intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Toán học thời 4.0

Chia sẻ: Ketap Ketap | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

15
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết giới thiệu với bạn đọc một số vấn đề xuất hiện khi sử dụng máy tính trong chứng minh Toán học và hơn nữa, trong việc thay thế dần lao động của nhà Toán học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Toán học thời 4.0

diễn đàn khoa học - công nghệ<br /> Diễn đàn Khoa học - Công nghệ<br /> <br /> <br /> <br /> Toán học thời 4.0<br /> GS Hà Huy Khoái<br /> Trường Đại học Thăng Long<br /> <br /> <br /> “Nghề làm toán trong thời đại 4.0” có thể sẽ rất khác với những gì vẫn được hiểu hàng ngàn năm nay.<br /> Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 không chỉ tạo ra làn gió mới, mà thậm chí là “cơn bão” trong<br /> toán học, kéo theo nó, không chỉ là hứng khởi, hân hoan, mà còn cả sự nghi ngờ, tranh cãi.<br /> Những vấn đề cốt lõi lại một lần nữa được đặt ra: thế nào là “chân lý toán học”, thế nào là một “chứng<br /> minh”? Bài viết giới thiệu với bạn đọc một số vấn đề xuất hiện khi sử dụng máy tính trong chứng<br /> minh toán học, và hơn nữa, trong việc thay thế dần lao động của nhà toán học.<br /> Chứng minh toán học vào trực giác. đưa ra một số ví dụ về sai lầm của<br /> các nhà toán học.<br /> Vào thế kỷ VI và VII TCN, các học Bỏ qua nhiều lập luận logic trung<br /> giả Hy Lạp đã đưa ra cái mà về sau gian nghĩa là trong các lập luận, nhà Với những định lý mà chứng minh<br /> gọi là suy luận logic: đó là chuỗi các toán học luôn dừng lại ở mức mà tương đối ngắn, người ta có thể kiểm<br /> suy luận - các phép tam đoạn luận người đọc “hiểu được”. Chính vì thế tra từng dòng chứng minh để bảo<br /> - chúng buộc người đối thoại chấp mà trong công việc của thầy giáo đảm những lập luận trung gian đã<br /> nhận khẳng định Q một khi đã đồng toán, một phần lớn là làm cho học bị bỏ qua thực sự là đúng đắn. Tuy<br /> ý một khẳng định P trước đó. Ta biết sinh hiểu được những lập luận logic nhiên điều này không dễ khi chứng<br /> rằng, từ thế kỷ thứ V TCN, các nhà trung gian đã bị bỏ qua trong chứng minh dài khoảng 100 trang, hay hơn<br /> tư tưởng Hy Lạp đã là những bậc minh. Mặt khác, các yếu tố trực giác nữa. Đặc biệt, với những chứng minh<br /> thầy về nghệ thuật sắp xếp lý luận thường được sử dụng, nhất là trong có sự trợ giúp của máy tính thì tính<br /> thành một chuỗi liên tiếp các kết luận các chứng minh hình học, và cả trong đúng đắn của nó là điều không dễ<br /> logic, điều này được thấy rõ trong các những lĩnh vực toán học hiện đại như chấp nhận. Đặc điểm chung của<br /> tác phẩm của những nhà ngụy biện, Tô pô. Các nhà toán học sử dụng những chứng minh có trợ giúp của<br /> cũng như trong các đoạn đối thoại trực giác để làm ngắn gọn trình bày máy tính là: bằng những lập luận<br /> của Platon. Họ khám phá ra rằng, chứng minh, và tất nhiên khi cần, họ toán học, người ta đưa bài toán về<br /> những lý luận này có thể lấy bất cứ phải có lập luận logic chặt chẽ mà việc kiểm tra hữu hạn trường hợp.