Tóm tắt Luận văn tiến sĩ Lịch sử: Quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia (1927 - 1965)
lượt xem 2
download
Mục đích của luận án là làm rõ sự vận động phức tạp và bản chất của quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia từ năm 1927 đến năm 1965 và nét riêng biệt, độc đáo của quá trình đó.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn tiến sĩ Lịch sử: Quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia (1927 - 1965)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI PHẠM THỊ HUYỀN TRANG QU¸ TR×NH §ÊU TRANH GIµNH Vµ CñNG Cè §éC LËP D¢N TéC ë INDONESIA (1927 - 1965) Chuyên ngành: Lịch sử thế giới Mã số: 92.29.011 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Hà Nội - Năm 2018
- Công trình đƣợc hoàn thành tại: TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Thanh Bình Phản biện 1: GS.TS Hoàng Khắc Nam Trƣờng ĐH KHXH & NV – ĐHQG Hà Nội Phản biện 2: PGS. TS Nguyễn Ngọc Mão Viện Sử học Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Thu Mỹ Viện nghiên cứu Đông Nam Á Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp Trƣờng họp tại Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm… Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc Gia, Hà Nội - Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Indonesia - quốc đảo lớn nhất thế giới với hàng chục nghìn đảo lớn nhỏ, có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng và là trung tâm giao lưu kinh tế - văn hóa của khu vực và thế giới. Vì vậy, Indonesia trở thành đối tượng xâm lược của nhiều nước thực dân phương Tây từ rất sớm như: Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh… nhưng chỉ có người Hà Lan với ưu thế vượt trội cả về quân sự và hàng hải là đủ sức để gạt bỏ các đối thủ khác, trở thành chủ nhân của quần đảo này. Ngay từ khi Hà Lan xâm lược và đặt ách cai trị, nhân dân Indonesia đã đứng lên đấu tranh vũ trang mạnh mẽ, tiêu biểu là: các phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ phong kiến, các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng tư sản, các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng vô sản. Tuy nhiên, đến năm 1927, quá trình đấu tranh giành độc lập của Indonesia mới thực sự bước vào giai đoạn quyết liệt hơn khi có sự tác động của những nhân tố mới. Quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập ở Indonesia từ năm 1927 đến năm 1965 là một quá trình đầy chông gai và thử thách. Trong những năm 1927 - 1941, các tổ chức chính trị ở Indonesia đã liên tiếp được thành lập để đấu tranh chính trị đòi chính quyền thực dân phải công nhận độc lập. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, các phong trào này đều không giành được thắng lợi. Năm 1942, Nhật vào Indonesia và thực hiện chính sách cai trị kiểu quân sự, đồng thời, Nhật cũng đưa ra “những lời hứa hẹn ngọt ngào” về việc sẽ trao trả độc lập. Trong bối cảnh đó, các nhà lãnh đạo cách mạng, đứng đầu là Sukarno, Hatta đã khơi dậy một phong trào đấu tranh mới, theo hướng hợp tác ôn hòa với người Nhật để chuẩn bị cho quá trình trao trả độc lập. Khi Nhật Tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện (15/8/1945), các tầng lớp thanh niên sôi nổi đã thúc giục Sukarno và Hatta phải Tuyên bố độc lập, không nhận độc lập như một món quà ban phát từ tay người Nhật. Ngày 17/8/1945, Sukarno đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập của Indonesia, khai sinh ra nhà nước độc lập đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngay sau khi giành được độc lập, nhân dân Indonesia lại tiếp tục bước vào cuộc đấu tranh vũ trang và đấu tranh trên bàn đàm phán với Hà Lan trong suốt 5 năm (1945 - 1950) để tiếp tục chứng minh với thế giới rằng nước Cộng hòa Indonesia cũng không phải là món quà từ tay người Hà Lan. Trong những năm 1950 - 1965, chính phủ Cộng hòa Indonesia đã lần lượt thực hiện các chính sách về kinh tế, chính trị, ngoại giao… để củng cố nền độc lập dân tộc. Đây cũng là thời kỳ bản lề, là thời kỳ Indonesia đứng trước nhiều sự lựa chọn để đi lên xã hội hiện đại. Thành tựu và hạn chế trong 20 năm đầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc sẽ giúp Indonesia có những bước tiến dài và vững chắc trong tương lai. Có thể nói, quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập ở Indonesia (1927 - 1965) là một quá trình lịch sử đặc biệt và độc đáo trong khu vực và trên thế giới. Không thể tìm thấy một mô hình lý thuyết xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa được áp dụng ở quá trình này, cũng không thể thấy sự trùng lặp của quá trình này ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Vì vậy, việc nghiên cứu về quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia (1927 - 1965) có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. Về ý nghĩa khoa học, nghiên cứu đề tài sẽ góp phần giải quyết các vấn đề về dân tộc, giải phóng dân tộc cũng như củng cố độc lập dân tộc, không chỉ ở Indonesia, mà còn đối với
- 2 các dân tộc khác trên thế giới. Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn chỉ ra một con đường, một cách thức đi tới độc lập dân tộc hoàn toàn riêng biệt của Indonesia, đó là độc lập dân tộc gắn liền với hòa hợp và thống nhất dân tộc. Về ý nghĩa thực tiễn, nghiên cứu đề tài là cơ sở chứng minh quy luật của lịch sử: trong đấu tranh giành và củng cố độc lập, giai cấp nào trong xã hội có con đường, biện pháp phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, giai cấp ấy sẽ là giai cấp lãnh đạo của dân tộc. Mặt khác, việc nghiên cứu đề tài còn góp phần làm tăng sự hiểu biết về một thời kỳ lịch sử quan trọng của Indonesia, làm cơ sở cho sự tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị song phương và đa phương giữa Việt Nam và Indonesia. Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn nêu trên, nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia (1927 - 1965)” làm đề tài cho luận án Tiến sĩ lịch sử. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận án là làm rõ sự vận động phức tạp và bản chất của quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia từ năm 1927 đến năm 1965 và nét riêng biệt, độc đáo của quá trình đó. Nhiệm vụ của luận án: Một là, phân tích những nhân tố tác động đến quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia (1927 - 1965); Hai là, làm rõ tiến trình vận động của cuộc đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia (1927 - 1965); Ba là, làm rõ những đặc điểm cũng như thành tựu và hạn chế của quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia (1927 - 1965). 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia (1927 - 1965). 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Luận án nghiên cứu quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc (1927 - 1965) ở Indonesia,trong bối cảnh khu vực Đông Nam Á và thế giới. Về phạm vi thời gian: Đề tài giới hạn từ năm 1927 đến 1965. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hệ thống, toàn diện của vấn đề nghiên cứu, luận án mở rộng phạm vi nghiên cứu trước năm 1927 để góp phần làm sáng tỏ những nhân tố tác động đến quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia(1927 - 1965). 4. Các nguồn tƣ liệu Luận án tập trung khai thác và sử dụng những nguồn tư liệu chủ yếu sau đây: Các nguồn tư liệu gốc bao gồm các tài liệu lưu trữ như: các văn bản về chủ nghĩa thực dân Hà Lan, các Tuyên ngôn, chương trình hành động, báo cáo Đại hội của các tổ chức chính trị, tôn giáo ở Indonesia, các cuốn hồi ký, tự truyện, các bài phát biểu của các nhà lãnh đạo cách mạng, các bức thư, các bài văn, bài thơ. Văn bản gốc Tuyên ngôn độc lập ngày 17/8/1945; Các Hiệp định Lingadjati, Hiệp định Renville, các nghị định thư giữa chính phủ Hà Lan và chính phủ Indonesia trong những năm 1947 - 1949… Các tài liệu tham khảo bao gồm: các chuyên khảo, các bài nghiên cứu, một số website lịch sử…
- 3 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Về phƣơng pháp luận Luận án dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc, đấu tranh giải phóng và bảo vệ độc lập dân tộc. 5.2. Về phƣơng phápnghiên cứu Phương pháp Lịch sử, phương pháp Logic là phương pháp nghiên cứu chính. Ngoài ra, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp chính trị học… cũng được vận dụng để rút ra những nhận xét trong quá trình nghiên cứu. 6. Đóng góp của luận án - Là công trình nghiên cứu có hệ thống đầu tiên dưới góc nhìn của một nhà nghiên cứu Việt Nam về quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia từ năm 1927 đến năm 1965. - Làm rõ tiến trình vận động theo các giai đoạn lịch sử khác nhau để thấy rõ sự thay đổi phức tạp, từ chia rẽ đến thống nhất, từ mâu thuẫn đến hòa hợp dân tộc. - Làm rõ đặc điểm, cũng như những thành tựu và hạn chế của quá trình này. - Bổ sung nguồn tư liệu và là tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu về quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia nói riêng cũng như lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á nói chung. 7. Bố cục luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án được trình bày trong 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề Chương 2: Đấu tranh giành độc lập dân tộc ở Indonesia (1927 - 1945) Chương 3: Đấu tranh củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia (1945 - 1965) Chương 4: Một số nhận xét về quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia (1927 - 1945).
