ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
----------
LÊ THỊ CẨM VÂN QUY CHIẾU THỜI GIAN TRONG TIẾNG VIỆT
TỪ GÓC NHÌN NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Huế, 2023
ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ---------- LÊ THỊ CẨM VÂN
QUY CHIẾU THỜI GIAN TRONG TIẾNG VIỆT
TỪ GÓC NHÌN NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN
Ngành: NGÔN NGỮ HỌC
Mã số: 9229020
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS. TS Nguyễn Văn Hiệp
2. PGS. TS Trương Thị Nhàn
Huế, 2023
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Thời gian là vấn đề được đề cập từ rất sớm và là một trong những vấn đề quan trọng trong lịch sử tư duy, lịch sử khoa học của nhân loại. Tuy vậy, cho đến nay, thời gian trong ngôn ngữ và tư duy vẫn là vấn đề cần được tiếp tục tìm hiểu. Trong lịch sử ngôn ngữ học thế giới, vấn đề thời gian đã được tiếp cận từ góc độ nghiên cứu ngữ nghĩa của hệ thống ngữ pháp, từ Lý thuyết Ẩn dụ ý niệm, Lý thuyết Ý niệm từ vựng và mô hình tri nhận, Lý thuyết khung quy chiếu thời gian. Ở Việt Nam, việc tiếp cận thời gian từ các khung quy chiếu (KQC) theo quan điểm Tri nhận luận là mảng hoàn toàn khuyết thiếu. Từ thực tế đó, luận án hướng đến nghiên cứu “Quy chiếu thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận”. 2. Mục đích nghiên cứu: a. Vận dụng lý thuyết Khung quy chiếu thời gian vào nghiên cứu trên đối tượng tiếng Việt; b. Làm rõ cách người Việt quy chiếu thời gian theo đường hướng Ngôn ngữ học tri nhận, từ đó đóng góp cách nhìn khác về vấn đề thời gian trong tiếng Việt so với các văn liệu hiện có. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ: tổng thuật lý thuyết về KQC thời gian; miêu tả, phân tích dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt; phân tích các KQC thời gian trong tiếng Việt; phân tích sự đồ chiếu từ KQC không gian sang KQC thời gian trong tiếng Việt; phân tích sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua một số từ có nghĩa gốc chỉ không gian trong tiếng Việt. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: quy chiếu thời gian trong tiếng Việt. 4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt; các KQC thời gian trong tiếng Việt; sự đồ chiếu từ các KQC không gian sang các KQC thời gian trong tiếng Việt; sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua một số từ không gian được chuyển nghĩa để chỉ thời gian trong tiếng Việt.
Phạm vi ngữ liệu: ngữ liệu chủ yếu được lấy từ https://s.ngonngu.net/corpus/. Ngoài ra còn có ngữ liệu từ Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê, 2009), Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý, 1999), Tuyển tập Văn học dân gian Việt Nam – Tục ngữ (2 tập), Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh & Hoài Chân, 2015), Truyện Kiều (Nguyễn Du, 2015), Kho tàng truyện Nôm khuyết danh (2000), khối liệu Việt ngữ trên trang https:/sketchengine.eu và một số trang web khác. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1 Cách tiếp cận: Luận án tiếp cận vấn đề theo đường hướng của Ngôn ngữ học tri nhận, phối hợp cả phương pháp định tính và phương pháp định lượng, trong đó phương pháp định tính chiếm ưu thế. 5.2 Phương pháp nghiên cứu: luận án sử dụng chủ yếu phương pháp nội quan. Ngoài ra còn có phương pháp miêu tả với thủ pháp thống kê, thủ pháp phân loại và hệ thống hoá, thủ pháp phân tích vị từ - tham tố, thủ pháp so sánh. 6. Đóng góp của luận án: Về mặt lí luận, luận án: giới thiệu lý thuyết Khung quy chiếu thời gian – một lý thuyết chưa từng được giới thiệu và ứng dụng trong nghiên cứu ở Việt Nam; là công trình đầu tiên phân tích về dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt; góp
1
thêm cứ liệu ngôn ngữ và bổ sung vào hệ lý thuyết mô hình KQC thời gian tương đối khác với các mô hình đã được công bố; đóng góp vào nguồn văn liệu mô tả sự đồ chiếu các KQC không gian lên các KQC thời gian những trường hợp và bình diện không được đồ chiếu; bổ sung khoảng trống đồ chiếu cấu trúc ngôn ngữ từ không gian sang thời gian; phân tích các trường hợp đồ chiếu cụ thể từ không gian lên thời gian mà sự phân tích khái quát ở cấp độ KQC không bao quát hết được; bổ sung các sự tình diễn ra tại thời điểm nói như là trường hợp của KQC nội tại trực chỉ, đây là vấn đề chưa được các nhà nghiên cứu đề cập khi miêu tả các KQC thời gian trong các ngôn ngữ tự nhiên. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án có thể ứng dụng trong dạy học Ngôn ngữ học tri nhận và tiếng Việt nâng cao cho người nước ngoài, trong xây dựng từ điển và dịch thuật. 7. Bố cục của luận án: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án được triển khai thành ba chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận; Chương 2: Các khung quy chiếu thời gian và sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt; Chương 3: Tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian quan phạm trù không gian trong tiếng Việt.
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Dẫn nhập: Trong chương này, luận án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận làm nền tảng cho việc phân tích quy chiếu thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận. 1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.2.1 Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở phạm vi ngoài nước 1.2.1.1 Tình hình nghiên cứu tri nhận dòng thời gian tinh thần trong các ngôn ngữ tự nhiên
Cho đến nay, dòng thời gian tinh thần được nghiên cứu trên hai cấp độ: cấp độ ngôn ngữ và cấp độ tinh thần, với hai hướng: phân tích cứ liệu ngôn ngữ và phân tích thực nghiệm. Dòng thời gian chưa từng được các nhà Việt ngữ học đặt thành đối tượng nghiên cứu khi phân tích về thời gian trong tiếng Việt. 1.2.1.2 Tình hình nghiên cứu xác lập lý thuyết khung quy chiếu thời gian Hiện còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về hệ thống KQC thời gian.
2
Mốc quy chiếu Ego
Mốc quy chiếu
Mốc quy chiếu là sự tình trong chuỗi
Mốc quy chiếu nằm trong trường thời gian tổng thể
Tác giả
sát
KQC dựa vào trường
KQC dựa vào Ego Ẩn dụ điểm quy chiếu Ego Ẩn dụ điểm quy chiếu
Bảng 1.1 Các quan niệm khác nhau về hệ thống khung quy chiếu thời gian Mốc quy chiếu ở Nền, có sự chuyển dịch hệ toạ độ từ người quan sang Nền
Moore Núñez và Sweetser
Thời gian
Yu
Khung con người trực chỉ
Khung con người xếp chuỗi
Khung thời gian trực chỉ
Khung thời gian xếp chuỗi
Zinken
KQC nội tại HTĐ: Hình, Nền
Tenbrink KQC nội tại
huống
KQC tuyệt KQC nội đối tại Khi Nền và Khi Nền gốc toạ độ và gốc toạ độ là một khác nhau KQC tuyệt đối (tình huống tĩnh, động)
(tình tĩnh, động)
KQC tương đối HTĐ: Hình, Nền, Người quan sát KQC tương đối (tình huống động)
Kranjec
Bộ khung thời gian trực chỉ Bộ khung thời gian nội
tại
Bộ khung thời gian ngoại tại
Evans
KQC trực chỉ Thì tuyệt đối
KQC chuỗi Thì tương đối
KQC nội tại
Bender và cộng sự
KQC ngoại tại KQC tuyệt đối
KQC tương đối
Biến thể trực chỉ
Biến thể chuỗi nối tiếp
Trong các quan niệm trên, hệ thống bao quát nhất, có khả năng phản ánh quan hệ thời
gian đa dạng trong ngôn ngữ tự nhiên nhất là hệ thống do Bender và cộng sự xác lập. 1.2.1.3 Tình hình nghiên cứu sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian sang khung quy chiếu thời gian
Nghiên cứu thời gian thông qua không gian có truyền thống lâu đời trong Ngôn ngữ học. Phần lớn các tác giả nghiên cứu về KQC thời gian đều có đề cập đến cơ sở không gian trong tri nhận thời gian và xác lập sự đồ chiếu giữa hai phạm trù. Một số tác giả đã dựa trên hệ thống KQC không gian để xây dựng KQC thời gian, chẳng hạn như lý thuyết bộ khung thời gian của Kranjec (2006); hệ thống KQC thời gian của Tenbrink (2011), Zinken (2010), Bender và cộng sự (2010, 2014). Nghiên cứu sự đồ chiếu từ không gian lên thời gian còn xác lập các quan hệ thời gian qua hai hệ thống ẩn dụ có cội nguồn từ sự
3
vận động trong không gian: Ego chuyển động và Thời gian chuyển động (Lakoff và Johnson, 1980; Moore, 2011, 2014). 1.2.2 Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở phạm vi trong nước
Ở Việt Nam, cho đến nay, vấn đề thời gian chủ yếu được nghiên cứu từ bình diện ngữ nghĩa ngữ pháp, ngữ nghĩa từ vựng hoặc từ cấu trúc ý niệm gắn với các khuynh hướng, lý thuyết là Cấu trúc luận, Chức năng luận, Lý thuyết trường nghĩa, Lý thuyết Ngữ học tạo sinh, Ngữ pháp tri nhận, Lý thuyết Ẩn dụ ý niệm. Theo đường hướng Tri nhận luận, chủ yếu các tác giả xem xét vấn đề gian trong tiếng Việt từ Lý thuyết Ẩn dụ ý niệm.
a. Từ thập kỉ đầu của thế kỉ XXI, một số nhà Việt ngữ học đã ứng dụng Lý thuyết Ẩn dụ ý niệm vào nghiên cứu vấn đề thời gian. Trần Văn Cơ (2005) đã điểm qua vấn đề tri nhận thời gian và đưa ra các biểu thức chứng minh thời gian được tri giác như những vật có thật trong thế giới khách quan. Nguyễn Đức Dân (2009) khẳng định người Việt có sự phân biệt sự tình ở hiện tại, tương lai và quá khứ; nhận thức về tính chu kì, tính liên tiếp, tính tức thì của sự tình; dùng trước đây để chỉ quá khứ, sau này, sau đây để chỉ tương lai. Nguyễn Văn Hán (2011) xác định các cách thức định vị thời gian trong tiếng Việt: định vị theo mức độ chuyển dịch gần – xa; định vị trước – sau/ tới - lúc này; định vị thời gian trong chuỗi sự kiện không có người quan sát tham gia; định vị thời gian TRÊN – DƯỚI theo chiều đứng của chủ thể; định vị thời gian qua từ vựng có ý nghĩa thời gian; xem xét ẩn dụ thời gian trong thơ ca tiếng Việt đối chiếu với thơ ca tiếng Anh.
Trần Văn Minh (2015) chỉ ra rằng “Điểm tham chiếu khác nhau sẽ cho ra các cách biểu đạt khác nhau về mặt ngôn ngữ, đôi khi là trái ngược”, điểm tham chiếu có thể là người quan sát, cũng có thể là một “thực thể” thời gian. Trần Thị Lan Anh (2019) khảo sát và mô tả ẩn dụ ý niệm THỜI GIAN LÀ CON NGƯỜI trong tập Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ, trong đó tác giả cho thấy có sự đồ chiếu từ miền nguồn CON NGƯỜI sang miền đích THỜI GIAN.
b. Khi xem xét các ẩn dụ ý niệm chỉ thời gian trong tiếng Việt, các nhà nghiên cứu cũng đồng thời đề cập đến sự ý niệm hoá thời gian qua phạm trù không gian. Nguyễn Hoà (2007) cho rằng người Việt tri nhận thời gian như một vật thể đang vận động từ tương lai về hiện tại, vào quá khứ, Ego trong mô hình này là điểm quy chiếu tĩnh; người Việt cũng tri nhận thời gian như một không gian tĩnh trong đó Ego vận động từ trái qua phải, tức từ quá khứ đến hiện tại, vào tương lai. Khi điểm quy chiếu là một sự kiện thời gian thì một sự kiện thời gian nào đó được hiểu là trước hay sau một sự kiện thời gian khác. Sự định vị trong thời gian có thể được xác định theo quan hệ hình/nền. Thời gian cũng được tri nhận là có ranh giới rõ ràng hoặc như một khối không thể phân tách, tương tự thực thể trong không gian.
Nguyễn Đức Dân (2009) cho rằng trong không gian một chiều, quan hệ không gian đặc trưng bằng khoảng cách gần xa vô hướng nhưng với thời gian thì là hữu hướng; trục không gian TRƯỚC - ĐÂY - SAU tương ứng với trục thời gian QUÁ KHỨ - HIỆN TẠI - TƯƠNG LAI. Như vậy Nguyễn Đức Dân chỉ mới đề cập một trường hợp đồ chiếu từ không gian sang thời gian với TRƯỚC đồ chiếu lên QUÁ KHỨ, SAU đồ chiếu lên TƯƠNG LAI. Quan điểm của Nguyễn Đức Dân được Hữu Đạt (2011) khẳng định một lần nữa trên cứ liệu thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt. Tuy nhiên cả hai tác giả đều chưa đi đến lý giải vì sao trước chỉ quá khứ, sau chỉ tương lai và có phải khi nào cũng vậy không.
4
Nguyễn Văn Hán (2011) cũng khẳng định vai trò của không gian trong tri nhận thời gian. Ba trong các ánh xạ được tác giả này xác lập giữa miền nguồn không gian và miền đích thời gian là: vị trí của người quan sát hiện tại, không gian phía trước người quan sát tương lai, không gian phía sau người quan sát quá khứ. Tuy nhiên đây chỉ là một trong các trường hợp đồ chiếu từ không gian lên thời gian, như sẽ được làm rõ ở chương 2 của đề tài. Nguyễn Văn Hán cũng đã xác lập các ánh xạ từ không gian thực sang thời gian thực ở trường hợp quan hệ chuỗi, theo đó có thể rút ra được phía trước được ánh xạ sang quá khứ còn phía sau được ánh xạ sang tương lai. Các ánh xạ này đưa ra một thực tế khác với kết luận về 3 ánh xạ ở trên. Từ các văn liệu đã có chúng tôi nhận thấy: việc nhận thức rõ tầm quan trọng của mốc quy chiếu, xem xét mối quan hệ giữa các thành tố tham gia vào hoạt động quy chiếu, tách bạch chúng thành các trường hợp cụ thể sẽ giúp bổ khuyết những khoảng trống trong nghiên cứu quy chiếu, định vị thời gian trong tiếng Việt. Các kết quả nghiên cứu trên là căn nền đồng thời là gợi dẫn để luận án phân tích “Quy chiếu thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận”. 1.3 Cơ sở lý luận 1.3.1 Các vấn đề lý thuyết về thời gian 1.3.1.1 Các biến thể của ý niệm thời gian: Theo Galton (2011), có ba biến thể của ý niệm thời gian là thời gian tuyến tính, thời gian tuần hoàn và thời gian toả tia. 1.3.1.2 Các thuộc tính của thời gian: Theo phân tích Galton (2011), thời gian có 4 thuộc tính: tính mở rộng (extension), tính tuyến tính (linearity), tính định hướng (directionality) và tính thời khắc (transience). 1.3.1.3 Phối cảnh thời gian: Truyền thống nghiên cứu thời gian theo đường hướng Ngữ học tri nhận thường đề cập hai cách phối cảnh: 1. Phối cảnh Ego chuyển động: người quan sát di chuyển tiến tới các sự tình trong tương lai rồi bỏ chúng lại phía sau, thời gian tĩnh trạng; 2. Phối cảnh Thời gian chuyển động: người quan sát đứng yên còn thời gian chuyển động về phía Ego, các sự tình thuộc tương lai tiến đến Ego và đi vào quá khứ. 1.3.1.4 Các mối quan hệ thời gian: Vyvyan Evans (2013) cho rằng mỗi KQC thời gian làm phát sinh một mối quan hệ thời gian khác biệt. Có ba loại quan hệ thời gian được xác lập là quan hệ tương lai/quá khứ, quan hệ sớm hơn/muộn hơn và ma trận thời gian. 1.3.1.5 Mũi tên thời gian: Trong Ngôn ngữ học, khái niệm mũi tên thời gian là cách nói mang tính ẩn dụ để chỉ tính bất đối xứng giữa quá khứ và tương lai của thời gian, theo đó thời gian được hình dung là vận động từ quá khứ đến tương lai mà không có chiều ngược lại. Mũi tên thời gian do vậy luôn chỉ về tương lai. 1.3.1.6 Dòng thời gian tinh thần: Khái niệm dòng thời gian tinh thần (mental timeline) được dùng để chỉ nhận thức mang tính không gian hoá của con người về thực thể thời gian với tư cách là một phạm trù trừu tượng (Ulrich & Maienborn, 2010). Dòng thời gian trải dài trên một trục không gian, chỉ có một hướng và kéo dài đến vô tận (Bender & Beller, 2014). Nó tồn tại như một trường tổng thể độc lập với vai trò của người quan sát. Dòng thời gian có thể được tri nhận là động hoặc tĩnh, trên đó người bản ngữ xác định thời điểm, thời đoạn, phối cảnh thời gian, xác lập quan hệ thời gian giữa các sự tình. 1.3.2 Các vấn đề lý thuyết về khung quy chiếu 1.3.2.1 Khái niệm khung quy chiếu: Theo Talmy (2000), KQC là hệ toạ độ được dùng để thiết lập sự định vị của một Hình trên một Nền từ một phối cảnh nhất định; các thành
5
tố của một KQC bao gồm: Hình F (đối tượng được định vị), Nền G (Trong quy chiếu, nhờ G mà F được định vị), Gốc X của hệ toạ độ, Điểm nhìn V của người quan sát. 1.3.2.2 Lý thuyết khung quy chiếu không gian của Levinson Levinson đưa ra hệ thống gồm ba loại KQC không gian: - KQC tuyệt đối thể hiện quan hệ song tố giữa F và G; thực hiện sự định hướng từ một trường tổng thể nằm bên ngoài F và G, F được xác định theo hướng cố định phát xuất từ G. Gốc X của hệ toạ độ thường ở trung tâm của G. Sự đánh giá về hướng mang tính quy ước văn hoá, dựa vào các hướng la bàn hoặc dựa vào hướng gió, chòm sao, sườn núi, dòng chảy của sông ngòi, đặc trưng của đường bờ biển, trục biển – đất liền. Vị trí của người quan sát, hướng nội tại của nền G đều không quan yếu.
- KQC nội tại thể hiện quan hệ song tố giữa F và G. Gốc X của hệ toạ độ ở trung tâm của G. KQC thực hiện sự định hướng từ G. G được nhận thức trực tiếp và được coi là có sự định hướng nội tại. Vị trí của người quan sát không quan yếu, ngay cả khi V không trùng với G.
