intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Trầm tính Phật giáo trong truyện Hà Ô Lôi

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Truyện "Hà Ô Lôi" là một tác phẩm nổi bật trong văn học Việt Nam, mang đậm ảnh hưởng của triết lý Phật giáo. Với những tình tiết sâu sắc và nhân văn, tác phẩm không chỉ kể về cuộc đời của nhân vật mà còn phản ánh những giá trị tâm linh và tư tưởng Phật giáo. Trầm tính và sâu lắng, truyện khắc họa những mâu thuẫn nội tâm, sự tìm kiếm chân lý và quá trình giải thoát khỏi khổ đau. Bài viết này sẽ khám phá những yếu tố Phật giáo trong "Hà Ô Lôi", từ đó làm rõ sự hòa quyện giữa văn học và triết lý sống trong tác phẩm này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Trầm tính Phật giáo trong truyện Hà Ô Lôi

  1. 30 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl hoặc ngầm biểu đạt ý nghĩa qua việc miêu tả nhân vật. TRẦM TÍCH PHẬT GIÁO Về cái tên Ma La, học giả Tạ Chí Đại TRONG TRUYỆN HÀ 0 LÔI Trường (2002) cho rằng nó có liên quan đến nhân vật Đặng Ma La đỗ Thám hoa NGUYỄN HÙNG vĩ năm 1247 đồi Trần (trưốc thòi gian diễn ra câu chuyện theo các văn bản 100 flfr u y ệ n Hà Ô Lôi nằm trong tập Lĩnh năm). Nếu ghép tên nhân vật vị thần Ma K rn a m chích quái. Đây là một truyện La, bô" Hà Ô Lôi, với họ nhân vật người ngắn trung đại được nhiều nhà nghiên chồng Vũ thị là Đặng Sĩ Doanh thì ta cứu đề cập tới vổi rất nhiều góc độ tiếp thấy có sự trùng hợp vổi tên vị Thám hoa cận khác nhau. Bản thân truyện này, qua quê Tốt Động, Chương Mĩ, Hà Tây (cũ) các bản ghi khác nhau cũng có tình trạng đó. dị bản như bất cứ tác phẩm trung đại nào Về vị Thám hoa đời Trần có tên Ma mà chúng ta đã từng gặp. Những dị biệt La này, Phạm Văn Ánh (2006) nghe là những thông tin đáng được quan sát kĩ “tương truyền cha là thần nhân, mẹ là càng, nhưng nói chung, trước mắt chúng Đặng Thị Tiêu trong một lần ướm bàn ta, hiện tượng này vẫn là đại đồng tiểu chân vào vết chân lạ trong gò La nên có dị. Cái đại đồng nhất vẫn là tính chất thai mà sinh ra, vì vậy đặt tên là Ma La, QUÁI của câu chuyện vì trước hết nó nằm ý nói do con ma ỏ gò La nhập vào thai trong một tổng thể là “chích QUÁI” như nên sinh ra”. tên của tập sách. Quái trong nguyên nghĩa của nó chính là sự lạ kì. Lạ kì là GS. Kiều Thu Hoạch (2007) cho rằng, những sự mà lí trí thông thường, mà các hai chữ Ma La có nguồn gốc từ làng Quán triết thuyết khác nhau không giải thích La cổ, nay chính là xã Xuân La, huyện tường tận được. Các nhà làm sách