- 4 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Các công trình nghiên cứu khái quát về lịch sử Indonesia có liên quan đến đề tài 1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam Việc nghiên cứu về lịch sử Indonesia theo cách tiếp cận khu vực bắt đầu được các học giả Việt Nam nghiên cứu trong khoảng 20 năm trở lại đây. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Đông Nam Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay (1945- 1996), của tác giả Trần Thị Vinh, (NXB Giáo dục, Hà Nội, năm 1995); Lịch sử Đông Nam Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay (1945 - 1999), của hai tác giả Lê Văn Anh, Nguyễn Văn Tận (NXB Giáo dục, Hà Nội, năm 2005); Lịch sử Đông Nam Á, của nhóm tác giả Lương Ninh, Đỗ Thanh Bình, Trần Thị Vinh (NXB Giáo dục, Hà Nội, năm 2005); Đông Nam Á Lịch sử từ nguyên thủy đến ngày nay, của nhóm tác giả Lương Ninh, Đỗ Thanh Bình, Trần Thị Vinh, (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2015). Cuốn Lược sử Indonesia, của tác giả Võ Văn Nhung, (NXB Sử học, Hà Nội, năm 1962) có đề cập khái quát đến quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập ở Indonesia từ khi thực dân Hà Lan xâm lược đến năm 1957. Các công trình nghiên cứu khái quát về lịch sử Indonesia trong những thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX đề cập đến quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập ở Indonesia có thể kể đến như: Lịch sử Indonesia từ thế kỷ XV - XVI đến những năm 1950, của tác giả Huỳnh Văn Tòng (Viện đào tạo mở rộng, Bộ giáo dục và đào tạo, Tp Hồ Chí Minh, năm 1992); Indonesia - Những chặng đường lịch sử, của tác giả Ngô Văn Doanh, (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1995). 1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu của các học giả người Indonesia Năm 1979, Mochtar Lubis cho ra đời cuốn Indonesia Land under the rainbow (Indonesia - Đất nước dưới cầu vồng), (NXB Đại học Oxford, Mĩ), là công trình nghiên cứu tương đối mạch lạc, dễ hiểu, dễ tiếp cận về lịch sử Indonesia từ khi hình thành đất nước đến năm 1966. Từ năm 1992 đến năm 2008, các học giả Indonesia đã lần lượt cho ra đời công trình nghiên cứu về lịch sử nước này trong Bộ sách 6 tập: Sejarah nasional Indonesia (Lịch sử quốc gia Indonesia) của hai tác giả M. D. Poesponegoro và N. Notosusanto, NXB Balai Pustaka, Jakarta, Indonesia. Thông qua 6 tập sách, toàn bộ bức tranh về lịch sử Indonesia theo chiều dọc đã được phản ánh rất rõ nét. Lịch sử Indonesia cũng được trình bày khái quát trong cuốn Sejarah nasional Indonesia: Masa prasejarah sampai masa proklamasi kemerdekaan (Lịch sử Indonesia: Từ thời tiền sử đến Tuyên bố độc lập), của tác giả M.J.A. Anshori (xuất bản tại Mitra Aksara Panaitan, Jakarta, Indonesia, năm 2010). 1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài So với Việt Nam, việc nghiên cứu về lịch sử Indonesia đã được các học giả nước ngoài quan tâm nhiều hơn ở cả góc độ khu vực và góc độ quốc gia như: Indonesia, của tác giả J.D.
- 5 Legge, (xuất bản bởi Pretice - Hall, New Jersey, năm 1964); A history of modern Southeast Asia: Colonialism, Nationalism, and decolonization (Lịch sử Đông Nam Á hiện đại: Chủ nghĩa thực dân, Chủ nghĩa dân tộc và phi thực dân hóa), của tác giả J. Bastin, (xuất bản bởi Prentice - Hall, Englewood Cliffs, New Jersay, năm 1968). Năm 1981, M. C. Ricklefs cho ra đời công trình nghiên cứu khá chi tiết, cụ thể về lịch sử Indonesia từ thế kỷ XIV đến thời kỳ “trật tự mới” của Tổng thống Suharto. Đó là cuốn A history of modern Indonesia, 1200 to the present (Lịch sử Indonesia hiện đại: Từ năm 1200 đến nay), NXB Đại học Indiana, Bloomington. Quá trình xâm lược và ách thống trị của thực dân, cũng như quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập ở Indonesia được tác giả đề cập đến trong chương II, chương III, chương IV, chương V và chương VI của cuốn sách. Năm 1983, D.R. Sardesai công bố cuốn Southeast Asia : past and present (Đông Nam Á: Quá khứ và hiện tại) (NXB Vikas, New Delhi), cung cấp một sự cắt nghĩa cân bằng và dễ đọc về lịch sử Indonesia từ thời tiền sử đến những năm 60 của thế kỷ XX. Lịch sử Đông Nam Á, của tác giả D.G. Hall, (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1997), cũng được trình bày tương đối đầy đủ về lịch sử Indonesia theo trình tự thời gian. Các tác phẩm đề cập khái quát đến quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập ở Indonesia như: Lịch sử Đông Nam Á hiện đại của tác giả Clive J. Christie (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2000); A Short History of Indonesia (Lược sử Indonesia), của tác giả C. Brown (xuất bản bởi Allen & Unwin, Australia, năm 2004); Lịch sử phát triển Đông Nam Á, của tác giả Marry Somers Heidhues (NXB Văn hóa Thông tin, Tp Hồ Chí Minh, năm 2007); Cuốn The idea of Indonesia: A history (Lịch sử tư tưởng của Indonesia), của tác giả R. Elson, NXB Đại học Cambridge, London. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia 1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam Cuốn Indonesia đấu tranh vì độc lập tự do (1942 - 1950), của tác giả Nguyễn Văn Hồng, (tài liệu tham khảo nội bộ của Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội, năm 1991) nghiên cứu về quá trình đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc ở Indonesia từ khi Nhật chiếm đóng nước này, đến hết năm 1950. Cuốn Con đường cứu nước trong đấu tranh giải phóng dân tộc ở một số nước châu Á, của tác giả Đỗ Thanh Bình (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1999) đi sâu vào phân tích quá trình hình thành con đường giải phóng dân tộc của nhân dân Indonesia trong những năm 1927 - 1945. Cuộc cách mạng tháng 8/1945 và Tuyên bố độc lập của Indonesia cũng là một sự kiện tiêu biểu, được rất nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến trong các công trình của mình. Trong đó phải kể đến các công trình: “Đông Nam Á trong cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật (1941 - 1945): Lịch sử và vấn đề”, của tác giả Trần Thị Vinh, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 5, năm 2005; “Con đường đi đến độc lập của Indonesia”, của tác giả Jan Pluvier (Tuyển tập các bài viết trong cuốn Đông Nam Á tháng Tám năm 1945, đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước, NXB Thế giới, Hà Nội, năm 2005); “Nét độc đáo của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Indonesia”, của tác giả Bùi Thị Ánh Vân, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 5, năm 2010.