<br /> hoạt động nào của con người làm đối không viện đến trực giác. Tuy nhiên, trong nhiều chứng minh,<br /> tượng, đặc biệt là những công thức số hữu hạn trường hợp này là quá<br /> Với việc bỏ qua một số lập luận<br /> toán học và hình học, hầu hết trong lớn, đến nỗi người ta khó có thể tin<br /> logic và sự tham gia của trực giác,<br /> số đó đến từ nền văn minh Ai Cập hoàn toàn vào công việc của máy<br /> vấn đề đặt ra là: các định lý toán học<br /> và Babylon. Những lý luận này trở tính. Sự tranh luận trong giới toán học<br /> có đáng tin cậy hay không? Chúng<br /> thành chứng minh kết nối những định về việc có thể xem chứng minh với sự<br /> ta thường tin và sử dụng trong công<br /> lý với nhau. Những chứng minh đầu trợ giúp của máy tính là một chứng<br /> việc của mình những định lý mới,<br /> tiên được tìm thấy trong Analytica minh hay không trở nên đặc biệt sôi<br /> những kết quả mới của toán học,<br /> Posteriora của Aristotle, theo đó, các nổi sau khi xuất hiện chứng minh của<br /> nếu đó là kết quả của nhà toán học<br /> định lý được suy ra từ một chuỗi lập Bài toán 4 màu.<br /> “có uy tín”, và đăng tải trên những<br /> luận mà người đọc hiểu được không<br /> tạp chí “đáng tin cậy”. Tuy nhiên, rõ<br /> cần giải thích gì thêm, và một số tiên Bài toán 4 màu và chứng minh hình thức<br /> ràng điều này không đảm bảo tuyệt<br /> đề được chấp nhận. Có thể dễ dàng chứng minh rằng,<br /> đối cho sự đúng đắn của các định lý<br /> Chứng minh toán học theo hình đó. Nhà toán học nào cũng có thể với mọi bản đồ tuỳ ý, ta có thể dùng<br /> mẫu của Aristotle và Euclid có hai sai lầm khi bỏ qua các lập luận logic 5 màu để tô, mỗi nước một màu, sao<br /> đặc điểm nổi bật là bỏ qua nhiều suy trung gian, và người duyệt đăng cũng cho hai nước có chung phần biên giới<br /> luận logic trung gian và dựa nhiều vậy. Trong bài này, chúng tôi cũng sẽ sẽ được tô bởi hai màu khác nhau.<br /> <br /> <br /> <br /> 4<br /> Soá 4 naêm 2019<br /> Diễn đàn khoa học - công nghệ<br /> <br /> <br /> Năm 1852, Francis Guthrie đưa ra nhận rằng, bài toán 4 màu đã được triển mạnh mẽ trong những năm gần<br /> giả thuyết rằng, có thể dùng 4 màu giải. đây của lý thuyết chứng minh và<br /> để tô bản đồ tuỳ ý với yêu cầu hai kiểm tra tự động. Xa hơn nữa, toán<br /> Năm 1996, Robertson, Sanders,<br /> nước có phần biên giới chung phải có học đang đứng trước một mục tiêu rất<br /> Seymour và Thomas tiến một bước<br /> màu khác nhau. Giả thuyết trên được “lãng mạn”: sẽ đến lúc máy tính có<br /> dài khi công bố công trình “Một<br /> Cayley phát biểu chính thức vào năm thể thay thế con người trong lao động<br /> chứng minh mới của Định lý 4 màu”,<br /> 1878, và nổi tiếng với tên gọi Bài toán toán học.