  2. TẠP CHÍ VHDG s ố 1/2011 31 thần đó (ý nói vị thần Ma La - CXG chú) 2. Chúng tôi, qua kinh nghiệm không có họ, bèn lấy chữ Hà (nghĩa là nghiên cứu văn học dân gian, trong bài “gì”, “nào”, “gì đó”, “nào đó” - CXG chú) viết “Lĩnh nam chích quái - Từ điểm nhìn làm họ. Ô Lôi tuy đen nhưng (da) nó văn hóa” in trên Tạp chí Nghiên cứu văn nhẵn láng như mỡ”. học số 8 năm 2006 (tr. 98 - 112) đã mạnh Ni-cu-lin thập niên 1960 theo nghĩa dạn đưa ra khái niệm “kiểu tự sự trầm chữ Hán và giải thích Ồ Lôi là sấm đen tích” khi nói về nghệ thuật văn xuôi của Lĩnh nam chích quái, cũng như đã giải và có liên quan đến Krisna trong An Độ mã làm ví dụ hai truyện Hồng Bàng thị giáo và Phật giáo. và Tản Viên sơn thần. Với cách nhìn đó, Sách Kho tàng truyện cổ tích Việt lần này, chúng tôi thử tìm hiểu những Nam của Nguyễn Đổng Chi, khi kể lại trầm tích, những hóa thạch nào tồn tại chuyện này đã viết; “Vì không biết họ trong truyện Hà 0 Lôi dưới góc độ văn thần là gì nên vua đặt là họ Hà”, nhưng hóa Phật giáo. thập niên 1980, đã đặt thêm nghi vấn về Về hai chữ Ma La cái tên Hà 0 Lôi: v ề mặt ngữ âm, có thể cái tên Hà Ô Lôi có liên quan đến một cái Trong truyện, Đặng Sĩ Doanh là tên nước ngoài nào đấy. người làng Ma La (Ma La hương), đồng thời vị thần thờ ở đó cũng là thần Ma La. GS. Kiều Thu Hoạch cho rằng Ô là đen, còn Lôi là Lồi, tức để chỉ một anh Cuốn từ điển Phật học đồ sộ Phật chàng có nguồn gốc Chăm pa. Quang đại từ điển (PQĐTĐ) nhiều lần có từ Ma La, trong đó ghi những thông tin Tháng 9 năm 2007, nhà nghiên cứu đáng để ý: Chu Xuân Giao trong một bài viết công “MA LA QUỐC. Ma la, Phạn, Pali: phu về Truyện Hà Ô Lôi đưa ra những đề Malla. Cũng gọi Mạt la quốc, Mãn la xuất hấp dẫn về cách hiểu ba chữ Hà 0 quốc, Bạt la quốc, Mạt lao quốíc, Mạt lợi Lôi. Ngoài việc đồng thuận Ô là đen như quốc. Hán dịch: Lực sĩ quốc, Tráng sĩ nhiều quan niệm khác thì ông gợi hướng quốc, Hoa quốc. Tên một nưốc trong 16 các cách tìm hiểu khác: 1. Liệu họ Hà có nước lổn ở Ấn Độ vào thời đức Phật còn liên quan đến vị tiên Hà Tiên Cô chăng? tại thế. Vị trí nưổc này ỏ về phía bắc sông Liệu họ Hà có thể là họ bà ngoại (tức mẹ Hằng, phía đông thành Ca tì lá vệ, Trung Vũ thị) của Hà Ô Lôi?. 2. Hà Ô Lôi là Ấn Độ, thủ đô là Câu thi na yết la và các biến âm của tên nữ thần Hơ Kroih của thành ấp khác như Ba bà, A nô di v.v... tộc người Gia Rai (tác giả viết “phải Ma la vôn tên một chủng tộc. Trong luật chăng Hà có liên hệ nào đó với Hơ, và Ma ha tăng kì có những danh xưng như: cũng tương tự như vậy giữa 0 Lôi và Thích chủng nữ, Li xa nữ, Ma la nữ v.v... Kroih”). Cứ theo pháp điển Ma nô thì chủng tộc Đó là tổng thuật gọn gàng các cách này là hậu duệ của dòng Sát đế lợi, từ giải thích chứ đằng sau cách giải thích đó xưa đã nổi tiếng nhồ có sức lực mạnh mẽ. là những biện luận phong phú và phức Tương truyền từng có việc lạ kì là hơn tạp của các tác giả khác nhau mà nếu 500 lực sĩ cùng nhấc một tảng đá rất lớn, trích ra sẽ rất dài. cho nên nưổc này được gọi là “Mạt la lực