- KQC tương đối thể hiện quan hệ tam tố giữa F, G và V; thực hiện sự định hướng từ điểm nhìn V của người quan sát. V khác G. F được xác định trong quy chiếu với G. Hệ toạ độ cơ sở với điểm gốc X1 thuộc V được chuyển di sang G – hệ toạ độ thứ cấp (với điểm gốc X2). Bản thân người quan sát có sự định hướng nội tại. Các trục định hướng này được chuyển di sang G theo ba cách tạo ra ba biến thể của KQC tương đối: biến thể luân chuyển, biến thể phản chiếu, biến thể chuyển dịch. 1.3.2.3 Lý thuyết khung quy chiếu thời gian của Bender và cộng sự Bender cùng các cộng sự của ông (Bender & Beller, 2014, Bender et al., 2014) đã xác lập các KQC thời gian tuyệt đối, nội tại và tương đối. Có thể tóm lược như sau: Hình 1.3 Khung quy chiếu thời gian tuyệt đối
G
Quá khứ
F Tương lai
Quá khứ F Tương lai
quan hệ nhị phân (F, G) “trước” = tương lai “vận động về phía trước” = hướng về tương lai Hình 1.4 Khung quy chiếu thời gian nội tại
G
quan hệ nhị phân (F, G) “trước” = thời điểm bắt đầu của G “vận động về phía trước” = hướng về quá khứ Hình 1.5 Khung quy chiếu thời gian tương đối a) Biến thể phản chiếu của khung quy chiếu thời gian tương đối
G
G
V
Quá khứ F F Tương lai (hiện tại) quan hệ tam phân (F, G, V) “trước” = giữa G và V “vận động về phía trước” = hướng tương lai trong quá khứ; hướng quá khứ của tương lai
6
Quá khứ F F Tương lai
G G
b) Biến thể chuyển dịch của khung quy chiếu thời gian tương đối quan hệ tam phân (F, G, V) quan hệ tam phân (F, G, V) “trước” = phía bên kia của G, giữa G và F “vận động về phía trước” = hướng quá khứ của quá khứ; hướng tương lai của tương lai V (hiện tại)
Trong lý thuyết của mình, Bender và cộng sự cho rằng KQC thời gian tương đối nếu xuất hiện thì là một trong hai biến thể nói trên. Tuy nhiên cứ liệu tiếng Việt cho thấy, KQC tương đối trong ngôn ngữ này là sự phối kết của cả hai biến thể trên. 1.3.3 Khái niệm khung và phạm trù toả tia trong Ngôn ngữ học tri nhận 1.3.3.1 Khái niệm khung: Khung là tri thức nền cần thiết để hiểu nghĩa của từ một cách tường tận. Mọi tri thức của người nói về thế giới đều có tiềm năng trở thành khung của một từ nhất định. Khái niệm khung gắn bó chặt chẽ với hiện tượng biến đổi ngôn ngữ. Cách hiểu một từ chủ yếu phụ thuộc vào cái khung liên quan đến từ mà từ đó kết hợp cùng chứ không phải chỉ trong bản thân nó. Khi một từ có sự thay đổi về khung, nghĩa là đã diễn ra quá trình toả tia, trong đó từ có sự mở rộng mạng lưới ngữ nghĩa. 1.3.3.2 Phạm trù toả tia: Lee (2001/2016) cho rằng toả tia là loại cấu trúc phạm trù phổ biến nhất. Các mạng lưới toả tia được cấu thành xung quanh nghĩa trung tâm hay nghĩa cốt lõi. Quá trình toả tia liên đới chặt chẽ với quá trình biến đổi ngôn ngữ. Từ các cấu trúc phạm trù toả tia, có thể nhận diện được các mối quan hệ tri nhận tự nhiên. Sự tương liên giữa hai miền ý niệm là cơ sở cho sự chuyển vị từ miền này sang miền khác của từ. 1.4 Tiểu kết
Trong chương này, luận án đã trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến quy chiếu thời gian theo đường hướng Ngôn ngữ học tri nhận cùng các vấn đề lý thuyết làm cơ sở cho việc triển khai đề tài.
Chương 2 CÁC KHUNG QUY CHIẾU THỜI GIAN VÀ SỰ ĐỒ CHIẾU TỪ CÁC KHUNG QUY CHIẾU KHÔNG GIAN SANG CÁC KHUNG QUY CHIẾU THỜI GIAN TRONG TIẾNG VIỆT 2.1 Dẫn nhập
Trong chương này, luận án phân tích về dòng thời gian tinh thần, các KQC thời gian, các KQC không gian, sự đồ chiếu từ các KQC không gian sang các KQC thời gian trong tiếng Việt. 2.2 Dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt 2.2.1 Trục của dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt 2.2.1.1 Trục của dòng thời gian trong tiếng Việt xét từ các biểu đạt trục ngang
Ở cấp độ ngôn ngữ, tiếng Việt ý niệm hoá dòng thời gian theo trục ngang, trục trước - sau và ngôn ngữ này phong phú các biểu đạt dòng thời gian theo trục ngang. Các từ trái, phải không được sử dụng để biểu đạt thời gian trong tiếng Việt. Ngược lại, các từ trước, sau được sử dụng rất phổ biến.
7
2.2.1.2. Trục của dòng thời gian trong tiếng Việt xét từ các biểu đạt trục dọc
Các từ chỉ trục dọc trong tiếng Việt chỉ biểu đạt ý nghĩa thời lượng, không biểu đạt thời điểm, không định vị thời khoảng, do vậy không thể suy ý về dòng thời gian từ biểu thức chứa chúng, ngoại trừ trên, tuy nhiên trên lại biểu đạt dòng thời gian theo trục ngang. => Dòng thời gian chủ đạo trong tiếng Việt phân bố theo trục ngang, trục trước – sau. => Dòng thời gian theo trục dọc rất mờ nhạt, hiện chỉ tồn tại trong các biểu đạt có
phạm vi sử dụng hạn chế hoặc đã trở thành cách nói cổ của người Việt. 2.2.2 Hướng của dòng thời gian và sự phân bố quá khứ - tương lai trên dòng thời gian trong tiếng Việt - Dòng thời gian theo trục ngang: trục trước – sau; trước chỉ tương lai, sau chỉ quá khứ. - Dòng thời gian theo trục dọc: trục trên - dưới; trên chỉ quá khứ, dưới chỉ tương lai. 2.3 Các khung quy chiếu không gian trong tiếng Việt 2.3.1 Khung quy chiếu không gian tuyệt đối trong tiếng Việt
Tồn tại một số cách xác định hướng với KQC tuyệt đối trong tiếng Việt. Theo trục ngang, phổ biến là cách xác định hướng quy chiếu theo các phương địa lý (Đông, Tây, Nam, Bắc). Trong tiếng Việt, KQC tuyệt đối với các phương như vậy chủ yếu được sử dụng khi muốn định vị vị trí địa lý của đối tượng. Ngoài ra, tuỳ đặc điểm từng vùng miền, người Việt còn xác lập các hướng cố định khác như trục biển – đất liền, núi rừng – đồng bằng/biển, dòng chảy của sông. Tuy nhiên chỉ trục biển – đất liền thuộc KQC tuyệt đối theo trục ngang. KQC không gian tuyệt đối trong tiếng Việt thể hiện quan hệ song tố giữa F và G, thực hiện sự định hướng từ một trường tổng thể nằm bên ngoài F và G trong đó F được xác định theo hướng cố định phát xuất từ G. 2.3.2 Khung quy chiếu không gian nội tại trong tiếng Việt
Để xác lập hướng nội tại của G, người Việt sử dụng ba cách để phân định các bộ phận, các mặt khác nhau của Nền: a. sử dụng hướng của trọng lực, theo đó vật thể Nền cung cấp các bề mặt “trên”, “dưới”, “mặt bên”, ví dụ: (1) Cuốn sách đặt trên bàn/ Ngòi bút rơi dưới bàn/ Nó đứng cạnh bàn cô giáo; b. sử dụng cấu trúc hình học nội tại của G, chẳng hạn như “trái, phải, trước, sau, trên, dưới” ở cơ thể người: (2) Quyển sách ở ngay trước mặt cậu ấy/ ngay sau lưng cậu ấy/ bên tay phải cậy ấy/ bên tay trái cậu ấy; c. sử dụng các tiêu chí chức năng, hướng chính tắc, hướng chuyển động của vật thể, như mặt trước, mặt sau của tivi, phía trước, phía sau của ngôi nhà, phía trước, phía sau của ô tô: (3) cây mai trước nhà/sau nhà, Bình hoa ở phía trước ti vi/sau ti vi, Nó đứng trước đầu xe/sau đuôi xe. Ngoại trừ trường hợp đầu, với hai trường hợp sau, các sự vật đều có tính bất đối xứng tự thân nên bản thân chúng có sự định hướng nội tại.
Các ví dụ ở (1), (2), (3) đều biểu đạt quan hệ không gian song tố giữa F và G, hướng quy chiếu được xác định dựa trên hướng nội tại của G. Hai yếu tố này với mỗi ví dụ trên lần lượt là: (1) cuốn sách/ngòi bút/nó – bàn (cô giáo); (2) quyển sách – cậu; (3) cây mai – nhà, bình hoa – ti vi, nó – đầu xe/đuôi xe. Do vậy chúng đều là các trường hợp của KQC nội tại. Như vậy KQC không gian nội tại trong tiếng Việt thể hiện quan hệ song tố giữa F và G. Hướng quy chiếu của khung được xác định dựa vào hướng nội tại của G. Vị trí của người quan sát không quan yếu. 2.3.3 Khung quy chiếu không gian tương đối trong tiếng Việt
8
Xét ví dụ sau: (4) Trong quá trình săn bắn, Chầu phát hiện có một đàn khỉ và một vật trông giống khỉ đang khuất phía sau tảng đá lớn, cách Chầu khoảng 30 m.
Với người Việt, tảng đá không tồn tại sự bất đối xứng nội tại xét theo trục ngang, nên đối tượng giúp xác lập hướng quy chiếu trong trường hợp này chỉ có thể là người quan sát. Ở ví dụ trên “một đàn khỉ và một vật trong giống khỉ” là F, tảng đá là G, phía sau được xác định là phía từ tảng đá ra xa, ngược lại với phía từ tảng đá đến người quan sát. Nếu F không ở phía sau mà là bên phải tảng đá thì phối cảnh các phía trái, phải, trước, sau trong hình dung của người Việt thuộc trường hợp của biến thể phản chiếu. Các hướng mà Levinson (2003/2004) đề cập với KQC tương đối chỉ gồm trái, phải, trước, sau mà không bao hàm kiểu định vị như ở các ví dụ sau:
(5) Nam ở ngoài sân. (ví dụ dẫn theo Lý Toàn Thắng (2005)) (6) Trong nhà đèn điện sáng trưng. (7) Ngoài đường xe cộ tấp nập. Quan hệ không gian được phản ánh ở các ví dụ trên đều là quan hệ tam tố. F – G ở các ví dụ này lần lượt là: Nam – sân, đèn điện – nhà, xe cộ - đường. Nhân tố thứ ba tham gia vào quan hệ không gian ở (5) theo Lý Toàn Thắng (2005) là nhà. Chúng tôi khái quát và định danh nhân tố thứ ba ở kiểu quan hệ không gian này là không gian hàm ẩn.
Các ví dụ trên có các từ ngoài, trong, trước, sau. Chúng đưa đến suy luận về sự tồn tại của không gian hàm ẩn quy định hướng quy chiếu. Ngoài đường, ngoài sân hàm ẩn không gian trong nhà, trong nhà hàm ẩn không gian bên ngoài (nhà), sau vườn, trước ngõ hàm ẩn không gian nhà. Tuy nhiên, khác với các biến thể tương đối được Levinson (2003/2004) xác lập, ở đây: F nằm trong không gian của G chứ không phải là một đối tượng tách biệt với G; G là một không gian chứ không phải một vật thể; không có sự chuyển dịch hệ toạ độ từ V sang G mà chỉ là F trong G được nhìn từ điểm nhìn bên ngoài G; hướng quy chiếu được thiết lập từ không gian hàm ẩn chứ không phải là phóng chiếu từ G trên nền tảng phản chiếu hệ tọa độ từ V sang G; việc lựa chọn biểu thức ngôn ngữ biểu đạt hướng quy chiếu bị quy định bởi không gian hàm ẩn. Như vậy những trường hợp này đảm bảo quan hệ tam tố để thuộc về KQC tương đối nhưng lại đi ra khỏi các biến thể mà Levinson mô tả. Chúng tôi gọi đây là biến thể hàm ẩn với cách hiểu nó là biến thể của KQC tương đối, biểu thị quan hệ tam tố giữa một Hình được định vị trong một Nền, hướng của KQC được xác lập từ không gian hàm ẩn. Hiện tượng này trong tiếng Việt bổ sung vào sự đa dạng xuyên ngôn của KQC không gian tương đối trong ngôn ngữ. 2.3.4 Các trường hợp lưỡng khả
a. Tiếng Việt không có sự đánh dấu để phân biệt giữa KQC nội tại và KQC tương đối ở các trường hợp một tình huống có thể được nhìn nhận theo nhiều phối cảnh khác nhau. b. Các phương tiện biểu đạt hướng được dùng cho cả KQC nội tại và KQC tương đối. c. Trong tiếng Việt tồn tại trường hợp giao thoa giữa KQC nội tại và KQC tương đối khi G là đối tượng không có sự định hướng nội tại nhưng F lại có và F là con người. Đây là trường hợp mà Levinson chưa đề cập đến trong lý thuyết của mình.
9
2.4 Các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt 2.4.1 Khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt 2.4.1.1 Hệ quy chiếu trong khung quy chiếu thời gian tuyệt đối
Xét ví dụ: (8) Thời gian trôi đi mãi. Trong ví dụ trên, thời gian được người Việt tri nhận là đang vận động. Không có vị trí cụ thể của gốc toạ độ X. Hệ quy chiếu được đặt trong trường thời gian tổng thể. Không có tham số Nền G được phản ánh. Sự tình F “thời gian” không ngừng vận động về phía tương lai. Vị trí ban đầu của F do vậy thuộc về quá khứ, vị trí F sẽ vận động tới thuộc về tương lai. Người quan sát không tham gia vào hệ quy chiếu. Cả G và V đều không quan yếu, hệ quy chiếu có tính phi trực chỉ. Theo xác lập dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt, có thể suy ra F đang vận động về phía trước. (8) do vậy phản ánh KQC tuyệt đối.
Phổ biến hơn trong tiếng Việt là hệ quy chiếu tuyệt đối với Nền G trùng với người quan sát, dòng thời gian khi đó là dòng thời gian trực chỉ, như trong các ví dụ sau: (9) a. Phía trước là tương lai tươi sáng.; b. Bỏ lại sau lưng bao tháng năm cuộc đời tăm tối. Hướng của KQC thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt thường được hiện thực hoá bằng
các từ định hướng trước, sau, như ở ví dụ (9), hoặc được hiểu hàm ẩn, như ở ví dụ (8). 2.4.1.2 Sự tình động/sự tình tĩnh trong KQC thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt:
Các sự tình được phản ánh trong KQC thời gian tuyệt đối có thể là sự tình tĩnh hoặc sự tình động. Là sự tình tĩnh khi động từ đi với ngữ đoạn biểu thị thời trong câu không mang nét nghĩa +động, thời gian được tri nhận là một thực thể tĩnh tại, ví dụ: (10) Tương lai đang ở phía trước. Hoặc ngữ đoạn biểu thị thời gian đảm nhiệm vai trò trạng ngữ trong câu, thời gian là phông nền trên đó diễn ra sự tình khác, ví dụ: (11) Trước mắt, hãy cứ đợi xem đã. Là sự tình động khi động từ trong câu mang nét nghĩa +động, như ở các ví dụ (8), (9b). 2.4.1.3. Phối cảnh chuyển động với khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt: Phối cảnh Thời gian chuyển động: dòng thời gian chuyển động về phía tương lai (phía trước), như trong ví dụ (8) ở trên; Phối cảnh Người quan sát di chuyển: Ego vận động về phía trước trong dòng thời gian, như trong ví dụ (9b) ở trên.
Bảng dưới đây khái quát đặc điểm của KQC thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt. Bảng 2.1 Khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt KHUNG QUY CHIẾU THỜI GIAN TUYỆT ĐỐI
Hệ toạ độ Hướng Quan hệ thời gian Chiến lược quy chiếu
Trực chỉ/Phi trực chỉ F, G TRƯỚC: tương lai Tương lai/quá khứ Trực tiếp, dựa vào trường X ≠ G: phi trực chỉ X ≡ G ≡ V: trực chỉ
2.4.2 Khung quy chiếu thời gian nội tại trong tiếng Việt 2.4.2.1 Khung quy chiếu nội tại trực chỉ a. Hệ quy chiếu trong khung quy chiếu nội tại trực chỉ Xét ví dụ: (10) a. Milan từng rất thành công với thủ môn người Brazil khác là Dida
những năm đầu thập niên trước.; b. Tuần sau, cô sẽ cùng gia đình trở lại Đức. 10
Hệ quy chiếu ở các ví dụ (10) được xác lập giữa F (Milan rất thành công với thủ môn người Brazil Dida, Linh cùng gia đình trở lại Đức) và G (hiện tại chủ quan của Ego), mang tính trực chỉ. Ví dụ (10) cho thấy ý niệm QUÁ KHỨ/TƯƠNG LAI trong KQC nội tại trực chỉ tiếng Việt được tri nhận thông qua ý niệm TRƯỚC/SAU thuộc phạm trù không gian.
Hệ quy chiếu trong KQC thời gian nội tại trực chỉ tiếng Việt gồm F và G, G trùng V, F được định vị trong quy chiếu với G; hướng của KQC ngược lại với hướng của hệ quy chiếu tuyệt đối với TRƯỚC chỉ QUÁ KHỨ, SAU chỉ TƯƠNG LAI. Hệ quy chiếu này bao gồm cả trường hợp F trùng với G, khi đó F diễn ra ở thời điểm nói. Lúc này F, G, V, X trùng nhau tại một điểm trên dòng thời gian. Hệ toạ độ có tính chất dĩ nhân vi trung. Chiến lược quy chiếu do vậy là chiến lược trực tiếp dựa vào nghiệm thể.
b. Sự tình động/ sự tình tĩnh trong khung quy chiếu nội tại trực chỉ - Là sự tình tĩnh khi ngữ đoạn biểu thị thời gian đảm nhiệm vai trò trạng ngữ trong câu, thời gian là phông nền trên đó diễn ra sự tình khác, như ở ví dụ (10).
- Là sự tình động khi động từ trong câu mang nét nghĩa +động, đó vốn là động từ được chuyển nghĩa sang chỉ sự vận động trong thời gian. Ví dụ: (11) a. Hàng loạt chương trình quảng bá hình ảnh, thương hiệu cho các ngành hàng trọng điểm (…) đều phải huỷ hoặc dời lịch tổ chức sang các năm sau.; b. Nội chiến, xung đột liên miên đẩy nền kinh tế đất nước lùi lại hàng chục năm. Trong các ví dụ này, động từ trong câu chỉ sự vận động của đối thể trên dòng thời gian về phía tương lai (ví dụ 11a) hoặc về phía quá khứ (ví dụ 11b) so với thời điểm nói. Sự tình thời gian trong câu vì vậy là sự tình động. c. Phối cảnh chuyển động với khung quy chiếu thời gian nội tại trực chỉ: Do tính chất trực chỉ, chuyển động ở các sự tình thuộc KQC này có tính định hướng, gắn với ý niệm thời gian toả tia. Đó có thể là vận động của F từ hiện tại về phía tương lai hoặc từ hiện tại về phía quá khứ. Ego ở trạng thái tĩnh. Sự vận động này gắn với sự thay đổi thời điểm, thời khoảng diễn ra sự tình (như ở 11a). Vận động thay đổi thời điểm chỉ diễn ra ở nửa trục tương lai, theo đó một sự tình dịch chuyển từ thời điểm hiện tại sang một thời điểm tương lai. Ở hướng quá khứ, phối cảnh chuyển động mang tính tinh thần, tức nó chỉ là chuyển động giả định trong không gian tinh thần của người bản ngữ (như ở 11b). 2.4.2.2 Khung quy chiếu nội tại chuỗi nối tiếp a. Hệ quy chiếu trong khung quy chiếu nội tại chuỗi nối tiếp Xét ví dụ: (12) a. Theo tục lệ nhà ai có con gái gả chồng sau khi ăn hỏi xong cũng đem cau trầu biếu hàng xóm.; b. Trước đánh nhau, sau nhận họ.
