngăn chặn sự<br /> xâm lấn của quân Xiêm ở phía Tây Nam.<br /> <br /> gìn an ninh khu vực biên giới Tây Nam Bộ. Trong<br /> suốt thời kì từ Gia Long đến Tự Đức, trên vùng<br /> đất An Giang, các cơ sở, căn cứ quân sự này có<br /> mặt ở hầu hết những vị trí chiến lược trong tỉnh.<br /> <br /> Năm 1802, triều Nguyễn được thiết lập và cai<br /> quản một nước Việt Nam rộng lớn nhất trong lịch<br /> sử. Vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ được đặt ra<br /> với những yêu cầu mới, đặc biệt trong việc giữ<br /> gìn biên cương Tây Nam của tổ quốc. Từ đây,<br /> quan hệ tam giác Việt Nam - Chân Lạp - Xiêm La<br /> có những biến chuyển mới. Đối với Xiêm La, nhà<br /> Nguyễn cũng tỏ ra mềm dẻo và hòa hiếu. Về cơ<br /> bản, khoảng một thập niên đầu của thế kỉ XIX,<br /> Chân Lạp vẫn thuộc vùng ảnh hưởng và chịu sự<br /> chi phối mạnh mẽ từ Xiêm. Năm 1806, vua Xiêm<br /> đưa Ang Chan (Nặc Ông Chân) làm vua Chân<br /> Lạp. Do bị Xiêm áp đặt quá mức nên Ang Chan<br /> quyết định dựa vào nhà Nguyễn để giảm những áp<br /> lực từ phía Xiêm. Đến đây, triều Nguyễn đã đóng<br /> vai trò như một đối trọng với triều đình Xiêm<br /> trong ảnh hưởng đối với Chân Lạp và làm bùng<br /> lên mâu thuẫn giữa Việt Nam và Xiêm trong vấn<br /> đề Chân Lạp.<br /> <br /> 2. SỰ THIẾT LẬP HỆ THỐNG CÁC CƠ SỞ<br /> PHỤC VỤ MỤC ĐÍCH QUÂN SỰ CỦA<br /> NHÀ NGUYỄN TRÊN VÙNG ĐẤT AN<br /> GIANG<br /> <br /> Công trình quan trọng được tiến hành xây dựng<br /> vào năm Gia Long thứ 14 (1815) là đồn Châu<br /> Đốc. Đồn do trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước<br /> Tường chỉ huy với tổng số lượng dân binh lên đến<br /> khoảng 7.000 người (Quốc sử quán triều Nguyễn,<br /> Viện sử học, 2007). Đồn được đắp theo hình lục<br /> giác, xung quanh có chiến hào thông ra sông Hậu,<br /> từ phía trước ra phía sau dài 162 trượng, cao 7<br /> thước, chân dày 6 tầm, ngọn túm bớt 5 thước, có<br /> hai bậc, lưng tựa hướng Kiền, mặt hướng Tốn,<br /> phía phải giáp sông lớn, 3 phía trước sau và trái<br /> có hào rộng 20 tầm, sâu 11 thước ta, thông với<br /> sông cái, với 3 cửa tả, hữu và sau, trước mặt trông<br /> ra sông Hậu. Trong đồn có nhà quân và kho chứa<br /> (Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học, 2006).<br /> Năm 1816, đồn Châu Đốc làm xong, vua Gia<br /> Long sai trấn thủ thành Gia Định điều động 100<br /> lính cơ ở bốn trấn, 500 lính đồn Uy Viễn, chọn<br /> người giỏi cai quản để đóng giữ đất ấy. Theo quy<br /> định, lính thì ba tháng một lần đổi, quản thủ thì<br /> một năm một lần đổi. Gia Long lại sai chở 40 cỗ<br /> súng gang và thuốc đạn chia đặt ở bảo sở để<br /> nghiêm việc phòng giữ (Quốc sử quán triều<br /> Nguyễn, Viện sử học, 2007). Đồn Châu Đốc nằm<br /> ngang đối diện có đồn Tân Châu ở Tiền Giang<br /> cách về phía Đông 32 dặm rưỡi, phía Tây cách<br /> trấn Hà Tiên hơn 203 dặm, phía Bắc cách thành<br /> Nam Vang 244 dặm rưỡi, thật là một nơi biên<br /> phòng trọng yếu (Quốc sử quán triều Nguyễn,<br /> Viện sử học, 2006). Đây được xem là căn cứ quân<br /> sự trọng yếu án ngữ phòng thủ mặt biên giới Tây<br /> Nam, tạo thế khống chế Chân Lạp.