intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

190
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ảnh hưởng của kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản lên môi trường và sức khỏe con người đã thúc đẩy các nghiên cứu tìm ra các sản phẩm thay thế. Bên cạnh đó, màu sắc là một trong những đặc điểm ảnh hưởng đến giá cả thị trường và đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh giá tổng thể đối tượng nuôi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản

An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 21 – 30<br /> <br /> TỔNG QUAN VỀ VIỆC SỬ DỤNG ASTAXANTHIN TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN<br /> Hồ Sơn Lâm1, Phan Thị Ngọc1<br /> Viê ̣n Hải dương học<br /> Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam<br /> <br /> 1<br /> 2<br /> <br /> Thông tin chung:<br /> Ngày nhận bài: 20/10/2015<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br /> 11/11/2015<br /> Ngày chấp nhận đăng: 06/2017<br /> Title:<br /> An overview on the use of the<br /> Astaxanthin in aquaculture<br /> Keywords:<br /> Astaxanthin, aquaculture, fish,<br /> crustacean, pigmentation<br /> Từ khóa:<br /> Astaxanthin, nuôi trồng<br /> thủy sản, cá, giáp xác, màu<br /> sắc<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Effects of antibiotics usage on aquaculture, on environment and human health,<br /> have prompted the search for alternative products. Besides, color is one of the<br /> characteristics affecting the market price and plays an important role in the<br /> overall evaluation of the product. Recently, one of the few substances that can<br /> be used to replace antibiotics, which can create colors for aquatic animal and<br /> is concerned by many researchers in the field, is Astaxanthin. This report<br /> reviews the role of Astaxanthin on the culture of some kinds of fish and<br /> crustaceans. Suggestions for further research on the application of Astaxanthin<br /> in aquaculture are also included.<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Ảnh hưởng của kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản lên môi trường và sức<br /> khỏe con người đã thúc đẩy các nghiên cứu tìm ra các sản phẩm thay thế. Bên<br /> cạnh đó, màu sắc là một trong những đặc điểm ảnh hưởng đến giá cả thị trường<br /> và đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh giá tổng thể đối tượng nuôi.<br /> Gần đây, một trong số ít những chất vừa có thể thay thế kháng sinh vừa tạo nên<br /> màu sắc cho vật nuôi đang được quan tâm nghiên cứu đó là Astaxanthin. Bài<br /> báo này tổng quan vai trò của Astaxanthin trong nuôi một số loài cá và giáp<br /> xác. Bài báo cũng đề xuất nghiên cứu tiếp theo về ứng dụng của Astaxanthin<br /> trong nuôi trồng thủy sản.