Trong ví dụ (12a), sự tình “ăn hỏi” đóng vai trò của G. Nó diễn ra trước sự tình “đem cau trầu biếu hàng xóm”, nên ở quá khứ so với sự tình “đem cau trầu biếu hàng xóm”. Ngược lại, sự tình “đem cau trầu biếu hàng xóm” diễn ra sau sự tình “ăn hỏi” hay nó thuộc về tương lai của sự tình “ăn hỏi”. Quan hệ thời gian giữa hai sự tình ở (12a) hoàn toàn giống với quan hệ thời gian được phản ánh ở (12b). Ở cả hai ví dụ trên, quan hệ thời gian quá khứ/tương lai được phản chiếu lên trục TRƯỚC/SAU và chính trật tự giữa hai sự tình ấn định hướng của chuỗi – hướng về quá khứ. Quan hệ thời gian này chỉ diễn ra giữa F và G tham gia vào quá trình quy chiếu, độc lập với vị trí của người quan sát. Như vậy chúng là các trường hợp cụ thể của KQC nội tại biến thể chuỗi nối tiếp trong tiếng Việt.
11
KQC nội tại chuỗi nối tiếp cũng được biểu đạt bằng danh ngữ cấu thành từ danh từ chỉ đơn vị thời gian kết hợp với trước/sau, ví dụ: (13) Năm trước được cau, năm sau được lúa (Tục ngữ). Tuy nhiên năm trước, năm sau ở (13) không biểu đạt thời gian trực chỉ như cách sử dụng chúng ở KQC tuyệt đối. Khi không có các từ trước, sau đánh dấu, quan hệ chuỗi được nhận ra thông qua trật tự trong thời gian giữa các sự tình, được biểu đạt bằng trật tự từ, quan hệ nguyên nhân – kết quả, quan hệ điều kiện – kết quả, liên từ rồi.
Tóm lại, KQC nội tại chuỗi nối tiếp trong tiếng Việt gồm hai thành tố là F và G. Hệ quy chiếu này mã hoá quan hệ sớm hơn/muộn hơn giữa hai sự tình trong đó một sự tình được chọn làm mốc quy chiếu. V không quan yếu, hệ toạ độ tha trung tâm. Chiến lược quy chiếu thuộc loại trực tiếp dựa vào G. b. Sự tình động/sự tình tĩnh trong khung quy chiếu thời gian nội tại chuỗi nối tiếp
Khác với KQC tuyệt đối và KQC nội tại trực chỉ, sự tình thời gian trong KQC nội tại chuỗi nối tiếp là sự tình tĩnh. Cái được người Việt chú ý ở quan hệ chuỗi là vị trí của hai sự tình tại hai thời điểm, thời đoạn khác nhau trên dòng thời gian, vị trí này khác với Ego. Vì vậy, khi sao phỏng kịch cảnh chuỗi thực thể chuyển động trong không gian sang chuỗi sự tình trong thời gian, thuộc tính động bị triệt tiêu và không có phối cảnh chuyển động giữa các sự tình. Bảng dưới đây khái quát đặc điểm KQC thời gian nội tại tiếng Việt:
Bảng 2.3 Khung quy chiếu thời gian nội tại trong tiếng Việt KHUNG QUY CHIẾU THỜI GIAN NỘI TẠI
lược quy Hệ toạ độ Hướng Quan hệ thời gian Chiến chiếu
Trực chỉ/Phi trực chỉ Biến thể trực chỉ Biến thể chuỗi nối tiếp Biến thể trực chỉ Biến thể chuỗi nối tiếp F, G TRƯỚC: quá khứ, SAU: tương lai Quá khứ/tương lai Trực tiếp: dựa vào Ego Trực tiếp: dựa vào G; G ≠ Ego Trực chỉ Phi trực chỉ
2.4.3 Khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt 2.4.3.1 Hệ quy chiếu trong khung quy chiếu thời gian tương đối a. Hệ quy chiếu tương đối với Nền G ở tương lai Xét ví dụ: (14) Bây giờ, tôi sẽ kể cho anh nghe một điều cuối cùng trước khi tôi ngừng cuộc trò chuyện này để đưa người vợ thân yêu của tôi đi ăn sáng.
Trong ví dụ trên, thời điểm nói, tức V, là hiện tại của chủ thể phát ngôn (được hiển ngôn bằng biểu thức bây giờ). So với thời điểm này thì sự tình 1 kể cho anh nghe một điều cuối cùng thuộc về tương lai, ngay sau khi người nói nói câu này. Biểu thức trước khi cho biết sự tình 2 tôi ngừng cuộc trò chuyện này để đưa người vợ thân yêu của tôi đi ăn sáng diễn ra sau sự tình 1 và sự tình 1 được định vị là diễn ra trước nó. Điều này có nghĩa là sự tình 2 giữ vai trò Nền G hay điểm quy chiếu cho sự tình 1- sự tình F. Sự tình 1 do vậy chỉ có thể diễn ra trong khoảng thời gian sau thời điểm V và trước thời điểm G. TRƯỚC trong trường hợp này do đó là khoảng thời gian nằm giữa V và G với G là một thời điểm tương lai. Như vậy ở trường hợp này có sự xác lập quan hệ thời gian giữa ba thành tố V, G và F. Soi chiếu với Lý thuyết KQC thời gian của Bender và các cộng sự của ông (2014, 2010) thì đây là trường hợp của biến thể phản chiếu.
12
Xét một ví dụ khác: (15) (Tuy vậy pháp luật hiện nay chưa quy định rõ hình thức từ chức.) Sau khi có Nghị quyết T.Ư 8, khóa XII, QH, Chính phủ sẽ cụ thể hóa ở những văn bản quy phạm pháp luật.
Tại thời điểm câu nói trên được tạo lập (tức hiện tại chủ quan V của người nói), Nghị quyết T.Ư 8, khóa XII chưa được ban hành. Do vậy việc ban hành nghị quyết này diễn ra sau thời điểm nói, tức thuộc về tương lai. Trong quy chiếu với thời điểm ban hành nghị quyết, sự tình Chính phủ cụ thể hoá (hình thức từ chức) ở các văn bản quy phạm pháp luật diễn ra sau. Như vậy quan hệ thời gian hữu quan là quan hệ 3 thành tố. Xét tương quan giữa hai sự tình, thời điểm ban hành nghị quyết được dùng để định vị sự tình Chính phủ cụ thể hoá (hình thức từ chức) ở các văn bản quy phạm pháp luật nên có vai trò là G, sự tình được định vị kia là F. SAU trong trường hợp này do vậy được xác định là trong khoảng thời gian từ G về phía tương lai và không trùng với G. Kết hợp với trường hợp (14) vừa phân tích ở trên, có thể thấy, khi G được định vị ở một thời điểm thuộc tương lai, quan hệ thời gian tam phân trong tiếng Việt thuộc biến thể phản chiếu của KQC thời gian tương đối. b. Hệ quy chiếu tương đối với Nền G ở quá khứ
Ngược lại, khi G được định vị trong quá khứ, sự phối hợp của V, G và F trong tiếng Việt lại không phải là trường hợp của biến thể phản chiếu như mô tả của Bender và cộng sự. Lúc này, F ở trước G không thuộc khoảng thời gian giữa G và V, F ở sau G không thuộc khoảng thời gian từ G về phía quá khứ. Mà ngược lại, F ở trước G nếu nó ở khoảng thời gian từ G về quá khứ còn ở sau G nếu thuộc khoảng thời gian giữa G và V. TRƯỚC vì vậy tương ứng với quá khứ còn SAU tương ứng với với khoảng thời gian giữa Nền và điểm nhìn chủ quan của người quan sát. Chiểu theo các mô tả lý thuyết về khung quy chiếu tương đối của Bender và cộng sự thì có thể thấy nó là trường hợp của biến thể chuyển dịch. Có thể thấy điều này qua ví dụ (16) và (17) sau: (16) Câu chuyện làm cho người ta nhớ lại Vạn Lý Trường Thành, xưa nay ai cũng nói do Tần Thuỷ Hoàng xây dựng trước Thiên Chúa giáng sinh,…
(17) Lại nhớ sau khi ra trường, Triệu về phụ trách kỹ thuật ở Lữ xe Quân khu 3, … Từ các phân tích trên, luận án rút ra mô hình khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt như sau:
F
G
G
Tương lai
Quá khứ F Trước Sau Trước Sau
V
(hiện tại)
Hình 2.1 Khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt Như vậy, hai biến thể của KQC thời gian tương đối do Bender và các cộng sự của ông đề xuất (2014, 2010) chưa bao quát được trường hợp tiếng Việt. Những phân tích trên cho phép đi đến kết luận về một mô hình của KQC thời gian tương đối cho tiếng Việt khác với các mô hình đã được các nhà nghiên cứu đề xuất trước đó. Mô hình này là sự bổ sung cho việc mô tả các KQC thời gian trong các ngôn ngữ tự nhiên trên thế giới.
13
2.4.3.2 Sự tình động/ sự tình tĩnh trong khung quy chiếu thời gian tương đối
Sự tình thời gian được phản ánh trong KQC tương đối tiếng Việt có thể là sự tình tĩnh hoặc sự tình động. Là sự tình tĩnh như ở ví dụ (14), (15), (16), (17). Là sự tình động khi: - Trong câu có động từ biểu đạt sự vận động của F trên dòng thời gian, ví dụ: (18) Trước đó, thời điểm phóng vệ tinh này đã phải lùi lại một ngày do có gió mạnh.
- Trong câu có động từ biểu đạt sự dịch chuyển điểm nhìn của Ego trên dòng thời gian, ví dụ: (19) Lùi lại trước đó vài ngày, Tuấn Mạnh vẫn rất háo hức hướng đến mùa giải mới, anh thậm chí còn khoe đôi giày Mizuno vừa được tặng với sự phấn khởi sẽ chơi thành công cùng Khánh Hoà. 2.4.3.3 Phối cảnh chuyển động trong khung quy chiếu thời gian tương đối
- Phối cảnh F chuyển động: Trong ví dụ (18) trên, G (“đó”) và V đều ở trạng thái tĩnh. Chỉ có sự dịch chuyển thời điểm phóng vệ tinh khiến sự tình hữu quan trở thành sự tình động. Tính chất động của sự tình thời gian đang xét như vậy do thành tố F quy định. - Phối cảnh V chuyển động: Với ví dụ (19), G là thuộc quá khứ, biểu đạt bằng đó. G và F đều ở trạng thái tĩnh. V có sự dịch chuyển trên dòng thời gian. V là nhân tố khiến sự tình thời gian ở (19) mang tính động. Sự dịch chuyển của V chỉ diễn ra trong không gian tinh thần, gắn với sự dịch chuyển điểm nhìn trên dòng thời gian ngược về quá khứ. Như vậy, trong hệ quy chiếu tương đối tiếng Việt, nếu là sự tình động thì chỉ một tham tố vận động, đó là F hoặc V, còn G không vận động.
Bảng dưới đây khái quát các đặc điểm của KQC thời gian tương đối trong tiếng Việt: Bảng 2.3 Khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt KHUNG QUY CHIẾU THỜI GIAN TƯƠNG ĐỐI Hệ toạ độ
Biến thể phản chiếu Hướng Biến thể chuyển dịch
Quan hệ thời gian Chiến lược quy chiếu Trực chỉ/Phi trực chỉ F, G, V G ở tương lai TRƯỚC: giữa V và G, SAU: từ G về phía tương lai G ở quá khứ TRƯỚC: từ G về phía quá khứ; SAU: giữa G và V Ma trận thời gian Gián tiếp: chuyển hệ toạ độ từ V sang G Phi trực chỉ
2.5 Sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt 2.5.1 Sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian với trường hợp khung quy chiếu thời gian tuyệt đối 2.5.1.1 Sự đồ chiếu hệ quy chiếu: Đồ chiếu hệ quy chiếu song tố gồm F và G, hướng của KQC là hướng của trường tổng thể. Có sự đồ chiếu nguyên bản một sự tình chuyển động trong không gian lên một sự tình chuyển động trong thời gian. 2.5.1.2 Sự đồ chiếu trường tổng thể: Thời gian chỉ được đồ chiếu lên không gian một chiều: trục TRƯỚC – SAU. 2.5.1.3 Sự đồ chiếu các trục bất đối xứng và hướng Hướng trong KQC không gian tuyệt đối không được đồ chiếu lên thời gian do dòng
thời gian được tri nhận phân bố theo trục TRƯỚC – SAU. 2.5.2 Sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian với trường hợp khung quy chiếu thời gian nội tại 14
2.5.2.1 Sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian với trường hợp khung quy chiếu thời gian nội tại trực chỉ
a. Sự đồ chiếu hệ quy chiếu Không có sự đồ chiếu lên thời gian trường hợp quy chiếu không gian nội tại có hướng quy chiếu được xác định dựa vào F, xuất hiện khi Nền là đối tượng không có cấu trúc định hướng nội tại và F là con người.
Với biến thể còn lại, sự đồ chiếu diễn ra rõ nét: KQC thời gian nội tại trực chỉ bảo lưu quan hệ giữa F và G khi chuyển di giữa hai phạm trù, hướng KQC được xác định theo hướng nội tại của G, quan hệ quy chiếu chỉ xác lập giữa F và G, vị trí của người quan sát không quan yếu. Điều này được hiện thực hoá dưới lớp vỏ ngôn ngữ không gian được dùng để phản ánh quan hệ thời gian nội tại trực chỉ. Ngoài ra, có thể thấy rõ sự sao phỏng mô hình chuỗi thực thể trong không gian (với các sự tình động) sang chuỗi các sự tình trong thời gian, bao gồm cả hướng và cách phân bố các thành tố tham gia vào KQC ở trường hợp biến thể chuỗi nối tiếp của KQC thời gian nội tại.
b. Sự đồ chiếu các trục bất đối xứng và hướng Sự đồ chiếu chỉ diễn ra với trục trước - sau. Hướng nội tại của G ở không gian được đồ
chiếu lên hướng nội tại của G ở thời gian với TRƯỚC chỉ QUÁ KHỨ, SAU chỉ TƯƠNG LAI. 2.5.2.2 Sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian với trường hợp khung quy chiếu thời gian nội tại chuỗi nối tiếp
Chuỗi thực thể vận động trong không gian được sao phỏng sang chuỗi các sự tình trong thời gian. Trong rất nhiều khả năng phân bố chuỗi trong không gian, chỉ một khả năng phân bố chuỗi là được đồ chiếu sang thời gian, đó là sự phân bố theo trục TRƯỚC – SAU với TRƯỚC chỉ QUÁ KHỨ, SAU chỉ TƯƠNG LAI. 2.5.3 Sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian với trường hợp khung quy chiếu tương đối
Với KQC không gian tương đối, tiếng Việt có ba biến thể, tuy nhiên chỉ biến thể gồm ba tham số: F, G và V trong đó G không trùng với V, gốc X của hệ toạ độ ở V được chuyển di sang G là được đồ chiếu sang thời gian. 2.5.3.1 Sự đồ chiếu biến thể chuyển dich từ không gian sang thời gian trong tiếng Việt Với nửa trục toả tia hướng quá khứ, phạm trù thời gian bảo lưu sự chuyển dịch hệ toạ
độ từ V sang G của biến thể chuyển dịch trong không gian. 2.5.3.2 Sự đồ chiếu biến thể phản chiếu từ không gian sang thời gian trong tiếng Việt Với nửa trục toả tia hướng tương lai, phạm trù thời gian bảo lưu sự phản chiếu hệ toạ
độ từ V sang G của biến thể phản chiếu trong không gian. 2.5.4 Nhận xét về sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian lên khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt
Sự đồ chiếu các KQC từ không gian lên thời gian trong tiếng Việt bao gồm sự đồ chiếu về số lượng thành tố tham gia vào KQC, vai trò của từng thành tố, sự phân bố các thành tố và cả chiến lược quy chiếu.
Trong không gian ba chiều, các thực thể có cấu trúc bất đối xứng nội tại đưa đến sự phân định ba trục TRÊN/DƯỚI, TRƯỚC/SAU, HƯỚNG VÀO/HƯỚNG RA XA. Tuy nhiên, chỉ trục TRƯỚC/SAU được đồ chiếu sang thời gian, với cả ba KQC. TRƯỚC đồ chiếu sang quá khứ hoặc tương lai tuỳ vào KQC nào đang được áp dụng và không hề mâu thuẫn khi TRƯỚC vừa có thể được ấn định thuộc quá khứ vừa có thể được ấn định thuộc tương lai.
15
Với KQC thời gian tuyệt đối, nguyên lý dĩ ngã vi trung vẫn chi phối nhận thức về thời gian. Trong khi đó, ở KQC không gian tuyệt đối, việc định hướng, định vị tách biệt hoàn toàn vai trò của người quan sát. 2.6 Tiểu kết
Trong chương này, luận án đã phân tích về dòng thời gian tinh thần, các KQC thời gian, các KQC không gian và sự đồ chiếu các KQC từ không gian sang thời gian trong tiếng Việt.
Chương 3 SỰ TRI NHẬN VÀ BIỂU ĐẠT QUY CHIẾU THỜI GIAN QUA KHÔNG GIAN TRONG TIẾNG VIỆT: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP LÙI, QUA, SANG, TỚI, ĐẾN 3.1 Dẫn nhập
Trong chương này, luận án phân tích sự đồ chiếu cấu trúc tham tố sự tình không gian sang sự tình thời gian của lùi, qua, sang, tới, đến, trên cơ sở đó phân tích quy chiếu thời gian, sự đồ chiếu phối cảnh từ không gian lên thời gian do chúng biểu đạt. 3.2 Sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua không gian: nghiên cứu trường hợp từ lùi 3.2.1 Lùi biểu đạt không gian
- Lùi nội động từ: cấu trúc tham tố chỉ gồm diễn tố hành thể hoặc động thể. Ví dụ: (20) a. Các em lùi xuống ba bước. b. Chiếc ô tô lùi lại. - Lùi ngoại động từ: cấu trúc tham tố gồm 2 diễn tố: tác thể và đối thể. Ví dụ: (21) Anh ấy lùi xe vào ngõ. - Lùi thường kết hợp sau các động từ bước, đẩy, kéo để bổ nghĩa. Khi đó cấu trúc tham tố chỉ gồm diễn tố hành thể/động thể hoặc gồm hai diễn tố lực và đối thể.
3.2.1.3 Phối cảnh không gian với “lùi”: Thực thể di chuyển từ một vị trí này sang một vị trí khác theo hướng ngược lại với hướng chuyển động ban đầu, cấu trúc hướng nội tại (nếu có) của thực thể không thay đổi.
3.2.2 Lùi biểu đạt thời gian - Lùi nội động từ: cấu trúc tham tố chỉ gồm diễn tố hành thể. Ví dụ: (22) Chiến tranh đã lùi xa, hơn 40 năm (…). - Lùi ngoại động từ: cấu trúc tham tố gồm tác thể và đối thể. Ví dụ: (23) Nga lùi thời gian phá huỷ trạm Mir. => cấu trúc tham tố của lùi là động từ ở khung không gian được chuyển di sang khung thời gian. - Lùi kết hợp với các động từ đẩy, kéo: Cấu trúc tham tố gồm lực và đối thể. Ví dụ: (24) Thời tiết xấu đẩy lùi ngày bay của Discovery (10/8). So với lùi biểu thị không gian, lùi chỉ thời gian xuất hiện với cấu trúc nghĩa biểu hiện
(CTNBH) phức tạp và nhiều biến thể hơn. 3.2.2.3 Quy chiếu và phối cảnh thời gian với “lùi”
a. Quy chiếu và phối cảnh thời gian với “lùi”: hướng quá khứ Nền G là hiện tại chủ quan của người quan sát, Sự tình F ở quá khứ so với G (ví dụ 28). Bản thân từ lùi cho biết F ở phía sau của Ego, cũng là phía sau trên dòng thời gian. Khung quy chiếu là khung quy chiếu tuyệt đối phân bố trên dòng thời gian trực chỉ. 16
Có ba phối cảnh đi với các sự tình thời gian quá khứ biểu đạt bởi lùi. - Ego vận động trong dòng thời gian về phía tương lai, theo đó một thời điểm/thời khoảng ở quá khứ sẽ xa dần Ego.