  3. 32 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl sĩ quốc”. Khi đức Phật nhập Niết bàn ỏ đánh nước người, ngư tử quốc (thơ Lê rừng Sa la thì 500 người thuộc chủng tộc Thánh Tông, chỉ làng chài) thì đó chính Mạt la ở thành Câu thi na yết la than là làng. Chữ nước trong tiếng Việt trước khóc thảm thiết, rồi khiêng kim quan của khi để chỉ quốc gia như từ thế kỉ XV, nó Phật đến chùa Thiên quan, cúng dưòng vốn chỉ một không gian cư trú bên cạnh trong một ngày sau đó mới trà tì. Chủng một nguồn nước nào đó theo truyền thống tộc này và chủng tộc Mạt la ở nước Ba bà Môn-Khơ Me như dak, ya, ca, ja... Công đều được chia cho một phần xá lợi của chúa Lạng quốc thì quốc tương đương với Phật để xây tháp cúng dường. Đây đều là xứ. Hoàng hậu cồ quốc, Kiểu quốc thì những sự thực lịch sử nổi tiếng”. quốc tương đương vối hương (theo chúng Về từ M alla của Phạn và Pali này, ta tôi, thời Đinh, hoàng hậu Đan gia có còn thấy các biến thể: “Mạt la: Hán dịch: nghĩa là coh nhà Đan, hoàng hậu Ca Ông Lực sĩ. Cũng gọi Ma la, Bà lí ti. Một có nghĩa là con ông Gia). Vậy Ma La chủng tộc sống ở .thành Ca thi la kiệt, hương cũng sẽ tương đương với Ma La thành Ba bà v.v... về phía bắc sông quốc. Và thần Ma La với nghĩa lực sĩ nhà Hằng... Kinh Du hành trong Trường a Phật chính là để chỉ những tăng lữ có hàm quyển 2 (Đại 1, 24 trung), nói: “Lúc nguôn gốc An Độ đi truyển bá Phật giáo bấy giò, đức Thế tôn ở thành Câu thi a trên không gian văn hóa Giao Châu, Giao kiệt, giữa khoảng hai cây trong rừng Sa Chỉ, An Nam, Đại Việt. la, sắp diệt độ, bảo A nan rằng: Ngươi vào Ngoảnh lại những truyền thuyết về thành Câu thi a kiệt báo cho các Mạt la”. Thám hoa Đặng Ma La quê Tốt Động đời Hai chữ Ma La này cho ta những Trần, sử chép ông được sự ủng hộ của giới thông tin liên đới đến câu chùyện đang Phật giáo, còn dân gian truyền rằng mẹ bàn. Thứ nhất đó là tên một chủng tộc ông đi gò La giẫm dấu chân lạ mà thụ gốc gác ỏ trung tâm Ân Độ, đồng thời, họ thai sinh ra ông. Dấu chân trên đá thì rõ ' là hậu duệ dòng Sát đế lợi, tức dòng dõi là Phật tích, một tượng trưng cho đức xuất thân của Thích Ca, theo Phật từ rất Phật đã được thờ tự phổ biến nhất từ thời sổm và là nơi được giữ xá lị Phật, tức là Vô tượng kì, kéo dài tận 500, 600 năm giữ được căn nguyên truyền bá Phật sau khi Phật tịch diệt, trước khi thờ pháp. Thứ hai, họ là những Lực sĩ theo tượng Phật như ta thấy. Vậy Đặng Ma La dịch nghĩa của từ Hán và họ được tin cẩn cũng là con Phật như Thánh Gióng, ' phục vụ Phật ngay cả lúc tịch diệt. Thứ Thạch Quang, Lý Công uẩn, Lý Nhân ba, vùng đất họ sống được gọi là Ma La Tông, Lý Thần Tông... mà thôi. quốc. Thứ tư, những lực sĩ này liên quan Về địa danh Ma La, không chỉ ồ Việt đến đá, một vấn đề sẽ có liên quan đến Nam, ta còn thấy xuất hiện ỏ Hương những bản ghi Ô Lôi hồ« lặn vào cốỉ đá Cảng trong không gian Phật giáo như sau này. đường Ma La, miếu Ma La và ở đó hai Chúng ta biết rằng, chữ quốc trước chữ Ma La được giải thích là: Ma La: đây ngoài việc chỉ quốc gia còn chỉ những Thủy thủ Ấ n Độ làm việc trên tàu Tây vùng đất tương ứng với nước, xứ, hương, Dương. Theo Trần Trọng Dương, qua trao thôn làng. Đi nước nghĩa, mang chuông đi đổi vổi chúng tôi, có thể cái tên Malaixia
  4. TẠP CHÍ VHDG SÔ 1/2011 33 cũng xuất phát từ hai chữ Ma La này khi Thiên cổ lôi ăm nghĩa là trống trời vang mà đây là đất nước sớm có những người tiếng sấm (chỉ tiếng giảng kinh lay động Ân Độ di cư và truyền bá Phật giáo. Gắn chúng sinh) và đó là nghĩa chữ Lôi trong Ma La vói Chăm pa là cách nhìn đồng đại tên nhân vật. Vì HA là Phong đại nên có bó hẹp trong thòi Đại Việt. Phật giáo từ khả năng Điều phục, tức là: “Chế phục 3 đầu thiên niên kỉ đã truyền vào Giao nghiệp thân miệng ý, không làm các việc Châu, Giao Chỉ, An Nam (từ thời còn xấu ác, xa lìa tội lỗi, thuận theo chính chưa có cái gọi là Chăm pa) và đến thời pháp, rốt ráo ra khỏi 3 cõi”. Ý này rất Trần - Lê thì đã trải hơn một nghìn năm quan hệ đến ý nghĩa của câu chuyện. Nếu đằng đẵng, không thể nói những hóa ta cho rằng, cái họ Hà của Hà 0 Lôi là thạch của nó từ các khái niệm, đặc ngữ cách chuyển âm của chữ HA (Phạn ngữ) không từng tồn tại trong văn hóa cộng này cũng không có gì là không hợp lẽ nếu đồng. Ma La là một “di vật” ngôn ngữ nhìn câu chuyện như một trầm tích. như vậy. Nó dùng để chỉ những gì thuộc Chữ Ồ với nghĩa là đen thì được mọi về Ấn Độ, thuộc về Phật giáo. ngưdi đồng thuận cao. Nhưng nếu ta v ề tên nhân vật Hà Ô Lôi quan tâm đến khái niệm nhà Phật thì có thể hiểu kĩ hơn: Tách Ma La ra để truy tìm thì có vẻ “Ô ĐÀ DI: Phạn: Udayin. Cũng gọi là ngẫu nhiên, nhưng nếu truy tiếp Hà, 0, Ưu đà di, ổ đà di... II. Ô Đà Di: Cũng là Lôi ta sẽ thấy sự liên thông mật thiết tên một vị đệ tử Phật. Vị này vốn tên là Ô giữa chúng. đà di, nhưng vì nước da đen kịt nên có Chữ HA tiếng Phạn và Pa li được biệt hiệu Ca lưu đà di (Phạn: Kalodayin, Hán phật dịch là HẮC SẮC. PQĐTĐ viết: nghĩa là Ô đà di đen). Ca lưu đà di “HẮC