<br /> trong đó phần lập luận toán học còn<br /> 4 màu. Sau đó, Bài toán 4 màu đã Điều khác biệt giữa việc “kiểm tra”<br /> khoảng 20 trang, và viết chương trình<br /> nhận được rất nhiều “chứng minh”, của máy và người là gì? Người phản<br /> trên ngôn ngữ C để kiểm tra trên các<br /> và rồi lại được chỉ ra “chứng minh” biện một bài báo gửi đến tạp chí sẽ<br /> lớp đồ thị cụ thể, mà số lượng của<br /> là sai, kể cả chứng minh của một số chấp nhận khâu nào đó của chứng<br /> chúng từ 1.478 được rút xuống còn<br /> nhà toán học nổi tiếng. Xin kể ra đây minh trong bài báo là đúng khi thấy<br /> 633. Có thể tin vào chứng minh của<br /> vài ví dụ: nó “hiển nhiên đúng”. Mức độ “hiển<br /> họ được không? Nếu cho rằng 20<br /> - Năm 1879, Kempe công bố một trang lập luận toán học có thể kiểm nhiên” này phụ thuộc rất nhiều vào<br /> chứng minh. tra kỹ lưỡng thì có gì đảm bảo chương trình độ của người thẩm định. Máy<br /> trình máy tính được viết chính xác? tính không như vậy: “nó” chỉ chấp<br /> - Năm1880, Tait công bố một<br /> Và có gì đảm bảo máy tính chạy nhận một kết luận là đúng nếu mọi<br /> chứng minh khác.<br /> trong nhiều giờ (hàng ngàn giờ) để suy luận logic đều được trình bày,<br /> - Năm 1890, Heawood chỉ ra cái kiểm tra mà không gặp sai sót? dẫn dắt từ những chân lý đầu tiên, tức<br /> sai trong chứng minh của Kempe (11 là các tiên đề.<br /> Trên thực tế, người ta thấy rằng,<br /> năm sau khi chứng minh được công<br /> trung bình cứ một dòng lệnh thì người Để làm ví dụ, ta thử xem máy tính<br /> bố).<br /> lập trình mắc 1,5 lỗi. Nói chung các chứng minh “1+1=2” như thế nào:<br /> - Năm 1891, Petersen phát hiện lỗi này được lập trình viên kiểm tra và 1+1=1+S(0)=S(1+0)=S(1)=2, ở đây<br /> chứng minh của Tait cũng sai! sửa chữa ngay, nhưng trong bản cuối S là ký hiệu “phần tử đi liền sau”<br /> cùng, trung bình cứ 100 dòng lệnh thì trong hệ tiên đề số học của Peano,<br /> Năm 1976, một sự kiện gây xôn<br /> có 1 lỗi chưa được chữa. Thường thì và các phép tính thực hiện theo các<br /> xao giới toán học: Appel và Haken<br /> các lỗi nhỏ không để lại ảnh hưởng gì quy định về quan hệ giữa phép cộng<br /> công bố chứng minh Giả thuyết 4<br /> lớn trong ứng dụng, và lỗi được xem và “đi liền sau”.<br /> màu, một chứng minh có sự trợ giúp<br /> là một phần trong “văn hoá lập trình”!<br /> của máy tính. Có thể tóm tắt chứng Trong chứng minh trên, không<br /> Tuy nhiên, có một số lỗi trong lập<br /> minh của Appel và Haken như sau: có lập luận nào bị bỏ qua, không có<br /> trình dẫn đến hậu quả nghiêm trọng,<br /> trước tiên, ta đưa bài toán 4 màu về chỗ nào dựa vào trực giác. Tiếc rằng,<br /> như vụ nổ của tàu vũ trụ Ariane 5 tốn<br /> bài toán trên đồ thị. Mỗi nước được các định lý khác không đơn giản như<br /> hàng trăm triệu USD. Shamir, một<br /> thay bởi một đỉnh của đồ thị, hai đỉnh “1+1=2”, và để quay về đến tận các<br /> trong ba người sáng lập hệ mã RSA,<br /> của đồ thị được nối bởi một cạnh tiên đề, một định lý đơn giản có thể<br /> có lần phát biểu trên New York Times<br /> khi và chỉ khi hai nước tương ứng có cần đến hàng chục ngàn dòng lệnh.<br /> rằng: một lỗi nhỏ về toán trong con<br /> chung một phần biên giới. Như vậy, Chính vì thế mà khi nhóm Bourbaki<br /> chip sử dụng rộng rãi có thể dẫn đến<br /> giả thuyết 4 màu được đưa về giả đặt cho mình nhiệm vụ xây dựng lại<br /> sai sót trong mã hoá, và đặt an ninh<br /> thuyết sau: có thể dùng 4 màu để cơ sở toán học, họ đã nói là không<br /> thương mại toàn cầu vào tình trạng<br /> tô các đỉnh của một đồ thị phẳng tuỳ nhằm mục tiêu dẫn đến các chứng<br /> nguy hiểm.