- Ego chuyển dịch điểm nhìn từ hiện tại về phía quá khứ. - Đối thể chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía quá khứ. b. Quy chiếu và phối cảnh thời gian với “lùi”: hướng tương lai Nền G là hiện tại chủ quan của người quan sát, thời điểm sau chuyển dịch thời gian sẽ ở tương lai. Khung quy chiếu có hiệu lực trong trường hợp này là KQC tuyệt đối.
Nền G ở quá khứ hoặc tương lai, KQC hiện diện lại là KQC tương đối. Có hai phối cảnh: một là thời điểm chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía tương
lai, hai là đối thể (sự kiện) chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía tương lai. 3.3 Sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua không gian: nghiên cứu trường hợp qua, sang 3.3.1 Qua, sang biểu đạt không gian 3.3.1.1 “Qua”, “sang” là động từ
CTNBH gồm vai hành thể/động thể và vai đích/lối đi. Ví dụ: (25) a. Mẹ tôi qua làng bên.; b. Thuyền qua sông.; c. Chờ em chừng dập miếng giầu em sang.; d. Ngoài mép nước, có chiếc mủng của ai còn chưa sang sông. 3.3.1.2 “Qua”, “sang là giới từ Qua: CTNBH gồm vai hành thể/động thể và lối đi. Ví dụ: (26) Đoàn người vượt qua núi.
Sang: CTNBH đòi hỏi hai diễn tố: hành thể/ động thể và đích. Ví dụ: (27) a. Hiện tại, Phan Đăng Hoàng đang chuẩn bị hành trang để tháng 9/2018 sẽ lên đường bay sang Milan chuẩn bị những thủ tục cần thiết để nhập học vào đầu tháng 10.; b.Tủ quần áo bị chuyển sang một khu đất trống ven đường. 3.3.1.3 Phối cảnh không gian với “qua”, “sang”
- Thực thể chuyển động từ bên này sang bên kia một không gian có vai trò là lối đi. - Thực thể di chuyển từ một địa điểm này đến một địa điểm khác hoặc từ một không gian này sang một không gian khác.
Với qua còn có phối cảnh thực thể chuyển động vượt qua một thực thể khác. Nếu cả hai thực thể cùng chuyển động, chúng có thể chuyển động cùng chiều hoặc ngược chiều. 3.3.2 Qua, sang biểu đạt thời gian 3.3.2.1 “Qua”, “sang” là động từ
a. Qua, sang là động từ biểu đạt nội dung sự tình - Nếu chủ thể vận động là thời gian, CTNBH của câu/tiểu cú chỉ đòi hỏi diễn tố động thể. Ví dụ: (28) a. Thế nhưng đã hết tháng 10, rồi tháng 11 lại qua...; b. Xuân sang.
- Nếu chủ thể vận động không phải là thời gian: + Qua: CTNBH của câu/tiểu cú chỉ đòi hỏi vai hành thể/ động thể và lối đi. Ví dụ: (29) 10 tỉnh, thành phố đã qua 26 ngày không ghi nhận trường hợp mắc mới COVID-19 trong cộng đồng (...).
+ Sang: CTNBH đòi hỏi hai diễn tố: hành thể/động thể và đích. Ví dụ: (30) a. Sang năm 2014, Khánh Vân tiếp tục dự thi Miss Ngôi sao và đạt danh hiệu Á hậu 2 (…).; b. Sang đến tuần thứ hai, bộ phim đã bị cắt số rạp xuống còn 40, (…)
17
b. Qua, sang kết hợp phía trước với danh từ chỉ đơn vị thời gian tạo nên các ngữ định danh thời gian trực chỉ. Ví dụ: sang tuần, sang năm, qua tuần, qua tháng, v.v.. c. Qua là động từ làm định ngữ hạn định trong danh ngữ chỉ thời gian. Ví dụ: năm qua, tháng qua, tuần qua, thời gian vừa qua, v.v..
d. Vừa qua: khi không đi sau danh từ/danh ngữ để bổ sung ý nghĩa hạn định, kết hợp vừa qua có đặc điểm của một quán ngữ biểu đạt thời gian, làm trạng ngữ trong câu/tiểu cú. 3.3.2.2 “Qua”, “sang” là giới từ:
- Qua: thường đứng sau các động từ như trải, trôi, đi, vượt, v.v.. + Cấu trúc tham tố chỉ đòi hỏi vai động thể, vai động thể do danh ngữ biểu đạt thời gian đảm nhiệm, ví dụ: (31) Thế kỷ 20 đi qua đánh dấu những bước tiến vĩ đại trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là khoa học kỹ thuật và y học.
+ Cấu trúc tham tố đòi hỏi hai diễn tố là hành thể/động thể và lối đi, vai hành thể/ động thể là chủ thể phi thời gian, vai lối đi là các thời khoảng, ví dụ: (32) Bờ Biển Ngà, một xứ sở từng yên bình, đã trải qua hơn một năm hỗn loạn, (…). - Sang: thường đứng sau các động từ như bước, lùi, chuyển, lấn, dời, v.v.. CTNBH của câu/tiểu cú gồm hai diễn tố: hành thể/động thể và đích, vai đích luôn do các danh ngữ chỉ thời khoảng biểu đạt, ví dụ: (33) a. Chiến sự tại Ukraine đã bước sang ngày thứ 50.
Như vậy, khi là động từ biểu đạt sự chuyển động trong không gian, sang và qua giống nhau về ngữ nghĩa lẫn cấu trúc tham tố. Khi toả tia sang khung thời gian, sự phân hoá giữa chúng trở nên rõ ràng, ngoại trừ sự giống nhau ở khả năng tham gia vào cấu trúc tham tố một diễn tố (động thể). Ở tư cách giới từ, sự phân hoá giữa sang và qua diễn ra ngay từ ở phạm trù không gian: mặc dù ý nghĩa giống nhau nhưng cấu trúc tham tố mà sang tham gia vào đã khác với cấu trúc tham tố mà qua có thể xuất hiện; ở phạm trù thời gian, chúng hoàn toàn khác biệt. Những khác biệt này giữa sang và qua là lí do để cả hai cùng tồn tại trong hệ thống dù giữa chúng có những điểm tương đồng nhất định. 3.3.2.3 Quy chiếu và phối cảnh thời gian với “qua”, “sang”
a. Quy chiếu thời gian với qua, sang Trong 1000 ngữ liệu có sử dụng từ qua được khảo sát từ https://s.ngonngu.net/corpus/, có 551 ngữ liệu qua biểu đạt thời gian (chiếm 55.1%), trong đó có 391 trường hợp qua tham gia quy chiếu thời gian (chiếm 71%), 160 trường hợp qua không tham gia quy chiếu thời gian (chiếm 29%). Chỉ khi làm định ngữ trong danh ngữ chỉ thời điểm, thời khoảng, khi đứng trước các danh từ chỉ đơn vị thời gian để tạo nên các ngữ định danh thời gian trực chỉ, hoặc trong quán ngữ vừa qua, qua mới tham gia vào quy chiếu. KQC hiện diện trong trường hợp này do vậy là KQC tuyệt đối. Với các vai trò ngữ pháp còn lại, qua biểu đạt sự chuyển động của chủ thể trên dòng thời gian mà không quy chiếu thời gian.
Trong khi đó với sang, chỉ 76/1000 ngữ liệu sang biểu đạt thời gian (chiếm 7.6%), trong đó có 3 trường hợp sang tham gia quy chiếu thời gian (chiếm 3.9%), 73 trường hợp còn lại sang không có chức năng quy chiếu (chiếm 96.1%). Như vậy so với qua, sang ít xuất hiện trong chức năng biểu đạt lẫn quy chiếu thời gian hơn. Chỉ khi đứng trước các danh từ chỉ đơn vị thời gian để tạo nên các ngữ định danh thời gian trực chỉ, sang mới có chức năng quy chiếu. Lúc này, KQC hiện diện là KQC tuyệt đối. Ngược lại với với qua, sự tình thời gian do sang định vị luôn ở tương lai.
18
b. Phối cảnh thời gian với qua, sang: Có hai phối cảnh chuyển động do qua, sang biểu đạt: 1. thời gian vận động qua Ego vào quá khứ, Ego đứng yên; với sang, thực thể thời gian là mùa; 2. Ego hoặc một thực thể nào đó chuyển động về phía tương lai, thời gian tĩnh tại. 3.4 Sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua không gian: nghiên cứu trường hợp tới, đến 3.4.1 Tới, đến biểu đạt không gian 3.4.1.1 “Tới”, “đến” là động từ: chỉ xuất hiện với tư cách động từ nội động. - CTNBH của câu/tiểu cú gồm vai hành thể/động thể và vai đích. Ví dụ: (34) a. mời
bạn tới nhà; b. Ô tô đến bến. 3.4.1.2 “Tới”, “đến” là giới từ
a. Tới, đến biểu thị ý nghĩa đến được đích của hoạt động CTNBH của câu/tiểu cú gồm hai diễn tố: hành thể/ động thể và đích. Ví dụ: (35) a. Mênh mông lả ơi, thuyền về tới bến mơ rồi (Phạm Duy); b. Theo các thuyền viên, tàu vào đến vùng cửa biển Nhật Lệ thì gặp luồng nước lớn làm rơi bánh lái. b. Tới biểu thị hướng của hoạt động di chuyển thẳng về phía trước: CTNBH của
câu/tiểu cú đòi hỏi một diễn tố: động thể hoặc hành thể. Ví dụ: (36) Cô ấy bước tới một bước. 3.4.1.3 Phối cảnh không gian với “tới”, “đến”
a. TỚI, ĐẾN có cùng phối cảnh không gian: diễn ra với CTNBH gồm vai hành thể/động thể và vai đích. Khi đó, kịch cảnh sẽ là thực thể di chuyển từ một địa điểm/không gian nguồn đến một địa điểm/không gian đích. Yếu tố quan yếu được đưa ra cận cảnh là đích chứ không phải nguồn. Do vậy vai nghĩa bắt buộc là vai đích chứ không phải vai nguồn, dù các kịch cảnh chuyển động này đều tiền giả định một nơi xuất phát. Nếu chỉ xét như vậy, kịch cảnh của ý niệm TỚI, ĐẾN sẽ không phân biệt với kịch cảnh của ý niệm QUA, SANG. Tuy nhiên, điểm phân biệt giữa kịch cảnh với ý niệm TỚI, ĐẾN và kịch cảnh với ý niệm QUA, SANG là: 1. khoảng cách không gian giữa NGUỒN và ĐÍCH ở QUA, SANG phải là gần hoặc kế cận, yêu cầu này không được đặt ra với TỚI, ĐẾN; 2. với TỚI, ĐẾN, kịch cảnh cấu trúc trong nó cả hướng di chuyển của chủ thể - hướng trước, trong khi kịch cảnh chuyển động với QUA, SANG không bao chứa đặc điểm này.
b. Phối cảnh không gian khả dĩ với TỚI mà không có với ĐẾN Phối cảnh không gian tương ứng với CTNBH chỉ gồm vai hành thể hoặc động thể, tức phối cảnh trong đó thực thể chuyển động trên mặt phẳng ngang hướng về phía trước, hướng trước chính là hướng chuyển động, chỉ có với ý niệm TỚI mà không có với ý niệm ĐẾN trong tiếng Việt, cũng vậy không có với ý niệm QUA và ý niệm SANG.
Như vậy, trong so sánh với ý niệm QUA và ý niệm SANG, không có kịch cảnh thực thể chuyển động từ bên này sang bên kia một không gian có vai trò là lối đi ở ý niệm TỚI và ý niệm ĐẾN. Ngược lại, kịch cảnh chuyển động với TỚI, ĐẾN bao gồm trong nó cả hướng chuyển động – là một thực tế tri nhận không có với QUA, SANG. 3.4.2 Tới, đến biểu đạt thời gian 3.4.2.1 “Tới”, “đến” là động từ a. Tới, đến là động từ biểu đạt nội dung sự tình
19
- Tới, đến biểu đạt sự vận động của chủ thể phi thời gian về phía tương lai. CTNBH của câu luôn đòi hỏi hai diễn tố: vai hành thể/ động thể và vai đích. Ví dụ: (37)a. Anh kể, cứ gần tới giao thừa là ra khỏi nhà, tụ tập cùng đám bạn.; b. Hoa đến thì thì hoa phải nở. - Tới biểu đạt sự vận động của thời gian từ tương lai về hiện tại. Ví dụ: (38) a. Mùa đông đã tới.; b. Thời khắc lịch sử đã đến. CTNBH của câu/tiểu cú chỉ đòi hỏi diễn tố động thể. Chủ thể thời gian trong vai động thể thường là mùa hoặc một thời điểm quan trọng, có tính chất bước ngoặt.
Khi toả tia sang thời gian, tới, đến bảo lưu tư cách động từ nội động. Tuy nhiên CTNBH thì không có sự giống nhau hoàn toàn giữa khung không gian và khung thời gian: 1. tới, đến có thể đi vào CTNBH một diễn tố, là cấu trúc không có với tới, đến biểu đạt sự tình chuyển động trong không gian; 2. tới, đến biểu đạt nội dung sự tình trong CTNBH hai diễn tố hành thể/động thể và đích – là cấu trúc được toả tia từ không gian.
b. Động từ tới, đến xét trong chức năng làm định ngữ hạn định của danh ngữ chỉ thời gian: cho thấy sự phân hoá giữa tới và đến. Tới thường kết hợp phía sau: các danh từ chỉ đơn vị thời gian, ví dụ: năm tới, tuần tới, tháng tới, chủ nhật tới, các danh ngữ chỉ thời khoảng, ví dụ: đầu năm tới, đầu tuần tới, thời gian tới, v.v.. Trong kiểu kết hợp này, tới có vai trò chỉ xuất. Các danh ngữ được tạo thành đều biểu đạt thời gian trực chỉ.
Cũng nằm trong cấu trúc danh ngữ chỉ thời gian trực chỉ, nhưng ở cách kết hợp khác, sự khác biệt giữa tới và đến ít hơn: Tới kết hợp với sắp và/hoặc đây, cả sắp tới, tới đây, sắp tới đây làm định ngữ hạn định trong danh ngữ biểu đạt thời khoảng. Ví dụ: vụ mùa sắp tới, ngày 5 tháng 1 tới đây, chuyến đi sắp tới đây, v.v.. Đến kết hợp với sắp, sắp đến làm định ngữ hạn định trong danh ngữ biểu đạt thời khoảng. Các danh ngữ có tới, đến làm định ngữ đều biểu đạt các thời điểm, thời khoảng ở tương lai.
c. sắp tới, tới đây, sắp tới đây, tới nay, đến nay, sắp đến: khi xuất hiện trong câu ở chức năng trạng ngữ, các kết hợp này có đặc điểm của quán ngữ chỉ thời gian. Sắp tới, tới đây, sắp tới đây, sắp đến đánh dấu các sự tình được phản ánh bằng nồng cốt câu diễn ra sau thời điểm nói; tới nay, đến nay biểu nghĩa hiện tại. 3.5.2.2 “Tới”, “đến” là giới từ
- Tới, đến đánh dấu đích đến trên dòng thời gian. CTNBH của câu/tiểu cú tuỳ thuộc vào động từ biểu đạt nội dung sự tình trong câu, nhưng luôn hiện diện vai nghĩa thời gian được đánh dấu bởi tới/đến.
Ở khung không gian, tới và đến giống nhau, dù là với tư cách động từ hay tư cách giới từ. Ở khung thời gian, động từ tới và đến có sự phân hoá. Về bình diện ngữ nghĩa từ vựng, tới và đến giống nhau ở khả năng biểu nghĩa “đến được đích của hoạt động”, nhưng khác nhau là tới biểu đạt hướng chuyển động thẳng về phía trước của chủ thể trong khi đến thì không; theo đó tới đi vào hai CTNBH với tham tố bắt buộc là: a. hành thể/động thể, b. Hành thể/động thể - đích trong khi đến chỉ có một CTNBH với hai tham tố bắt buộc là hành thể/động thể - đích. Với tư cách giới từ, tới và đến giống nhau trong biểu nghĩa thời gian lẫn khả năng đánh dấu đích trong CTNBH, vai đích do tới, đến đánh dấu luôn là chu tố trong câu.
20
3.4.2.3 Quy chiếu và phối cảnh thời gian với “tới”, “đến”
a. Quy chiếu thời gian với tới, đến Với tới, trong 1000 ngữ liệu được khảo sát từ https://s.ngonngu.net/corpus/, có 316 ngữ liệu tới biểu đạt thời gian (chiếm 32%), trong đó có 240 trường hợp tới tham gia quy chiếu (chiếm 75.9%), 76 trường hợp còn lại tới không có chức năng quy chiếu (chiếm 24.1%). Trong khi đó với đến, có 359/1000 ngữ liệu khảo sát đến biểu đạt thời gian, chiếm 35.9%, trong đó 99 trường hợp đến quy chiếu thời gian (chiếm 27.6%), 260 trường hợp còn lại đến không quy chiếu thời gian (chiếm 72.4%). Tới có chức năng quy chiếu thời gian khi nó làm định ngữ trong danh ngữ biểu đạt thời điểm, thời khoảng hoặc trong kết hợp sắp tới, tới đây, sắp tới đây, tới nay. Với sự hiện diện của tới, các kết hợp đang xét đều biểu đạt thời gian trực chỉ. Trong khi đó, đến có chức năng quy chiếu thời gian khi nó xuất hiện trong các kết hợp sắp đến, đến nay. Các kết hợp này cũng biểu đạt thời gian trực chỉ, G trùng với V. KQC hiện diện là KQC tuyệt đối.
b. Phối cảnh thời gian với tới, đến - Thời gian chuyển động: thời gian được tri nhận là vận động từ tương lai về phía Ego, ví dụ: (39) a. Mùa đông đã tới.; b. Xuân đến.
- Ego hoặc thực thể không phải Ego chuyển động về phía tương lai, thời gian tĩnh tại. Ví dụ: (40) a. Dù sắp đến ngày sinh con, Trần Khải Lâm vẫn rong ruổi khắp nơi.; b. Hoa đến thì thì hoa phải nở. 3.4 Nhận xét về lùi, sang, qua, tới, đến - Trong số năm từ đang xét, qua là từ có khả năng biểu đạt thời gian cao nhất, tiếp đến là đến, lùi và tới, thấp nhất là sang. - Lùi chỉ biểu đạt sự chuyển động của thời gian hoặc chủ thể phi thời gian mà không tham gia quy chiếu. Bốn từ còn lại có thể được sử dụng để quy chiếu hoặc không.
- Lùi không biểu đạt thời gian trực chỉ. Bốn từ còn lại đều có thể đi vào các kết hợp biểu đạt thời gian trực chỉ. Các từ sang, qua, tới, đến vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau về ngữ nghĩa, ngữ pháp và tri nhận.