<br /> <br /> 1. MỞ ĐẦU<br /> <br /> Yilmaz, 2007). Ngoài ra, các sản phẩm nuôi trồng<br /> thủy sản chất lượng cao phải đáp ứng một số yêu<br /> cầu được đánh giá cao bởi người tiêu dùng, bao<br /> gồm màu sắc thích hợp, đó là một trong các thông<br /> số chất lượng cá quan trọng nhất trên thị trường.<br /> Màu sắc là đặc tính đầu tiên được nhận thức và là<br /> một tiêu chí lựa chọn yếu tố quyết định, liên quan<br /> trực tiếp đến việc chấp nhận hoặc từ chối (Shahidi<br /> & Metusalach, 1998). Màu sắc là một trong<br /> những đặc điểm ảnh hưởng đến giá cả thị trường<br /> và đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh<br /> giá tổng thể cá nuôi (Gouveia & Rema, 2005).<br /> Gần đây, một trong số ít những chất vừa có thể<br /> thay thế kháng sinh vừa tạo nên màu sắc cho vật<br /> <br /> Trong nhiều thập kỷ qua, kháng sinh được sử<br /> dụng ở liều thấp nhằm cải thiện tốc độ tăng<br /> trưởng và sức khỏe của các đối tượng nuôi<br /> (Rosen, 1996). Tuy nhiên, trước sự gia tăng nhu<br /> cầu về thực phẩm an toàn và sự cần thiết bảo vệ<br /> môi trường sinh thái, thì việc sử dụng kháng sinh,<br /> yếu tố tạo ra các mầm bệnh kháng thuốc và làm<br /> suy thoái môi trường đang được quan tâm (Huỳnh<br /> Minh Sang & Trần Văn Bằng, 2013). Việc cấm sử<br /> dụng kháng sinh trong nuôi thủy sản ở một số<br /> nước đã khuyến khích các nghiên cứu tìm ra và áp<br /> dụng các chất thay thế kháng sinh trong nuôi<br /> trồng thủy sản (A. Genc, Aktas, M. Genc &<br /> 21<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 21 – 30<br /> <br /> nuôi đang được quan tâm nghiên cứu đó là<br /> Astaxanthin. Astaxanthin là một loại carotenoid,<br /> tạo sắc tố hiện diện ở một số loài thủy sản, làm<br /> cho cơ, da và trứng động vật thủy sản có màu<br /> vàng, cam hay đỏ (Higuera, Félix & Goycoolea,<br /> 2006). Hiện nay để tạo màu cơ, da hay làm cho cá<br /> lên đỏ, trong thức ăn cá thường được bổ sung<br /> Astaxanthin để cá có màu sắc đẹp hơn và dễ tiêu<br /> thụ hơn. Astaxanthin có công thức hóa học là 3,3dihydroxy-4,4-diketo-β Carotene, có thể hoà tan<br /> trong dầu/mỡ. Do trong cấu trúc có nhiều nối đôi<br /> (13 nối đôi) nên Astaxanthin còn là một chất<br /> chống oxy hóa mạnh, gấp 10 lần các carotenoid<br /> khác. Đặc tính chống oxy hóa của Astaxanthin<br /> được thể hiện ở chỗ nó ngăn cản sự hình thành<br /> gốc tự do bằng cách loại bỏ oxy tự do, trong<br /> trường hợp các gốc tự do đã được hình thành thì<br /> Astaxanthin có thể kết hợp với gốc tự do để vô<br /> hiệu hóa nó, nhờ đó Astaxanthin có thể bảo vệ<br /> lipid khỏi sự oxy hóa giống như màng<br /> phospholipid. Mặt khác, Astaxanthin còn đóng vai<br /> trò tương tự như vitamin E trong phòng chống sự<br /> oxy hóa tế bào và liên hệ đến chức năng sinh sản<br /> ở các động vật thủy sản. Astaxanthin có khả năng<br /> chống lại quá trình oxy hóa lên đến 500 lần so với<br /> vitamin E (Di Mascio, Murphy & Sies, 1989;<br /> Shimidzu, 1996; Naguib, 2000; Kurashige,<br /> Okimasu & Utsumi, 1990), điều này đã khiến một<br /> số chuyên gia cho rằng nó như là "Super Vitamin<br /> E". Các nghiên cứu cho thấy, đặc tính chống oxy<br /> hóa của Astaxanthin cao gấp 10 lần so với βcarotene (Miki, 1991). Astaxanthin có khả năng<br /> cải thiện hệ thống miễn dịch bằng cách tăng số<br /> lượng các tế bào sản xuất kháng thể (Chatzifotis<br /> và cs., 2005). Bên cạnh đó, vai trò của<br /> Astaxanthin đối với sinh sản cũng đã được đề cập<br /> bởi Tizkar, Soudagar, Bahmani, Hosseini và<br /> Chamani (2013). Theo đó, hàm lượng carotenoid<br /> bổ sung vào thức ăn cho cá bố mẹ có thể làm tăng<br /> sự hình thành lipoprotein, đây là hợp chất quan<br /> trọng trong quá trình tích lũy năng lượng trong sự<br /> hình thành lòng đỏ trứng, trong khi đó,<br /> Astaxanthin giúp tinh trùng vận động tốt hơn từ<br /> đó làm tăng cơ hội thụ tinh. Bổ sung Astaxanthin<br /> <br /> vào thức ăn giúp cải thiện tăng trưởng (Tizkar và<br /> cs., 2013; Christiansen & Torrissen, 1996; Rajabi,<br /> Salarzadeh, Yahyavi, Masandani & Niromand,<br /> 2012), tỷ lệ sống (Yamada, Tanaka, Sameshima &<br /> Ito, 1990; Chien & Jeng, 1992; Paripatananont,<br /> Tangtrongpairoj & Sailasuta, 1999; Rajabi, 2012),<br /> miễn dịch (Chandrasekar và cs., 2014;<br /> Christiansen, Glette, Torrisen, Lie & Waagb,<br /> 1995; Babin, Biard & Moret, 2010), sinh sản<br /> (Ansari, Alizadeh, Shamsai & Khodadadi, 2013)<br /> và giảm stress (Chien, Pan & Hunter, 2003;<br /> Supamattaya, Kiriratnikom, Boonyaratpalin &<br /> Borowitzka, 2005; Niu và cs., 2009) của một số<br /> loài cá và giáp xác. Bài báo này tổng quan về vai<br /> trò của Astaxanthin trong nuôi một số loài cá và<br /> giáp xác, trong đó đề cập đến tăng trưởng, tỷ lệ<br /> sống, sinh lý, miễn dịch, sinh sản và giảm stress<br /> của đối tượng nuôi.<br /> 2. NỘI DUNG<br /> 2.1 Phương thức và liều lượng áp dụng<br /> Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản<br /> Trong nuôi thủy sản Astaxanthin chủ yếu được<br /> trộn vào thức ăn của một số loài cá và giáp xác<br /> như: cá hồi vân (Amar, Kiron, Satoh & Watanabe,<br /> 2001);<br /> cá<br /> hồi<br /> Đại<br /> Tây<br /> Dương<br /> (Christiansen, Lie & Torrissen, 1994; Christiansen<br /> & Torrissen, 1996); cá tráp (Sparus aurata)<br /> (Gomes, 2002); cá dĩa (Đặng Quang Hiếu, Hà Lê<br /> Thi ̣ Lô ̣c và Bùi Minh Tâm, 2009); tôm he Nhật<br /> Bản (Yamada Tanaka, Sameshima & Ito, 1990;<br /> Chien & Jeng, 1992); tôm thẻ chân trắng (Rajabi<br /> và cs., 2012).