<br /> ý, sao cho hai đỉnh kề luôn có màu minh hình thức, vì nó đòi hỏi dung<br /> khác nhau. Như vậy, không thể hoàn toàn lượng quá lớn cho mỗi chứng minh.<br /> tin vào những chứng minh của các<br /> Bằng những lập luận toán học, Lý thuyết chứng minh hình thức<br /> nhà toán học, vì họ có thể sai. Cũng<br /> Appel và Haken đưa bài toán tổng (formal proof) có mục tiêu nhờ máy<br /> không thể hoàn toàn tin vào các<br /> quát trên về việc kiểm tra trên 1.478 tính làm thay con người cái công<br /> chứng minh có sự trợ giúp của máy<br /> đồ thị cụ thể. Phần “lập luận toán việc nhọc nhằn là kiểm tra từng khâu<br /> tính, vì chương trình có thể mắc lỗi,<br /> học” dài hơn 1.000 trang, và để kiểm chứng minh. Vấn đề là làm sao cho<br /> máy tính có thể hoạt động sai! Làm<br /> tra 1.478 đồ thị, cần phải viết chương máy tính “hiểu” được ngôn ngữ toán<br /> thế nào để có thể đạt được sự tin cậy<br /> trình máy tính. Liệu có thể tin vào học, từ đó có thể kiểm tra từng khâu<br /> cao nhất vào các kết quả toán học?<br /> một chứng minh như thế hay không? chứng minh xem có lập luận nào mâu<br /> Phần lớn các nhà toán học chưa thừa Vấn đề nêu trên dẫn đến sự phát thuẫn hoặc có lập luận nào đã bị bỏ<br /> <br /> <br /> <br /> 5<br /> Soá 4 naêm 2019<br /> Diễn đàn Khoa học - Công nghệ<br /> <br /> <br /> trống. Chứng minh hình thức là một với chứng minh hình thức, chúng ta Đây là trường hợp hiếm hoi, khi một<br /> phần trong lĩnh vực rộng lớn hơn, là sẽ bắt đầu bằng một sự kiện gây xôn bài báo được đăng mà những người<br /> tự động hoá quá trình tư duy toán xao giới toán học năm 1998: Thomas phản biện không dám tin chắc 100%<br /> học, từ phát hiện giả thuyết đến xây Hales chứng minh Giả thuyết Kepler chứng minh trong bài báo là đúng!<br /> dựng lý thuyết. (tồn tại đã 400 năm). Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, công<br /> trình được đăng sau 9 năm, kể từ khi<br /> Thực ra, ý tưởng xây dựng toàn Năm 1611 Thomas Harriot hỏi<br /> Kepler rằng làm cách nào để xếp nó được gửi đến toà soạn.<br /> bộ toán học như một ngôn ngữ hình<br /> thức đã có từ lâu, đặc biệt là khi các viên đạn đại bác hình cầu sao Thomas Hales không bằng lòng<br /> Hilbert khởi xướng chủ nghĩa hình cho đảm bảo xếp được nhiều nhất. với việc công trình của mình chỉ được<br /> thức (formalism) trong toán học, Kepler đưa ra giả thuyết: tốt nhất là “tin là đúng”, mà chưa được kiểm tra<br /> với mục tiêu đưa toán học vượt qua xếp như các bà bán cam ngoài chợ, trọn vẹn. Ông quyết định nhờ máy<br /> những khủng hoảng trong cơ sở của tức là bắt đầu xếp một lớp quả cầu tính kiểm tra, vì chỉ có máy tính mới<br /> lý thuyết tập hợp Cantor. Tham vọng trong lưới lục giác, sau đó đặt một lớp có thể tiến hành công việc nhọc nhằn<br /> của Hilbert là hình thức hoá toàn bộ tiếp theo ở điểm thấp nhất mà bạn có đó. Để kiểm tra chứng minh của<br /> toán học, xuất phát từ các tiên đề và thể đặt bên trên lớp đầu tiên, và cứ mình về tính đúng đắn của giả thuyết<br /> các quy tắc logic, khi đó định lý sẽ tiếp tục như vậy. Kepler, Hales xây dựng một đề án lấy<br /> là một mệnh đề “đúng ngữ pháp”. tên là Flyspeck, gợi ý từ ba chữ FPK<br /> Tuy nhiên, chương trình của Hilbert (Formal proof of Kepler Conjecture).