SẮC: Phạn: Krsna. Màu đen. thường làm các điều ngang ngược. Cứ Một trong năm màu chính (xanh, vàng, theo kinh Tăng nhất a hàm và luật tứ đỏ, trắng đen). Mật giáo đem 5 mầu phốỉ phần quyển 14 chép, có lần vào lúc trdi hợp với năm đức Phật, 5 trí, 5 căn, 5 lực, tối, 0 đà di đến nhà một người đàn bà 5 chữ, 5 đại, 5 phương và 5 chuyển. Mầu đang mang thai để xin ăn, lúc đó bỗng có đen tức là chữ HA, là màu của Phong đại. sấm chớp lóe lên, người đàn bà thấy Ô đà Mầu đen có hàm nghĩa tiêu trừ các màu, di trong ánh chớp, ngõ là quỷ đen, sợ quá giấu kín các vật, cho nên được coi là mầu đến nỗi sẩy thai. Vì nhân duyên này mà tương ứng với pháp điều phục. Ngoài ra, đức Phật chế giới cấm tỉ khưu khất thực theo Đại nhật kinh sớ, thì màu đen là’ sau giờ ngọ”. màu của đức Thiên cổ lôi âm Như Lai; Đến đây cơ hồ mọi lẽ sáng dần hơn. hơn nữa, là nghĩa Đại niết bàn, tức là trí Một đệ tử nhà phật có nước da đen kịt. tuệ tột bậc của Như Lai, vì thế cũng được Đệ tử đó thích làm điều ngang ngược. Đệ gọi là Tuệ sắc”. tử đó đến cùng sấm chớp. Người đàn bà Trong giải nghĩa này, có mấy điểm mang thai tưởng quỷ đen mà sợ đến sẩy khá liên quan đến O Lôi. Krsna liệu có thai. liên quan đến Krisna? Màu đen liên quan Đến đây, chúng ta bằng những gì liên đến nưốc da đen, bóng như m3 của O Lôi. quan đến Thiên cổ LÔI âm, đến sấm chớp
  5. 34 NGHIÊN CỨ U-TRAOĐỔI lóe lên, chắc đã rõ nghĩa chữ Lôi (vổi lạc, giã gạo quanh năm ai cũng phải tham nghĩa sấm) của tên riêng Hà O Lôi. gia. Tôi thường cùng các chị gái đứng giã, Thuyết Lôi tức là Lồi (Chăm pa) khó lòng mẹ tôi thì khỏa và giần sàng. Đứng trên mà đứng vững. chuồng chày, chân đạp vào chuôi chày. Về mặt ngữ âm, ta thấy sự gần gũi Một lúc mỏi chân thì phải đổi chân. Con giữa Kalodayin vối Hà Ô Lôi (Kal > Hà, o trai có thể tùy ý bước qua chuôi chày cho > Ô, yin > Lôi, rụng âm da). v ề mặt ngữ nhanh gọn. Nhưng các chị tôi thì bị cấm. nghĩa, chúng tôi chú ý đến cách ghi của Phải mệt nhọc bước xuống, đi vòng sau Thiên Nam vân lục liệt truyện và cách kể chuồng chày. Tôi hỏi sao lại như vậy? Mẹ của Nguyễn Đổng Chi trong đoạn kết. tôi trả lời: “Con gái bước qua chày sau lấy TTNVLLT ghi: “Ô Lôi đã chết, tiếng chìm chồng sinh con hay bị sẩy thai!”. Dù không lặn vào đá, sau người ta nghe tiếng chày tin nhưng các chị tôi cứ rón rén tuân thủ giã đập vào đá còn thấy cảm động”. tục kiêng đó. Rõ ràng ở đây, có một tục Nguyễn Đổng Chi thì kể: “Cũng do kiêng của phụ nữ gắn với chày cốì, vổi việc truyện này, đdi sau khi cô dâu mới về nhà sẩy thai. Các bà nhà quê vẫn mắng chửi chồng người ta có tục bắt bước qua côì giã chúng tôi nghịch ngợm là “Đồ Ô Lôi! Bọn gạo, có mục đích xua đuổi những con quỷ Phạm Nhan!”