- năm trước – năm nay – năm sau: sự tình thời gian được tri nhận như những điểm tĩnh tại trên dòng thời gian và được quy chiếu với Ego, KQC hiện diện là KQC nội tại biến thể trực chỉ; năm qua – năm nay – năm tới: quy chiếu với Ego nhưng khác về phối cảnh: phối cảnh Thời gian chuyển động; KQC hiện diện là KQC tuyệt đối; năm ngoái – năm nay - sang năm: quy chiếu trực chỉ với Ego; KQC hiện diện là KQC tuyệt đối. - Các từ sang và qua khi toả tia ngữ nghĩa sang khung thời gian vẫn bảo lưu thuộc tính gần, kế cận trong cấu trúc kịch cảnh không gian.
3.7 Tiểu kết Trong chương này, luận án đã phân tích sự tri nhận và biểu đạt thời gian qua không gian với các trường hợp từ lùi, sang, qua, tới, đến. Có sự chuyển khung của các từ hữu quan từ phạm trù không gian sang phạm trù thời gian. Sự chuyển khung diễn ra là do sự thay đổi vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện: vai động thể, vai đích, vai lối đi, vai đối thể không chỉ thực thể không gian mà chỉ thực thể thời gian; hoặc vai động thể, vai đối thể chỉ sự kiện, hiện tượng chuyển động trong thời gian thay cho thực thể không gian.
21
KẾT LUẬN Luận án “Quy chiếu thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận” đã triển khai các nội dung sau:
1. Ở chương 1, luận án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, bao gồm tình hình nghiên cứu về dòng thời gian tinh thần, lý thuyết KQC thời gian, sự đồ chiếu từ KQC không gian sang KQC thời gian, lịch sử tiếp cận vấn đề thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận.
Chương 1 cũng trình bày các vấn đề lý thuyết làm cơ sở cho việc triển khai luận án, bao gồm: các quan niệm về thời gian, các biến thể của ý niệm thời gian, các thuộc tính của thời gian, phối cảnh Ego chuyển động và Thời gian chuyển động, các mối quan hệ thời gian, mũi tên thời gian, dòng thời gian tinh thần, khái niệm KQC và KQC thời gian, lý thuyết KQC không gian của Levinson, lý thuyết KQC thời gian do Bender và cộng sự đề xuất, khái niệm khung và phạm trù toả tia. Nội dung tổng quan và các vấn đề lý thuyết này là cơ sở để chúng tôi triển khai các nội dung phân tích ở chương 2 và chương 3 của luận án. 2. Trong chương 2, trên nền tảng lý thuyết được xác lập ở chương 1, luận án đi đến các kết quả nghiên cứu sau:
2.1. Xác lập dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt. Luận án đã chỉ ra rằng dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt phân bố theo phương ngang, trục trước – sau với trước chỉ tương lai, sau chỉ quá khứ; không có dòng thời gian theo trục dọc trong tiếng Việt. Các từ chỉ trục trái – phải, trên – dưới không dùng để biểu đạt dòng thời gian trong tiếng Việt. Các phối cảnh chuyển động trên dòng thời gian thực tế đa dạng hơn so với những gì đã được các văn liệu xác lập.
2.2. Để làm rõ sự đồ chiếu từ các KQC không gian lên các KQC thời gian trong tiếng Việt, luận án đã phân tích các KQC không gian theo trục ngang trong tiếng Việt làm cơ sở và đi đến kết luận là: tiếng Việt tồn tại cả ba KQC không gian. Với KQC tuyệt đối, ngoài sử dụng các phương địa lí, người Việt còn dùng các hướng cố định trục biển – đất liền, núi rừng – đồng bằng/biển, dòng chảy của sông, trong đó chỉ có trục biển – đất liền được tri nhận theo trục ngang. Với KQC nội tại, ngoài biến thể như mô tả của Levinson, tiếng Việt có thêm biến thể trong đó nền là đối tượng không có cấu trúc định hướng nội tại, F là con người, hướng quy chiếu được xác định dựa vào F, biến thể này cho thấy sự chuyển tiếp giữa KQC nội tại và KQC tương đối. Với KQC tương đối, tiếng Việt chỉ tồn tại biến thể phản chiếu, biến thể chuyển dịch mà không có biến thể luân chuyển theo hệ thống phân loại của Levison, tuy nhiên tiếng Việt có thêm biến thể hàm ẩn biểu thị quan hệ giữa một Hình được định vị trong một Nền, hướng của KQC được xác lập từ không gian hàm ẩn. Những phân tích này của chúng tôi góp phần làm phong phú thêm bức tranh mô tả KQC không gian trong ngôn ngữ tự nhiên. 2.3. Luận án cũng đã phân tích các KQC thời gian trong tiếng Việt về hệ toạ độ, sự tình động/sự tình tĩnh, phối cảnh chuyển động và rút ra kết luận như sau:
a. KQC thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt mô tả quan hệ thời gian song tố giữa hai sự tình trong đó sự tình F ở trước sự tình G. Hướng của khung là hướng của dòng thời gian. Trục TƯƠNG LAI/QUÁ KHỨ được tri nhận theo con đường ẩn dụ, tương ứng với trục TRƯỚC/SAU. Sự tình được phản ánh có thể động hoặc tĩnh. Với sự tình động, phối cảnh có thể là Ego chuyển động hoặc Thời gian chuyển động, sự chuyển động này luôn cùng hướng với sự vận động của dòng thời gian. Quy chiếu thời gian với KQC tuyệt đối có thể trực chỉ hoặc phi trực chỉ. 22
b. KQC thời gian nội tại có hai biến thể tương ứng với hai kiểu quan hệ thời gian là biến thể trực chỉ và biến thể chuỗi nối tiếp. Với biến thể trực chỉ, Nền là thời điểm phát ngôn, hiện tại của Ego đóng vai trò của G, quan hệ thời gian được phản ánh là quan hệ thời gian song tố giữa F và G với TRƯỚC chỉ QUÁ KHỨ, SAU chỉ TƯƠNG LAI. Sự tình thời gian đi với biến thể trực chỉ có thể là sự tình động hoặc tĩnh. Phối cảnh chuyển động là vận động của F từ hiện tại về phía tương lai, hoặc từ hiện tại về phía quá khứ, Ego ở trạng thái tĩnh. Với biến thể chuỗi nối tiếp, G khác với Ego, quan hệ thời gian được phản ánh là quan hệ sớm hơn/muộn hơn (quan hệ chuỗi) và chỉ liên quan đến sự tình F và sự tình G mà độc lập với vị trí của người quan sát; lúc này quan hệ quá khứ/tương lai cũng được phản chiếu lêu trục TRƯỚC/SAU. Sự tình thời gian đi với biến thể chuỗi nối tiếp chỉ bao gồm các sự tình tĩnh, do vậy không có phối cảnh chuyển động với biến thể KQC nội tại này.
Với KQC nội tại trong tiếng Việt, quan hệ thời gian được xác định có thể cần hoặc không cần đến Ego trong vai trò Nền G, gốc X của hệ toạ độ ở vị trí của G, hướng TRƯỚC trong KQC chỉ về quá khứ. Hướng của KQC nội tại ngược lại với hướng của KQC tuyệt đối.
c. KQC thời gian tương đối tiếng Việt cung cấp một thực tế khác với những gì được xác lập về mặt lý thuyết cho đến nay: khi G là một thời điểm thuộc tương lai, biến thể tìm thấy là biến thể phản chiếu; khi G là một thời điểm thuộc quá khứ, biến thể trong tiếng Việt là biến thể chuyển dịch; phối kết cả hai trường hợp chúng ta có một mô hình mới chưa từng được phân tích trong các văn liệu về KQC thời gian trong ngôn ngữ tự nhiên. KQC thời gian tương đối trong tiếng Việt có thể đi với sự tình động hoặc sự tình tĩnh. Với các sự tình động, có hai phối cảnh: hoặc là sự tình được quy chiếu F chuyển động, hoặc là Người quan sát di chuyển, bản thân G không vận động.
Những phân tích về KQC thời gian tương đối trong tiếng Việt đưa đến yêu cầu mới: cần mở rộng lý thuyết về KQC thời gian để có thể bao quát được nhiều hơn các trường hợp ngôn ngữ cụ thể. Kết quả nghiên cứu của luận án do vậy không những giúp kiểm chứng lý thuyết mà còn giúp bổ sung lý thuyết KQC thời gian theo quan điểm của Ngôn ngữ học tri nhận.
2.4. Từ kết quả phân tích về KQC không gian và KQC thời gian trong tiếng Việt, luận án đi đến chỉ ra sự đồ chiếu KQC giữa hai phạm trù. Kết luận của luận án là: có sự đồ chiếu mô thức của các KQC giữa hai phạm trù, tuy vậy, không phải mọi nguyên tắc nhận thức và biểu đạt không gian đều được chuyển di sang phạm trù thời gian. Không gian có ba trục nhưng chỉ trục TRƯỚC/SAU là được đồ chiếu lên thời gian. TRƯỚC có thể đồ chiếu sang quá khứ hoặc tương lai tuỳ vào KQC. và không hề mâu thuẫn khi TRƯỚC vừa có thể được ấn định thuộc quá khứ vừa có thể được ấn định thuộc tương lai.
Sự đồ chiếu từ KQC không gian tuyệt đối sang KQC thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt chỉ bảo lưu các tham số tham gia vào hệ toạ độ, cách xác định hướng dựa vào trường tổng thể. Còn trường tổng thể, trục và hướng quy chiếu thì không được đồ chiếu.
KQC không gian nội tại có hai biến thể nhưng chỉ biến thể phù ứng với mô tả của Levinson, tức biến thể thể hiện quan hệ song tố giữa F và G, hướng quy chiếu của khung được xác định dựa vào hướng nội tại của G, vị trí của người quan sát không quan yếu được đồ chiếu lên thời gian; còn biến thể có hướng quy chiếu được xác định dựa vào F, xuất hiện khi Nền là đối tượng không có cấu trúc định hướng nội tại và F là con người không được đồ chiếu sang thời gian. Sự đồ chiếu bảo lưu hệ toạ độ và cách xác định hướng của khung theo trục TRƯỚC/SAU. Với biến thể khung quy chiếu thời gian nội tại
23
chuỗi nối, chuỗi thực thể vận động trong không gian được đồ chiếu sang chuỗi các sự tình trong thời gian.
Với KQC tương đối, chỉ biến thể chuyển dịch và biến thể phản chiếu được đồ chiếu sang phạm trù thời gian còn biến thể hàm ẩn thì không. Với nửa trục toả tia hướng quá khứ, phạm trù thời gian bảo lưu sự chuyển dịch hệ toạ độ từ V sang G của biến thể chuyển dịch trong không gian; với nửa trục toả tia hướng tương lai, phạm trù thời gian bảo lưu sự phản chiếu hệ toạ độ từ V sang G của biến thể phản chiếu trong không gian. Sự đồ chiếu cũng chỉ diễn ra trên trục TRƯỚC/SAU.
3. Chương 3 của luận án phân tích về sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua không gian với các từ lùi, qua, sang, tới, đến. Luận án đi từ việc xác lập đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa, cấu trúc tham tố, phối cảnh chuyển động của từ hữu quan ở phạm trù không gian để phân tích sự toả tia và đồ chiếu của nó sang phạm trù thời gian. Kết quả phân tích cho thấy:
Có sự chuyển khung của các từ hữu quan từ phạm trù không gian sang phạm trù thời gian. Trong quá trình toả tia ngữ nghĩa, chúng chủ yếu bảo lưu các CTNBH ở phạm trù không gian, ngoài ra còn có sự triệt tiêu hoặc xuất hiện thêm CTNBH so với khung nguồn. Sự chuyển khung diễn ra là do sự thay đổi vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện: vai động thể, vai đích, vai lối đi, vai đối thể không chỉ thực thể không gian mà chỉ thực thể thời gian; vai động thể, vai đối thể không chỉ thực thể không gian mà chỉ sự kiện, hiện tượng chuyển động trong thời gian.
Trong 5 trường hợp nghiên cứu, lùi là từ duy nhất không tham gia cấu tạo biểu đạt thời gian trực chỉ. Các từ còn lại biểu đạt sự tình thời gian thuộc KQC tuyệt đối. Trong đó các sự tình do sang, tới, đến quy chiếu thuộc nửa trục tương lai (ngoại trừ trường hợp tới nay, đến nay), các sự tình do qua quy chiếu thuộc nửa trục quá khứ.
Về phối cảnh thời gian, phối cảnh thời gian biểu đạt bằng lùi là đa dạng và phức tạp nhất. Ở hướng quá khứ, lùi biểu đạt 3 phối cảnh: Ego vận động trong dòng thời gian về phía tương lai, theo đó một thời điểm/thời khoảng ở quá khứ sẽ xa dần Ego; Ego chuyển dịch điểm nhìn từ hiện tại về phía quá khứ; đối thể chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía quá khứ. Ở hướng tương lai, lùi biểu đạt hai phối cảnh: thời điểm chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía tương lai; đối thể chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía tương lai. Với các từ còn lại, phối cảnh thời gian do chúng biểu đạt có nhiều điểm giống nhau, nhất là ở phối cảnh Ego hoặc một thực thể phi thời gian nào đó chuyển động về phía tương lai; sự phân biệt về phối cảnh giữa sang, qua và tới, đến chủ yếu nằm ở phối cảnh Thời gian chuyển động; trong đó với qua, Thời gian vận động qua Ego vào quá khứ; với sang, Thời gian chuyển động từ tương lai về hiện tại; với tới, đến, Thời gian chuyển động từ tương lai về hiện tại, thời gian đối diện với Ego.
Với những nội dung đã được trình bày, luận án vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngõ. Các vấn đề như quy chiếu thời gian của nhóm đại từ chỉ định, sự tri nhận và biểu đạt ý niệm THỜI GIAN TUẦN HOÀN trong tiếng Việt, phân tích trường hợp theo cặp từ trái nghĩa; phân tích các kết hợp biểu đạt thời gian gồm một yếu tố chỉ thời gian và một yếu tố chỉ không gian, phân tích quy chiếu thời gian giữa các vế câu và giữa các câu trong văn bản là những mảng lớn nghiên cứu sinh mong muốn được tiếp tục triển khai trong những công trình khác. Nghiên cứu sinh mong nhận được sự góp ý của các nhà nghiên cứu, những người quan tâm để luận án được bổ khuyết và hoàn thiện hơn. 24
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 1. Lê Thị Cẩm Vân (2023). Dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống (đã nhận đăng số tháng 6). 2. Lê Thị Cẩm Vân (2023). Các khung quy chiếu không gian trong tiếng Việt. Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, số 2 (82), tr.79-86.
3. Lê Thị Cẩm Vân, Trương Thị Nhàn (2022). Sự đồ chiếu từ không gian lên thời gian trong tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 2 (322), tr.14 - 22. 4. Lê Thị Cẩm Vân (2021). Khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 11A (318), tr.22 - 27.
5. Le Thi Cam Van, Truong Thi Nhan (2021). Temporal uses of trước and sau: An analysis of temporal frames of reference in Vietnamese. Hue University Journal of Science: Social Sciences and Humanities, Vol. 130 No. 6D.
6. Lê Thị Cẩm Vân (2020). Bàn thêm về đặc điểm ngữ pháp của từ rồi trong tiếng Việt. Tạp chí Khoa học và Công nghệ (ISSN 2354-0850), Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, Tập 15 số 3, tr.147-155.
7. Lê Thị Cẩm Vân (2019). Đã, rồi, đã… rồi và sự biểu đạt ý nghĩa thể trong tiếng Việt. Kỉ yếu hội thảo ngôn ngữ học toàn quốc Ngôn ngữ Việt Nam trong bối cảnh giao lưu, hội nhập và phát triển. Hà Nội: Nxb Dân Trí.
HUE UNIVERSITY
UNIVERSITY OF SCIENCES
----------
LE THI CAM VAN
TEMPORAL REFERENCE IN VIETNAMESE
FROM THE APPROACH OF COGNITIVE LINGUISTICS
ABSTRACT ON LINGUISTIC DOCTORAL THESIS
Hue - 2023
HUE UNIVERSITY
UNIVERSITY OF SCIENCES
----------
LE THI CAM VAN
TEMPORAL REFERENCE IN VIETNAMESE
FROM THE APPROACH OF COGNITIVE LINGUISTICS
Major: LINGUISTICS
Code: 9229020
ABSTRACT ON LINGUISTIC DOCTORAL THESIS
Supervisors: 1. Prof. Dr. Nguyen Van Hiep
2. Assoc. Prof. Dr. Truong Thi Nhan
Hue - 2023
PREAMBLE
1. Reason for choosing the topic Temporal reference has received much attention in linguistics, psychology, philosophy, physics, etc. However, up to now, this is still an issue that needs to be further explored. In linguistic history, temporal reference has been approached from the perspective of studying the semantics of the grammatical system, from the point of view of the Theory of Conceptual Metaphor, the Theory of Lexical Concepts and Cognitive Models, and the Theory of Temporal Frames of Reference (FoRs). In Vietnam, there is not any work that researches temporal reference from the Theory of tFoR. From that fact, the thesis aims to study temporal reference in Vietnamese from the perspective of Cognitive linguistics, mainly solving the research problem within the framework of the Theory of temporal FoRs.
2. Aims of the thesis: a. Applying the Theory of temporal FoRs to research on Vietnamese language; b. Clarifying how Vietnamese people refer to time according to the approach of Cognitive Linguistics thereby contributing a different point of view on the temporal reference in Vietnamese.
3. Research tasks: The thesis focuses on solving the following tasks: giving a literature overview of the Theory of tFoR; analyzing the mental timeline, tFoRs, the mappings from spatial FoRs to temporal FoRs, the cognition and expression of temporal reference through some words whose meanings are spatially original in Vietnamese.
4. Study objective and scope of the thesis 4.1. Study objective: temporal reference in Vietnamese. 4.2. Scope of the thesis - Content scope: the mental timeline, tFoRs, the mappings from spatial FoRs to temporal FoRs, and the cognition and expression of spatiotemporal reference (case study) in Vietnamese.
- Scope of survey: Data is mainly from https://s.ngonngu.net/corpus/, besides, I also use data from Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê, 2009), Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý, 1999), Tuyển tập Văn học dân gian Việt Nam – Tục ngữ (2 tập), Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh & Hoài Chân, 2015), Truyện Kiều (Nguyễn Du, 2015), Kho tàng truyện Nôm khuyết danh (2000), https:/sketchengine.eu, and some other websites. 5. Research methods: Both qualitative and quantitative methods are used, in which the qualitative method predominates.
- Introspection method - Descriptive method: consisting of statistic procedure, classification, systematics, predicate–argument analysis, and comparative procedure.
6. Contribution of the thesis In theory, the thesis is the first work analyzing the Vietnamese language's mental timelines and temporal frames of reference. It proposes a new model of relative tFoR that is different from the models proposed up to now. It also points out the variants and aspects of spatial FoRs that are not mapped onto temporal FoRs, fills in the gap of mapping language structures from space to time, analyzes unify cases of mapping from space to time that singularity analysis at the temporal FoRs level can never cover totally,
1
supplements situations taking place at the time of speaking as a case of deictic intrinsic tFoR. In practice, the research results can be applied in teaching Cognitive linguistics, teaching Advanced Vietnamese to foreigners, building dictionaries, and translation.
7. Structure of the thesis: Chapter 1: Literature overview and theoretical background Chapter 2: Temporal Frames of reference and the mappings spatial Frames of reference onto time in Vietnamese Chapter 3: The cognition and expression of spatiotemporal reference in Vietnamese with lùi, sang, qua, tới, đến
Chapter 1 LITERATURE OVERVIEW AND THEORETICAL BACKGROUND 1.1 Introduction: In this chapter, the thesis presents a literature overview and theoretical background for analyzing temporal reference in Vietnamese from the Cognitive Linguistics approach. 1.2 Literature overview 1.2.1 Outside Vietnam 1.2.1.1 Mental timelines in natural languages To date, the mental timeline has been studied both on the linguistic and mental levels, with linguistic and empirical evidence. The mental timeline has never been an objective of study by Vietnamese linguists when analyzing time in Vietnamese.