<br /> sụp đổ sau khi xuất hiện công trình Dự án này kết thúc vào năm 2014, và<br /> nổi tiếng của Goedel: định lý về như vậy, chứng minh của Hales được<br /> tính không đầy đủ (incompleteness kiểm tra đầy đủ.<br /> theorem, còn gọi là định lý bất toàn).<br /> Tuy nhiên, có thể tin được hay<br /> Theo định lý Goedel, một hệ tiên đề<br /> không vào “sự kiểm tra” đó? Nói<br /> phi mâu thuẫn thì sẽ không đầy đủ,<br /> cách khác, cần kiểm tra tính đúng<br /> tức là luôn tồn tại những mệnh đề<br /> đắn của việc kiểm tra chứng minh<br /> không thể chứng minh hay bác bỏ<br /> bằng máy tính! Khi xây dựng đề<br /> nếu chỉ sử dụng những lập luận nội<br /> án của mình, Hales dùng hệ HOL<br /> tại của hệ tiên đề đó. Hệ quả hiển<br /> Light (Lightweight implementation of<br /> nhiên của nó là không thể hình thức<br /> Higher Order Logic). HOL Light vừa<br /> hoá toàn bộ toán học.<br /> là một hệ tiên đề toán học, vừa là một<br /> Mặc dù không thể đạt được mục Cách xếp này cho mật độ sử dụng chương trình máy tính. Phần quan<br /> tiêu cuối cùng, nhưng chủ nghĩa hình không gian tối ưu, khoảng trọng nhất trong HOL Light là những<br /> thức của Hilbert đã mang lại diện mạo dòng lệnh liên quan các tiên đề và<br /> mới cho toán học. Các lý thuyết toán các quy tắc logic, gọi là hạt nhân<br /> học trở nên chặt chẽ hơn, và nhiều Thomas Hales đưa ra một chứng của hệ thống. Mỗi một lỗi trong hạt<br /> hệ chứng minh hình thức ra đời. Nổi minh rất khó kiểm tra: chứng minh nhân có thể dẫn đến sai lầm thảm<br /> tiếng nhất là các hệ Coq, HOL Light, của ông bao gồm 300 trang lập luận họa của cả hệ thống. Chẳng hạn,<br /> Isabelle. Người ta xây dựng được toán học và chương trình tính toán một tiên đề được viết sai có thể phá<br /> nhiều chứng minh hình thức cho khoảng 50.000 dòng lệnh! Năm vỡ tính phi mâu thuẫn của hệ thống.<br /> những định lý nổi tiếng của toán học, 1996, ông gửi công trình của mình Rất may, hạt nhân này chỉ chiếm 500<br /> như Định lý về tính không đầy đủ của đến tạp chí toán học uy tín nhất là dòng lệnh, và như vậy có thể kiểm tra<br /> Goedel (1986), Luật thuận nghịch Annals of Mathematics. Toà soạn kỹ lưỡng để tin rằng trong hạt nhân<br /> toàn phương của Gauss (1990), phải làm một việc chưa từng có: nhờ không có lỗi. Tuy nhiên kinh nghiệm<br /> Định lý cơ bản của giải tích (1996), 12 người phản biện. Các phản biện sử dụng các hệ chứng minh hình<br /> Định lý cơ bản của đại số (2000), Bài tiến hành seminar trong 9 năm trời thức cho thấy đối với mỗi hệ, người<br /> toán 4 màu (2004), Định lý điểm bất để kiểm tra, và không tìm thấy một ta tìm ra lỗi sau khoảng 10-15 năm<br /> động Brouwer (2005), Định lý đường sai sót nào. Tuy nhiên họ thừa nhận sử dụng.