- 6 Việc nghiên cứu về quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia (1927 - 1965) cũng được các tác giả đề cập trực tiếp từ góc độ khu vực và trên thế giới. Tiêu biểu là các công trình: Phong trào giải phóng dân tộc thế kỷ XX - một cách tiếp cận mới, của tác giả Đỗ Thanh Bình, (NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội năm 2005, tái bản 2010); Lịch sử Đông Nam Á, tập 4: Đông Nam Á trong thời kỳ thuộc địa và phong trào đấu tranh giành độc lập (từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XX), của nhóm tác giả, Trần Khánh (chủ biên), (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 2012); Lịch sử Đông Nam Á, tập 5: Đông Nam Á trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và xây dựng đất nước (từ năm 1945 đến năm 1990) của nhóm tác giả do Phạm Đức Thành (chủ biên), (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 2012). Ngoài ra, một số Luận án Tiến sĩ Lịch sử cũng đã đề cập một cách khái lược đến các sự kiện tiêu biểu trongquá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập ở Indonesia giai đoạn này như: “Quá trình đấu tranh củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Indonesia (1967 - 1998)”, Luận án Tiến sĩ Lịch sử của tác giả Đinh Thanh Tú, Hà Nội, năm 2010; “Con đường đấu tranh giành độc lập của Malaya từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1957”, Luận án Tiến sĩ Lịch sử của tác giả Lý Tường Vân, Hà Nội, năm 2014. Quá trình đấu tranh củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia cũng được đề cập một cách cụ thể trong “Beyond Political Skin: Convergent Paths to an Independent National Economy in Indonesia and Vietnam” (Chính trị vượt qua mọi màu da: Những con đường đưa đến nền kinh tế quốc dân độc lập ở Indonesia và Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Lịch sử của tác giả Phạm Văn Thủy, Leiden, Hà Lan, năm 2014). 1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu của các học giả Indonesia Trong cuốn Sejarah revolusi nasional (Lịch sử cuộc cách mạng dân tộc) của tác giả N. Dekker, (NXB Balai Pustaka, tại Jakarta, Indonesia, năm 1980), quá trình đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc ở Indonesia từ năm 1945 đến năm 1949 đã được tái hiện lại một cách khá chân thực, rõ nét. Quá trình đấu tranh giành độc lập được nghiên cứu dưới góc độ những đóng góp của Hồi giáo hiện đại đối với phong trào dân tộc Indonesia như cuốn: Muhammadiyah: The political behavior of a muslim modernist organization under Dutch colonialism (Muhammadiyah: Hoạt động chính trị của tổ chức Hồi giáo hiện đại dưới chính quyền thực dân Hà Lan), xuất bản tại Đại học Gadjah Mada, Jakarta, Indonesia, năm 1989. Cuốn Twenty years Indonesian foreign policy 1945 - 1965 (Hai mươi năm chính sách đối ngoại của Indonesia 1945 - 1965), của tác giả I.A.A.G Agung, xuất bản tại Đại học Duta Wacana, Yogyakarta, Indonesia, năm 1990 trình bày về các chính sách đối ngoại của Indonesia với các nước phương Tây, Liên Xô, các nước Á, Phi, Mĩ Latinh. Quá trình đấu tranh bảo vệ và củng cố độc lập ở Indonesia cũng được đề cập đến trong Genesis of power: General Sudirman and the Indonesian Military in Politics, 1945 - 49 (Nguồn gốc của quyền lực: Tướng Sudirman và quân đội Indonesia trong nền chính trị, 1945 - 1949) của tác giả S. Said, xuất bản tại Jakarta, Indonesia, năm 1991. Từ năm 1999 đến năm 2014, nhóm tác giả P. A. Toer, K. S. Toer, E. Kamil cũng lần lượt cho ra đời bộ sách Kronik: Revolusi Indonesia (Biên niên sử: Cách mạng Indonesia) gồm 4 tập (từ năm 1945 đến năm 1949) của, xuất bản bởi Kepustakaan Popular Gramedia, Jakarta, Indonesia với sự liệt kê các sự kiện tỉ mỉ và các số liệu đáng tin cậy, cuốn sách là tài
- 7 liệu tham khảo hữu ích của Luận án. Các công trình nghiên cứu về sự kiện Tuyên bố độc lập ngày 17/8/1945: “Jepang dan perjuangan kemerdekaan Indonesia” (“Nhật Bản và cuộc đấu tranh giành độc lập của Indonesia”) của tác giả Yasmis, Tạp chí Lịch sử Lontar, tập 4, số 2, ra ngày 2 tháng 7 tháng 12 năm 2007; “Proklamasi 17 Agustus 1945: Revolusi politik bangsa Indonesia” (Tuyên ngôn ngày 17/8/1945: Cách mạng chính trị ở Indonesia”) của tác giả Haryono Rinardi, Tạp chí Lịch sử Citra Lekha, tập 2, số 1, ra ngày 31 tháng 10 năm 2017. 1.1.2.3. Các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài Cuốn Nationalism and revolution in Indonesia (Chủ nghĩa dân tộc và cách mạng ở Indonesia) của tác giả G. M. T. Kahin, xuất bản lần đầu năm 1952, tại Đại học Cornell, Ithaca, New York là công trình nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về mối liên hệ giữa sự hình thành chủ nghĩa dân tộc ở Indonesia và quá trình đấu tranh giành độc lập từ những năm đầu thế kỷ XX đến năm 1950. Khác với cách tiếp cận mang tính tổng quát của Kahin, Benedict Richard O’Gorman Anderson trong Java in a time of Revolution: Occupation and resistance, 1944 - 1946 (Java trong thời gian của cuộc cách mạng: Sự chiếm đóng và kháng chiến, 1944 - 1946), xuất bản bởi Đại học Cornell, Ithaca and London, năm 1972 lại đi vào phân tích chuyên sâu và tiết lộ những điểm quan trọng của cuộc cách mạng Indonesia trong những năm 1944 - 1946. Cuốn Indonesian National Revolution 1945 - 1950 (Cuộc cách mạng dân tộc Indonesia 1945 - 1950) của tác giả Anthony Reid, NXB Longman, London, Anh, xuất bản lần đầu năm 1974 đi sâu trình bày hai sự kiến tiêu biểu: Cách mạng tháng 8/1945 và cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập trong những năm 1945 - 1950. Các công trình nghiên cứu về thời gian chiếm đóng của Nhật ở Indonesia được trình bày trong khá nhiều cuốn sách như: The Japanese Occupation of Borneo, 1941 - 1945 (Routledge Studies in the Modern History of Asia) (Thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Borneo, 1941 - 1945 (Nghiên cứu định tuyến trong lịch sử hiện đại của châu Á) của tác giả Ooi Keat Gin (xuất bản tại Routledge, London, năm 2011), hay trong bài viết “Irony in Indonesia: Promises, Aspirations, and the Japanese Military Presence, 1942 - 46” (Trớ trêu ở Indonesia: Lời hứa, nguyện vọng và sự hiện diện của quân đội Nhật Bản, 1942 - 46) của E. Fenrich, xuất bản bởi Welebaethan: Tạp chí Lịch sử, California, năm 2007. Các công trình nghiên cứu về các chính sách đối nội và đối ngoại của chính phủ Indonesia như: Cuốn From Colonial to Guided Economy in T.R. McVey (ed.), (Từ nền kinh tế thuộc địa đến nền kinh tế chỉ huy) của tác giả Douglas Paauw, (xuất bản bởi HRAF, New Haven, năm 1963); Cuốn Indonesian communism under Sukarno: Ideology and politics (Chủ nghĩa Cộng sản Indonesia dưới thời của Tổng thống Sukarno: Tư tưởng và chính trị) của R. Mortimer, xuất bản lần đầu bởi Đại học Cornell, Ithaca, New York, năm 1974. Ngoài ra, còn có những công trình nghiên cứu về quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập ở Indonesia (1927 - 1965) gắn liền với cuộc đời của vị Tổng thống đầu tiên - Sukarno. Có thể kể đến: cuốn The life and times of Sukarno (Cuộc đời và thời gian của Sukarno), của tác giả C. L. M. Penders, xuất bản năm 1974, bởi NXB Đại học Oxford, Anh Quốc; Cuốn Sukarno and the Struggle for Indonesian Independence (Sukarno và cuộc đấu tranh giành độc lập của Indonesia) của tác giả B. Dahm, xuất bản năm 1969, bởi NXB Đại
- 8 học Cornell, Ithaca, New York. 1.2. Những vấn đề đã đƣợc nghiên cứu và chƣa đƣợc nghiên cứu Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã giải quyết được một số vấn đề sau: Thứ nhất, các tác giả đã nghiên cứu một cách khái quát về lịch sử Indonesia kể từ khi hình thành đến nay, khái quát được những đặc trưng về văn hóa, tôn giáo, tộc người… Thứ hai, các tác giả đã có những nghiên cứu bước đầu về một số sự kiện tiêu biểu liên quan trực tiếp đến quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính hệ thống về quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập ở Indonesia từ năm 1927 đến năm 1965. Đặc biệt là các hoạt động đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị, cũng như đặc điểm, thành tựu và hạn chế của quá trình này trong một tổng thể xuyên suốt vẫn còn là một vấn đề lớn cần được giải đáp. 1.3. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu giải quyết Trên cơ sở khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung đề tài, Luận án tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề như sau: Thứ nhất, làm rõ những nhân tố tác động đến quá trình đấu tranh giành độc lập ở Indonesia (1927 - 1945) và làm rõ những nhân tố mới trong giai đoạn củng cố độc lập dân tộc ở nước này (1945 - 1965). Thứ hai, làm rõ quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia theo tiến trình vận động từ năm 1927 đến năm 1965, trong đó tập trung vào các hình thức đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao để giành độc lập và các chính sách đối nội và đối ngoại của chính phủ Indonesia (1945 - 1965) để củng cố độc lập dân tộc. Thứ ba, phân tích những đặc điểm của quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia từ năm 1927 đến năm 1965, từ đó chỉ ra những nét riêng, nét độc đáo, đồng thời trình bày những thành tựu và hạn chế của quá trình này để có một công trình nghiên cứu toàn diện và khách quan.