1.2.1.2 Taxonomies of temporal frames of reference There are many different taxonomies of temporal frames of reference.
RP is Ego
RP
Table 1.1 Taxonomies of temporal frames of reference RP is an event in a sequence of events
RP is in superordinate field
RP is at G, Transfering CS from V to G
Ego-based tFoR Ego-Reference-point metaphor
Field-based tFoR Time-Reference- point metaphor
Linguists Moore Núñez & Sweetser
Yu
Deictic human frame
Deictic time frame
Sequential time frame
Sequential human frame
2
Zinken
Intrinsic FoR CS: F, G
Absolute FoR G ≠ RP
Relative FoR CS: F, G, V
Intrinsic FoR G ≡ RP
Tenbrink
and
Relative FoR (dynamic situation)
Absolute FoR (dynamic stationary situation)
Kranjec
temporal
temporal
Extrinsic
Intrinsic FoR (dynamic and stationary situation) Deictic framework
Intrinsic framework
temporal framework
Extrinsic FoR
Evans
Intrinsic FoR Absolute tense
Sequential FoR Relative tense
Intrinsic FoR
Absolute FoR
Bender et al.
Raletive FoR
Sequential variant
Intrinsic variant
Note: RP: reference point; FoR: frame of reference; tFoR: temporal frame of reference; G: Ground; F: Figure; V: view point of the observer; CS: coordinate system; ≡: trùng; ≠: khác. Among the above taxonomies, the one by Bender et al. is the most comprehensive system, capable of reflecting diverse temporal relationships in natural languages.
1.2.1.3 The mapping from spatial FoRs onto temporal FoRs The study of time as space has a long tradition in Linguistics. Most linguists who study the temporal FoRs have mentioned the spatial basis in the perception of time and established the mappings from space to time domain. Some authors have based on the spatial FoRs to build the temporal FoRs, such as the temporal reference frameworks of Kranjec (2006), the temporal FoRs of Tenbrink (2011), Zinken (2010), and Bender et al (2010, 2014). Studying the mappings from space to time also establishes temporal relationships through two metaphorical systems derived from movement in space: Moving Ego and Moving Time (Lakoff & Johnson, 1980; Moore, 2011, 2014).
1.2.2 In Vietnam In Vietnam, up to now, time has mainly been studied from the perspective of grammatical semantics, lexical semantics, and conceptual structures associated with linguistics theories such as Structural Linguistics, Functional Linguistics, Meaning Field Theory, Generative Linguistics, Cognitive Grammar, and Conceptual Metaphor Theory. From the approach of Cognitive Linguistics, the linguists mainly consider time in Vietnamese from the Theory of Conceptual Metaphor.
Since the first decade of the 21st century, many Vietnamese linguists have applied Conceptual Metaphor Theory to study the issue of time. Tran Van Co (2005) gives expressions to prove that Vietnamese perceive time as real objects. Nguyen Duc Dan 3
(2009) affirms that Vietnamese people distinguish between present, future, and past events; awareness of the periodicity, continuity, and immediacy of events; use trước to refer to the past, sau này, sau đây to refer to the future.
Nguyen Van Han (2011) points out five ways to identify time position in Vietnamese: positioning according to the degree of near - far movement, positioning front - behind/ahead - now, locating times in a sequence of events without the observer, positioning ABOVE - BELOW according to the vertical axis of the observer; locating times by vocabulary; examining the temporal conceptual metaphors in Vietnamese poetry in comparison with English poetry.
Tran Van Minh (2015) confirms that “Different reference points will produce different, sometimes contradictory, linguistic expressions”; the reference point can be the observer, or it can be a temporal “entity”. Tran Thi Lan Anh (2019) surveys and describes the conceptual metaphor TIME IS HUMAN BEINGS in Luu Quang Vu's poem collection Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, showing that there is a mapping from the source domain HUMAN BEINGS to the target domain TIME.
b. Researchers also refer to conceptualizing time as space when considering temporal conceptual metaphors in Vietnamese. Nguyen Hoa (2007) confirms that Vietnamese people perceive time as an object moving from the future to the present, into the past, Ego in this model is a static reference point; they also perceive time as a static space in which the Ego moves from left to right, i.e. from the past to the present, into the future. When the reference point is a temporal event, a particular time event is understood to be before or after another time event. Positioning in time can be determined in terms of Figure/Ground relations. Time is also perceived as having a well-defined boundary or as an indivisible mass, similar to an entity in space.
Nguyen Duc Dan (2009) believes that in one-dimensional space, spatial relationships are characterized by scalar near and far distance, but for time, they are directional; the spatial axis FRONT - HERE - BEHIND corresponds to the temporal axis PAST - PRESENT - FUTURE. Thus, Nguyen Duc Dan only mentioned a case of mapping from space to time with FRONT mapping onto the PAST, and BEHIND mapping onto the FUTURE. His point of view was once again affirmed by Huu Dat (2011) on Vietnamese idiom and proverb data. However, both authors have not yet explained why trước refers to the past, sau indicates the future, and whether this is always the case.
Nguyen Van Han (2011) also affirms the role of space in the cognition of time. Three of all mappings are defined between the source domain of space and the temporal target domain: the current observer position present, the space ahead of the observer future, and the space behind the observer past. However, this is just one of the cases of mapping space to time, as will be clarified in Chapter 2 of the thesis. Nguyen Van Han also identified types of mapping from space to time in the case of sequential relationships, thanks to which it is possible to draw out the front mapping to the past and the behind mapping to the future. These mappings give a reality different from the conclusion of his three mappings above.
What we infer from the literature overview is that the correct perception of the importance of the reference point, considering the relationship among the elements participating in the referencing activity, separating into specific cases may help to fill in 4
gaps in the study of temporal reference in Vietnamese. The above research results are the basis and tips for studying temporal reference in Vietnamese from the approach of Cognitive Linguistics.
1.3 Theoretical background 1.3.1 Theoretical background of time 1.3.1.1 Conceptual variants of time: According to Galton (2011), there are three concepts of time: linear, cyclical, and radial time. 1.3.1.2 Properties of time: Time has four properties: (Galton, 2011), thời gian có 4 thuộc tính: extension, linearity, directionality, and transience.
1.3.1.3 Temporal perspectives: There are two perspectives: the Moving Ego and the Moving Time. From the Moving Ego perspective, the observer moves to the future events and leave them behind, time is static. From the Moving Time perspective, time moves to Ego, future events approach Ego and pass by, Ego is static.
1.3.1.4 Temporal relations Vyvyan Evans (2013) argues that each temporal FoR gives rise to a different temporal relation. There are three types of temporal relation: future/past, earlier/later, and Matrix. 1.3.1.5 The arrow of time: The arrow of time is a term used metaphorically to express the asymmetry between the past and the future, whereby time is visualized as moving from the past to the future, but not the other way around. The arrow of time, therefore, always points to the future.
1.3.1.6 The mental timeline: The concept of mental timeline refers to people's spatialized perception of time as an abstract category (Ulrich & Maienborn, 2010). The timeline stretches on a spatial axis, has only one direction, and extends to infinity (Bender & Beller, 2014). It exists as a superordinate field independent of the role of the observer. The timeline can be perceived as dynamic or static, where native speakers determine times, durations, and temporal perspectives and establish temporal relationships between events.
1.3.2 Theoretical background of frames of reference 1.3.2.1 What is a frame of reference? A FoR is a coordinate system required to establish the position of a figure in reference to a ground from a given perspective (Talmy, 2000). The components of a FoR include: a figure F, the ground G, and origo and orientation of the coordinate system X. The viewpoint of the observer V is optional and relevant for the relative FoR only).
1.3.2.2 The spatial FoRs by Levinson Levinson (2003/2004) proposes a taxonomy of spatial FoRs as follow: - The absolute FoR consists of two components, F and G. This kind of FoR derives its orientation from a superordinate field outside F and G. F is determined by a fixed direction originating from G. X is usually at the center of G. Assignment of orientation to the superordinate field depends on cultural conventions and includes, for instance, the cardinal points, mountain slopes, prevailing wind directions, rivers, or the land/sea axis. The position of the observer and the orientation of G are not relevant for referencing.
- The intrinsic FoR represents the binary relation between F and G. X is at the center of G. The intrinsic FoR derives its orientation from G. G G is perceived as being directed. The observer's position is not essential, even if V does not coincide with G.
5
- The relative FoRs represent the ternary relation between F, G, and V; they derive their orientation from the viewpoint V of an observer. V is different from G. F is determined in reference to G. The primary coordinate system with origo X1 in V is transferred into G. The observer has an internal orientation. The secondary coordinate system can be established in three ways, thus giving rise to the three variants of the relative FoR: rotation, reflection, or translation.
1.3.2.3 The temporal FoRs by Bender and colleagues Bender and his colleagues (Bender & Beller, 2010; Bender et al., 2014) proposed the absolute, intrinsic, and relative FoRs. It can be summarized as follows: Figure 1.3 Absolute FoR
G
Past
F Future
Past F Future
binary relation (F, G) “front” = Future “forward” = futurewards Figure 1.4 Intrinsic FoR
G binary relation (F, G) “front” = beginning of G “orward” = pastwards Figure 1.5 Relative FoRs
G
a) Reflection subtype Past F F Future
G
V
Past F F Future
(Present) ternary relation (F, G, V) “front” = between G and F “forward” = futurewards in past, pastwards in future
b) Translation subtype G G ternary relation (F, G, V) “front” = beyon G, “forward” = pastwards in past, futurewards in future V
(Present) Bender and his colleagues assert that the relative FoR if appearing, is one of the two variants mentioned above. However, Vietnamese data shows that the relative FoR in this language is the coordination of both variants. 1.3.3 Frame and radial categories 1.3.3.1 Frame: The frame is the background knowledge necessary to understand the meaning of words thoroughly. All of the speaker’s knowledge about the world can become the frame of a given word. The concept of frame closely links to the phenomenon of language change. How a word is understood depends mainly on the frame related to the word with which it is combined, not just on the word itself. When a word changes in frame, it means that a radial process has taken place in which the word has an expansion of its semantic network.
6
1.3.3.2 Radial categories: Lee (2001/2016) confirms that the radial categories are the most common structures. Radial networks are structured around a central or core meaning. The process of radiation closely links to the process of language change. We can identify the natural cognitive relationships from the structures of radial categories. The correlation between two conceptual domains is the basis for the transposition from one domain to another of words.
1.4 Conclusion In this chapter, the thesis has presented a literature overview of temporal reference from the approach of Cognitive Linguistics and the theoretical background as a basis for implementing research tasks.
Chapter 2 TEMPORAL FRAMES OF REFERENCE AND MAPPING SPATIAL FRAMES OF REFERENCE ONTO TIME IN VIETNAMESE
2.1 Introduction In this chapter, the thesis analyzes the mental timeline, spatial FoRs, temporal FoRs, and the mapping of spatial FoRs onto temporal FoRs in Vietnamese.
2.2 The mental timeline in Vietnamese 2.2.1 The axis of the mental timeline in Vietnamese 2.2.1.1 The horizonal axis At the linguistic level, Vietnamese mainly conceptualizes the mental timeline horizontally, exactly the front/back axis. This language is rich in horizontal spatiotemporal metaphors. The words trái (left) and phải (right) are not used to express time. On the contrary, the words trước (front) and sau (behind) are used very commonly.
2.2.1.2. The vertical axis Vertical words in Vietnamese only express the meaning of duration, neither express times nor locate durations, so it is impossible to infer the timeline from the expressions containing them, except trên (above); however, trên represents the timeline along the horizontal axis.
FUTURE.
=> The main timeline in Vietnamese distributes along the horizontal front-back axis axis. The vertical timeline is very faint, currently only existing in expressions with limited scope of use or have become ancient Vietnamese expressions. 2.2.2 The direction of the timeline and the distribution of past - future on the timeline in Vietnamese - The horizontal timeline: the front/back axis, FRONT maps to PAST, BACK maps to
- The vertical timeline: the up/down axis, UP maps to PAST, DOWN maps to FUTURE. 2.3 Spatial frames of reference in Vietnamese 2.3.1 The absolute spatial frame of reference in Vietnamese There are several ways to determine orientation for the absolute FoR in Vietnamese. It is common to determine orientation on the horizontal axis according to geographical directions. This way is mainly used when locating the geographical position of an object. In addition, depending on the characteristics of each region, Vietnamese people also
7
establish other fixed directions such as the axis of sea/land, mountains and forests/plains, mountains and forests/sea, and river flow. However, only the sea/land axis belongs to the horizontal axis. The absolute spatial FoR in Vietnamese represents the binary relation between F and G, performing orientation from a superordinate field located outside F and G in which F is determined by a fixed direction originating from G. 2.3.2 The intrinsic spatial frame of reference in Vietnamese To establish the internal direction of G, Vietnamese people use three ways to delineate different parts and aspects of G:
- Using the direction of gravity, according to which the object G provides the top, bottom, and sides surfaces, for example: (1) Cuốn sách đặt trên bàn/ Ngòi bút rơi dưới bàn/ Nó đứng cạnh bàn cô giáo;
- Using the internal geometric structure of G, such as left, right, front, back, up, down in the human body: (2) Quyển sách ở ngay trước mặt cậu ấy/ ngay sau lưng cậu ấy/ bên tay phải cậy ấy/ bên tay trái cậu ấy;
- Using functional criteria, canonical directions, directions of movement of objects, such as the front, back of the TV, the house, the car: (3) cây mai trước nhà/sau nhà, Bình hoa ở phía trước ti vi/sau ti vi, Nó đứng trước đầu xe/sau đuôi xe. Except for the first way, things have inherent asymmetry in the following two cases, so they have internal orientation.
Examples (1), (2), (3) all express the binary spatial relation between F and G, and the reference direction is determined based on the intrinsic direction of G. F and G for each example respectively are: (1) cuốn sách/ngòi bút/nó – bàn; (2) quyển sách – cậu; (3) cây mai – nhà, bình hoa – ti vi, nó – đầu xe/đuôi xe. They are all cases of the intrinsic spatial FoR. Thus, the intrinsic spatial FoR in Vietnamese expresses the binary relation between F and G. The frame's reference direction is determined based on the internal direction of G. The observer's position is not essential.
2.3.3 The relative spatial frame of reference in Vietnamese Consider the following example: (4) Trong quá trình săn bắn, Chầu phát hiện có một đàn khỉ và một vật trông giống khỉ đang khuất phía sau tảng đá lớn, cách Chầu khoảng 30 m. (During the hunting process, Chau discovered a group of monkeys and a monkey- like object hiding behind a large rock about 30 meters away from Chau.)
For Vietnamese people, the rock does not have an intrinsic asymmetry, so only the observer helps establish the orientation in this case. In the above example, “một đàn khỉ và một vật trông giống khỉ” (a group of monkeys and a monkey-like object) is F; the rock is G; the back is determined to be the side from the rock away, as opposed to the side from the rock to the observer. If F is not behind but to the right of the rock, then the perspective of the left, right, front, and back sides belongs to the reflection variant. The relative FoR proposed by Levinson (2003/2004) do not include the following cases:
(5) Nam ở ngoài sân. (Nam is in the yard) (Ly Toan Thang’s example, 2005) (6) Trong nhà đèn điện sáng trưng. (The lights are bright in the house.) (7) Ngoài đường xe cộ tấp nập. (The trafic is busy outside.) The spatial relations reflected in the above examples are all ternary. F - G in these examples are respectively: Nam – sân (yard), đèn điện (light) – nhà (house), xe cộ 8
(vehicle) – đường (road). The third factor participating in the spatial relation in (5), according to Ly Toan Thang (2005), is “nhà” (the house). We name this factor the implicit space.
The above examples have the words ngoài (out), trong (in), trước (front), sau (behind). They lead to the inference of the existence of an implicit space that derives the orientation. “Ngoài đường” (on the street), “ngoài sân” (in the yard) imply indoor space, “trong nhà” (inside the house) implies outdoor space, “sau vườn” (in the garden), “trước ngõ” (at the antrance to the house) imply indoor space. However, unlike the relative variants established by Levinson (2003/2004), in these cases, F is in the space of G rather than an object separate from G; G is a space, not an object; there is no coordinate system shift from V to G but just F in G seen from a viewpoint outside G; The orientation is established from the implicit space rather than a mapping from G on a basis reflecting the primary coordinate system from V to G; The implicit space determines the choice of linguistic expressions expressing the direction of reference. Thus, these cases ensure the ternary relation to be a variant of the relative FoR but go beyond what Levinson describes. We call this implicit variant with the understanding that it is a variant of relative FoR, representing a ternary relation between a Figure positioned in the Ground; the orientation of FoR derives from the implicit space. This phenomenon in Vietnamese adds to the cross-linguistic diversity of relative spatial FoRs in the natural languages.
2.3.4 The ambiguous cases a. Vietnamese does not mark the differences between intrinsic and relative FoRs in cases where a situation can be construed from many different perspectives.
b. Means expressing the orientations are used for intrinsic and relative FoRs. c. In Vietnamese, there is interference between the intrinsic and relative FoRs when G is an object without internal orientation, but F is, and F is a person.
2.4 The temporal frames of reference in Vietnamese 2.4.1 The absolute temporal frames of reference in Vietnamese 2.4.1.1 The reference system Let us see the following examples: (8) Thời gian trôi đi mãi. (Time flows forever.) In the above example, time is perceived as moving. There is no specific location of the origo X. The coordinate system without G is placed in the superordinate field. F (“thời gian” (time)) is constantly moving towards the future. Therefore, the initial position of F belongs to the past; the position F will move to is in the future. The observer does not participate in the reference system. Both G and V are not necessary; the reference system is nondeictic. According to the mental timeline established in Vietnamese, it can be inferred that F is moving forward. So (8) is a case of the absolute FoR.
More common in Vietnamese is the absolute reference system that G coincides with the position of the observer; the timeline is then a deictic one, as in the following examples: (9) a. Phía trước là tương lai tươi sáng. (A bright future lies ahead.); b. Bỏ lại sau lưng bao tháng năm cuộc đời tăm tối. (We are leaving the very dark period behind.). The orientation of absolute temporal FoR in Vietnamese is often realized by the direction words trước (before) and sau (after), as in example (9), or understood implicitly, as in example (8).
9
2.4.1.2 The dynamic and static events in the absolute temporal frames of reference The events reflected in the absolute temporal FoR can be static or dynamic. It is a static event when the verb goes with a temporal phrase without a dynamic meaning; time is perceived as a static entity, for example (10) Tương lai đang ở phía trước. (The future is in front of (us)). Alternatively, if the temporal phrase takes on the role of an adverbial, time is the background on which other events take place, for example (11) Trước mắt, hãy cứ đợi xem đã. (We must see and wait for how things happen.). It is a dynamic event when the verb in the sentence has a dynamic semantic component, as in examples (8) and (9b).
2.4.1.3. Moving perspectives in the absolute temporal frames of reference Moving Time perspective: the timeline moves toward the future, as in example (8); Moving Observer perspective: Ego moves forward in time, as in example (9b). The table below summarizes the characteristics of the absolute temporal FoR in Vietnamese.