<br /> <br /> Một mảng quan trọng trong việc xây dựng và tổ<br /> chức lực lượng quân đội ở An Giang của chính<br /> quyền nhà Nguyễn là tiến hành tu bổ, xây mới<br /> thành trì, đồn, bảo, tấn, thủ, sở, trạm sông, hỗ trợ<br /> quân đội phục vụ cho công tác quốc phòng và giữ<br /> <br /> Thành tỉnh An Giang là nơi rất quan trọng được<br /> xây dựng tại Châu Đốc được lấy làm nơi đóng trú<br /> của Tổng đốc An Hà. Thành tỉnh An Giang có chu<br /> vi 262 trượng, cao 9 thước, với 3 cửa ở phía<br /> trước, phía tả và phía hữu, mặt ngoài trồng tre,<br /> <br /> *Tuyến phòng thủ trên mặt sông Hậu:<br /> <br /> Trước tình hình đó, chính quyền nhà Nguyễn đã<br /> tiến hành một chính sách quốc phòng nhất quán<br /> trên vùng biên giới Tây Nam, trong đó vùng đất<br /> An Giang trở thành trung tâm của thế trận phòng<br /> thủ. Với những chính sách tích cực và đúng đắn<br /> của chính quyền nhà Nguyễn trên vùng đất An<br /> Giang đã góp phần quan trọng trong công cuộc<br /> bảo vệ vững chắc vùng biên cương Tây Nam của<br /> đất nước.<br /> <br /> 90<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 89 – 96<br /> <br /> bốn mặt đào hào sâu 6 thước, bên ngoài hào có<br /> đắp đê cao 2 thước 7 tấc gọi là đê Hộ Hà. Thành<br /> này trước là bảo Châu Đốc đắp từ năm Gia Long<br /> thứ 15 (1816), năm Minh Mạng thứ 13 (1832) đặt<br /> lỵ sở của tỉnh (Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện<br /> sử học, 2006).<br /> <br /> phục nghiệp trên đất An Giang (1789), đến năm<br /> Minh Mạng thứ 16 (183) thì bỏ.<br /> Thủ Cường Thành thuộc địa phận huyện Đông<br /> Xuyên, được xây dựng thời Nguyễn Ánh phục<br /> nghiệp trên đất An Giang (1789), đến năm Minh<br /> Mạng thứ 16 (1835) thì bỏ.<br /> <br /> Đồn Châu Giang được tu sửa trên nền thủ sở đạo<br /> Châu Đốc cũ, thuộc địa phận huyện Đông Xuyên<br /> (ngang với Châu Đốc). Đồn này đóng ở nơi xung<br /> yếu tại đầu bãi, thường bị nước lụt phá vỡ. Năm<br /> Gia Long thứ 17 (1818), vua ban chỉ cho trấn thủ<br /> Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Xuân xem xét địa<br /> điểm, dời lên vùng thượng lưu cách chỗ cũ một<br /> dặm, đắp đồn đất vuông, tựa hướng Bắc mặt trông<br /> đến hướng Nam, mỗi mặt 30 tầm, cao 6 thước 5<br /> tấc ta, chân dày 3 tầm, ngọn túm bớt 4 thước ta,<br /> chỗ chính giữa mặt đồn đều đắp nhọn ra như hình<br /> bát giác. Mặt phải, mặt trái chỗ gần góc mặt tiền<br /> đều mở một cửa, hào rộng 3 tầm, có lũy dài 4 tầm,<br /> mặt trước bên phải cách sông 35 tầm, đổi tên lại là<br /> đồn Châu Giang, làm chỗ đóng quân để phòng<br /> thủ. Đến năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) thì bỏ (Quốc<br /> sử quán triều Nguyễn, Viện sử học, 2006).