- 9 CHƢƠNG 2: ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở INDONESIA (1927 - 1945) 2.1. Những nhân tố tác động đến quá trình đấu tranh giành độc lập ở Indonesia (1927 - 1945) 2.1.1. Chính sách cai trị của thực dân Hà Lan, quân phiệt Nhật và những chuyển biến trong đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa ở Indonesia thời thuộc địa 2.1.1.1. Sự xâm lược và chính sách cai trị của thực dân Hà Lan, quân phiệt Nhật * Sự xâm lược và chính sách cai trị của thực dân Hà Lan Quá trình xâm lược Indonesia của Hà Lan được bắt đầu từ thế kỷ XVI và hoàn thành về cơ bản vào đầu thế kỷ XX. Trong suốt quá trình xâm lược và đặt ách cai trị lên quần đảo, thông qua các chính sách: Hệ thống trồng trọt, chính sách kinh tế tự do, chính sách đạo đức, Hà Lan đã thực hiện độc quyền thương mại và đóng cửa thuộc địa trong kinh tế, hà khắc và áp đặt trong chính trị và biến Indonesia trở thành một trong những thuộc địa lạc hậu nhất về văn hóa - giáo dục. * Sự chiếm đóng và ách đô hộ của quân phiệt Nhật Ý đồ chiếm Indonesia từ tay Hà Lan của Nhật đã có từ sau khi Đức mở cuộc tấn công chớp nhoáng vào Đan Mạch và Na Uy (9/4/1940), tuy nhiên, phải sau sự kiện Trân Châu Cảng, Nhật mới tiến hành cuộc tấn công chớp nhoáng vào Indonesia. Chỉ trong vòng chưa đầy 3 tháng (từ 10/1/1941 đến 9/3/1942), Nhật đã chiếm được Indonesia và đuổi người Hà Lan ra khỏi quần đảo này. Người Nhật đã tiến hành các chính sách cai trị khắc nghiệt hơn cả người Hà Lan như: Thiết lập chính quyền quân sự ở khắp nơi, cấm người Indonesia treo cờ và hát bài hát Indonesia Raya, chiêu mộ binh lính người Indonesia vào các tổ chức quân sự của Nhật (Quân tình nguyện bảo vệ Tổ quốc, heiho); Huy động triệt để sức người, sức của ở Indonesia bằng chế độ lao động cưỡng bức romusha; thay đổi những ảnh hưởng của văn hóa phương Tây bằng văn hóa Nhật…. 2.1.1.2. Sự chuyển biến trong đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa ở Indonesia thời thuộc địa Sự xâm lược và các chính sách cai trị của thực dân Hà Lan và quân phiệt Nhật đã mang lại hệ quả hai mặt đối với tình hình kinh tế - xã hội - văn hóa Indonesia. Một mặt, nó kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa, đặc biệt là gần như xóa bỏ sự tự do cạnh tranh thương mại được nhen nhóm trong những thế kỷ XIII - XIV, hủy hoại nền văn hóa bản địa, làm bùng nổ những cuộc đấu tranh chống lại ách cai trị của chính quyền thực dân, quân phiệt. Nhưng mặt khác, nó cũng thúc đẩy sự thâm nhập của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa (mở rộng thương mại và hình thành hệ thống kinh doanh tư bản chủ nghĩa trong lĩnh vực buôn bán - trao đổi, các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy công nghiệp mọc lên…), sự ra đời của những giai tầng xã hội mới (thức bản địa, tư sản dân tộc, công nhân…), trong đó, có những người sẽ là hạt nhân của phong trào đấu tranh giành độc lập trong thế kỷ XX.
- 10 2.1.2. Sự phát triển của phong trào đấu tranh giành độc lập ở Indonesia trƣớc năm 1927 Các cuộc đấu tranh chống lại ách đô hộ của chính quyền thực dân Hà Lan dưới ngọn cờ phong kiến có thể kể đến như: Cuộc khởi nghĩa do Hoàng tử Diponegoro lãnh đạo (1825 - 1830) và cuộc chiến tranh của nhân dân Aceh (1873 - 1903). Đến đầu thế kỷ XX, phong trào dân tộc chủ nghĩa ở Indonesia lại trỗi dậy theo khuynh hướng dân chủ tư sản, do tầng lớp priyayi khởi xướng, tiêu biểu là tư tưởng cải cách đầy tính nhân văn của Raden Kartinivà tư tưởng khôi phục lại những giá trị Java vĩ đại của tổ chức Boedi Utomo (thành lập ngày 20/8/1908). Trong những năm 1912 - 1913, các tổ chức chính trị ở Indonesia đã lần lượt ra đời như: Đảng Ấn Độ (Indies Party); Hội liên hiệp Islam giáo (Sarekat Islam - SI). Mặc dù đại diện cho những giai tầng xã hội khác nhau (Đảng Ấn Độ đại diện cho quyền lợi của tầng lớp người lai Âu - Á ở Indonesia, còn SI đại diện cho quyền lợi của tầng lớp thương nhân Hồi giáo và priyayi lớp dưới), nhưng cả hai tổ chức này đều có điểm chung trong mục tiêu đấu tranh, đó là chống lại sự phân biệt, kỳ thị của người Hà Lan, đề cao chủ nghĩa dân tộc và hướng tới một nhà nước Indonesia thống nhất, tự trị. Cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc theo xu hướng tư sản, ở Indonesia cũng xuất hiện phong trào dân tộc theo xu hướng vô sản, mà sự kiện đánh dấu bước ngoặt là sự ra đời của Đảng Cộng sản Indonesia (Partai Komunis Indonesia - PKI) vào tháng 5/1920. Mặc dù ra đời sớm và thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, nhưng cuối cùng PKI vẫn bị đàn áp sau cuộc khởi nghĩa vũ trang cuối năm 1926, đầu năm 1927 trên các đảo Java và Sumatra. Thông qua sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giành độc lập trước năm 1927, xu thế thống nhất đã dần trở thành xu thế chính của lịch sử, thể hiện rõ sự trưởng thành của ý thức dân tộc, cũng như sự trưởng thành của các giai cấp trong xã hội Indonesia. 2.1.3. Sự thành lập Đảng Dân tộc Indonesia Ngày 4/6/1927, Sukarno đã đứng ra thành lập Đảng dân tộc Indonesia (Partai Nasional Indonesia - PNI). Với đường lối cách mạng rõ ràng, phù hợp với nguyện vọng chung của đại đa số các tầng lớp nhân dân, với cơ sở rộng rãi trong quần chúng, PNI đã nhanh chóng nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc. PNI chính là một trong những nhân tố quan trọng nhất đưa cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Indonesia đi đến thắng lợi cuối cùng. 2.1.4. Phong trào đấu tranh giành độc lập trên thế giới trong những năm 1927 - 1945 Trong những thập niên 20 - 30 của thế kỉ XX, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới đã có những bước phát triển mới. Đó là sự ra đời và tồn tại song song của hai xu hướng cách mạng: xu hướng tư sản và vô sản. Trong những năm diễn ra chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945), xuất hiện một xu hướng mới (xu hướng này không phổ biến) ở một số nước - xu hướng kết hợp giữa trào lưu tư sản và trào lưu vô sản trong phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- 11 Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giành độc lập trên thế giới đã tác động mạnh mẽ đến sự