. Lớn lên mối hiểu. sắc dục như Ô Lôi di theo quấy nhiễu”. 3. Hai tên riêng đã nói ở trên, chắc Chúng tôi thấy rằng, các bản Lĩnh nam chắn có liên quan đến những trầm tích chích quái hoàn toàn không có những chi Phật giáo. Vậy về ý nghĩa, liệu có sự liên tiết như trên. Tuy nhiên, vì những chi quan không. Vấn đề này cũng đã được tiết đó mà cho rằng Nguyễn Hàng (thế kỉ nhiều ngưòi đề cập, chúng tôi chỉ nói ra XVI) và Nguyễn Đổng Chi sáng tác thêm những gì theo mạch suy tưỏng của mình (tức là bịa ra theo một ý đồ cá nhân) là mà thôi. không nên. Đó là những chi tiết dân tộc Hà Ô Lôi sinh ra một cách lạ kì bởi học được những người thuật truyện dựa thần Ma La (có yếu tố tăng lữ Phật giáo trên sự lịch lãm của mình mà đưa vào. Ân Độ) và nàng Vũ thị (có chồng là Đặng Vối Nguyễn Đổng Chi, cụ là nhà dân tộc học đích thực trong quá trình sưu tầm Sĩ Doanh, làm quan triều đình). Ô Lôi lạ của mình. Câu chuyện vốn đã là trầm kì bởi nước da đen bóng nhưng tâm hồn tích lại đắp bồi thêm những lớp mổi mà vẫn thanh tịnh cho đến khi gặp ông tiên thôi. Viết qua điền dã dân tộc học do Lã Đồng Tân. Đây là bước ngoặt của đòi nghe kể lại thường là khẩu thiệt vô bằng chàng. Lã Đồng Tân, một ông tiên nghệ sĩ nhưng mục đích thì không có gì là ẩn của đạo thần tiên đã truyền cho chàng khuất. Vấn đề là, đã từng có một ứng xử lòng dam mê thanh sắc. Cách truyền là dân gian với chày cối và với biểu tượng bảo Hà Ô Lôi há miệng và nhổ nước bọt Hà Ô Lôi trong văn hóa người Kinh. vào miệng chàng. Hành động này có nhà Chúng tôi cũng đưa thêm một chi tiết nghiên cứu cho rằng “mất vệ sinh”. dân tộc hộc mà mình trải nghiệm liến Chúng tôi tưởng đó là cách đọc hẹp hòi. quan đến chày cối: Quê tôi ở ven sông Nước bọt và nhổ, chữ Hán đều dùng chữ Lam, làm thêm nghề ép dầu lạc. Việc giã THÓA. Trong tiếng Việt ngày nay chỉ còn
  6. TẠP CHÍ VHDG SỐ 1/2011 35 chữ thóa mạ nên dễ dẫn đến cách hiểu Cái chết của Hà Ô Lôi là tất yếu và nông cạn trên. Chữ Hán còn có các từ: cũng có thể giải thích từ ẩn dụ Phật giáo. Thóa dư: Bọt nước miếng thừa = Lời nói Truyện kể rằng, Minh Uy vương về nhà cũ của ngưòi đời xưa hoặc những cái mà lấy gậy đánh Ô Lôi, đánh mãi mà Lôi người khác bỏ đi, mình còn ăn cắp lượm không chết. Vương lấy chày giã. Lôi chết! lặt lấy. Thóa hương: Thơm nưốc miếng: Sao không gươm giáo mà lại phải là chày. Lòi tán tụng văn chương hay là tiếng nói Sống dùng chày nên chết vì chày chăng? câu hát mà mình lấy làm quý trọng lắm, Chắc không ẩn ngữ như vậy. Văn hóa ý là dầu bọt nước miếng cũng còn thơm. Phật giáo cho ta