<br /> <br /> Thủ Đông Xuyên nằm ở đường lạch bờ phía Tây<br /> Hậu Giang, thuộc địa phận huyện Tây Xuyên,<br /> được xây dựng thời Nguyễn Ánh phục nghiệp trên<br /> đất An Giang (1789), sau bỏ. Đến năm Minh<br /> Mạng thứ 18 (1837) đổi làm sở thuế quan.<br /> Thủ Trấn Di nằm ở vị trí bờ Bắc sông Ba Xuyên,<br /> thuộc huyện Vĩnh Định, được xây dựng thời<br /> Nguyễn Ánh phục nghiệp trên đất An Giang<br /> (1789). Đến năm Minh Mạng thứ 18 (1837) đổi<br /> làm sở thuế quan, sau bỏ.<br /> Thủ Cường Thành nằm ở địa phận huyện Đông<br /> Xuyên (thuộc huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp<br /> ngày nay) được xây dựng thời Nguyễn Ánh phục<br /> nghiệp trên đất An Giang (1789). Đến năm Minh<br /> Mạng thứ 16 (1835) thì bỏ.<br /> Thủ Cường Oai nằm ở bờ phía đông sông Hậu,<br /> thuộc địa phận huyện Vĩnh An (thuộc huyện Lấp<br /> Vò tỉnh Đồng Tháp ngày nay), được xây dựng<br /> thời Nguyễn Ánh phục nghiệp trên đất An Giang<br /> (1789). Đến năm Minh Mạng thứ 16 (1835) thì<br /> bỏ.<br /> <br /> Bên cạnh các cơ sở quân sự trên, theo Đại Nam<br /> nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn<br /> cho biết, trên tuyến phòng thủ dọc sông Hậu thuộc<br /> địa bàn An Giang, nhà Nguyễn còn thiết lập nhiều<br /> cơ sở phòng thủ quan trọng khác (Quốc sử quán<br /> triều Nguyễn, Viện sử học, 2006), bao gồm:<br /> <br /> Thủ Trấn Giang ở bờ Tây sông Cần Thơ, thuộc<br /> địa phận huyện Phong Phú, được xây dựng thời<br /> Nguyễn Ánh phục nghiệp trên đất An Giang<br /> (1789), lại ở Bãi Xao (phía Bắc biển Mĩ Thanh)<br /> đặt một bảo lớn, phái binh sĩ đóng giữ, để tương<br /> hợp với thủ Trấn Di. Đến năm Minh Mạng thứ 16<br /> (1835) thì bỏ.<br /> <br /> Bảo Châu Giang nằm ở vị trí cửa dưới của kinh<br /> Vĩnh An có chu vi 28 trượng như hình bán<br /> nguyệt, thuộc địa phận huyện Đông Xuyên. Lấy<br /> quân ở các đồn Tân Châu và An Lạc đến trấn giữ.<br /> Thủ Vĩnh Hùng nằm ở đường lạch bờ phía Đông<br /> Hậu Giang, thuộc địa phận huyện Đông Xuyên,<br /> được xây dựng thời Nguyễn Ánh phục nghiệp trên<br /> đất An Giang (1789), đến năm Minh Mạng thứ 16<br /> (1835) thì bỏ.<br /> <br /> Ngoài các công trình theo tuyến sông Hậu trên địa<br /> bàn An Giang, chính quyền nhà Nguyễn còn xây<br /> dựng các công trình khác như: bảo Bình Thiên,<br /> đồn Đa Phúc, đồn Châu Phú, đồn An Châu. Tất cả<br /> đã tạo nên trung tâm phòng thủ, chỉ huy cho cả hệ<br /> thống quốc phòng Tây Nam, góp phần quan trọng<br /> giữ gìn nền độc lập và trị an của đất nước.