<br /> cong Jordan (2005), Định lý thặng dư là không thể đủ sức kiểm tra toàn bộ, Mặt khác, theo định lý Goedel,<br /> Cauchy (2007), Định lý số nguyên tố và đề nghị toà soạn đăng vì “tin rằng mỗi hệ chứng minh hình thức không<br /> (2008), Giả thuyết Kepler (2014). chứng minh là hoàn toàn đúng”! Bài thể “tự mình” kiểm tra được chân lý.<br /> Để làm rõ một số vấn đề đặt ra đối báo của Hales được đăng năm 2005. Để khắc phục điều đó, người ta dùng<br /> <br /> <br /> <br /> 6<br /> Soá 4 naêm 2019<br /> Diễn đàn khoa học - công nghệ<br /> <br /> <br /> hệ hình thức này để kiểm tra tính suy luận logic để tạo ra con đường ý định vượt qua mọi giới hạn của tri<br /> đúng đắn của hệ hình thức khác. Giả nối từ giả thiết đến kết luận, thông thức thì chỉ còn cách dựa vào máy<br /> sử mỗi hệ hình thức có xác suất sai qua những định lý đã có sẵn. Xuất tính. Sẽ đến ngày tri thức nhân loại<br /> lầm p, thì khi kiểm tra một hệ nào đó phát từ các giả thiết, nhà toán học bắt được lưu giữ trong hệ thống máy tính,<br /> bằng cách sử dụng n hệ khác, ta có đầu vận dụng những kiến thức mà và thỉnh thoảng máy sẽ cho ta những<br /> thể đưa xác suất sai lầm đến pn. Với mình có được, bổ sung thêm những tri thức mà ta không thể biết chúng từ<br /> n đủ lớn thì xác suất này gần bằng 0. kiến thức mới cần thiết, và từ đống đâu ra, tức là không biết chúng được<br /> “hỗn độn” đó, tìm ra con đường đi cần “chứng minh” như thế nào.<br /> Những lập luận trên đây chỉ ra<br /> rằng, những chân lý toán học, nếu thiết. Thật khó chấp nhận cái ngày mà<br /> không phải là quá phức tạp, thì dù Làm thế nào để máy tính thực máy tính cho ta các lý thuyết toán học<br /> được chứng minh chỉ bởi các nhà toán hiện được công việc nêu trên của nhà mới, các kết quả mới, mà chỉ “nó” biết<br /> học, hay có sự trợ giúp của máy tính, toán học? Trước tiên cần cung cấp cách chứng minh! Tuy nhiên, các nhà<br /> đều chỉ là chân lý tương đối! Điều cho máy tính các kiến thức toán học. toán học sẽ biết cách tìm chỗ đứng<br /> này thực ra không dễ chấp nhận đối Dự án FAB nhằm viết lại dần dần các không thể thay thế được của mình<br /> với nhiều nhà toán học truyền thống. định lý toán học dưới ngôn ngữ hình trong cơn bão 4.0, với những máy<br /> thức để máy có thể “hiểu” được. Khi tính biết tư duy!<br /> Một số nhà toán học còn cực đoan<br /> đã có đủ nhiều kiến thức, với khả Voevodsky (1966-2017), nhà toán<br /> đến mức cho rằng, nếu một chân lý<br /> năng xử lý tín hiệu lớn, máy tính sẽ có học Nga được giải thưởng Fields năm<br /> toán học được chứng minh mà không<br /> lợi thế hơn rất nhiều so với con người 2002, đã đề ra một chương trình lớn<br /> cần đến sự trợ giúp của máy tính thì<br /> trong việc phát hiện ra quy luật, tức được gọi là “Univalent Foundations<br /> đó chỉ có thể là… chân lý tầm thường!