lựa chọn con đường cứu nước ở Indonesia trong giai đoạn này, đó là con đường đấu tranh giành độc lập theo khuynh hướng tư sản. 2.2. Quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc ở Indonesia (1927 - 1945) 2.2.1. Đấu tranh giành độc lập trong những năm 1927 - 1941 2.2.1.1. Phong trào đấu tranh bất hợp tác Các tổ chức chính trị được thành lập trong thời gian này như: PNI, Hiệp hội Chính trị Nhân dân Indonesia (Permufakatan Perhimpunan Politikek Kebangsaan Indonesia - PPPKI); Đảng Indonesia (Partai Indonesia - Partindo), PNI - mới đều chủ trương “bất hợp tác” và coi đoàn kết dân tộc và tự lực là phương tiện duy nhất để thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc. Để đàn áp các phong trào đấu tranh bất hợp tác, chính quyền thực dân đã cấm các cuộc hội họp, bắt bớ, giam cầm các nhà lãnh đạo cách mạng như: Sukarno, Hatta và Sjahrir. Sự lưu vong của các nhà dân tộc chủ nghĩa đã làm cho các tổ chức mà họ gây dựng bị rơi vào tình trạng hoang mang, PPPKI bị cấm hoạt động vào năm 1935, còn Partindo và PNI - mới cũng bị cấm hoạt động vào năm 1936. 2.2.1.2. Phong trào đấu tranh hợp tác Tồn tại song song với phong trào đấu tranh bất hợp tác, là phong trào đấu tranh hợp tác, mặc dù phương pháp đấu tranh khác nhau, nhưng đều vì mục tiêu chung là đòi độc lập dân tộc, chẳng hạn như: Đảng Indonesia vĩ đại (Partai Indonesia Raja - Parindra) thành lập năm 1935, Phong trào nhân dân Indonesia (Gerakan Rakjat Indonesia - Gerindo) năm 1937; Liên đoàn các tổ chức Hồi giáo (Majlis Islam Ala Indonesia - MIAI) năm 1937; Liên đoàn các đảng dân tộc Indonesia (Gaboengan Politiek Indonesia - GAPI) tháng 4/1939. Các hoạt động đấu tranh giành độc lập trong những năm 1927 - 1941 ở Indonesia diễn ra khá sôi nổi và có những bước tiến nhất định so với giai đoạn trước năm 1927, theo đó, con đường đấu tranh giành độc lập đã dần hình thành rõ nét. Đó là con đường đoàn kết, thống nhất các lực lượng chính trị nhằm tạo ra sức mạnh của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập. 2.2.1.3. Các hoạt động đấu tranh trên lĩnh vực văn học Trong những năm 1920 - 1930, nhiều nhà văn, nhà thơ hiện đại đã thể hiện sự phản kháng đối với chính quyền thực dân bằng cách khôi phục lại những giá trị truyền thống. Nổi bật nhất có thể kể đến Sanusi Pane (1905 - 1968). Cùng với hoạt động của nhóm các nhà văn, nhà thơ truyền thống là nhóm các nhà văn, nhà thơ hiện đại, đứng đầu là Takdir Alisyahbana (sinh năm 1908). Tác giả Jamaluddin (Adinegoro) cũng là một trong những tác giả tiêu biểu cho dòng văn học hiện đại. Các tác phẩm tiêu biểu ra đời trong những năm trước chiến tranh thế giới thứ hai như: “Giương cánh buồm” (Layar Terkembang) của Takdir Alisyahbana, xuất bản năm 1936; “Xiềng xích” (Belenggu) của Armin Pane, xuất bản năm 1939. Nhìn chung, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn học diễn ra khá sôi nổi. Thông qua các bài văn, bài thơ, tiểu thuyết, các tác giả đã phản ánh được phần nào những mặt trái của chế độ thực dân, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa, tư tưởng
- 12 đoàn kết, thống nhất… góp phần rất lớn vào bước chuyển mình của cách mạng Indonesia ở giai đoạn sau. 2.2.2. Đấu tranh giành độc lập trong những năm 1942 - 1945 2.2.2.1. Các hoạt động đấu tranh vũ trang Các cuộc đấu tranh vũ trang đầu tiên chủ yếu diễn ra ở các đảo ngoài Java và do giai cấp nông dân tiến hành, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của nhân dân Aceh (tháng 11/1942); “Cuộc nổi loạn Pontianak” (từ giữa năm 1943 đến đầu năm 1944) ở Tây Nam Kalimantan; “chiến tranh Majang Desa” (từ tháng 5 đến tháng 8/1945) ở quận Sanggau, cuộc nổi dậy của nông dân ở Java (1944); Cuộc khởi nghĩa của binh lính người Indonesia trong quân đội Nhật ở Blitar ngày 14/2/1945. Mặc dù đều bị chính quyền quân phiệt dập tắt bằng các cuộc đàn áp, nhưng lần đầu tiên sau hơn một thập kỷ, hình thức đấu tranh vũ trang đã trở lại trong cuộc đấu tranh giành độc lập ở Indonesia và có tác dụng rất lớn trong việc hỗ trợ cho giai cấp tư sản và tầng lớp trí thức đấu tranh chính trị ở các đô thị. 2.2.2.2. Các hoạt động đấu tranh chính trị Trong thời kỳ Nhật chiếm, tất cả các hoạt động đấu tranh bất hợp tác dù ở đô thị hay nông thôn đều bị đàn áp và cấm đoán, nhóm các nhà hoạt động cách mạng chống Nhật đều bị bắt bớ, giam cầm. Vì vậy, Sukarno và Hatta đã quyết định đấu tranh chính trị bằng phương thức hợp tác ôn hòa với người Nhật, thông qua đó, đề đạt những yêu cầu của Indonesia với việc trao trả độc lập của Nhật. Tháng 3/1943, Sukarno chủ trương vận động thành lập tổ chức Trung tâm sức mạnh của Nhân dân (Pusat Tenaga Rakyat - PUTERA) nhằm biến PUTERA thành một tổ chức thống nhất phong trào đấu tranh chính trị ở Indonesia, để khuyến khích và cổ vũ hơn nữa tinh thần dân tộc. Ngày 1/3/1944, chính quyền Nhật giải tán PUTERA và thay bằng một tổ chức mới, lấy tên là Hiệp hội Dịch vụ Nhân dân (Djawa Hokokai), do người Nhật chỉ huy, Sukarno và Hasjim Asj’ari làm cố vấn. Cùng với đấu tranh vũ trang, các hoạt động đấu tranh chính trị hợp pháp, ôn hòa cũng góp phần thúc đẩy hơn nữa tinh thần đoàn kết dân tộc, buộc người Nhật phải suy nghĩ nhiều hơn cho câu hỏi: bao giờ trao trả độc lập cho Indonesia. 2.2.2.3. Các hoạt động đấu tranh trên lĩnh vực văn học Cuộc đấu tranh giành độc lập trong lĩnh vực văn học ở Indonesia trong suốt thời kỳ Nhật chiếm vẫn diễn ra khá sôi nổi dù chính quyền Nhật thực hiện nhiều biện pháp cấm đoán nặng nề hơn so với thời kỳ Hà Lan cai trị. Một trong những nhà văn tiêu biểu thời kỳ này là Idrus (1921 - 1979) với cuốn truyện ngắn nổi tiếng: “Kota - Harmonie” (xuất bản năm 1943). Nếu trong lĩnh vực văn xuôi có Idrus, thì trong thơ ca có Chairil Anwar (1922 - 1949) với tác phẩm “Diponegoro” (1943). Các tác phẩm tuy không chĩa mũi nhọn vào quân phiệt Nhật, nhưng cũng tố cáo phần nào cuộc sống cực khổ của người dân dưới ách chiếm đóng của Nhật, ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước, thúc đẩy tinh thần đoàn kết, thống nhất, tạo cơ sở cho đấu tranh giành độc lập dân tộc ở Indonesia phát triển mạnh và đi tới thắng lợi cuối cùng.