Table 2.2 The absolute temporal frame of reference in Vietnamese The absolute temporal frame of reference
Coordinate system Orientation Temporal relation Reference strategy
Deictic/nondeictic F, G FRONT: future Futute/past Directly, basing on the superordinate field X ≠ G: nondeictic X ≡ G ≡ V: deictic
2.4.2 The intrinsic temporal frame of reference in Vietnamese 2.4.2.1 The deictic intrinsic frame of reference a. The reference system Les us see the following example: (10) a. Milan từng rất thành công với thủ môn người Brazil khác là Dida những năm đầu thập niên trước. (Milan was very successful with another Brazilian goalkeeper, Dida, in the early years of the last decade.); b. Tuần sau, cô sẽ cùng gia đình trở lại Đức. (Next week, she wil return to Germany with her family.)
The reference system in examples (10) is established between F (Milan rất thành công với thủ môn người Brazil Dida, Linh cùng gia đình trở lại Đức) and G (Ego's subjective present), which is deictic. Example (10) shows that the concept of PAST/FUTURE in the Vietnamese deictic intrinsic FoR is perceived as BEFORE/AFTER in the spatial domain.
The reference system of the Vietnamese deictic intrinsic temporal FoR includes F and G. G coincides with V, and F is determined in reference to G. The orientation of the FoR is opposite to the orientation of the absolute FoR with BEFORE indicating PAST, AFTER indicating FUTURE. This FoR includes the case where F coincides with G, in which F occurs at the moment of speaking; F, G, V, and X coincide at one point on the timeline. The coordinate system is egocentric. Therefore, the reference strategy directly relies on the human experiencer.
10
b. The dynamic and static events in the deictic intrinsic frames of reference - It is a static event if the temporal phrase takes on the role of an adverbial; time is the background on which other events take place, as in example (10).
- It is a dynamic event when the verb in the sentence has a dynamic semantic component, inherently a spatial verb lifted to indicate movement in time. For example: (11) a. Hàng loạt chương trình quảng bá hình ảnh, thương hiệu cho các ngành hàng trọng điểm (…) đều phải huỷ hoặc dời lịch tổ chức sang các năm sau. (A series of image and brand promotion programs for crucial industries (...) had to be canceled or rescheduled to subsequent years.); b. Nội chiến, xung đột liên miên đẩy nền kinh tế đất nước lùi lại hàng chục năm (Civil war and constant conflicts pushed the country's economy back decades.). In these examples, the verb in the sentence indicates the movement of the object on the timeline toward the future (example 11a) or toward the past (example 11b) in reference to the time of speaking. The temporal event in the sentence is, therefore, a dynamic event.
c. Moving perspectives in the deictic intricsic temporal frames of reference Due to its deictic nature, the movement in the events of this FoR has a directional character associated with the concept of radial time. It can be the movement of F from the present towards the future or from the present towards the past. The Ego is static. This movement is associated with changing the time and duration of the event (as in 11a). The movement to change time only occurs on the future half-axis, whereby an event moves from the present to the future. In the past direction, the perspective of movement is mental, i.e., hypothetical movement in the native speaker's mental space (as in 11b).
2.4.2.2 The sequential intrisic frame of reference in Vietnamese a. The reference system of the sequential deictic FoR Let us see the following examples: (12) a. Theo tục lệ nhà ai có con gái gả chồng sau khi ăn hỏi xong cũng đem cau trầu biếu hàng xóm. (Traditionally, whoever has a daughter who gets married, after the engagement ceremony, also gives betel and areca to the neighbors.); b. Trước đánh nhau, sau nhận họ. (First, they fight each other; then, they recognize them as relatives.)
In example (12a), the event “ăn hỏi” (engagement ceremony) plays the role of G. It takes place before the event F “đem cau trầu biếu hàng xóm” (gives betel and areca to the neighbors), so it is in the past compared to F. On the contrary, the event F “đem cau trầu biếu hàng xóm” takes place after the event G “ăn hỏi” or it belongs to the future of the G. The temporal relation between the two events in (12a) is the same as the temporal relation reflected in (12b). In both examples above, the past/future temporal relationship is mapped on the BEFORE/AFTER axis, and the order between the two events determines the direction of the sequence – towards the past. This temporal relation only occurs between F and G, independent of the observer's position. Thus, they are specific cases of the sequential intrinsic tempoảl FoR in Vietnamese.
The sequential intrinsic FoR is also expressed by a noun phrase consisting of a noun denoting a unit of time combined with trước/sau (before/after), for example: (13) Last year you will get areca nut, next year you will get rice (Proverb). However, năm trước (last year) and năm sau (next year) in (13) do not express deictic time like how they are used in absolute FoR. Without the markers trước/sau, the sequential relation is recognized 11
by the temporal order between events, expressed by word order, cause-effect relation, condition-effect relation, and conjunction rồi (then).
In short, the sequential intrinsic FoR in Vietnamese consists of two elements: F and G. This reference system encodes the earlier/later relation between two events in which one event is chosen as the reference point. V is not essential, and the coordinate system is allocentric. The reference strategy is directly based on G.
b. The dynamic and static events in the sequential intrinsic temporal FoR Different from the absolute and deictic intrinsic FoRs, the temporal events in the sequential intrinsic FoR are static. What Vietnamese people pay attention to the sequential relations is the position of two events at two different times or periods on the timeline; these positions are different from the Ego. Therefore, when mapping the scenario of a series of entities moving in space to a series of events in time, the dynamic attribute is eliminated and there is no the moving perspective between events. The table below summarizes the characteristics of the intrinsic temporal FoRs in Vietnamese:
Table 2.3 The intrinsic temporal FoR in Vietnamese The intrinsic temporal FoR
Coordinate system Orientation Temporal relation Reference strategy Deictic variant
Deictic/nondeictic F, G FRONT: past, BACK: future Past /future Direct: Ego-based Indirect: G-based; G ≠ Ego Deictic Sequential variant Deictic variant Sequential variant Nondeictic
2.4.3 The relative temporal FoR in Vietnamese 2.3.3.1 The reference system of the relative temporal FoR a. G is in the future Let us see the following example: (14) Bây giờ, tôi sẽ kể cho anh nghe một điều cuối cùng trước khi tôi ngừng cuộc trò chuyện này để đưa người vợ thân yêu của tôi đi ăn sáng. (I'll tell you one more thing before I stop this conversation to take my dear wife out to breakfast.)
In the example, the speaking time is the observer’s subjective present (expressed by bây giờ (now)). Compared to this moment, event 1 (“kể cho anh nghe một điều cuối cùng” (tells you one more thing) belongs to the future, right after the speaking time. The expression trước (before) stating that event 2 “khi tôi ngừng cuộc trò chuyện này để đưa người vợ thân yêu của tôi đi ăn sáng” (I stop this conversation to take my dear wife to breakfast) takes place after event 1. Thus, event 2 plays the role of G for event 1 (F). Event 1 can, therefore, only occur in the period after V and before G. BEFORE, in this case, is the period between V and G, with G being a future time. It means there is a ternary temporal relation among V, G, and F. Compared with the Theory of Temporal FoRs by Bender and his colleagues (2014, 2010), this is the reflection variant.
Let us see another example: (15) (Tuy vậy pháp luật hiện nay chưa quy định rõ hình thức từ chức.) Sau khi có Nghị quyết T.Ư 8, khóa XII, QH, Chính phủ sẽ cụ thể hóa ở những văn bản quy phạm pháp luật. ((However, the current law does not stipulate the
12
forms of resignation.) After issuing Central Resolution 8, term XII, the National Assembly and the Government will concretize it in legal documents.)
At the speaking time (i.e., the speaker's subjective present V), Central Resolution 8, term XII had not yet been promulgated. Therefore, the event of promulgating Central Resolution is after the speaking time, so it belongs to the future. In reference to the time of promulgating Central Resolution (G), the event of the Government's concretizing the forms of resignation in legal documents (F) is later. BACK, in this case, is assigned to the time beyond G. Thus, we see that with G positioned in the future, the ternary temporal relation in Vietnamese belongs to the reflection subtype of the relative FoR.
b. G is in the past However, when G is localized in the past, the constellation of V, G, and F differs from what Bender and colleagues describe as the reflection variant. In Vietnamese, when G occurs in the past, the event F in front of G does not fall between G and V, and the event F behind G is not beyond G. Instead, F is in front of G if it is beyond G and behind G if it is between G and V. FRONT thus corresponds to the past, and BACK corresponds to the temporal interval restricted between the event G and the subjective present of the observer. The corollary of this is that when G occurs in the past, the frame of reference applied is not the reflection but the translation variant, as in examples (16) and (17): (16) Câu chuyện làm cho người ta nhớ lại Vạn Lý Trường Thành, xưa nay ai cũng nói do Tần Thuỷ Hoàng xây dựng trước Thiên Chúa giáng sinh,…
G
Future F
G
(17) Lại nhớ sau khi ra trường, Triệu về phụ trách kỹ thuật ở Lữ xe Quân khu 3, … Figure 2.1 below demonstrates the relative FoR in Vietnamese: Past F Front Back Front Back
V
(Present)
Figure 2.1 The relative temporal FoR in Vietnamese To summarize, we have argued that the relative frame of reference proposed by Bender and colleagues cannot be applied to the case of Vietnamese. The above analysis allows us to conclude about a model of relative temporal FoRs for Vietnamese that is different from the previously proposed models. This model complements the description of temporal FoRs in natural languages.
2.4.3.2 The dynamic and static events in the relative temporal FoR The time events reflected in the Vietnamese relative FoRs can be static or dynamic. In the examples (14), (15), (16), and (17), time events are static. It will be dynamic time events in the cases below:
- There is a verb expressing the movement of F on the timeline in the sentence, for example: (18) Trước đó, thời điểm phóng vệ tinh này đã phải lùi lại một ngày do có gió mạnh.
- There is a verb expressing the shift of Ego's point of view on the timeline in the sentence, for example: (19) Lùi lại trước đó vài ngày, Tuấn Mạnh vẫn rất háo hức hướng 13
đến mùa giải mới, anh thậm chí còn khoe đôi giày Mizuno vừa được tặng với sự phấn khởi sẽ chơi thành công cùng Khánh Hoà.
2.4.3.3 Moving perspectives in the relative temporal frames of reference - Moving Figure: In example (20) above, G (“đó”) and V are both static. Only the satellite launch time moving makes a related situation dynamic. The dynamic nature of the temporal event is determined by the element F.
- Moving V: In the example (19), G is in the past, expressed by đó (that). G and F are both static. V moves in the timeline. V makes the temporal event in (19) become dynamic. The movement of V only takes place in mental space, associated with the movement of viewpoint on the timeline back to the past F. Thus, in the Vietnamese relative reference system, if it is a dynamic event, there is only one moving component, F or V, while G does not move. The table below summarizes the characteristics of the relative temporal FoRs in Vietnamese: Bảng 2.4 The relative temporal FoRs in Vietnamese
Coordinate system
Reflection variant Orientation
Translation variant Temporal relation Reference strategy The relative temporal FoRs F, G, V G is in the future. FRONT: between V and G, BACK: from G towards the future G is in the past. FRONT: G’ past; BACK: between G and V Matrix Inderect: transfer the coordinate system from V to G
Nondeictic Deictic/Nondeictic
2.5 The mapping from spatial to temporal FoRs in Vietnamese 2.5.1 The mapping from space to time: the case of the absolute FoR 2.5.1.1 Mapping the reference system: Mapping the binary reference system that includes F and G. The FoR derives its orientation from the superordinate field. There is a total mapping of a moving event in space onto a moving event in time. 2.5.1.2 Mapping the superordinate field: Time is only mapped onto one- dimensional space, the FRONT/BACK axis.
2.5.1.3 Mapping asymmetric axes and directions The direction of the absolute spatial FoR is not mapped onto time because Vietnamese perceive the mental timeline distributing on the FRONT /BACK axis.
2.5.2 The mapping from space to time: the case of the intrinsic FoR 2.5.2.1 The deictic intrinsic FoR a. Mapping the reference system: The subtype in which the reference direction is determined based on the Figure, occurring when G is an object without an intrinsically oriented structure, and F is a human being, is not mapped into time.
For the remaining variant, the mapping is obvious: the intrinsic temporal FoR preserves the relation between F and G when mapping from space to time, the direction 14
of the FoR is determined according to the internal directions of G, the coordinate system only consists of F and G, the position of the observer is not essential. The mapping is realized using the spatial language to reflect the deictic intrinsic temporal relation.
b. Mapping asymmetric axes and directions For the intrinsic FoR, only the FRONT/BACK axis is mapped from space to time. The internal direction of G is preserved in the transfering process, with FRONT corresponding to the PAST and BACK corresponding to the FUTURE. 2.5.2.2 The sequential deictic intrinsic FoR The sequence of moving entities in space (dynamic events) is mapped to the sequence of temporal events, including the direction and distribution of elements participating in the sequence. Only sequences distributing on the FRONT/BACK axis with FRONT being assigned to the PAST, BACK being assigned to the FUTURE is mapped onto time. 2.5.3 The mapping from space to time: the case of the relative FoR The relative spatial frames of reference have three variants: the translation, the reflective, and the implicit variation. However, only the first two variations are mapped to time; while the implicit variant, which represents a ternary relationship between a Figure located in a Background, the orientation of the frame of reference established from the implicit space, is not.
2.5.3.1 Mapping the translation variant from spave to time in Vietnamese For the radial half-axis toward the past, the time domain maps the coordinate system transfering from V to G of the spatial translation variation.
2.5.3.2 Mapping the reflective variant from spave to time in Vietnamese For the radial half-axis toward the future, the time domain maps the coordinate system reflecting from V to G of the spatial relective variation.
2.5.4 Discussion We confirm that there is mapping of spatial frames of reference patterns onto the time domain; however, not all elements and relations of spatial FoR map onto the domain of time and vice versa, and not all elements and relations of temporal FoR are mapped from space. The mapping consists of the number of components of the FoR, the role and the distribution of each component, and the reference strategy.
Space has three axes, but only the FRONT/BACK axis is mapped onto time. BEFORE can map to the past or the future depending on the frame of reference used, and there is no contradiction when FRONT can both be assigned to the past and the future. With absolute temporal FoR, the perception of time is egocentric. Meanwhile, in the absolute spatial FoR, the orientation is not related to the role of the observer.
2.6 Conclution In this chapter, the thesis analyzes the mental timeline, the temporal FoRs, the spatial FoRs, and the mapping FoRs from space to time in Vietnamese.
Chapter 3 THE COGNITION AND EXPRESSION OF SPATIOTEMPORAL REFERENCE IN VIETNAMESE WITH LÙI, QUA, SANG, TỚI, ĐẾN
3.1 Introduction
15
This chapter analyzes the mapping of the argument structures of spatial events to time events with lùi, qua, sang, tới, đến, then explores the temporal reference and the mapping perspectives from space to time expressed by these words. 3.2 The cognition and expression of spatiotemporal reference in Vietnamese with lùi 3.2.1 Lùi represents space
- Lùi is an intransitive verb. The argument structure only consists of the actor or the mover, as in the following examples: (20) a. Các em lùi xuống ba bước. b. Chiếc ô tô lùi lại. - Lùi is a transitive verb. The argument structure consists of two actants: the agent and the object; for example, (21) Anh ấy lùi xe vào ngõ. - Lùi is usually behind the verbs bước, đẩy, kéo. In these cases, the argument structure may only consist of the agent/the object or two actants – the force and the object.
3.2.1.3 Spatial persectives with “lùi”: An entity moves from one location to another in a direction opposite to the original direction of movement; the intrinsic direction structure of the entity (if any) does not change.
3.2.2 Lùi represents time - Lùi is an intransitive verb. The argument structure only consists of the actor, as in (22) Chiến tranh đã lùi xa, hơn 40 năm (…). - Lùi is a transitive verb: The argument structure consists of two actants: the agent and the object; for example, (23) Nga lùi thời gian phá huỷ trạm Mir.
=> The argument structure of the spatial verb lùi is transferred to the time domain. - Lùi combines with the verbs đẩy, kéo. The argument structure consists of the force and the object, as in (24) Thời tiết xấu đẩy lùi ngày bay của Discovery (10/8). Compared to lùi expressing space, lùi representing time has a more complex argument
structure with many variants. 3.2.2.3 Temporal reference and perspectives with “lùi”
a. Temporal reference and perspectives with lùi: towards the past G is at the observer’s subjective present. Event F is in the past of G (as in (28)). Lùi indicates that F is behind the Ego, which is also on the past half-axis of the timeline. In this case, the FoR motivating temporal relation is the absolute FoR distributing on the deictic timeline.
There are three perspectives associated with past events expressed by lùi. - The Ego moves in the timeline toward the future, whereby a time/period in the past will gradually move away from the Ego.
- Ego shifts the point of view from the present to the past. - The object moves backward in the timeline toward the past. b. Temporal reference and perspectives with lùi: towards the future If G is at the subjective present of the observer, the moment after the time shift will be in the future. The effective FoR, in this case, is the absolute one. If G is in the past or future, the FoR motivating the temporal relation is the relative FoR. There are two perspectives: 1. A time moves backward in the timeline toward the future; 2. The object (an event) moves backward in the timeline toward the future.
16
3.3 The cognition and expression of spatiotemporal reference in Vietnamese with qua and sang 3.3.1 Qua and sang represent space 3.3.1.1 “Qua” and “sang” are verbs
The argument structures consist of the actor/mover and the goal/path, as in the following examples: (25) a. Mẹ tôi qua làng bên.; b. Thuyền qua sông.; c. Chờ em chừng dập miếng giầu em sang.; d. Ngoài mép nước, có chiếc mủng của ai còn chưa sang sông. 3.3.1.2 “Qua” and “sang” are prepositions Qua: The argument structures consist of the actor/mover and the path, as in (26) Đoàn người vượt qua núi.
Sang: The argument structures require two actants: the actor/mover and the goal, for example, (27) a. Hiện tại, Phan Đăng Hoàng đang chuẩn bị hành trang để tháng 9/2018 sẽ lên đường bay sang Milan chuẩn bị những thủ tục cần thiết để nhập học vào đầu tháng 10.; b.Tủ quần áo bị chuyển sang một khu đất trống ven đường. 3.3.1.3 Spatial persectives with “qua” and “sang”
- An entity moves from one side to another of a space that serves as a path. - An entity moves from one location to another or space to another. Qua also expresses the perspective of an entity moving past another entity. If both
entities move, they can move in the same or opposite directions. 3.3.2 Qua and sang represent time 3.3.2.1 “Qua” and “sang” are verbs
a. Qua, sang are verbs expressing the content of events - If the moving subject is time, the argument structure of the sentence/clause only requires the mover. For example: (28) a. Thế nhưng đã hết tháng 10, rồi tháng 11 lại qua...; b. Xuân sang.
- If the moving subject is not time: + Qua: The argument structure of the sentence/clause only requires the actor/mover and the path. For example: (29) 10 tỉnh, thành phố đã qua 26 ngày không ghi nhận trường hợp mắc mới COVID-19 trong cộng đồng (...).
+ Sang: The argument structure of the sentence/clause only requires the actor/mover and the goal. For example: (30) a. Sang năm 2014, Khánh Vân tiếp tục dự thi Miss Ngôi sao và đạt danh hiệu Á hậu 2 (…).; b. Sang đến tuần thứ hai, bộ phim đã bị cắt số rạp xuống còn 40, (…)
b. Qua and sang combine in front of nouns denoting units of time to make the deictic temporal denominative phrases. For example: sang tuần, sang năm, qua tuần, qua tháng, v.v.. c. Qua is a verb with grammal behavior as a determiner in noun phrase indicating time. For example: năm qua, tháng qua, tuần qua, thời gian vừa qua, v.v..
- Qua usually stands behind the verbs such as trải, trôi, đi, vượt.
d. Vừa qua: When not following a noun/noun phrase to add a limiting meaning, the vừa qua combination has the characteristics of a habitual collocation expressing time, used as an adverbial in a sentence/clause. 3.3.2.2 “Qua” and “sang” are prepositions:
17
+ The argument structure only requires the mover, which is expressed by the temporal noun phrase, for example: (31) Thế kỷ 20 đi qua đánh dấu những bước tiến vĩ đại trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là khoa học kỹ thuật và y học.