<br /> là đưa ra các giả thuyết, đồng thời tìm of Mathematics”, với tham vọng<br /> Họ cho rằng chỉ sau 20, 30 năm nữa<br /> kiếm rất nhanh con đường đi từ giả xây dựng lại toàn bộ cơ sở toán học<br /> thôi, tất cả những gì mà toán học<br /> thiết đến kết luận. theo ngôn ngữ hình thức. Khác với<br /> ngày nay làm được sẽ trở thành quá<br /> dễ với máy tính! Với những nhà toán Ví dụ của chứng minh “1+1=2” đã công việc của Bourbaki, dự án của<br /> học theo quan điểm đó, toán học nêu trên đây phần nào cho ta thấy Voevodsky khi hoàn thành sẽ giúp<br /> cuối cùng sẽ có số phận như môn cờ khó khăn của công việc mà FAB phải kiểm tra tự động các chứng minh toán<br /> vua, khi mà nhà vô địch thế giới có làm: để đưa được mỗi một định lý học. Theo ông, đến ngày đó, khi nhà<br /> thể bị đánh bại dễ dàng bởi một máy thành ngôn ngữ hình thức, cần phải toán học gửi một công trình mới đến<br /> đánh cờ! hình thức hoá rất nhiều khái niệm toà soạn, anh ta sẽ phải gửi thêm một<br /> toán học. chương trình kiểm tra tự động. Như<br /> Dự án FAB vậy, người phản biện không cần kiểm<br /> Dự án FAB được bắt đầu từ năm<br /> FAB (Formal Abstracts in tra tính đúng đắn của bài báo nữa,<br /> 2018, với sự hợp tác của các nhóm<br /> Mathematics) là dự án có một tham mà chỉ nhận xét về tầm quan trọng<br /> nghiên cứu thuộc ba trường đại học<br /> vọng lớn: làm cho máy tính không mà thôi. Tiếc rằng Voevodsky đã ra<br /> là University of Pittsburgh, Carnerie<br /> những có thể kiểm tra tính đúng đắn đi quá sớm, khi dự án đầy tham vọng<br /> Mellon University (Hoa Kỳ) và Trường<br /> của các chứng minh, mà còn phát của ông vẫn còn dang dở ?<br /> Đại học Thăng Long (Việt Nam). Dự<br /> hiện ra các định lý mới, chứng minh án được tài trợ bởi Sloan Foundation, TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> chặt chẽ các định lý đó. Nói cách do giáo sư Thomas Hales, nhà toán<br /> 1. Th. Hales (1994), “The status of<br /> khác, máy tính làm thay công việc học hàng đầu trong lĩnh vực chứng the Kepler Conjecture”, The Mathematical<br /> của nhà toán học. minh hình thức, lãnh đạo. Intelligencer, 16(3), pp.47-58.<br /> Nói cho cùng, công việc của 2. Th. Hales (2005), “A proof of the<br /> Lời kết<br /> nhà toán học là: trên cơ sở quan sát Kepler conjecture”, Annals of Mathematics,<br /> những sự kiện toán học hay những Trong cuốn “Cái bóng của tư 162, pp.1065-1185.<br /> hiện tượng tự nhiên và xã hội, phát duy”, Penrose có nói đại ý: cho đến 3. Th. Hales (2015), Formal proof,<br /> hiện và phỏng đoán một số kết quả nay, bất kỳ một tri thức nào của nhân Notices of the AMS.<br /> có thể có, tức là đặt ra các giả thuyết. loại cũng phải nằm trong một bộ óc 4. V. Voevodsky (2014), Computer<br /> Bước tiếp theo là chứng minh hoặc cụ thể nào đó (nói nôm na, nếu “nhân Proof Assistants and Univalent Foundations<br /> bác bỏ giả thuyết đã đặt ra. Để làm loại” biết điều gì đó thì có nghĩa là ít of Mathematics, CMA 2014.<br /> việc này, nhiều khi phải xây dựng nhất một người biết điều đó!). Mà bộ 5. R. Penrose (1989), Shadows of the<br /> những khái niệm và lý thuyết mới. óc của mỗi cá nhân đều có giới hạn Mind: A Search for the Missing Science of<br /> Một chứng minh chính là một chuỗi của nó. Như vậy, nếu nhân loại có Consciousness, Oxford University Press.<br /> <br /> <br /> <br /> 7<br /> Soá 4 naêm 2019<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2