- 13 2.2.2.4. Các hoạt động đấu tranh nghị trường để chuẩn bị cho thành lập chính quyền mới Trong những năm 1943 - 1944, mặc dù phong trào đấu tranh chính trị diễn ra khá sôi nổi, nhưng người Nhật vẫn tỏ ra khá mờ hồ trong việc giải quyết vấn đề trao trả độc lập của Indonesia. Đến cuối năm 1944, đầu năm 1945, khi quân Nhật ngày càng suy thoái trên mặt trận Châu Á - Thái Bình Dương, thì những nhượng bộ của Nhật đối với vấn đề độc lập của Indonesia mới thực sự được thúc đẩy. Nhân cơ hội đó, các nhà lãnh đạo cách mạng đã mở một hình thức đấu tranh mới - đấu tranh nghị trường, nhằm đưa người Indonesia vào các vị trí của chính quyền mới, nhằm chuẩn bị cho độc lập. Tháng 9/1943, chính quyền Nhật thành lập Hội đồng cố vấn Trung ương và Sukarno được bổ nhiệm làm Chủ tịch cơ quan này. Tháng 9/1944, Đội quân tiên phong (Barisan Pelopor) cũng được thành lập để đào tạo lực lượng cho chiến tranh du kích. Ngày 1/3/1945, Ủy ban điều tra độc lập Indonesia (Badan Penyelidik Usaha Persiapan Kemerdekaan Indonesia - BPUKI) đã được thành lập, bao gồm hầu hết các nhà lãnh đạo phong trào cách mạng quốc gia như: Sukarno, Hatta, Agus Salim, Ki Hajar Dewantoro, Soetardjo, Taman Siswa, Radjiman Wedioningrat, để dự thảo Hiến pháp Indonesia; dự thảo các cơ quan của chính phủ, trong đó bầu chức Tổng thống và Phó Tổng thống. BPUKI cũng dựa trên 5 nguyên tắc mà Sukarno đưa ra trong phiên họp đầu tiên vào ngày 1/6/1945 để làm cơ sở cho sự thống nhất đất nước. Sau này, 5 nguyên tắc đó trở thành Pancasila - hệ tư tưởng cho nền độc lập dân tộc Indonesia. 2.2.2.5. Tuyên bố độc lập và giành chính quyền tháng 8/1945 ở Indonesia Ngày 7/8/1945, sau khi biết chắc chắn rằng Liên Xô sẽ tham chiến ở mặt trận châu Á Thái Bình Dương, Nhật tuyên bố giải thể BPUKI và thay thế bằng Ủy ban Chuẩn bị độc lập Indonesia (Panitia Persiapan Kemerdekaan Indonesia - PPKI) do Sukarno và Hatta lãnh đạo, bao gồm 27 thành viên đến từ khắp quần đảo. Ngày 8/8/1945, Sukarno, Hatta, Radjiman cùng một số lãnh đạo khác của Indonesia đã tới Đà Lạt (Việt Nam) để trao đổi về ngày tuyên bố độc lập được đề ra sớm hơn dự kiến là ngày 24/8/1945, và PPKI sẽ họp vào ngày 19/8/1945. Ngày 15/8/1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, tầng lớp pemuda sôi nổi (trí thức, thanh niên yêu nước) đã bắt cóc Sukarno và Hatta lúc 4 giờ sáng ngày 16/8/1945 và đưa đến thị trấn Rengasdengkloc, phía tây nam Djakarta, để yêu cầu họ Tuyên bố độc lập không chậm trễ. Ngày 17/8/1945, trước cửa ngôi nhà số 56, phố Pegansan Timua, bản Tuyên ngôn độc lập đã được đọc lên một cách ngắn gọn và súc tích. Mặc dù lời lẽ của Tuyên ngôn thật khéo léo khi nói về việc chuyển giao chính quyền, nhưng bản Tuyên ngôn đã được nhân dân Indonesia đón nhận như một hiệu triệu, kêu gọi khởi nghĩa giành chính quyền ở khắp nơi. Công cuộc giành chính quyền sau Tuyên bố độc lập đã diễn ra thành công mà ít đổ máu.
- 14 CHƢƠNG 3: ĐẤU TRANH CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở INDONESIA (1945 - 1965) 3.1. Những nhân tố mới tác động đến quá trình đấu tranh củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia (1945 - 1965) 3.1.1. Tình hình thế giới và khu vực sau Chiến tranh thế giới thứ hai Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới có nhiều thay đổi, tác động đến quá trình củng cố độc lập ở Indonesia: Thắng lợi của lực lượng Đồng minh trong chiến tranh thế giới thức hai; Chủ nghĩa xã hội từ phạm vi một nước trở thành hệ thống thế giới; Sự đối đầu giữa hai cực Xô - Mĩ trong mọi vấn đề của quan hệ quốc tế; Sự tái xâm lược của các cường quốc phương Tây đối với các thuộc địa… Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước Á, Phi, Mĩ Latinh sau chiến tranh thế giới thứ hai vẫn phát triển mạnh mẽ, cùng thống nhất lại với nhau trong một tổ chức chung - Phong trào Không liên kết. Ở Đông Nam Á, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ đã làm sụp đổ từng bước hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, buộc các nước đế quốc phải rút khỏi nơi đây. Sau khi giành được độc lập, một số quốc gia ở Đông Nam Á vừa phải tiến hành kháng chiến để bảo vệ độc lập dân tộc, vừa phải bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, củng cố độc lập. 3.1.2. Sự thay đổi của tình hình Indonesia sau Tuyên bố độc lập tháng 8/1945 Ngay sau lời Tuyên bố độc lập (17/8/1945), nhân dân Indonesia đã thành lập chính phủ mới của riêng mình, Sukarno được bầu làm Tổng thống, Hatta làm phó Tổng thống, Sjahrir làm Thủ tướng Chính phủ. PPKI chính thức phê chuẩn Hiến pháp đã được dự thảo trước đó. Ngày 22/8, PPKI đã ra quyết định thành lập Ủy ban Trung ương Quốc gia Indonesia (Komite Nasional Indonesia Pusat - KNIP) và được coi như Quốc hội tạm thời. Ngày 3/6/1947, Chính phủ thành Quân đội Quốc gia Indonesia (Tentara Nasional Indonesia - TNI). Cuối tháng 8, đầu tháng 9/1945, thực dân Hà Lan núp bóng quân Anh quay trở lại xâm lược Indonesia. Từ giữa tháng 7/1947 đến đầu năm 1949, Hà Lan đã phát động chiến dịch Product (21/7 - 5/8/1947) và chiến dịch Crow (19/12/1948 - 5/1/1949). Trong cả hai chiến dịch, Hà Lan đều đem một lực lượng quân viễn chinh lớn với khối lượng vật chất chiến tranh tốn kém. Mặc dù, Hà Lan đã kiểm soát được hầu hết các khu vực trung tâm của quần đảo (Java và một phần Sumatra), nhưng từ đây, nhưng lại phải đối mặt với một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc từ phía nhân dân Indonesia. 3.2. Đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất đất nƣớc 3.2.1. Đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc 3.2.1.1. Các hoạt động đấu tranh vũ trang Các hoạt động đấu tranh vũ trang của nhân dân Indonesia nhằm bảo vệ độc lập dân tộc đã được tiến hành ngay từ khi quân đội Anh tiến vào giải giáp quân đội Nhật. Trong cuộc chiến đấu chống lại hai chiến dịch: Product và Crow, nhân dân Indonesia cùng với quân đội đã tiến hành các hoạt động đấu tranh du kích, làm nao núng tinh thần của binh lính Hà Lan, đồng thời làm phá sản kế hoạch bình định.