<br /> Liều lượng sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng<br /> thủy sản là một yếu tố quyết định đến hiệu quả<br /> nuôi. Sử dụng Astaxanthin dưới mức yêu cầu cần<br /> thiết của cơ thể vật nuôi thường không mang lại<br /> hiệu quả tối ưu của Astaxanthin, trong khi nếu sử<br /> dụng trên mức cần thiết giá thành sản xuất sẽ cao<br /> do lãng phí và lợi nhuận sẽ giảm. Nhu cầu<br /> Astaxanthin cho hiệu quả sinh trưởng, tỷ lệ sống,<br /> sinh lý, miễn dịch, sinh sản và giảm stress phụ<br /> thuộc vào từng loài. Theo Torrissen, Christiansen,<br /> Struksnæs và Estermann (1995), hàm lượng bổ<br /> sung thích hợp nhất cho cá hồi Đại Tây Dương là<br /> 22<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 21 – 30<br /> <br /> 60 mg/kg thức ăn. Cũng trên đối tượng là cá hồi<br /> Đại Tây Dương, kết quả nghiên cứu của Olsen và<br /> Mortensen (1997) cho thấy bổ sung Astaxanthin<br /> với hàm lượng 70 mg/kg thức ăn có ảnh hưởng rõ<br /> rệt nhất đến màu sắc cơ cá. Theo Ho, O’Shea và<br /> Pomeroy (2013), đối với cá nemo 30 ngày tuổi<br /> nồng độ Astaxanthin bổ sung thích hợp là 80 –<br /> 160 mg Astaxanthin/kg thức ăn. Nồng độ thích<br /> hợp bổ sung cho cá khoang cổ đỏ Amphibrion<br /> frenatus là 200 mg Astaxanthin/kg thức ăn (Hà Lê<br /> Thị Lộc và cs., 2009). Nghiên cứu của Đặng<br /> Quang Hiếu và cs. (2009) với đối tượng là cá dĩa<br /> hàm lượng bổ sung 300 ppm Astaxanthin vào<br /> thức ăn giúp cá dĩa có màu đỏ đậm nét nhất. Theo<br /> Paripatananont và cs. (1999) liều tối ưu của<br /> Astaxanthin đối với cá vàng (Carassius auratus)<br /> là 36 – 37 mg/kg thức ăn. Astaxanthin bổ sung ở<br /> nồng độ từ 240 mg/kg thức ăn đã được áp dụng<br /> trong nuôi tôm sú (Chih - Hung, 2004); 200 mg<br /> Astaxanthin/kg thức ăn trong nuôi tôm he Nhật<br /> Bản (Yamada và cs., 1990); 100 mg Astaxanthin<br /> /kg thức ăn trong nuôi cá chép (Chandrasekar và<br /> cs. 2014); 150mg Astaxanthin/kg trong nuôi cá<br /> vàng (Carassius auratus) (Tizkar và cs. 2013);<br /> 150 mg Astaxanthin/kg thức ăn trong nuôi tôm<br /> Macrobrachium nipponense (Tizkar, Seidavi,<br /> Ponce - Palafox & Pourashoori, 2014).<br /> <br /> (retinol, α-tocopherol và acid ascorbic) của cá ở<br /> nhóm bổ sung nhiều hơn 2 đến 20 lần so với<br /> nhóm còn lại. Cá cho ăn bổ sung Astaxanthin có<br /> sức đề kháng đối với vi khuẩn Aeromonas<br /> salmonicida tốt hơn so với cá đối chứng. Hàm<br /> lượng hemoglobin trong máu và các thông số<br /> miễn dịch cũng có xu hướng cao hơn ở nhóm cá<br /> cho ăn Astaxanthin mặc dù sự khác biệt này là<br /> không đáng kể. Như vậy, Astaxanthin bổ sung<br /> vào thức ăn không chỉ ảnh hưởng đến màu sắc mà<br /> còn làm thúc đẩy tăng trưởng, chống oxy hóa,<br /> tăng cường các hoạt động miễn dịch ở cá hồi Đại<br /> Tây Dương. Nghiên cứu ảnh hưởng của bổ sung<br /> Astaxanthin vào thức ăn lên màu sắc của cá tráp<br /> đã được thực hiện bởi Ben, Mark, Geoff và Paul<br /> (2009). Cá đươ ̣c nuôi trong lồ ng và cho ăn với 7<br /> nghiê ̣m thức tương ứng hàm lươ ̣ng Astaxanthin<br /> bổ sung vào thức ăn là 0, 13, 26, 39, 52, 65 và 78<br /> mg Astaxanthin/kg thức ăn và được nuôi trong 63<br /> ngày. Mỗi thı́ nghiê ̣m đươ ̣c lă ̣p la ̣i 4 lầ n. Kết quả<br /> nghiên cứu cho thấy bổ sung Astaxanthin với<br /> nồng độ 39 mg/kg thức ăn sau 42 ngày nuôi, cá<br /> đạt màu sắc tối ưu nhất, đồng thời hàm lươ ̣ng<br /> carotenoid tı́ch lũy ở da cá tráp cũng đạt giá trị<br /> cao nhất. Không có sự sai khác có ý nghĩa thống<br /> kê về màu sắc cũng như hàm lượng carotenoid<br /> tıć h lũy ở da cá tráp khi cho cá ăn thức ăn bổ sung<br /> Astaxanthin có nồng độ lớn hơn 39 mg/kg và nuôi<br /> lâu hơn 42 ngày (p > 0,05). Điều này cho thấy, bổ<br /> sung Astaxanthin với liều lượng cao hay trong<br /> thời gian kéo dài cũng không làm tăng thêm hiệu<br /> quả Astaxanthin đối với cá tráp. Trịnh Thị Lan<br /> Chi (2010) đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng<br /> của Astaxanthin lên cá chép Nhật Cyprinus<br /> carpio. Thí nghiệm được tiến hành với 5 mức bổ<br /> sung Astaxanthin ở các hàm lượng khác nhau: 0,<br /> 25, 50, 75 và 100 mg/kg thức ăn. Tác giả đã sử<br /> dụng phương pháp đánh giá màu sắc của cá chép<br /> Nhật bằng cách cho điểm theo thang màu từ 0 đến<br /> 9 của Boonyaratpalin và Prasert (1989). Kết quả<br /> nghiên cứu cho thấy, bổ sung Astaxanthin có tác<br /> dụng tích cực trong việc cải thiện màu sắc ở cá<br /> chép Nhật sau 2 tháng nuôi, trong đó hàm lượng<br /> hiệu quả nhất là 78,22 ± 5,84 mg/kg thức ăn. Một<br /> <br /> 2.2 Hiệu quả của Astaxanthin trong nuôi<br /> trồng thủy sản<br /> Hiệu quả của Astaxanthin đã được chứng minh<br /> trên nhiều đối tượng nuôi.<br /> Nghiên cứu của Christiansen, Lie và Torrissen<br /> (1995) trên cá hồi Đại Tây Dương (Salmo salar)<br /> cho thấy cá ăn thức ăn bổ sung Astaxanthin<br /> (60mg/kg thức ăn) tăng trưởng nhanh hơn với sự<br /> tăng cân trung bình mỗi ngày là 0.39%, trong khi<br /> đó tỉ lệ này chỉ đạt 0,18% ở nhóm ăn thức ăn<br /> không được bổ sung Astaxanthin. Hàm lượng<br /> lipid thô cũng cao hơn đáng kể ở nhóm cá ăn thức<br /> ăn bổ sung. Nồng độ Astaxanthin trong cơ của cá<br /> ăn thức ăn bổ sung Astaxanthin là 2 - 7 mg cao<br /> hơn đáng kể so với 0 - 3 mg/kg ở nhóm cá ăn thức<br /> ăn không bổ sung. Các loại vitamin chống oxy<br /> hóa trong cơ (retinol, α-tocopherol) và gan<br /> 23<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 21 – 30<br /> <br /> nghiên cứu khác về ảnh hưởng của Astaxanthin<br /> lên tăng trưởng và đáp ứng miễn dịch của cá chép<br /> Nhật cũng đã được nghiên cứu bởi Chandrasekar<br /> và cs. (2014). Theo đó, Astaxanthin bổ sung vào<br /> thức ăn giúp cá chép Nhật có thể kháng lại tác<br /> động của vi khuẩn Aeromonas hydrophila. Khi bổ<br /> sung Astaxanthin với các nồng độ 0, 25, 50, 100<br /> mg/kg thức ăn và theo dõi trong vòng 4 tuần, tác<br /> giả nhận thấy tỉ lệ chết cao nhất ở nhóm được cho<br /> ăn với hàm lượng Astaxanthin là 25 mg/kg (35%)<br /> trong khi đó tỉ lệ này ở nhóm được cho ăn<br /> Astaxanthin 50, 100 mg/kg tương ứng là 20, 10%.<br /> Và tỉ lệ này thấp hơn đáng kể so với nhóm đối<br /> chứng (85%) không được ăn thức ăn bổ sung<br /> Astaxanthin (p < 0,05). Tuy nhiên, tỉ lệ tăng<br /> trưởng, chuyển đổi thức ăn và khả năng sử dụng<br /> protein tăng lên đáng kể ở 2 nhóm được cho ăn<br /> thức ăn bổ sung 50, 100 mg Astaxanthin (p <<br /> 0,05). Các chỉ số như hàm lượng protein tổng số,<br /> albumin, globulin huyết thanh đều tăng ở những<br /> nghiệm thức bổ sung Astaxathin. Hoạt động thực<br /> bào tăng lên từ tuần 2 ở những nghiệm thức bổ<br /> sung Astaxanthin trong khi đó nhóm đối chứng<br /> chỉ tăng lên từ tuần thứ 4. Phản ứng bùng nổ hô<br /> hấp ở nhóm được cho ăn bổ sung 25 mg<br /> Astaxanthin/kg thức ăn đã bắt đầu tăng từ tuần<br /> đầu tiên, còn nhóm được cho ăn bổ sung 50 và<br /> 100 mg Astaxanthin/kg thức ăn chỉ tăng từ tuần<br /> thứ hai trong khi đó nhóm đối chứng chỉ tăng sau<br /> 4 tuần. Tuy nhiên, hoạt động của lyzozym đều<br /> tăng lên đáng kể ở các nhóm được cho ăn thức ăn<br /> làm giàu Astaxanthin so với đối chứng. Như vậy<br /> bổ sung Astaxanthin vào thức ăn với liều lượng<br /> 50, 100 mg/kg thức ăn giúp thúc đẩy tăng trưởng,<br /> nâng cao tỉ lệ sống, thúc đẩy các hoạt động miễn<br /> dịch giúp cá chép Nhật chống lại ảnh hưởng của<br /> khuẩn Aeromonas hydrophila. Một nghiên cứu<br /> khác về vai trò của Astaxanthin đối với khả năng<br /> miễn dịch của đối tượng nuôi cũng đã được<br /> nghiên cứu bởi S. Kim, Song, K. Kim và Lee<br /> (2012). Theo đó, bổ sung Astaxanthin vào thức ăn<br /> trong một khoảng thời gian tương đối ngắn có thể<br /> cải thiện khả năng miễn dịch ở cá bơn<br /> Paralichthys olivaceus. Nghiên cứu được tiến<br /> <br /> hành với 4 nghiệm thức bổ sung Astaxanthin với<br /> liều lượng 0 (đố i chứng), 100, 200, 300 mg/kg<br /> thức ăn, mỗi nghiê ̣m thức được lă ̣p la ̣i 3 lầ n (30<br /> con/bể ), cá đươ ̣c cho ăn trong 15 ngày. Sau 15<br /> ngày, mỗi nghiê ̣m thức chọn 30 con và gây cảm<br /> nhiễm bằng cách tiêm 1 ml vi khuẩn Edwardsiella<br /> tarda (3 x 108 tế bào/ml). Kết quả nghiên cứu cho<br /> thấy, tỷ lệ chết của cá thí nghiệm ở 4 nghiệm thức<br /> bổ sung Astaxanthin với liều lượng 0 (đố i chứng),<br /> 100, 200, 300 mg/kg thức ăn lần lượt là 80; 65; 55<br /> và 40% (p < 0,05). Như vậy, bổ sung Astaxanthin<br /> vào thức ăn làm tăng khả năng miễn dịch của cá<br /> bơn đối với vi khuẩ n E. tarda. Nghiên cứu của Ho<br /> và cs. (2013) được tiến hành trên cá nemo 30<br /> ngày tuổi được chia làm các nhóm và được cho ăn<br /> thức ăn bổ sung 40, 60, 80, 160 mg Astaxanthin<br /> dạng ester hóa /kg thức ăn trong 90 ngày. Kết quả<br /> cho thấy tăng hàm lượng Astaxanthin trong thức<br /> ăn làm cải thiện màu sắc da: màu sắc sẫm hơn và<br /> độ sáng thấp hơn (cá đỏ hơn). Cá ăn thức ăn bổ<br /> sung 80 – 160 mg Astaxanthin/kg thức ăn thì màu<br /> sắc được cải thiện đáng kể so với cá được cho ăn<br /> với hàm lượng Astaxantin bổ sung thấp hơn.<br /> Cũng theo một nghiên cứu khác của Ho và cs.<br /> (2013) trên cá hề màu hạt dẻ (Premnas<br /> biaculeatus) thì bổ sung Astaxanthin với liều<br /> lượng khác nhau sẽ dẫn đến màu sắc khác nhau ở<br /> cá nuôi và sự khác biệt màu sắc được biểu hiện là<br /> kết quả của việc tăng kích thước hạt carotenoid và<br /> nồng độ carotenoid trong hạt. Các thông số sinh lý<br /> học tế bào sắc tố được khảo sát là màu sắc, mật<br /> độ, và đường kính của hạt carotenoid. Cá sau 30<br /> ngày nở được cho ăn với các chế độ ăn bổ sung<br /> 23, 214, 2350 ppm Astaxanthin. Kết quả nghiên<br /> cứu cho thấy không có sự khác biệt về mật độ hạt<br /> carotenoid (khoảng 0,3 hạt/μm2), tuy nhiên đường<br /> kính hạt và sự tích lũy carotenoid tăng lên khi cá<br /> được cho ăn thức ăn chứa Astaxanthin ở hàm<br /> lượng cao hơn. Màu sắc hạt carotenoid đậm hơn<br /> đáng kể, độ bão hòa cao hơn và các giá trị độ sáng<br /> thấp hơn ở nhóm cá được cho ăn Astaxanthin hàm<br /> lượng cao hơn. Hàm lượng Astaxanthin bổ sung<br /> thích hợp nhất cho loài cá này là 214 ppm. Nghiên<br /> cứu của Díaz, Velurtas, Espino và Fenucci (2014)<br /> 24<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 21 – 30<br /> <br /> chỉ ra rằng, bổ sung Astaxanthin vào thức ăn làm<br /> tăng khả năng chố ng số c với môi trường do nitrite<br /> của tôm Pleoticus muelleri giai đoạn hậu ấu trùng.<br /> Nghiên cứu được tiến hành với 3 nghiê ̣m thức bổ<br /> sung Astaxathin vào thức ăn lầ n lươ ̣t là: 0 mg/kg<br /> (C0), 100 mg/kg (C100) và 300 mg/kg (C300). Ấu<br /> trùng tôm được nuôi trong môi trường nitrite<br /> (NO2Na) với các nồng độ khác nhau (0 - 200<br /> mg/L). Nồ ng đô ̣ nitrite gây chế t 50% (LC50) ở 96<br /> h là 76,3; 89,7, và 157 mg/L tương ứng với ba<br /> nghiê ̣m thức C0, C100 và C300. Hoa ̣t đô ̣ng chố ng<br /> oxy hóa đươ ̣c xác đinh<br /> ̣ thông qua khả năng làm<br /> sa ̣ch gố c tự do 1,1-diphenyl-2-picrylhydrazyl<br /> (DPPH). Ở tấ t cả các nghiê ̣m thức các chấ t sinh ra<br /> làm sa ̣ch DPPH đươ ̣c diễn ra ma ̣nh me.̃ Tuy nhiên<br /> tôm ở nghiê ̣m thức C100 và C300 cho thấ y các hoa ̣t<br /> đô ̣ng làm giảm DPPH (62 và 59%) nhanh hơn so<br /> với nghiê ̣m thức đối chứng C0 (43%) (p < 0,05).<br /> Điều này cho thấy, Astaxanthin như mô ̣t chấ t bảo<br /> vê ̣ giúp tôm chố ng la ̣i căng thẳ ng do nitrite. Hiệu<br /> quả của việc bổ sung Astaxanthin vào thức ăn lên<br /> đặc điểm sinh sản của cá hồi vân đã được tiến<br /> hành bởi Ahmadi, Bazyar, Safi, Ytrestøy và<br /> Bjerkeng (2006). Nghiên cứu được thực hiện trên<br /> 5 nhóm của cá hồi vân cái cho ăn khẩu phần thức<br /> ăn chứa 0,07; 12,46; 33,33; 65,06 và 92,91 mg<br /> Astaxanthin/kg thức ăn và hai nhóm cá hồi cầu<br /> vồng đực cho ăn bổ sung với 0,07 và 33,33 mg<br /> Astaxanthin/kg thức ăn. Cá bố mẹ được nuôi<br /> trong 6 tháng cho đến khi thành thục sinh dục. Số<br /> lượng trứng từ mỗi nhóm của cá mẹ được chia<br /> thành hai phần bằng nhau. Một phần được thụ tinh<br /> với tinh trùng đồng nhất của cá bố được cho ăn<br /> thức ăn chứa 0,07 mg Astaxanthin/kg và phần còn<br /> lại cho thụ tinh bởi tinh trùng của cá bố ăn thức ăn<br /> chứa 33,3 mg Astaxanthin/kg. Có sự khác biệt<br /> đáng kể về tỷ lệ trứng thụ tinh, tỷ lệ trứng nở và tỷ<br /> <br /> lệ chết của cá con sau khi nở giữa các nhóm thí<br /> nghiệm (p < 0,05), nhưng không có sự khác biệt<br /> đáng kể về tỷ lệ chết trước khi nở (p > 0,05).<br /> Đồng thời có sự tương quan giữa tỷ lệ thụ tinh, tỷ<br /> lệ nở với hàm lượng Astaxanthin bổ sung vào<br /> thức ăn cá mẹ (p < 0,05). Nghiên cứu cũng đã chỉ<br /> ra rằng, bổ sung Astaxanthin vào thức ăn giúp cải<br /> thiện khả năng sinh sản trong cá hồi vân. Tizkar<br /> và cs. (2013) đã tiến hành nghiên cứu nhằm đánh<br /> giá ảnh hưởng của Astaxanthin ở liều lượng khác<br /> nhau đến khả năng sinh sản của cá vàng<br /> (Carassius auratus). Nghiên cứu được thực hiện<br /> với thức ăn được bổ sung 0, 50, 100 và 150 mg<br /> Astaxanthin/kg thức ăn. Các bố mẹ được cho ăn<br /> thức ăn thí nghiệm trong bốn tháng. Sau đó, trứng<br /> thu được từ các cá mẹ được thụ tinh với tinh trùng<br /> của cá đực trong cùng nghiệm thức thí nghiệm.<br /> Sức sinh sản, tỷ lệ thụ tinh, đường kính trứng và<br /> tỷ lệ sống được đánh giá. Kết quả nghiên cứu cho<br /> thấy không có khác biệt đáng kể về sức sinh sản<br /> giữa các nghiệm thức thí nghiệm. Tuy nhiên,<br /> đường kính trứng và số lượng trứng thụ tinh ở<br /> nghiệm thức cá bố mẹ cho ăn 150 mg<br /> Astaxanthin/kg lớn hơn so với các nghiệm thức<br /> còn lại (p < 0,05) và nghiệm thức này cũng cho<br /> thấy tỷ lệ sống của trứng thụ tinh đạt giá trị cao<br /> trong giai đoạn ấp (p < 0,05). Đồng thời, có sự<br /> tương quan giữa liều lượng bổ sung Astaxanthin<br /> cho cá bố mẹ với tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ sống có ý<br /> nghĩa thống kê.<br /> Trong nuôi trồng thủy sản, Astaxanthin đã được<br /> sử dụng như chất bổ sung để cải thiện màu sắc,<br /> tăng trưởng, tỷ lệ sống, miễn dịch và sinh sản của<br /> các đối tượng nuôi. Lợi ích của việc bổ sung<br /> Astaxanthin vào thức ăn lên màu sắc, tăng trưởng,<br /> tỷ lệ sống, miễn dịch và sinh sản một số đối tượng<br /> nuôi thủy sản được thể hiện ở Bảng 1.<br /> <br /> Bảng 1. Áp dụng và ảnh hưởng của thức ăn bổ sung Astaxanthin lên các đối tượng nuôi thủy sản<br /> <br /> Đối tượng<br /> <br /> Hàm lượng<br /> Astaxanthin (mg/kg)<br /> <br /> Tôm thương phẩm<br /> <br /> 100<br /> <br /> Cá vàng<br /> <br /> 36 – 37<br /> <br /> Hiệu quả<br /> Tỷ lệ sống<br /> Màu sắc da<br /> Tỷ lệ sống<br /> 25<br /> <br /> Tài liệu tham khảo<br /> Yamada và cs. (1990)<br /> Paripatananont và cs.<br /> (1999)<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
26=>2