<br /> <br /> Thủ Thuận Tấn nằm ở đầu sông Vàm Nao gần<br /> khúc giao với Hậu Giang, thuộc địa phận huyện<br /> Đông Xuyên, được xây dựng thời Nguyễn Ánh<br /> 91<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 89 – 96<br /> <br /> Bảo Vĩnh Tế nằm ở địa phận huyện Tây Xuyên,<br /> đắp từ năm Minh Mạng thứ 15 (1834). Bảo này có<br /> chu vi 23 trượng 8 thước, cao 5 thước.<br /> <br /> *Tuyến phòng thủ trên mặt sông Tiền:<br /> Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán<br /> triều Nguyễn cho biết, trên khu vực Thất Sơn –<br /> Vĩnh Tế thuộc địa bàn An Giang, nhà Nguyễn<br /> thiết lập 5 bảo quan trọng (Quốc sử quán triều<br /> Nguyễn, Viện sử học, 2006) gồm:<br /> <br /> Bảo Vĩnh Thông nằm ở địa phận huyện Hà Âm,<br /> đắp từ năm Thiệu Trị thứ 2 (1842). Bảo này có<br /> chu vi 78 trượng, cao 3 thước.<br /> <br /> Bảo Vĩnh Thành nằm ở địa phận huyện Vĩnh An.<br /> Bảo này có chu vi 38 trượng, cao 4 thước, đắp từ<br /> năm Thiệu Trị thứ 2 (1842).<br /> <br /> Bảo Vĩnh Lạc nằm ở địa phận huyện Hà Âm, đắp<br /> từ năm Thiệu Trị thứ 2 (1842). Bảo này có chu vi<br /> 24 trượng 8 thước, cao 3 thước.<br /> <br /> Bảo Vĩnh Thịnh nằm ở địa phận huyện Vĩnh An.<br /> Bảo này có chu vi 22 trượng, cao 4 thước, đắp từ<br /> năm Thiệu Trị thứ 2 (1842).<br /> <br /> Bảo Thân Nhân nằm ở địa phận huyện Hà Âm,<br /> đắp từ năm Thiệu Trị thứ 2 (1842). Bảo này có<br /> chu vi 32 trượng 4 thước, cao 3 thước.<br /> <br /> Bảo Tân Châu nằm ở địa phận huyện Đông<br /> Xuyên. Bảo này có chu vi 11 trượng 2 thước, cao<br /> 4 thước, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 2 (1842).<br /> Nguyên là đạo Tân Châu xưa, thời chúa Nguyễn<br /> được xây dựng năm 1757, đến năm Gia Long thứ<br /> 2 (1804) được đắp lại. Năm Minh Mạng thứ 18<br /> (1837) lấy làm sở thuế quan. Đến đời Thiệu Trị<br /> thì dùng lại cho công tác quân sự.<br /> <br /> Bảo Giang Nông nằm ở địa phận huyện Hà<br /> Dương, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 2 (1842). Bảo<br /> này có chu vi 43 trượng, cao 5 thước.<br /> Bảo Vĩnh Điều nằm ở địa phận huyện Hà Âm,<br /> đắp từ năm Thiệu Trị thứ 2 (1842). Bảo này có<br /> chu vi 33 trượng 4 thước, cao 3 thước.<br /> Bảo Bình Di nằm ở địa phận huyện Tây Xuyên,<br /> đắp từ năm Thiệu Trị thứ nhất (1841). Bảo Bình<br /> Di bao gồm 2 sở: phía tả chu vi 36 trượng, cao 8<br /> thước; phía hữu chu vi 24 trượng, cao 9 thước.<br /> <br /> Bảo đất An Lạc nằm ở địa phận huyện Đông<br /> Xuyên. Bảo này có chu vi 11 trượng 2 thước, cao<br /> 4 thước, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 2 (1842).<br /> Nguyên là thủ sở đạo Chiến Sai, năm Minh Mạng<br /> thứ 21 (1840) đổi tên thành bảo đất An Lạc.<br /> <br /> Bảo Cần Thăng nằm ở địa phận huyện Tây<br /> Xuyên, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 4 (1844). Bảo<br /> này có chu vi 66 trượng, không thấy nói đến chiều<br /> cao.<br /> <br /> Bảo Tiến An nằm ở địa phận huyện Đông Xuyên,<br /> đắp từ năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Bảo có chu vi<br /> 20 trượng, cao 4 thước 5 tấc.