- 15 Tháng 8/1949, lệnh ngừng bắn được tuyên bố trên toàn lãnh thổ Indonesia. 3.2.1.2. Các hoạt động đấu tranh trên bàn đàm phán Cuộc đàm phán đầu tiên giữa Hà Lan và Cộng hòa Indonesia diễn ra trong cuối năm 1945, đầu năm 1946, với đại diện phía Hà Lan là Thống đốc Van Mook và đại diện phía Cộng hòa Indonesia là Sukarno, và sau này là Sjahrir. Ngày 25/3/1947, tại Jakarta, chính phủ Cộng hòa Indonesia đã chính thức phê chuẩn Hiệp định Lingadjati. Với Hiệp định này, lần đầu tiên Cộng hòa Indonesia đã buộc Hà Lan phải công nhận chủ quyền của Indonesia với hai đảo Java và Sumatra. Ngày 17/1/1948, Hiệp định Renville được ký kết. Ngày 30/12/1949, Hà Lan đã kí với Indonesia Hiệp định La Hay, chính thức chấm dứt nền thống trị trực tiếp kéo dài hơn 3 thế kỷ ở nước này. 3.2.2. Đấu tranh thống nhất đất nƣớc Sau khi Hiệp định La Hay được kí kết, chính phủ và nhân dân Indonesia tiếp tục đấu tranh để xóa bỏ thể chế Liên bang, thiết lập thể chế Cộng hòa, thống nhất đất nước. Ngày 17/8/1950, nước Cộng hòa Indonesia thống nhất đã được phục hồi sau 5 năm đấu tranh không mệt mỏi của nhân dân nước này cho sự thống nhất. 3.3. Đấu tranh củng cố độc lập dân tộc (1950 - 1965) 3.3.1. Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị Trong suốt 15 năm (1950 - 1965), trải qua hai mô hình chính trị: dân chủ tự do (1950 - 1957) và dân chủ có chỉ đạo (1957 - 1965), chính phủ Indonesia đã thi hành nhiều biện pháp để cố gắng để xây dựng một hệ thống chính trị dân chủ. Biện pháp thứ nhất, xây dựng hệ thống chính trị dựa trên sự tồn tại của nhiều đảng phái. Biện pháp thứ hai, thay đổi nội các để xoa dịu mâu thuẫn giữa các phe phái chính trị. Biện pháp thứ ba, Tổng thống liên kết với PKI để tạo ra sức mạnh đối trọng với lực lượng quân đội. 3.2.2. Phát triển nền kinh tế - văn hóa độc lập, tự chủ Sau khi đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, nhà nước và nhân dân Indonesia bắt tay vào công cuộc phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ. Để khắc phục những khó khăn trước mắt, trong những năm 1950 - 1957, Chính phủ Indonesia thực hiện chính sách “kinh tế tự do”, với mục tiêu chính đưa nền kinh tế ra khỏi tầm kiểm soát của tư bản nước ngoài về tay người Indonesia, khôi phục lại nền kinh tế bằng mức trước chiến tranh. Năm 1957, đường lối phát triển kinh tế “có chỉ đạo” được xây dựng nhằm phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ, mang tính chất khép kín và tập trung dưới sự chỉ đạo của Nhà nước. Nội dung của đường lối phát triển nền kinh tế “có chỉ đạo” như sau: Thứ nhất, phát triển khu vực kinh tế của Nhà nước: quốc hữu hóa toàn bộ tài sản của tư bản nước ngoài, củng cố vai trò củaNhà nước với nền kinh tế, hình thành các cơ sở kinh tế quốc doanh. Thứ hai, thực hiện kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, thông qua kế hoạch tám năm (1960- 1968). Thứ ba, chính sách của Nhà nước có sự điều chỉnh theo hướng có lợi cho các thành phần kinh tế quốc doanh, vừa khống chế vừa liên kết với tư bản người Hoa. Thứ tư, sử dụng hệ thống ngân hàng quốc gia như là phương tiện vay vốn và chi tiêu của Nhà nước.
- 16 Cùng với đó, các chính sách văn hóa cũng được chính quyền mới thực hiện, nhằm xóa bỏ ảnh hưởng của văn hóa thực dân, xây dựng nền văn hóa dân tộc hiện đại, dựa trên những giá trị văn hóa truyền thống. 3.3.3. Thi hành chính sách đối ngoại nhằm nâng cao vị thế của Indonesia trên trƣờng quốc tế 3.3.3.1. Chính sách ngoại giao với Hà Lan và vấn đề thu hồi miền Tây Irian Sau Hội nghị Bàn tròn (12/ 1949), chính phủ Hà Lan và chính phủ Indonesia không tìm được tiếng nói chung trong việc giải quyết tranh chấp miền Tây Irian. Vào các năm: 1950, 1952, 1954, Indonesia đã tổ chức những cuộc gặp gỡ với đại diện Hà Lan để thảo luận về vấn đề Tây Irian. Sự khác nhau về lập trường của hai nước trong vấn đề Tây Irian đã buộc Indonesia phải dừng đàm phán và đưa ý kiến lên Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Từ năm 1955, Indonesia đã đấu tranh cho việc khởi tạo các nghị định thư liên quan đến việc bãi bỏ Liên minh Hà Lan - Indonesia. Năm 1956, Indonesia đơn phương tuyên bố bãi bỏ Liên minh Hà Lan - Indonesia. Cuối năm 1959, đầu năm 1960, các nhóm nhỏ vũ trang của Indonesia đã bắt đầu xâm nhập vào Tây Irian để tấn công Hà Lan. Tình hình vô cùng nghiêm trọng và chiến tranh dự kiến sẽ xảy ra bất cứ lúc nào. Trước áp lực của Mĩ và dư luận quốc tế, Hà Lan buộc phải tuyên bố sẽ chuyển giao Tây Irian cho Indonesia vào ngày 1/5/1963. 3.3.3.2. Chính sách đối ngoại của Indonesia với Mĩ và Liên Xô Trong những năm 1950 - 1965, khi cuộc “chiến tranh lạnh” đang ở giai đoạn căng thẳng, mối quan hệ giữa một bên là các nước phương Tây, đứng đầu là Mĩ, một bên là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những xung đột cục bộ ở nhiều khu vực, trong đó có Đông Nam Á. Với vị trí chiến lược vô cùng quan trọng, Indonesia trở thành nơi tranh chấp phạm vi ảnh hưởng của các cường quốc và bị kẹp giữa trong mối quan hệ “hai cực” Xô - Mĩ. Tình hình đó, buộc Indonesia phải có những chính sách đối ngoại khôn khéo để vừa bảo vệ được nền độc lập dân tộc, vừa không bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh của một trong “hai cực”. Do đó, Indonesia đã duy trì chỉ một nguyên tắc - độc lập, tích cực xuyên suốt những năm 1950, thân thiện với cả Mĩ và Liên Xô, nhưng không đi theo mô hình tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa. 3.3.3.3. Chính sách đối ngoại của Indonesia với các nước Á, Phi, Mĩ Latinh và các nước láng giềng Đối với các nước có mối quan hệ truyền thống như Ấn Độ, Indonesia thực hiện chính sách đối ngoại thân thiện, tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh củng cố độc lập của nước này. Đối với các quốc gia có tỷ lệ ngoại kiều sinh sống tương đối đông ở Indonesia như Trung Quốc, chính phủ Indonesia cũng duy trì chính sách ngoại giao tương đối thân thiện. Trong chính sách đối ngoại với các nước Á, Phi, Mĩ Latinh khác, Indonesia thể hiện rõ quan điểm đoàn kết và thể hiện vai trò vươn lên lãnh đạo của mình đối với phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân trên thế giới. Tháng 4/1955, Indonesia đứng ra tổ chức Hội nghị Bangdung và trở thành một trong 5 nước sáng lập ra phong trào Không liên kết. Đối với các nước láng giềng như: Malaysia, Singapore, Philippin, Indonesia thể hiện chính sách đối ngoại khá cứng rắn và biểu thị thái độ đối đầu.
