intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổng quan tình hình nghiên cứu về các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu của bò

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

8
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài báo tổng quan này trình bày về tình hình nghiên cứu các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu bò trên thế giới và Việt Nam. Các nghiên cứu chỉ ra rằng các chỉ số sinh lý và sinh hóa máu của các giống bò bị ảnh hưởng bởi những yếu tố như giới tính, độ tuổi, sức khỏe, sinh lý, stress, thời tiết, sự thay đổi mùa trong năm, điều kiện và môi trường nuôi nhốt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổng quan tình hình nghiên cứu về các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu của bò

  1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁC CHỈ SỐ SINH LÝ, SINH HÓA MÁU CỦA BÒ Đào Thị Mai Quỳnh1 , Nguyễn Thị Thu Hiền* Lớp D21CNSH01, Trường Đại học Thủ Dầu Một * Khoa Y Dược, Trường Đại học Thủ Dầu Một, liên hệ email: hienntt@tdmu.edu.vn TÓM TẮT Bài báo tổng quan này trình bày về tình hình nghiên cứu các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu bò trên thế giới và Việt Nam. Các nghiên cứu chỉ ra rằng các chỉ số sinh lý và sinh hóa máu của các giống bò bị ảnh hưởng bởi những yếu tố như giới tính, độ tuổi, sức khỏe, sinh lý, stress, thời tiết, sự thay đổi mùa trong năm, điều kiện và môi trường nuôi nhốt. Các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá sức khỏe và tình trạng giống vật nuôi, đóng góp cho công tác chọn lọc và lai tạo giống bò, những thay đổi các chỉ số này có tác động đáng kể đến sản xuất và năng suất chăn nuôi. Việc thực hiện các nghiên cứu về chỉ số sinh lý, sinh hóa máu của các giống bò bản địa và nhập nội ở Việt Nam hiện nay còn khiêm tốn, Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các chỉ số này của các giống bò nuôi ở Việt Nam là rất cần thiết. Từ khóa: Bò, máu, sinh hóa máu, sinh lý máu 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Bò (Bos) là loài động vật có vú, phổ biến trên nhiều quốc gia hiện nay đặc biệt với những quốc gia có điều kiện khí hậu nhiệt đới hoặc ôn đới. Ở một số quốc gia, bò là một trong những loài gia súc được người dân chăn nuôi nhiều và có vai trò quan trọng cho việc thúc đẩy nền kinh tế quốc gia, hỗ trợ việc làm và tăng thu nhập cho người dân lao động (Hristev và nnk., 2020). Trong chăn nuôi, các chỉ số sinh lý sinh hóa máu có vai trò quan trọng trong việc đánh giá chất lượng giống vật nuôi, tình trạng sức khỏe, chẩn đoán các bệnh trên vật nuôi và phục vụ cho công tác lai tạo giống vật nuôi. Trong đó, thành phần hóa học, các đặc điểm sinh lý huyết học được xem là các chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng giống và chất lượng sản phẩm từ động vật (Ivanova và Tasheva, 2020). Vai trò và ý nghĩa các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa huyết học (hồng cầu, bạch cầu, hemoglobin, protein và các tiểu phần protein huyết thanh) liên quan rất nhiều đến đặc tính di truyền, quá trình sinh trưởng và phát triển, năng suất giống vật nuôi, khả năng sinh sản và khả năng thích nghi của động vật trong các điều kiện môi trường sinh sống khác nhau (Đỗ Văn Thu và nnk., 2015). Khả năng đáp ứng đầy đủ của gia súc với nhiệt độ mùa hè cao phụ thuộc chủ yếu vào loại hình sản xuất và giống. Bò sữa dễ bị stress nhiệt hơn so với các giống bò thịt do bò sữa tạo ra nhiều nhiệt trao đổi chất hơn. Những con bò có năng suất cao đặc biệt nhạy cảm với nhiệt độ cao và điều này ảnh hưởng đến thành phần máu của chúng (Marai và nnk., 2000). Nhiệt độ cao có thể làm xáo trộn sự cân bằng sinh lý bình thường của động vật và dẫn đến rối loạn trao đổi nước và protein, năng lượng, cân bằng nội tiết tố và khoáng chất do đó ảnh hưởng đến các chỉ số sinh hoá máu (Ivanova và Tasheva, 2020). 7
  2. Trong bối cảnh khí hậu toàn cầu đang biến đổi, stress nhiệt đang trở thành vấn đề nghiêm trọng đối với chăn nuôi bò (Mahdy và nnk., 2014) đã cho rằng chỉ số nhiệt độ - độ ẩm (THI) là một trong những thông số quan trọng nhất phản ánh sự thoải mái chung của bò sữa. Các tác giả tin rằng THI là một công cụ hữu ích trong việc xác định sự xuất hiện stress nhiệt. Chỉ số độ ẩm nhiệt độ cho biết tác động kết hợp của nhiệt độ và độ ẩm tương đối lên các thông số sinh lý, năng suất và các thông số khác ở bò. Rất nhiều nghiên cứu cho thấy THI có thể được sử dụng làm chỉ số stress nhiệt cho bò (Dikmen và Hansen, 2009; Hristev và nnk., 2020). Theo nghiên cứu của Mazzullo và nnk. vào năm 2014 đã chứng minh rằng điều kiện môi trường là yếu tố căng thẳng chính ảnh hưởng đến động vật và dẫn đến các rối loạn nghiêm trọng về các thông số huyết học – hóa học và sinh lý của chúng (Mazzullo và nnk., 2014). Các chỉ số máu rất nhạy cảm với những thay đổi xảy ra trong các cơ quan và tế bào ngay cả trước khi xuất hiện những dấu hiệu lâm sàng đầu tiên của một căn bệnh nào đó hoặc một tình trạng căng thẳng. Những thay đổi trong các giá trị thông số máu khác nhau là dấu hiệu cho thấy phản ứng sớm của cơ thể và có thể được sử dụng làm cơ sở cho chẩn đoán sớm, điều trị và phòng ngừa các tình trạng bệnh lý khác nhau (Weiss D.G. và Wardrop K.J. (eds.), 2010). Như vậy, trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá về các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu của các giống vật nuôi khác nhau. Nhờ vào kết quả đánh giá về các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu ở vật nuôi, người chăn nuôi có thể chuẩn bị chuồng trại chăn nuôi phù hợp, xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lý cho vật nuôi, tiến hành chẩn đoán và phòng chống các bệnh gây ảnh hưởng đến sức khỏe vật nuôi (Hristev và nnk., 2020). Ở Việt Nam, hiện nay đã có một số các đề tài nghiên cứu trên các giống bò nhưng chủ yếu chỉ đánh giá về các đặc điểm hình thái, đặc tính sinh sản, lai tạo giống để cho ra chất lượng thịt và sữa chất lượng. Các nghiên cứu đánh giá các vấn đề về sức khỏe và thể trạng của vật nuôi thông qua các chỉ số sinh hóa, sinh lý máu còn ở mức hạn chế và chưa có nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu sâu rộng về lĩnh vực này. Mục đích của nghiên cứu này là tìm hiểu tình hình các nghiên cứu liên quan đến các thông số sinh lý, sinh hóa trong máu của bò trên thế giới và Việt Nam. 2. NỘI DUNG 2.1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu trên bò Đối với ngành chăn nuôi, các chỉ số huyết học được xem như các chỉ thị về trạng thái sinh lý của cơ thể vật nuôi và là vật liệu ban đầu nhằm đánh giá chất lượng, năng suất của giống vật nuôi, phục vụ cho lai tạo chọn giống, giúp chẩn đoán và điều trị được các bệnh xuất hiện trên các giống vật nuôi (Forbes và nnk., 2009). Ở Việt Nam, cùng với việc sử dụng phương pháp di truyền quần thể, các phương pháp đánh giá các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu được ứng dụng ngày càng nhiều trong công tác bình tuyển và đánh giá phẩm chất giống vật nuôi (Đỗ Văn Thu và nnk., 2015). Các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu có sự liên quan đến các đặc điểm di truyền, chất lượng giống vật nuôi, ảnh hưởng đến tập tính sinh sản và khả năng thích nghi của chúng với các điều kiện môi trường khác nhau đã được nghiên cứu và khẳng định trong một số công trình khoa học (Campora và nnk., 2011; Comazzi và nnk., 2004). Đối với các giống bò, việc nghiên cứu các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu bò góp phần mang lại những thông tin quý báu về sức khỏe, hiệu suất của đàn bò và xác định trạng thái sinh lý máu bình thường so với trường hợp cơ thể vật chủ bị bệnh, nhằm chẩn đoán và đưa ra những biện pháp chăm sóc và nuôi dưỡng phù hợp cho quá trình chăn nuôi (Nguyễn Hồ Bảo Trân và nnk., 2015). Bằng cách đo lường số lượng hồng cầu, bạch cầu, hemoglobin, và các chỉ số khác trong máu, chúng ta có thể đánh giá tình trạng của hệ thống miễn dịch, khả năng chống nhiễm bệnh, và cả khả năng chuyển hóa chất dinh dưỡng của bò. Điều này mang lại cái nhìn tổng thể về tình trạng sức khỏe của đàn bò và giúp dự báo khả năng sinh sản và tăng trưởng trong tương lai. 8
  3. Bên cạnh đó, các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu cũng là công cụ quan trọng để đánh giá tác động của môi trường chăn nuôi lên đàn bò. Việc nghiên cứu chỉ số sinh lý máu còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình tuyển chọn giống bò. Hiểu rõ về gen và các yếu tố sinh lý qua máu giúp tạo ra những giống bò có khả năng thích ứng tốt với điều kiện nuôi và đạt hiệu suất cao. Từ những thông tin này, nông dân và bác sĩ thú y có thể thực hiện các biện pháp quản lý thông minh, từ chế độ dinh dưỡng đến kiểm soát bệnh tật, nhằm tối ưu hóa sản xuất và đảm bảo sự bền vững của ngành chăn nuôi bò. Các nghiên cứu này không chỉ là công cụ đo lường mà còn là chìa khóa mở ra những cơ hội mới để phát triển một ngành chăn nuôi bò hiệu quả và bền vững tại Việt Nam. 2.2 Tình hình nghiên cứu các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu bò trên thế giới Các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu được đánh giá dựa trên nhiều tiêu chí quan trọng khác nhau như: Độ tuổi, giới tính, trạng thái sinh lý, mức độ căng thẳng, khí hậu và hệ thống quản lý,... Các chỉ số này là những thông số quan trọng trong việc chẩn đoán, tiên lượng, điều trị bệnh và giúp phát hiện sớm những trạng thái sức khỏe bất thường trên vật nuôi (Onasanya và nnk., 2015). Chính vì lí do đó, hiện nay trên thế giới việc nghiên cứu về các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu bò cũng đang được quan tâm và thực hiện. Năm 2014, Mamum và nnk. đã tiến hành nghiên cứu về các chỉ số sinh hóa máu ở các giống bò như: Khagrachari Sadar, Laxmichari, Matiranga, Mahalchari và Dighinala, chúng là những giống bò bản địa được phân bố chủ yếu ở khu vực đồi núi của Bangladesh. Các chỉ số sinh hóa xác định dựa theo giới tính và độ tuổi của các giống bò. Theo kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả đã cho thấy rằng, ở bò đực có nồng độ albumin, cholesterol, SGPT, SGOT, magie và creatinine trong huyết thanh cao hơn so với nhóm bò cái. Ngược lại, với bò cái chúng có nồng độ glucose, protein toàn phần, LDL, ALP, canxi, phốt pho và axit uric trong huyết thanh cao hơn bò đực. Sự suy giảm nồng độ glucose của giống bò đực thấp hơn bò cái có thể là do tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng ở động vật. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, các enzyme như SGPT và ALP có nồng độ cao hơn ở bò trưởng thành (trên 3 tuổi). Hàm lượng albumin, SGOT, magie và phốt pho trong huyết thanh của bò trong độ tuổi sinh trưởng cao hơn bò ở các nhóm tuổi khác. Đối với nhóm bê con có chứa tổng lượng protein, cholesterol, canxi và creatinine trong huyết thanh cao (Mamun và nnk., 2014). Tương tự với kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả Mamum (2014), Gaikwad và nnk. (2007) cũng đã cho thấy rằng lượng protein ở nhóm bê con có phần cao hơn bò ở các nhóm tuổi khác, có thể nhận định rằng lượng protein sẽ giảm khi độ tuổi tăng lên (Gaikwad và nnk., 2007). Ngoài ra nhóm nghiên cứu của Mamum đã cho thấy chỉ số SGPT/ALT và SGOT/AST có sự gia tăng theo độ tuổi của vật nuôi. Mặc dù nồng độ của các chỉ số sinh hóa giữa các nhóm bò được xét theo giới tính và độ tuổi có sự chênh lệch nhau, nhưng nhìn chung đều không đáng kể (Mamun và nnk., 2014). Xuyên suốt quá trình nghiên cứu, nhóm tác giả luôn có sự so sánh, đối chiếu với các số liệu đã được ghi nhận từ các nghiên cứu khác, điều này giúp gia tăng thêm độ chính xác và tính khoa học cho nghiên cứu (Jezek và nnk., 2006). Theo một nghiên cứu khác của Aashaq và nnk. (2019), đã cho thấy rằng các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu cũng bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi các mùa trong năm. Nghiên cứu được thực hiện trên 30 con bò hơn 1 tuổi trong mùa hè và mùa đông để nghiên cứu ảnh hưởng của mùa đến đặc điểm sinh hóa máu. Theo kết quả cho thấy, lượng cholesterol huyết thanh trung bình trong mùa đông cao hơn đáng kể so với mùa hè. Nồng độ creatinine và ure huyết thanh cao hơn đáng kể trong mùa hè khi nồng độ albumin và bilirubin không bị ảnh hưởng bởi các tác động theo mùa. Bên cạnh đó, lượng đường huyết trong mùa đông cao hơn đáng kể so với mùa hè (Aashaq và nnk., 2019). Mức đường huyết là đại diện cho trạng thái năng lượng của động vật (Chandrashekhar và nnk., 2017). Ở mùa đông, nguồn thức ăn có sẵn nhiều hơn, điều này là nguyên nhân làm tăng nồng độ glucose huyết thanh trong mùa đông so với mùa hè (Rasooli và 9
  4. nnk., 2004). Đồng thời căng thẳng mùa hè dẫn đến giảm lượng thức ăn vào, từ đó dẫn đến sự suy giảm của glucose (Shrikhande và nnk., 2008; Muna và nnk., 2009). Kalyani và nnk., (2018) khi nghiên cứu về giống bò Zebu ở Ấn Độ đã đưa ra nhận định rằng, nồng độ protein huyết thanh phụ thuộc vào tình trạng dinh dưỡng và quá trình trao đổi chất của động vật, điều này bị ảnh hưởng gián tiếp bởi lượng thức ăn. Nguồn thức ăn sẵn có cao hơn trong những tháng mùa đông và các vấn đề về stress môi trường ở mức thấp. Trong khi đó, tình trạng căng thẳng của mùa hè dẫn đến giảm lượng thức ăn, do đó dẫn đến nồng độ protein huyết thanh thấp hơn trong mùa hè (Kalyani và nnk., 2018). Nhận định đó tương tự với kết quả ghi nhận được trong nghiên cứu của Aashaq và nnk. (2019). Tổng lượng protein huyết thanh trong những tháng mùa đông và mùa hè của bò Badri lần lượt là 7,43 ± 0,09 và 7,06 ± 0,11 mg/dl với mức trung bình tổng thể là 7,25 ± 0,08 mg/dl cho thấy rằng tổng lượng protein huyết thanh trong những tháng mùa đông cao hơn hơn mùa hè (Aashaq và nnk., 2019). Tuy nhiên, với nhóm nghiên cứu của Das (2014) và Cozzi (2011), lại có những ý kiến trái chiều, cho rằng tổng lượng protein trong huyết thanh trong mùa hè cao hơn so với mùa đông (Das và nnk., 2014; Cozzi và nnk., 2011). Nghiên cứu về các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu của Kalyani và nnk. (2018), được thực hiện 70 con bò thuộc bảy giống khác nhau là Gir, Sahiwal, Deoni, Kangayam, Ongole, Rathi và Tharparkar. Theo kết quả của nghiên cứu đã cho thấy, nồng độ globulin huyết thanh không bị ảnh hưởng bởi tác động theo mùa (Kalyani và nnk., 2018). Kết quả ấy tương tự với kết quả ghi nhận của (Aashaq và nnk., 2019) Theo nhiều nghiên cứu cho thấy, lượng chất béo trung tính ở mùa đông sẽ có nồng độ cao hơn mùa hè (Aashaq và nnk., 2019; Chandrashekhar và nnk., 2017; Ahmed và nnk., 2012). Tuy nhiên, với nghiên cứu của (Giuseppe và nnk., 2014) lại có nhận định ngược lại. Bên cạnh đó, trong nghiên cứu của (Cerutti và nnk., 2018) đã ghi nhận rằng lượng chất béo trung tính có sự ảnh hưởng theo mùa và đặc biệt là trên giống bò đực. Nghiên cứu về sự ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự thay đổi các chỉ số sinh lý máu trên bò, Cardoso và nnk. (2015) đã thực hiện trên 40 con bò thuộc các giống Gir, Girolando, Nelore, Sindhi và Indubrasil, trong độ tuổi từ 3 – 4 tuổi và sống ở môi trường nhiệt đới. Sau nghiên cứu, kết quả ghi nhận lại đã cho thấy, khoảng thời gian trong ngày sẽ có sự ảnh hưởng đến thể tích hồng cầu và số lượng hồng cầu trong máu. Giống bò Nelore có khối lượng tế bào hồng cầu thấp nhất (37,46), Nelore và Indubrasil có tổng giá trị huyết tương thấp nhất, protein (lần lượt là 7,58 và 7,46). Giống bò Sindhi có nồng độ bạch cầu, huyết sắc tố và tế bào lympho thấp nhất (lần lượt là 9,33; 12,24 và 56,39) và có số lượng bạch cầu ái toan lớn nhất (6,89). Đối với các giống bò còn lại các chỉ số sinh lý máu ở mức trung bình và có sự tương đồng với các cá thể bò khỏe mạnh được đối chiếu. Theo kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, các chỉ tiêu về sinh lý máu như thể tích tế bào hồng cầu, số lượng tế bào hồng cầu,... bị ảnh hưởng bởi các yếu tố môi trường như chỉ số nhiệt độ và độ ẩm. Phản ứng này có liên quan đến stress nhiệt cao ở vật nuôi (Cardoso và nnk., 2015). Các chỉ số sinh lý sinh hóa máu đa phần đều bị tác động bởi các yếu tố nội sinh di truyền, giới tính, stress, độ tuổi, trạng thái sinh lý và các yếu tố ngoại cảnh điều kiện dinh dưỡng, khí hậu, thời tiết hoặc các mùa trong năm. Dinh dưỡng là yếu tố chính có thể tạo ra những thay đổi sâu sắc về đặc điểm trao đổi chất ở động vật (Ingvartsen và nnk., 2006). Bên cạnh, kết quả ghi nhận được về sự ảnh hưởng của các yếu tố về di truyền, giới tính, và độ tuổi đã được trình bày như trên. Tác động của thời kỳ mang thai và cho con bú ở bò cũng có những tác động đáng kể tới các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu ở bò. Các chỉ số sinh hóa bị ảnh hưởng bởi ngày sau sinh, giá trị thấp nhất vào những ngày đầu của sữa non và cao nhất vào những ngày cuối cùng của thời kỳ (Coroian và nnk., 2017). Ở động vật, việc thay đổi các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu phần nào giúp vật nuôi có thể thích nghi với sự thay đổi của môi trường sống, khí hậu hoặc các điều kiện dinh dưỡng và sinh lý của vật nuôi. Chính vì thế, thông qua các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu có thể đánh giá về điều kiện sống và sức khỏe của vật nuôi. 10
  5. 2.3. Tình hình nghiên cứu các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu bò ở Việt Nam Ở Việt Nam, nghiên cứu về các chỉ tiêu sinh lý máu của bò lai Sind được Đoàn Hữu Lực và nnk. thực hiện năm 2006. Nghiên cứu được thực hiện trên 30 con bê cai sữa lai Sind, gồm 10 đực và 20 cái trọng lượng 100 kg – 120 kg/ con được nuôi trong thời gian 240 ngày. Sau nghiên cứu, nhóm tác giả đã ghi nhận kết quả như sau: Số lượng hồng cầu biến động 6,60 – 7,80 triệu/mm3 máu, có sự khác biệt so với bò có sinh lý bình thường là 6 – 8 triệu/mm3 máu. Về số lượng bạch cầu dao động từ 6.900 – 7.950/ mm3 máu, thấp hơn so với bò trong tình trạng sinh lý bình thường khoảng 8.200/ mm3 máu. Hàm lượng protein của giống bò được nghiên cứu không có sự khác biệt so với bò có chỉ số sinh lý máu bình thường. Lượng albumin trong máu biến động 3,30 – 3,40g/dl máu, tương đương với bò có sinh lý ở trạng thái bình thường. Globulin trong khoảng từ 1,58 – 2,30 g/ dl thấp hơn nhiều so với hàm lượng globulin trong máu bò có trạng thái sinh lý bình thường là 4,10 g/ dl máu. Hàm lượng ure trong máu từ 42,45 – 58,60 mg/ dl máu, chỉ số nồng độ nitơ – ure huyết tương (BUN) của bò thí nghiệm nuôi ở các nghiệm thức có sự biến động từ 28,31 – 39,08 (Đoàn Hữu Lực và nnk., 2006). Kết quả của nghiên cứu này có thể được dùng để đối chiếu với các nghiên cứu đánh giá sự ảnh hưởng của hàm lượng các chất dinh dưỡng có trong thức ăn đến các chỉ số sinh lý máu ở bò. Tại trung tâm gia súc lớn trên các địa phương ở Việt Nam hiện nay, việc tiến hành đánh giá các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu bò đã trở thành một phương pháp phổ biến, giúp phản ánh được khả năng thích nghi của các giống bò nuôi nhốt tại đây. Chỉ số hồng cầu bò Red Angus (RA) nhập nội có là 6,4 triệu/ mm3, bạch cầu là 8,7 ngàn/ mm3, tiểu cầu là 494 ngàn/ mm3, hàm lượng hemoglobin đạt 97,7 g/ l – 31,5% (Hoàng Thị Ngân và nnk., 2021). Một số chỉ tiêu sinh lý máu trên bò lai F2 (Charolais x LS) có chỉ số hồng cầu 6,57; hematocrit 28,6; tiểu cầu 241,2; bạch cầu 1,8. Bò DrM thuần nhập nội có chỉ số hồng cầu đạt từ 5,84 – 6,45 triệu/ mm3, hemoglobin 9,73 – 10,35 g%, hematocrit 30,21 – 31,26 %, bạch cầu 11,26 – 11,38 ngàn/ mm3 (Phạm Văn Quyến, 2010). Như vậy, các nghiên cứu về chỉ tiêu sinh lý máu góp phần đánh giá được tình trạng sức khỏe của các giống bò cũng như sự thích nghi trong điều kiện chăn nuôi tại các Trung tâm chăn nuôi nói riêng, trang trại gia súc tại Việt Nam nói chung. Nhìn chung, ở Việt Nam các nghiên cứu về các chỉ số sinh lý và sinh hóa máu bò còn ở mức hạn chế. Trong khi đó, việc phân tích các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu bò giúp người nông dân và bác sĩ thú y đánh giá chính xác về hiệu suất và chất lượng đàn bò, nắm chắc được tình trạng sức khỏe của bò, từ đó có những thay đổi về chế độ ăn uống, điều kiện nuôi nhốt phù hợp cho sự phát triển đàn bò. Do vậy, việc nghiên cứu và đánh giá về các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu bò là rất cần thiết cho ngành chăn nuôi bò trong tương lai. 3. KẾT LUẬN Các chỉ số sinh lý và sinh hóa máu của các giống bò bị ảnh hưởng bởi những yếu tố như giới tính, độ tuổi, sức khỏe, sinh lý, stress, thời tiết, sự thay đổi mùa trong năm, điều kiện và môi trường nuôi nhốt. Thông qua việc đánh giá các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu góp phần cung cấp thông tin đánh giá tình hình sức khỏe và dinh dưỡng của vật nuôi, giúp chẩn đoán sớm các bệnh xuất hiện trên vật nuôi, cũng như có thể xây dựng hệ thống chăn nuôi và dinh dưỡng hợp lý. Bên cạnh đó, kết quả ghi nhận về các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu còn được sử dụng để so sánh đối chiếu giữa các nghiên cứu về các giống bò hiện nay, góp phần đánh giá chất lượng, năng suất giống vật nuôi, phục vụ cho công tác chọn lọc và lai tạo giống. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay các nghiên cứu về chỉ số sinh lý, sinh hóa máu của các giống bò còn ở khiêm tốn, do đó cần tiếp tục mở rộng nghiên cứu tại Việt Nam trong thời gian tới. 11
  6. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ahmed O.A. and Abdalla M.A. (2012). Metabolic and Endocrine Responses of Crossbred Dairy Cows in Relation to Pregnancy and Season under Tropical Conditions. American-Eurasian J. Agri. Environ. Sci., 12(8), 1065 – 1074. 2. Campora C., Freeman K.P., Lewis F.I., Gibson G., Sacchini F. and Sanchez – Vazquez M.J. (2011). Determination of haematological reference intervals in healthy adult greyhounds. Journal of Small Animal Practice, 52(6), 301 – 309. 3. Cardoso C.C., Peripolli V., Amador S. A., Brandão E.G., Esteves G.I.F., Sousa C.M.Z. and McManus C. (2015). Physiological and thermographic response to heat stress in zebu cattle. Livestock Science, 182, 83-92. 4. Cerutti R.D., Scaglione M.C., Arfuso F., Rizzo M. and Piccione G. (2018). Seasonal variations of some hematochemical parameters in Holstein bovine under the same livestock conditions. Veterinarski arhiv, 88(3), 309 – 321. 5. Chandrashekhar S.K., Sathisha K.B., Vinay P., Tikare I.J. and Reddy S.M. (2017). Seasonal Effects on Serum Biochemical and Hormonal Profile in Deoni Crossbred Cow. Bull. Env. Pharmacol. Life Sci, 6, 59 – 62. 6. Comazzi S., Pieralisi C. and Bertazzolo W. (2004). Haematological and biochemical abnormalities in canine blood: frequency and associations in 1022 samples. Journal of Small Animal Practice, 45(7), 343 – 349. 7. Cozzi G., Ravarotto L., Gottardo F., Stefani A.L., Contiero B. and Moro L. (2011). Short communication: Reference values for blood in Holstein dairy cows: Effect of parity, stage of lactation, and season of production. Journal of Dairy Science, 94(8), 3895 – 3901. 8. Cristian O.C., Vioara M., Aurelia C., Camelia R., Luisa A., Zamfir M., Sorin T. and Mircea V. (2017). Biochemical and haematological blood parameters at different stages of lactation in cows. Animal Science and Biotechnologies, 74(1), 31 – 36. 9. Dar A.H., Kumar S., Singh D.V., Sodhi M., Sharma R.K., Ghosh A.K. and Rahman J.U. (2019). Seasonal variation in blood biochemical characteristics of Badri cattle. The Pharma Innovation Journal, 8(9), 147 – 150. 10. Das H., Lateef A., Panchasara H.H., Sanap M.J., Nilufar H. and Parsani H.R. (2014). Seasonal effect on blood biochemical parameters in kankrej cattle at different level of their productivity. The Indian Journal of Field Veterinarians, 9(4), 12 – 16. 11. Dikmen S. and Hansen P.J. (2009). Is the temperature – humidity index the best indicator of heat stress in lactating dairy cows in a subtropical environment? J Dairy Sci, 92, 109 – 116. 12. Đỗ Văn Thu, Nguyễn Văn Bộ, Đoàn Việt Bình, Nguyễn Ngọc Hưng, Trần Xuân Khôi, Lê Thị Huệ và Nguyễn Thị Thịnh (2015). Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lý – sinh hóa huyết học giống chó Bắc Hà và H’ Mong nuôi cách ly. Tạp chí Sinh học, 37(4), 503 – 508. 13. Đoàn Hữu Lực, Võ Ái Quấc và Dương Thanh Liêm. (2006). Ảnh hưởng của thức ăn cung đạm trên chất lượng thân thịt và chỉ tiêu sinh lý của bò lai Sind nuôi thịt tại tỉnh An Giang. Tạp chí Nghiên cứu Khoa học, 5, 32 – 39. 14. Forbes N., Ruben D.S. and Brayton C. (2009). Mouse clinical pathology: Haematology controlling variables that influence data. USA: John Hopkins University School of medicine. 15. Gaikwad S.M., Dhoble R.L., Sawale A.G., Mane P.M. and Dawane S.C. (2007). Osteomalacia in Holstein Friesian cow: a case report. Intas Polivet, 8(2), 381 – 385. 16. Giuseppe M., Claudia R., Floria C., Gino C., Maria R. and Giuseppe P. (2014). Effect of different environmental conditions on some hematological parameters in cow. Ann Anim Sci., 14(4), 947 – 954. 17. Hoàng Thị Ngân, Phạm Văn Quyến, Nguyễn Văn Tiến, Bùi Ngọc Hùng, Giang Vi Sal, Nguyễn Thị Thủy và Lê Thị Ngọc Thùy. (2021). Khả năng thích nghi và sinh sản của ba lứa để đầu bò Red Angus nhập nội. KHKT Chăn nuôi, 270, 18 – 23. 12
  7. 18. Hristev H., Ivanova H., and Tasheva S. (2020). A Study of the farm factors in buildings used for farming dairy cows. Animal Science, 63(1), 279-286. 19. Ingvartsen K.L. (2006). Feeding – and management – related diseases in the transition cow - Physiological adaptations around calving and strategies to reduce feeding-related diseases. Animal Feed Science and Technology, 126, 175 – 213. 20. Ivanova R. and Tasheva S. (2020). Influence of temperature-humidity index and farm factors on some biochemical blood parameters in dairy cows. Animal Science, 63(1), 325 – 331. 21. Jezek J., Klopcic M. and Klinkon M. (2006). Influence of age on biochemical parameters in calves. Bulletin of the Veterinary Research Institute in Pulawy, 50(2), 211 – 214. 22. Kalyani P., Kumar K., Aswani Y., Haritha Srinivas B. And Durga Kanaka A. (2018). Comparative blood haematobiochemical variations in Indian Zebu cattle breeds during early summer. Biological Rhythm Research, 49(6), 811 – 818. 23. Mahdy C.E., Popescu S., Borda C. and Boaru A. (2014). Aspects of the Welfare of Dairy Cows in Farms with Tied-Stall Maintenance System and Action of the Upstream Factors. Animal Science and Biotechnologies, 71(2), 159 – 167. 24. Mamun M.A., Hassan M.M., Shaikat A.H., Islam S.K.M.A., Hoque M., Uddin M. and Hossain M.B. (2014). Biochemical analysis of blood of native cattle in the hilly area of Bangladesh. Bangladesh Journal of Veterinary Medicine, 11(1), 51 – 56. 25. Marai I., Bahgat L., Shalaby T., and Abdel – Hafez M. (2000). Fattening performance, some behavioral traits and physiological reactions of male lambs fed concentrates mixture alone with or without natural clay, under hot summer of Egypt. Ann Arid Zone, 39, 449 – 460. 26. Mazzullo G., Rifici C., Lombardo S.F., Agricola S., Rizzo M. and Piccione G. (2014). Large Seasonal variations of some blood parameters in cow. Animal Review, 20, 81 – 84. 27. Muna H., Haidar K.A. and Rashad F.G. (2009). Selective evaluation of certain blood and biochemical parameters of local cattle during winter and summer seasons. Bas. J. Vet. Res., 8(1), 138 – 143. 28. Nguyễn Hồ Bảo Trân, Trần Ngọc Bích và Nguyễn Phúc Khánh. (2015). Tình hình nhiễm giun sán ký sinh trên đường tiêu hóa và một số chỉ tiêu sinh lý máu trên gà nuôi nhốt tại quận Bình Thủy, Thành phố Cần Thơ. Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ, 37(1), 6 – 10. 29. Onasanya G.O., Oke F.O., Sanni T.M. and Muhammad A.I. (2015). Parameters influencing haematological, serum and bio-chemical references in livestock animals under different management systems. Journal of Veterinary Medicine, 5(8), 181 – 189. 30. Phạm Văn Quyến (2010). Khả năng sản xuất của bò Droughmater thuần nhập nội và bò lai F1 (Droughtmaster x Laisind) tại Miền Đông nam Bộ. Tạp chí KHKT Chăn nuôi, 9, 26 – 34. 31. Rasooli A., Nouri M., Khadjeh G.H. and Rasekh A. (2004). The influences of seasonal variations on thyroid activity and some biochemical parameters of cattle. Iranian Journal of Veterinary Research, 5(2), 1383. 32. Shrikhande G.B., Rode A.M., Pradhan M.S. and Satpute A.K. (2008). Seasonal effect on the composition of blood in cattle. Veterinary World, 1(11), 341 – 342. 33. Weiss D.G. and Wardrop K.J. (eds.). (2010). Normal hematology of cattle. In: Schalm’s veterinary hematology. USA: Wiley Publishing House, 829 – 835. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
609=>0