<br /> <br /> Bảo Bắc Nam nằm ở địa phận huyện Tây Xuyên,<br /> đắp từ năm Thiệu Trị thứ 5 (1845). Bảo này có<br /> chu vi 24 trượng, cao 4 thước.<br /> <br /> Các đồn, bảo đóng quân của nhà Nguyễn trên<br /> tuyến phòng thủ sông Tiền thuộc tỉnh An Giang<br /> được kết hợp chặt chẽ với các đồn, bảo bên phía<br /> bờ Đông sông Tiền tạo ra hệ thống phòng thủ<br /> vững chắc, có tính chất bản lề cho công cuộc<br /> phòng thủ Tây Nam.<br /> <br /> Bảo Nhân Hội nằm ở địa phận huyện Tây Xuyên,<br /> đắp từ năm Thiệu Trị thứ 6 (1846). Bảo này có<br /> chu vi 38 trượng, cao 3 thước 6 tấc.<br /> Bảo Hưng Nhượng nằm ở địa phận huyện Hà<br /> Dương, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Bảo<br /> này có chu vi 60 trượng, cao 4 thước.<br /> <br /> *Tuyến phòng thủ Thất Sơn - Vĩnh Tế: Theo<br /> Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều<br /> Nguyễn cho biết, trên khu vực Thất Sơn – Vĩnh<br /> Tế thuộc địa bàn An Giang, nhà Nguyễn thiết lập<br /> 11 bảo quan trọng (Quốc sử quán triều Nguyễn,<br /> Viện sử học, 2006) gồm:<br /> <br /> Các đồn, bảo thuộc hai tuyến phòng thủ Vĩnh Tế Thất Sơn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau tạo nên<br /> hệ thống phòng thủ thủy bộ vững chắc, góp phần<br /> giữ vững biên giới Tây Nam, giữ gìn an ninh vùng<br /> 92<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 89 – 96<br /> <br /> biên giới vốn có nhiều đồng bào Khmer sinh<br /> sống.<br /> <br /> đội trấn giữ, bố phòng biên giới. Theo đó, An<br /> Giang có 1 thủy vệ; 5 cơ: Trung, Tiền, Tả, Hữu,<br /> Hậu (đều lính tuyển); 1 cơ An Biên (mộ lính thổ);<br /> 1 Đội pháo thủ và 1 ty Hành Nhân (đều lính mộ).<br /> <br /> * Các trạm sông:<br /> Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán<br /> triều Nguyễn cho biết, trên địa bàn An Giang, nhà<br /> Nguyễn chú trọng thiết lập 4 trạm sông (Quốc sử<br /> quán triều Nguyễn, Viện sử học, 2006), gồm:<br /> <br /> Thủy vệ An Giang gồm 10 đội. Thời Gia Long,<br /> nguyên đặt cơ Vĩnh Bảo và lính Bảo Thành. Đến<br /> năm Minh Mạng thứ 13 (1832), trích lấy binh<br /> đinh ở cơ Vĩnh Bảo và vệ Bảo Thành 420 người,<br /> đặt làm Thủy cơ An Giang; năm thứ 15, lại tuyển<br /> lính, trích lấy 500 lính tuyển ở hạt ấy, dồn bổ làm<br /> 10 đội Thủy cơ An Giang, rồi thăng làm Thủy vệ<br /> An Giang (Nội các triều Nguyễn, Viện sử học,<br /> 1993). Năm 1854, Vệ thủy An Giang có 65<br /> thuyền Điển thủ (Quốc sử quán triều Nguyễn,<br /> Viện sử học, 2007).<br /> <br /> Trạm sông Giang Nông nằm trên địa phận thôn<br /> Tân Đông, thuộc huyện Vĩnh An, phía Đông đến<br /> trạm sông Vĩnh Giai (thuộc tỉnh Vĩnh Long), phía<br /> Tây đến trạm sông Giang Nữ 54 dặm.<br /> Trạm sông Giang Mĩ nằm trên địa phận thôn Mỹ<br /> An, thuộc huyện Vĩnh An, phía Tây đến trạm<br /> sông Giang Tú 51 dặm.<br /> Trạm sông Giang Tú nằm trên địa phận thôn Tú<br /> Điền, thuộc huyện Đông Xuyên, phía Tây Nam<br /> đến trạm sông Giang Phúc 60 dặm.<br /> <br /> Năm cơ (Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu) đều 10 đội,<br /> riêng Hậu cơ chỉ có 6 đội. Năm Minh Mạng thứ<br /> 13 (1832), trích lấy lính ở cơ Vĩnh Bảo Trung,<br /> quê thuộc An Giang, hiện ngạch 474 tên, đặt làm<br /> cơ An Bình; năm thứ 15 (1834), đem cơ An Bình<br /> Thủy cơ An Giang, cùng tráng dân có tên trong sổ<br /> trừ số lính dồn bổ vào Thủy cơ An Giang Nhất<br /> 481 người, còn 2.380 tên dồn làm 5 cơ An Bình từ<br /> 1 – 5; năm Minh Mạng thứ 17 (1836), đổi 5 cơ An<br /> Bình thành 5 cơ An Giang Trung, Tiền, Tả, Hữu,<br /> Hậu (Nội các triều Nguyễn, Viện sử học, 1993).<br /> <br /> Trạm sông Giang Phúc nằm trên địa phận thôn<br /> Vĩnh Nguyên, thuộc huyện Tây Xuyên, phía Tây<br /> đến trạm sông Tiên Nông (thuộc tỉnh Hà Tiên) 60<br /> dặm.<br /> Có thể thấy, chính quyền nhà Nguyễn đã có sự bố<br /> trí các trạm sông nối liền nhau đảm bảo cho việc<br /> tuần tra trên sông cũng như nắm bắt, truyền báo<br /> tin tức kịp thời, góp phần quan trọng vào công tác<br /> quốc phòng Tây Nam trên địa bàn An Giang.<br /> <br /> 3. SỰ TỔ CHỨC, PHÂN CHIA CÁC ĐƠN<br /> VỊ CHIẾN ĐẤU CỦA NHÀ NGUYỄN<br /> TRÊN VÙNG ĐẤT AN GIANG THỜI KÌ<br /> 1802 - 1867<br /> <br /> Cơ An Biên gồm 4 đội. Năm Minh Mạng thứ 14<br /> (1833), viên Ốc nha Sơn Liêm Mộc chiêu mộ dân<br /> ở phủ Chân Chiêm 500 tên dồn làm 10 đội gọi là<br /> cơ An Biên. Năm thứ 16 (1835), cơ An Biên hiện<br /> còn 386 tên, vẫn để ngạch cũ sau bổ làm 10 đội.<br /> Lại mộ thêm dân phủ Chân Chiêm 500 tên nữa,<br /> đặt làm 10 đội, từ số 1 – 10, thuộc cơ An Biên thứ<br /> 2. Lại mộ dân phủ Mật Luật 160 tên đặt làm 3 đội,<br /> từ 1 – 3, thuộc cơ An Biên thứ 3. Năm thứ 21<br /> (1840), cơ Trấn Tây thứ 8 thuộc trấn Ba Xuyên,<br /> đổi làm cơ An Biên thứ 4, trích giao cho tỉnh An<br /> Giang coi quản, để được gần và tiện (Nội các triều<br /> Nguyễn, Viện sử học, 1993).<br /> <br /> Vùng đất An Giang trong thời kì này với vai trò<br /> yếu địa biên phòng luôn được chính quyền nhà<br /> Nguyễn đặc biệt quan tâm trong việc bố trí quân<br /> <br /> Đội pháo thủ gồm 2 đội. Năm Minh Mạng thứ 13<br /> (1832), nguyên 4 đội pháo thủ thứ 6, thứ 7, thứ 8,<br /> thứ 9 ở thành Gia Định dồn làm 2 đội pháo thủ<br /> <br /> Như vậy, về công tác xây dựng và bố trí các công<br /> trình quân sự cơ bản bao gồm các thành trì, đồn,<br /> bảo, tấn, thủ, sở, trạm sông đã được chính quyền<br /> nhà Nguyễn tiến hành một cách nghiêm túc, đảm<br /> bảo phục vụ hữu hiệu cho chiến lược quốc phòng<br /> vùng biên giới Tây Nam, trong đó vùng đất An<br /> Giang là trung tâm phòng thủ.<br /> <br /> 93<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2