- 17 CHƢƠNG 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH GIÀNH VÀ CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở INDONESIA (1927 - 1965) 4.1. Thành tựu và hạn chế 4.1.1. Thành tựu 4.1.1.1. Giải phóng nhân dân Indonesia khỏi ách đô hộ của thực dân Hà Lan, quân phiệt Nhật, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và thống nhất đất nước Trước khi thực dân Hà Lan xâm lược và đặt ách cai trị, Indonesia đã trải qua những trang sử vẻ vang, hào hùng. Lịch sử Indonesia đã chứng kiến sự tồn tại của các quốc gia phong kiến hùng mạnh như: đế chế biển lớn nhất Đông Nam Á - Srivijaya (thế kỷ VII sau công nguyên), đế chế Majapahit (thế kỷ XIV)... Nhưng suốt hơn 300 năm dưới ách đô hộ của thực dân Hà Lan, hơn 3 năm dưới sự chiếm đóng của quân phiệt Nhật, Indonesia đã trở thành một thuộc địa nghèo nàn, kém phát triển. Sau khi Indonesia tuyên bố độc lập vào ngày 17/8/1945, ách cai trị của Nhật cũng hoàn toàn chấm dứt ở đất nước này. Không chỉ giải phóng đất nước, mà người dân cũng thoát khỏi thân phận nô lệ, những tư tưởng lạc hậu, kìm hãm đã thay đổi, và mọi thứ đều trở thành có thể. Đến năm 1949, trong một buổi lễ trang trọng tại cung điện Hà Lan, người Hà Lan đã phải chính thức công nhận độc lập, chủ quyền của Cộng hòa Indonesia. 4.1.1.2. Đời sống kinh tế, chính trị, xã hội - văn hóa của nhân dân Indonesia được chuyển biến theo hướng tích cực Về chính trị, kể từ sau khi nhà nước Indonesia thống nhất được thành lập (1950), người dân Indonesia đã được hưởng những quyền công dân cơ bản: quyền được tham gia bầu cử, quyền được tự do tham gia các tổ chức chính trị, Đảng phái, quyền được tham gia vào bộ máy hành chính nhà nước. Về kinh tế, ngay sau khi giành được độc lập, chính phủ Indonesia đã có những chính sách kinh tế mới nhằm khắc phục những bất bình đẳng giữa người Indonesia và người Hà Lan, đưa nền kinh tế dưới sự kiểm soát của người Hà Lan và người Trung Quốc vào trong tay người Indonesia. Nhờ có những chính sách khuyến khích phát triển thương nghiệp trong nước, một tầng lớp thương nhân bản địa đã nổi lên với vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Indonesia. Về văn hóa - xã hội, sự thay đổi lớn nhất thuộc về lĩnh vực giáo dục. Việc sử dụng ngôn ngữ Indonesia được phổ biến rộng rãi trong hệ thống giáo dục cũng như trong tất cả các tổ chức công cộng, trong hệ thống thông tin liên lạc và các phương tiện truyền thông. Tiếng Indonesia đã được thiết lập một cách vững chắc, trở thành ngôn ngữ chính thức của quốc gia Indonesia mới. Trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, những tiến bộ mà Indonesia đạt được dường như đầy hứa hẹn. Trong những năm này, các kế hoạch táo bạo đã được xây dựng, chẳng hạn như Kế hoạch Bandung của Leimena hứa hẹn sự cải thiện mạnh mẽ cho sức khỏe cộng đồng.
- 18 4.1.1.3. Giữ vững độc lập dân tộc, góp phần cổ vũ phong trào đấu tranh giành độc lập ở các nước trong khu vực và trên thế giới Với chính sách đối ngoại độc lập, tích cực, trong những năm 1945 - 1965, Indonesia không chỉ giữ vững được độc lập, thu hồi những vùng đất thực dân còn chiếm đóng, bảo toàn được lãnh thổ, mà còn cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc ở các nước trong khu vực và trên thế giới. Với tư cách là một trong những nước tuyên bố độc lập sớm nhất ở khu vực Đông Nam Á, và là một trong năm nước sáng lập ra phong trào Không liên kết, tiếng nói của Indonesia là sự cổ vũ rất lớn đối với phong trào đấu tranh giành độc lập trong khu vực và trên thế giới như: Việt Nam, Triều Tiên, các nước Á - Phi. Đối với các hành động liên kết các quốc gia châu Á để thành lập một tổ chức thân phương Tây, chống Cộng sản của Philippin, Indonesia kịch liệt phản đối vì nó không chỉ ảnh hưởng đến chính sách độc lập, tích cực của nước này mà còn ảnh hưởng đến cuộc đấu tranh giành độc lập của các quốc gia châu Á khác. 4.1.2. Hạn chế Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập ở Indonesia (1927 - 1965) vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Thứ nhất, thường xuyên xảy ra tranh chấp giữa các đảng pháitrong quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia (1927 - 1965). Những mâu thuẫn giữa các phe phái chính trị trong chính phủ đã làm cho tình hình chính trị bất ổn định, và những cuộc xung đột giữa các phe phái chính trị là không thể tránh khỏi. Thứ hai, trong quá trình chính phủ Indonesia thực hiện các chính sách củng cố độc lập, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội vẫn còn chưa được giải quyết như: tăng tưởng kinh tế không ổn định, mất cân đối, lạm phát gia tăng, bùng nổ dân số. 4.2. Đặc điểm 4.2.1. Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với hòa hợp và thống nhất dân tộc Trong những năm 1920 - 1930, các tổ chức chính trị được thành lập ở Indonesia khá nhiều, hoạt động rất sôi nổi, nhưng do thiếu sự đoàn kết, thống nhất, nên phong trào không tạo ra được một sức mạnh đủ để buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ. Khi Nhật vào chiếm đóng Indonesia (1942 - 1945), những chính sách cai trị của Nhật đã tác động mạnh đến xu hướng thống nhất của Indonesia, theo đó, dù là lực lượng cách mạng dân tộc chủ nghĩa thế tục hay lực lượng cách mạng Hồi giáo, thì đều cố gắng tạo ra sự hòa hợp nhất định trong cuộc đấu tranh đòi Nhật trao trả độc lập cho Indonesia. Nhờ vậy, Tuyên ngôn độc lập và cách mạng giành chính quyền ở Indonesia tháng 8/1945 đã thành công và hạn chế đổ máu. Trong quá trình tiến hành đấu tranh củng cố độc lập (1945 - 1965), Indonesia đã trải qua nhiều lần chia rẽ giữa các lực lượng chính trị. Nhưng cuối cùng sự chia rẽ ấy vẫn phải đi đến thống nhất trong các quyết định để đảm bảo quyền lợi của dân tộc như: đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc trước sự tái chiếm của Hà Lan, bãi bỏ thể chế Liên bang mà chế độ thực dân áp đặt để thành lập nước Cộng hòa Indonesia, đấu tranh thu hồi miền tây Irian, đấu tranh loại bỏ những ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân trong các vấn đề kinh tế - xã hội. Những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử ở Indonesia đã quy định điểm độc đáo này ở
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Tiến sĩ Chính trị học: Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay
27 p | 130 | 15
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu mức độ biểu hiện và giá trị chẩn đoán, tiên lượng của một số microRNA ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết
27 p | 17 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt bằng phương pháp nút mạch
28 p | 22 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều trị tủy răng hàm thứ nhất, thứ hai hàm trên bằng kĩ thuật Thermafil có sử dụng phim cắt lớp vi tính chùm tia hình nón
27 p | 23 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu biến đổi các chỉ số khí máu động mạch và cơ học phổi khi áp dụng nghiệm pháp huy động phế nang trong gây mê phẫu thuật bụng ở người cao tuổi
14 p | 15 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu hiệu quả điều trị và dự phòng tái phát nhồi máu não của aspirin kết hợp cilostazol
27 p | 16 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất bằng phương pháp xạ trị lập thể định vị thân
27 p | 22 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh, giá trị của 18 F-FDG PET/CT trong lập kế hoạch xạ trị điều biến liều và tiên lượng ở bệnh nhân ung thư thực quản 1/3 trên
27 p | 23 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính đa dãy hệ tĩnh mạch cửa và vòng nối ở bệnh nhân xơ gan có chỉ định can thiệp TIPS
28 p | 19 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu hiệu quả kiểm soát hô hấp của phương pháp thông khí ngắt quãng và thông khí dạng tia trong phẫu thuật tạo hình khí quản
27 p | 18 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu độ dày nội trung mạc động mạch đùi và giãn mạch qua trung gian dòng chảy động mạch cánh tay ở phụ nữ mãn kinh bằng siêu âm Doppler
27 p | 14 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu hình ảnh động mạch xuyên ở vùng cẳng chân bằng chụp cắt lớp vi tính 320 dãy và ứng dụng trong điều trị khuyết hổng phần mềm
27 p | 15 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu biến đổi nồng độ và giá trị tiên lượng của hs-Troponin T, NT-proBNP, hs-CRP ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim không ST chênh lên được can thiệp động mạch vành qua da thì đầu
27 p | 22 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều trị tổn khuyết mũi bằng các vạt da vùng trán có cuống mạch nuôi
27 p | 31 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, Xquang và đánh giá hiệu quả điều trị hẹp chiều ngang xương hàm trên bằng hàm nong nhanh kết hợp với minivis
27 p | 24 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh và giá trị của SPECTCT 99mTc-MAA trong tắc mạch xạ trị bằng hạt vi cầu Resin gắn Yttrium-90 ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan
29 p | 13 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu cấy ghép implant tức thì và đánh giá kết quả sau cấy ghép
27 p | 21 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, Xquang và đánh giá kết quả điều trị lệch lạc khớp cắn Angle có cắn sâu bằng hệ thống máng chỉnh nha trong suốt
27 p | 20 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn