intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quân đội nhà Lê sơ

Chia sẻ: Minh Trang | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

98
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Quân đội nhà Lê Sơ là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Thái Tổ đến hết triều vua Lê Cung Hoàng, từ năm 1428 đến năm 1527. Thời kỳ đầu và từ thời Lê Thánh Tông trở đi có những thay đổi lớn trong tổ chức và chế độ trưng tập huấn luyện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quân đội nhà Lê sơ

Quân đội nhà Lê sơ 1<br /> <br /> <br /> <br /> Quân đội nhà Lê sơ<br /> Quân đội nhà Lê Sơ là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Thái Tổ đến hết triều<br /> vua Lê Cung Hoàng, từ năm 1428 đến năm 1527. Thời kỳ đầu và từ thời Lê Thánh Tông trở đi có những thay đổi lớn<br /> trong tổ chức và chế độ trưng tập huấn luyện.<br /> <br /> <br /> Trước thời Lê Thánh Tông<br /> Trong thời khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi chủ yếu tuyển binh ở Thanh Hóa trở vào đến Thuận Hóa, quy định là cứ 3<br /> suất đinh thì lấy 1 người sung vào quân ngũ và cho miễn thuế trong 3 năm.<br /> Cuối năm 1427, khi khởi nghĩa sắp thắng lợi, lực lượng quân Lam Sơn phát triển đến 35 vạn người[1]. Lê Lợi chia<br /> thành ngũ quân: tiền – trung - hậu - tả - hữu; mỗi quân lại chia thành 14 vệ, có các chức Thượng tướng quân, Đại<br /> tướng quân, Tướng quân, Đô chỉ huy sứ, Hỏa đầu, Hỏa chủ chỉ huy.<br /> Tháng 2 năm 1429, thực hiện chủ trương khi chiến tranh kết thúc, Lê Thái Tổ cho 25 vạn người về quê làm ruộng,<br /> chỉ để lại 10 vạn quân. Số quân này được chia thành 5 đạo và 6 quân ngự tiền. Quân các đạo gồm Bắc đạo, Nam đạo,<br /> Đông đạo, Tây đạo và Hải Tây đạo lo trấn giữ 5 đạo hành chính trong nước. Sáu quân ngự tiền đóng ở kinh thành để<br /> bảo vệ cung vua, gồm có Ngự tiền vũ sĩ, Ngự tiền trung tả hữu tiền hậu quân, Thánh dực quân, Phụng thánh quân,<br /> Chấn lôi quân và Bảo ứng quân.<br /> Năm 1448, Lê Nhân Tông cho bỏ bớt số tướng hiệu các vệ quân. Quân ngự tiền trước có 8 người thì giảm còn 2<br /> người; quân Thiết đột mỗi quân có 5 người nay chỉ còn 4.<br /> Để có lực lượng tinh nhuệ sẵn sàng tham chiến, nhà Lê thường xuyên cho quân luyện tập trận pháp và võ nghệ. Từ<br /> năm 1434, Lê Thái Tông ra quy định: việc vệ quân 5 đạo vào mùa xuân đều phải về kinh đô điểm mục và tập võ<br /> nghệ.<br /> <br /> <br /> Kỹ thuật hỏa pháo<br /> Sử nhà Minh ghi rằng một thành tựu lớn của Đại Việt mà họ học được sau cuộc xâm lăng là một số võ khí như thần<br /> thương (chữ Hán: 神 槍), thần thương tiến (神 槍 箭), và thần cơ hỏa thương (神 機 火 槍), nhất là cây thần cơ<br /> hỏa thương mà người Hán cho là vũ khí rất lợi hại vì có tầm bắn xa 300 bước, xa hơn hẳn hỏa pháo tương đương của<br /> quân Minh.[2] Đây là một loại vũ khí dạng ống dùng để bắn tên. Quân Minh kể từ năm 1415 đã cải tiến súng ống của<br /> họ theo mẫu của cây thần cơ hỏa thương này.[3]<br /> Những loại súng này sau khi đuổi được quân Minh cũng được dùng trang bị cho thủy quân Đại Việt kể từ năm 1428.<br /> Mỗi đội có 10 chiến thuyền lớn thì có thêm một hỏa đồng (火 筒) cực lớn, 10 hỏa đồng lớn, 10 hỏa đồng nhỡ, và 80<br /> hỏa đồng cỡ nhỏ. Hai đội quân chuyên dùng hỏa đồng là đội Thần lôi và Thần điện.[4]<br /> <br /> <br /> Từ thời Lê Thánh Tông<br /> Lê Thánh Tông quan tâm xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Ông đã thực hiện thay đổi lớn trong quân đội<br /> trong thời gian trị vì.<br /> <br /> <br /> Chế độ trưng tập<br /> Năm 1465, Lê Thánh Tông cho làm hộ tịch trong cả nước. Cứ 3 năm một lần làm lại hộ khẩu gọi là "tiểu điển", 6<br /> năm một lần gọi là "đại điển. Cứ 6 năm 1 lần, các xã trưởng mang sổ hộ khẩu của mình lên kinh đô chiếu vào viết lại<br /> trong chính thư của triều đình về số dân hiện tại trong xã[5].<br /> Cũng định kỳ 6 năm một lần, triềc quan về địa phương dựng lập trường tuyển, sau đó duyệt tân binh. Trừ các hàng<br /> chức sắc, quan lại, các dân đinh từ 18 tuổi trở lên đều phải đăng ký vào hộ tịch và được chia làm các bậc: tráng hạng,<br /> quân hạng, dân hạng, lão hạng, cố hạng, cùng hạng.<br /> Quân đội nhà Lê sơ 2<br /> <br /> <br /> Đối tượng trưng tập<br /> Khi cần điều động, sẽ đưa tráng đinh làm lính, dâng tráng sung vào hạng quân ở nhà làm ruộng. Khi nào thải người<br /> già yếu, thì chiếu theo thứ tự lấy bổ sung vào[6].<br /> Lệ tuyển dân đinh vào làm lính như sau:<br /> <br /> <br /> Nhà có 3 dân đinh thì 1 người vào hạng lính tráng, 1 người vào hạng quân, 1 người vào<br /> hạng dân.<br /> • Nhà có 4 người thì bổ 2 người hạng dân<br /> • Nhà từ 5 đinh trở lên thì 2 người bổ hạng lính, 1 người bổ hạng quân ứng vụ.<br /> Phan Huy Chú đã nhận xét về phép tuyển lính của nhà Lê trong sách Lịch triều hiến chương loại chí:<br /> Phép tuyển binh thời Hồng Đức rõ ràng, chu đáo. Dân đinh không sót tên trong sổ mà số binh thường có<br /> nhiều, vì kén lựa được đúng số[7].<br /> <br /> Đối tượng miễn<br /> Các đối tượng được miễn gồm có:<br /> • Con cháu các quan viên: quan văn võ nhất phẩm, nhị phẩm và con trưởng quan tam phẩm; con cháu các công,<br /> hầu, bá nếu biết chữ sẽ sung làm nho sinh trong Sùng văn quán, nếu không biết chữ thì cho vào làm tuấn sĩ đội<br /> Cẩm y. Các con quan tam phẩm tới bát phẩm nếu biết đọc sách thì cho thi vào làm nho sinh Tú lâm cục, nếu<br /> không biết chữ thì sung vào quân Vũ lâm; nếu có tài được bổ làm quan ở các nha môn. Con quan cửu phẩm chỉ có<br /> 2 người được như con quan bát phẩm, còn lại các con khác như dân thường.<br /> • Với dân thường: Nhà nào cha con, anh em từ 3 đinh trở lên cùng trong 1 xã thì 1 đinh được miễn tuyển, nếu ở<br /> khác xã thì không được miễn.<br /> • Người làm thuê, làm mướn: đối tượng này nếu biết chữ và được ty Thừa tuyên bản xứ chấp thuận thì được miễn.<br /> <br /> <br /> Tổ chức quân Ngũ phủ<br /> Năm 1466, Lê Thánh Tông cải tổ hệ thống tổ chức quân đội. Quân đội toàn quốc chia làm 2 loại: thân binh thay cấm<br /> binh bảo vệ kinh thành, còn ngoại binh trấn giữ các xứ. Thân binh gồm 2 vệ Kim ngô và Cẩm y, 4 vệ Hiệu lực, 4 vệ<br /> Thần vũ, 6 vệ Điện tiền, 4 vệ Thuần tượng, 4 vệ Mã bế.<br /> Vua Lê đặt quân Ngũ phủ, mỗi phủ gồm 6 vệ, mỗi vệ có 5-6 sở.<br /> • Trung quân phủ: lãnh các xứ Thanh Hóa, Nghệ An<br /> • Đông quân phủ: lãnh các xứ Hải Dương, Yên Bang<br /> • Nam quân phủ: lãnh các xứ Sơn Nam, Thuận Hóa, Quảng Nam<br /> • Tây quân phủ: lãnh các xứ Tam Giang, Hưng Hóa<br /> • Bắc quân phủ: lãnh các xứ Kinh Bắc, Lạng Sơn.<br /> Riêng Thái Nguyên và Tuyên Quang thì thuộc vào quân Phụng Trực. Năm 1471, Lê Thánh Tông lập thêm đạo<br /> Quảng Nam chiếm được từ Chiêm Thành, giao cho Nam quân phủ kiêm luôn đạo này.<br /> "Phủ" trong trường hợp này không phải là đơn vị quân đội mà tương đương với 2 hay 3 khu vực hành chính (đạo<br /> hoặc thừa tuyên). Mỗi phủ có Tả đô đốc, Hữu đô đốc, Đồng tri đô đốc, Thiêm sự. Tại các vệ đặt chức Tổng tri, Đồng<br /> tổng tri và Thiêm tổng tri. Tại sở đặt các chức quản lãnh, phó quản lãnh, vũ úy và phó vũ úy. Mỗi ngũ được đặt 1<br /> chức Tổng kỳ[8].<br /> Quân số các đơn vị được quy định thống nhất: mỗi ty 100 người, mỗi sở 400 người, chia làm 20 đội, mỗi đội có 20<br /> người. Tổng số ngoại binh thời điểm đó có 154 sở, nghĩa là 61.600 người; thân binh trong kinh thành có 66 ty và 97<br /> sở tức là 45.000 người; số quân đô ty tại các đạo, thừa tuyên là 152 sở gồm 60.800 người. Tổng số quân thường trực<br /> trong nước có 167.800 người[9].<br /> Quân đội nhà Lê sơ 3<br /> <br /> <br /> Chế độ kỷ luật<br /> Năm 1467, Lê Thánh Tông ban hành Luật cấm vệ và quân chính, trong đó có các quy định[10]:<br /> • Những người sao quân, sao đội[11] và chánh phó ngũ trưởng nếu che đậy hoặc để cho lính trốn và bóc lột xoay<br /> tiền thì xử tội đồ, lưu; nếu nặng thì xử tử và truy tiền công theo luật.<br /> • Kẻ phải ra trận mà tìm cách xảo trá trốn tránh sẽ bị chém. Tướng chỉ huy không hỏi đến cùng thì bị xử giảm 2<br /> bậc so với người phạm tội, nếu đồng lõa thì bị xử lưu<br /> • Tướng hiệu ở nơi trấn thủ tự ý cho phép quân lính về nhà thì xử tội đồ, cho phép rời nơi đóng quân thì giảm 1 bậc;<br /> đang lúc đánh trận mà thả cho đi thì xử chém<br /> • Quân lính bỏ trốn thì xử đồ, tái phạm thì xử lưu, người chứa chấp lính trốn cũng bị tội. Xã trưởng không bắt lính<br /> trốn mang nộp cũng bị xử bớt 1 bậc so với người phạm tội; quan huyện, quan lộ biết mà đồng tình thì bị bãi chức.<br /> Lính trốn tự ra đầu thú thì được xử giảm 1 bậc và bắt đền tiền khóa dịch cho triều đình.<br /> • Quan tướng hiệu không siêng năng huấn luyện, lại sai quân sĩ làm việc riêng cho mình, nhẹ thì xử tội đồ, nặng thì<br /> xử tội lưu<br /> • Khi có kỳ duyệt tập quân đội, quân lính ai thiếu mặt thì xử phạt đánh 80 trượng, biếm làm quân đinh ở bản quân<br /> và phạt 3 quan tiền. Đội trưởng và chánh, phó ngũ trưởng mượn người thay thế cũng bị phạt đánh 80 trượng và<br /> giáng chức 3 bậc.<br /> <br /> <br /> Thành tựu<br /> Những cải cách quy định quân sự dẫn đến những thay đổi to lớn trong tổ chức binh chế thời Lê. Cùng xu hướng<br /> trung ương tập quyền cao, triều đình nắm độc quyền tổ chức lực lượng vũ trang và người đứng đầu là vua. Các quan<br /> lại quý tộc thời Lê hoàn toàn không có quyền tổ chức quân đội riêng như dưới thời nhà Trần.<br /> Chế độ duyệt tuyển của nhà Lê ngày càng hoàn thiện và chính quy hơn trước. Quân đội được chia khẩu phần ruộng<br /> đất công của làng xã, do đó yên tâm hơn trong thời gian dài trong quân ngũ. Ngoài ra, nhà Lê vẫn áp dụng chế độ<br /> "ngụ binh ư nông" như các triều trước nhằm đảm bảo sản xuất nông nghiệp, của cải vật chất cho xã hội. Chế độ này<br /> làm giảm người thoát ly sản xuất, khiến triều đình giảm bớt chi phí quân sự, bảo đảm cân đối giữa kinh tế và quốc<br /> phòng.<br /> Nhà Lê xây dựng được lực lượng quân đội hùng mạnh. Phan Huy Chú lý giải rằng, với chế độ tuyển quân chặt chẽ<br /> đảm bảo cho nhà Lê huy động được nhiều quân, do đó mới có số quân bộ đi đánh Chiêm Thành, Bồn Man là 26-30<br /> vạn[12].<br /> Quân đội hùng hậu của nhà Lê góp phần củng cố chính quyền trung ương tập quyền vững mạnh và đưa nước Đại<br /> Việt từ thời Lê Thánh Tông trở thành quốc gia hùng cường ở bán đảo Trung - Ấn, mở rộng đất đai phía tây và phía<br /> nam, khiến nhiều quốc gia ở Đông Nam Á như Chiêm Thành, Chân Lạp, Lan Xang, Chiang Mai, Ayutthaya và Java<br /> phải thần phục[13].<br /> Quân đội nhà Lê sơ 4<br /> <br /> <br /> Tham khảo<br /> • Sun Laichen. "Chinese Gunpowder Technology and Đại Việt, ca. 1390-1497". Việt Nam Borderless Histories.<br /> Madison, WI: The University of Wisconsin Press, 2006.<br /> • Viện sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3, NXB Khoa học xã hội<br /> • Đại Việt sử ký toàn thư<br /> <br /> <br /> Chú thích<br /> [1] Đại Việt sử ký toàn thư, quyển X<br /> [2] Sun Laichen. tr 89<br /> [3] Sun Laichen. tr 91<br /> [4] Sun Laichen. tr 95<br /> [5] Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 170<br /> [6] Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 176<br /> [7] Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 177<br /> [8] Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 171<br /> [9] Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 172<br /> [10] Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 179-180, 186<br /> [11] Chức vụ giữ sổ sách trong quân ngũ<br /> [12] Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 174<br /> [13] Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 187<br /> Nguồn và người đóng góp vào bài 5<br /> <br /> <br /> <br /> Nguồn và người đóng góp vào bài<br /> Quân đội nhà Lê sơ  Nguồn: http://vi.wikipedia.org/w/index.php?oldid=17484613  Người đóng góp: ASM, Duyệt-phố, Kien1980v, Porcupine, Trungda, 1 sửa đổi vô danh<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Giấy phép<br /> Creative Commons Attribution-Share Alike 3.0<br /> //creativecommons.org/licenses/by-sa/3.0/<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2