+ The argument structure requires two actants, the actor/mover and the path; both of these actants are timeless subjects, and the path is duration, for example: (32) Bờ Biển Ngà, một xứ sở từng yên bình, đã trải qua hơn một năm hỗn loạn, (…). - Sang usually stands behind the verbs such as bước, lùi, chuyển, lấn, dời. The argument structure of the sentence/clause consists of two actants: the actor/mover and the goal; the goal is expressed with a noun phrase denoting durations, for example: (33) a. Chiến sự tại Ukraine đã bước sang ngày thứ 50.
Thus, sang and qua, verbs representing spatial moving events, have the same semantic and argument structures. The distinction between them will become apparent when radiating to the time frame, except for the similarities in their ability to participate in the one-argument structure (the mover). As prepositions, the distinctions between sang and qua occur right from the spatial frame: although the meaning is the same, the argument structures that sang participates in are different from those in which qua can appear; in the time frame, qua and sang are entirely unlike each other. The differences between them are why both coexist in the Vietnamese language, where they have the most similarities. 3.3.2.3 Temporal reference and perspectives with “qua” and “sang”
a. Temporal reference with qua and sang In 1,000 corpora using the word qua surveyed from https://s.ngonngu.net/corpus/, 551 corpora use qua to express time (accounting for 55.1%), of which 391 cases qua are used to reference time (accounting for 71%), 160 cases qua did not participate in time reference (accounting for 29%). Only when used as a determiner in noun phrases denoting a time or duration, standing before nouns denoting units of time to make deictic temporal denominative phrases, or in the habitual collocation vừa qua, qua participate in time reference. The FoR motivates, in this case, is, therefore, the absolute FoR. With the remaining grammatical functions, qua expresses the subject's movement on the timeline without referring to time. in 1,000 corpora, Meanwhile, for sang, there are only 76 corpora
in which sang denotes time (accounting for 7.6%), of which there are 3 cases of sang participating in time reference (accounting for 3.9%), the remaining 73 cases of sang do not have reference function (accounting for 96.1%). Thus, compared to qua, sang is less in both the temporal expression and reference. Only when standing before nouns denoting units of time to make deictic temporal denominative phrases sang has a referential function. At this time, the FoR present is the absolute FoR. In contrast to qua, time events located with sang are always in the future.
b. Temporal perspectives with qua, sang Qua and sang express two perspectives: 1. Time moves past the Ego into the past, and the Ego stands still; for sang, the temporal entities are seasons; 2. The Ego or some temporal entity moves towards the future; time is static.
18
3.4 The cognition and expression of spatiotemporal reference in Vietnamese with tới and đến 3.4.1 Tới and đến express space 3.4.1.1 “Tới” and “đến” are verbs: They are intransitive verbs. - The argument structure consists of the actor/mover and the goal. For example: (34)
a. mời bạn tới nhà; b. Ô tô đến bến. 3.4.1.2 “Tới” and “đến” are prepositions
a. Tới and đến mean getting the destination The argument structure consists of two actants: the actor/mover and the goal. For example: (35) a. Mênh mông lả ơi, thuyền về tới bến mơ rồi (Phạm Duy); b. Theo các thuyền viên, tàu vào đến vùng cửa biển Nhật Lệ thì gặp luồng nước lớn làm rơi bánh lái.
b. Tới represents the direction of moving straight forward The argument structure of the sentence/clause requires only an actant: either the actor
or the mover. For example: (36) Cô ấy bước tới một bước. 3.4.1.3 Spatial perspectives with “tới” and “đến”
a. Tới and đến express the same spatial perspectives: Tới and đến express the same spatial perspectives with the argument structure that includes the actor/mover and the goal. In this case, the scenario will be an entity moving from a source location/space to a target location/space. The element foregrounded is the goal, not the source. Therefore, the compulsory role is the goal, not the source, even though these moving scenarios all presuppose a starting point. If only considered like that, the scenario of the concepts expressed by tới and đến will not be distinguished from the scenario expressed by qua and sang. However, the distinction between the scene with tới and đến and the scene with qua and sang is: 1. the spatial distance between the source and the target in cases of đến and sang must be close or adjacent; this requirement not set forth with tới and đến; 2. With tới and đến, the scene structures within it the subject's direction of movement - the forward direction, while the moving scene with qua and sang does not contain this feature.
b. Spatial perspective is possible with tới but not with đến The spatial perspective corresponding to the argument structure that only includes the actor or mover (that is, a perspective in which an entity moves on a horizontal plane facing forward; the forward direction is the direction of movement) only exists with tới does not exist with đến, nor does it exist with qua and sang.
Thus, compared with qua and sang, there is no scene of an entity moving from one side to another of a space as a passageway with tới and đến. On the contrary, the moving scene with tới, đến, including in the direction of movement, is a cognitive reality that does not exist with qua and sang. 3.4.2 Tới and đến express time 3.4.2.1 “Tới” and “đến” are verbs
a. Tới and đến are verbs expressing the content of events - Tới and đến represent the movement of a timeless subject towards the future. The argument structure always requires two actants: the actor/mover and the goal. For example: (37) a. Anh kể, cứ gần tới giao thừa là ra khỏi nhà, tụ tập cùng đám bạn.; b. Hoa đến thì thì hoa phải nở.
19
- Tới represents the movement of time from the future to the present. For example: (38) a. Mùa đông đã tới.; b. Thời khắc lịch sử đã đến. The argument structure of the sentence/clause only requires the mover. The temporal subject as the mover is often a season or a turning point.
When radiating to time, tới and đến are also intransitive verbs. However, the argument structure is not wholly similar between the spatial frame and the temporal frame: 1. tới and đến can enter the argument structure of an actant, which is absent when they express spatial moving events; 2. tới and đến express the content of events in the argument structure with two actants: the actor/mover and the goal - a structure radiating from space. b. Tới and đến as restrictive adjuncts of the temporal noun phrases: This grammatical function shows the distinction between tới and đến. Tới is often combined after nouns indicating time units, for example: năm tới, tuần tới, tháng tới, chủ nhật tới, noun phrases indicating duration, for example: đầu năm tới, đầu tuần tới, thời gian tới. In these type of combination, tới has the role of demonstrative marker. The formed noun phrases all express deictic time.
Also, in the deictic temporal noun phrases, but in another combination, the difference between tới and đến is less: Tới combines with sắp and/or đây; sắp tới, tới đây, and sắp tới đây function as restrictive adjuncts in noun phrases expressing durations. For example: vụ mùa sắp tới, ngày 5 tháng 1 tới đây, chuyến đi sắp tới đây. Đến combines with sắp; sắp đến functions as a restrictive adjunct in noun phrases expressing durations. Nouns with tới and đến as a determiner all express times and durations in the future.
c. sắp tới, tới đây, sắp tới đây, tới nay, đến nay, sắp đến: Sắp tới, tới đây, sắp tới đây, tới nay, đến nay, and sắp đến are temporal habitual collocations when they are at the function of adverbials. Sắp tới, tới đây, sắp tới đây, and sắp đến mark events reflected take place after the moment of speaking; meanwhile, tới nay and đến nay mean present. 3.5.2.2 “Tới” and “đến” are prepositions
Tới, đến mark the destination on the timeline. The argument structure of a sentence/ clause depends on the verb expressing the event but is always present in the temporal role marked by tới/đến.
In the spatial frame, tới and đến are the same, whether as verbs or prepositions. In the time frame, the verbs tới and đến have a distinction. In terms of lexical semantics, tới and đến are similar in their ability to express the meaning of “reaching the goal of the activity”, but the difference is that tới expresses the direction of the subject's straightforward movement while đến does not; accordingly, tới enter two the argument structures with compulsory actant as follows: a. the actor/the mover, b. the actor/the mover – the goal while đến has only one argument structures with two mandatory actants: the actor/the mover – the goal. As prepositions, tới and đến are the same in both expressing time and the ability to mark the goal; the goal marked by tới and đến are always satellites. 3.4.2.3 Temporal reference and perspectives with “tới” and “đến” a. Temporal reference with “tới” and “đến”
For tới, in 1000 corpora surveyed from https://s.ngonngu.net/corpus/, there are 316 corpora expressing time (accounting for 32%), of which 240 cases tới is used in temporal reference (accounting for 75.9%), the remaining 76 cases do not have a temporal 20
reference function (accounting for 24.1%). Meanwhile, for đến, there are 359/1000 survey documents expressing time, accounting for 35.9%, of which 99 cases refer to time (accounting for 27.6%), the remaining 260 cases đến does not take part in temporal reference (accounting for 72.4%). Tới has the temporal reference function when it is a determiner in a noun phrase expressing a time, a duration or in the collocations sắp tới, tới đây, sắp tới đây, and tới nay; these noun phrase all express deictic time. Meanwhile, đến has a temporal reference function when it appears in the combinations sắp đến and đến nay. These combinations also express the deictic time; G coincides with V. The FoR motivates temporal relation, in this case, is the absolute FoR.
b. Temporal perspectives with tới, đến - Moving Time: Time is perceived as moving from the future towards the Ego, for example: (39) a. Mùa đông đã tới.; b. Xuân đến.
- The Ego or a non-Ego entity moves toward the future; time is static. For example: (40) a. Dù sắp đến ngày sinh con, Trần Khải Lâm vẫn rong ruổi khắp nơi.; b. Hoa đến thì thì hoa phải nở. 3.4 Discussion on lùi, sang, qua, tới, and đến - Among the five words under consideration, qua is the word with the highest ability to express time, followed by đến, lùi and tới, and the lowest is sang.
- Lùi only expresses the movement of time or a timeless subject without participating in temporal reference. The remaining four words may or may not be used in temporal reference.
- Lùi does not express deictic time. The remaining four words can all go into combinations expressing deictic time. The words sang, qua, tới, and đến have similarities and differences in semantics, grammar, and cognition.
- năm trước – năm nay – năm sau: Temporal events are perceived as static points on the timeline and refer to Ego, the present FoR is the deictic intrinsic FoR; năm qua – năm nay – năm tới: also refer to Ego but different perspective: Moving Time perspective; the absolute FoR motivate the temporal relations; năm ngoái – năm nay - sang năm: deictic reference to Ego; the present FoR is the absolute FoR. - Sang and qua, when radiating into the time frame, still preserve the proximity properties of the spatial scene.
3.7 Conclution This chapter analyzes the spatiotemporal cognition and expression with the cases of lùi, sang, qua, tới, and đến. The considered words transfer from the spatial to the temporal frame. The radial process occurs due to the change in the argument structure: the actor, the goal, the path, and the object are not spatial entities but temporal entities, or the mover and the object are events and phenomena moving in time instead of spatial entities.
CONCLUTION
The thesis analyzes the following contents: 1. Chapter 1 presents a literature overview of the mental timeline, the Theory of temporal FoRs, the mapping of FoRs from space to time, and an analysis of time in Vietnamese from the Cognitive linguistics approach.
21
Chapter 1 also presents a theoretical background on time (the conceptual variants, properties, perspectives, and relations of time; the arrow of time; the mental timeline), the spatial FoRs by Levinson, the temporal FoRs by Bender and colleagues, and the frame and radial categories. The literature overview and theoretical background are used for analyzing temporal reference in Vietnamese in Chapter 2 and Chapter 3.
2. Chapter 2 gains the main study results as follow: 2.1. Analyzing the mental timeline in Vietnamese: The analysis results show that the main timeline in Vieetnamese is horizontal, on FRONT/BACK axis with back mapping on the past, front mapping on the future. The vertical timeline is very faint, currently only existing in expressions with limited scope of use or have become ancient Vietnamese expressions.
2.2. Analyzing horizontally spatial frames of reference in Vietnamese: the absolute, the intrinsic, and the relative frame of reference. Besides using the cardinal directions for the absolute spatial FoR, Vietnamese people also use the sea-land axis to determine the reference direction. For the intrinsic FoR, in addition to the variants proposed by Levinson (2003), there is another variant in which the Ground is an object without an intrinsically oriented structure, the Figure is a human being, and the reference direction is determined based on the Figure. For the relative FoR, there are only the reflective and translation variants according to Levison's taxonomy in Vietnamese; however, this language has an implicit variant indicating the relationship between a Figure located in a Background, the orientation of the frame of reference determined from the implicit-function space. Therefore, two variants in Vietnamese have yet to be analyzed in the literature on spatial frames of reference. Thus, our results enrich the picture of describing spatial FoRs in natural languages.
2.3. Analyzing temporal frames of reference in Vietnamese: We prove that there are three temporal frames of reference in Vietnamese: the absolute, the intrinsic, and the relative frame of reference.
a. The absolute FoR in Vietnamese describes the binary temporal relation between two objects, in which an event F is in front of an event G. The orientation of this frame of reference is time itself. The FRONT/BACK axis metaphorically corresponds to the FUTURE/PAST axis. The temporal events reflected can be dynamic or static. For dynamic events, the temporal perspective can be Moving Ego or Moving Time; the movement of the Ego or Time is always in the same direction as the movement of the timeline. The reference strategy can be direct or indirect.
b. The intrinsic FoRs consist of two variants corresponding to two types of temporal relations: the deictic and the sequential variant. For the deictic variant, G is the time of speaking, coinciding with the Ego's subjective present; the temporal relation reflected is binary (F and G) with FRONT mapping onto the PAST, BACK mapping onto the FUTURE. Temporal events can be dynamic or static. The perspectives: F moves from the present towards the future or from the present towards the past; the Ego is static. For the sequential variant, G is different from Ego; the temporal relation reflected is the earlier/later relation and only involves F and G but is independent of the observer's position; the past/future relation is also mapped onto the FRONT/BACK axis. The temporal events associated with 22
the sequential variant are static, so there is no moving perspective with this intrinsic subtype.
The temporal relation in the intrinsic FoR may or may not require the Ego as the Ground G, the origin X of the coordinate system is at the position of G, the FRONT direction of the FoR points to the past and is opposite to the direction of the absolute FoR. c. The relative temporal FoR provides a reality different from what has been theoretically proposed so far: when G is a future time, the temporal frame of reference found is the reflection variant; when G is a past time, the one found is the translation variant; combining the two cases, we propose a new model that has never been analyzed in the literature on temporal frames of reference in natural languages. The relative temporal FoR can motivate a dynamic or a static event. For the dynamic events, there are two perspectives: Moving F and Moving Ego; G is static.
The study results of the relative temporal FoRs in Vietnamese lead to a new requirement: it is necessary to expand the theory of temporal FoRs to cover more specific linguistic cases.
2.4. Analyzing the mapping from spatial frames of reference to temporal frames of reference in Vietnamese: We confirm that there is mapping the patterns of frames of reference between the two domains; however, not all elements and relations of spatial frames of reference map onto the domain of time and vice versa, and not all elements and relations of temporal frames of reference are mapped from space. Space has three axes, but only the FRONT/BACK axis is mapped onto time. BEFORE can map to the past or the future depending on the frame of reference used, and there is no contradiction when FRONT can both be assigned to the past and the future.
The mapping from the absolute spatial FoR to time in Vietnamese only preserves the components of the coordinate system and the way to determine direction based on the superordinate field; meanwhile, the superordinate field, the asymmetry axis, and reference direction are not mapped.
The intrinsic spatial reference frame has two variants. However, only the one that shows the binary relationship between the Figure and the Ground, the frame's reference direction determined based on the Ground's intrinsic direction, and the observer's position irrelevant are mapped onto time. In contrast, the variant in which the reference direction is determined based on the Figure, occurring when the Ground is an object without an intrinsically oriented structure and the Figure is a human being, is not mapped into time. The mapping preserves the coordinate system and the way of determining the orientation of the frame on the FRONT/BACK axis. For the sequential variant, the sequence of moving entities in space is mapped onto the sequence of events in time.
The relative spatial frames of reference consist of three variants. However, only the reflective and the translation variants are mapped onto time, while the implicit variant is not. For the radial half-axis toward the past, the time domain keeps the transfer of the coordinate system from V to G of the spatial translation variation. For the radial half-axis toward the future, the time domain keeps the reflection of the coordinate system from V to G of the spatial reflective variation. The mapping only takes place on the FRONT/BACK axis.
23
3. Chapter 3 analyzes the cognition and expression of spatiotemporal reference with the words lùi, qua, sang, tới, đến. First, we establish the grammatical and semantic characteristics, the argument structure, and the moving perspective of relevant spatial words, then analyze their radiation and mapping onto the time domain. We conclude as follows:
The considered five words transfer from the spatial to the temporal frame. In the radial process, they mainly preserve the spatial argument structure, in addition, there is also the suppression or appearance of the argument structures compared to the source frame. The change of frame occurs due to the change in roles in the argument structure: the actor, the goal, the path, and the object are not spatial entities but temporal entities; the mover and the object are not spatial entities but temporal events and phenomena moving in time.
In the five cases studied, lùi is the only word that does not participate in expressing deictic time. The remaining words express time events motived by the absolute FoR. Events refered to by sang, tới, đến belong to the future half-axis (except for the case of up tới nay, đến nay), events refered to by qua distribute to the past half-axis.
The temporal perspectives expressed by lùi are the most diverse and complex. In the past half-axis, lùi represents three perspectives: 1. Ego moves in the timeline towards the future, whereby a past time/duration will gradually move away from the Ego; 2. Ego shifts the point of view from the present to the past; 3. the object moves backward in the timeline toward the past. In the future half-axis, lùi represents two perspectives: 1. a moment moves backward to the future, and 2. the object moves backward toward the future. With the remaining words, the temporal perspectives they express have many similarities, especially in the perspective of Ego or some timeless entity moving towards the future; the distinction in temporal perspectives between sang, qua và tới, đến is mainly in the perspective of Moving Time; in which with qua, time moves past the Ego into the past; with sang, time moves from the future to the present; with tới and đến, time moves from the future to the present, time faces to the Ego.
With the presented contents, the thesis still has many open issues, such as the temporal reference of the demonstrative pronouns, the cognition and expression of the concept of CYCLICAL TIME in Vietnamese, analysis of cases in pairs of antonyms, analyzing temporal combinations including a temporal element and a spatial element, analyzing temporal references between clauses and sentences. The Ph.D. student hopes to receive researchers' comments to improve the thesis.
24
LIST OF PUBLISHED PAPERS 1. Le Thi Cam Van (2023). The mental timeline in Vietnamese. Jounal of Language and Life, Vol. 341, No. 6, p.44-50. 2. Le Thi Cam Van (2023). Spatial frames of reference in Vietnamese. Jounal of Lexicography and Encyclopedia, Vol. 82, No. số 2, p.79-86. 3. Le Thi Cam Van, Truong Thi Nhan (2022). Mapping from space to time in Vietnamese. Jounal of Language and Life, Vol. 322, No. 2, p.14 - 22. 4. Le Thi Cam Van (2021). Relative temporal frame of reference in Vietnamese. Jounal of Language and Life, Vol. 318, No.11A, p.22 - 27.
5. Le Thi Cam Van, Truong Thi Nhan (2021). Temporal uses of trước and sau: An analysis of temporal frames of reference in Vietnamese. Hue University Journal of Science: Social Sciences and Humanities, Vol. 130 No. 6D.
6. Le Thi Cam Van (2020). Study on the grammartical features of the word rồi in Vietnamese. Journal of Science and Technology, University of Science, Hue University, Vol. 15, No. 3, p.147-155.
7. Le Thi Cam Van (2019). The expression of aspect meanings by đã, rồi, đã… rồi in Vietnamese. Proceedings of the national linguistic conference on “Vietnamese language in the context of exchange, integration, and development”. Ha Noi: Dan Tri.