biết ý nghĩa này. Thóa ngọc phi châu: Nhả ngọc phun châu PQĐTĐ viết: “KIM CƯƠNG CHỬ: = Văn từ ngôn luận rất hay ịỊIán Việt từ Phạn: Vajra. Hán âm: Phạ nhật la, Phạt điển - Đào Duy Anh). Vậy, việc Lã Động chiết ra, Bạt chiết la, Nga dam ra, Phạt Tân THÓA Hà Ô Lôi là truyền cho Ô Lôi xa la. Chày kim cương. Vốn là loại vũ khí một năng lực phi phàm về THANH, cái của Ân Độ đời xưa. Do tính chất vững mà vị tiên này vốn sỏ trưòng. Nhưng điều chắc của nó có thể đánh phá các loại vật đó vổi Phật giáo là vi phạm giới luật. Hà chất khác, giôhg như kim cương, cho nên Ô Lôi đã sa ngã vì “...từ đó, Ô Lôi tuy gọi là Kim cương chử. Trong Mật giáo, Kim không biết chữ nhưng nhanh nhẹn, lém cương chử tượng trưng cho tâm bồ đề phá lỉnh hơn ngưòi, từ văn chương thi phú trừ phiền não, là vật mà chư tôn vị cầm ở cho tới điệu khúc ca ngâm, tiếng ngâm tay hoặc là đạo cụ tu pháp. Các vị tôn xướng vịnh, cười gió giỡn trăng lên đến thuộc Kim cương bộ trong Hải hội Mạn đồ tận mây xanh, khiến mọi người nghe biết. la đều cầm Kim cương chử. Hành giả Chân Đàn bà con gái ai ai cũng muốn biết ngôn cũng thưòng mang theo bên mình. mặt”. Đỉnh cao sẽ là: “...Tiếng hát của Ô Bởi vì Kim cương chử tượng trưng cho trí Lôi thoảng qua, nghe như điệu ca của bọn dụng của Như Lai, có công năng phá trừ thuyền chài, khác hẳn âm thanh chốn ma ngu si vọng tưởng bên trong và các ma trần gian... Giọng ca bay khắp trong chướng ngoại đạo bên ngoài”. ngoài, quận chúa cảm động mà mang Chày gắn với tượng thờ các không bệnh trầm cảm u uất”, ở đây rõ là thóa gian Phật giáo đủ chủng loại, nhiều tới hương, là thóa ngọc phi châu. Hà 0 Lôi mức có thể cần đến một chuyên mồn đã trượt từ thanh đến sắc rồi sang nghiệp “chày học” mới hiểu xuể. Dùng chày đánh chướng và sẽ không bao giờ quay lại với chết Hà 0 Lôi mổi mong dứt trừ ma chân như được nữa. Cho đến tận lúc gần nghiệp cả trong ra ngoài. Đó mới là ý chết, Ô Lôi vẫn ngâm ngợi: nghĩa sâu xa của chi tiết cuối cùng này. Sinh tử do trời có quản bao Tuy nhiên, bài sau đây về Hà Ô Lôi Nam nhi miễn đã được anh hào thì quả có vấn đề: Chết vì thanh sắc cam là chết Mang mang mặt mắt cháy ma lem Chết vì ốm đau cơm gạo nào. Kẻ chợ khát người qua mấy thèm Ô Lôi ngâm hay là tác giả khuyết Nhẫn có hoàng kim thanh sắc ấy danh phát ngôn trong dòng kể của mình? Mang mang mặt mũi thế soi xem.
  7. 36 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl Chìa khóa có thể nằm ở hai chữ thạch ở đó. Việc đọc Phật ra Nho hay ra hoàng kim. Xưa nay hai chữ này vẫn những gì nữa là điều chúng ta vẫn được hiểu theo kiểu Nho là hoàng tộc, thưồng gặp trong việc dịch bi kí Lý - Trần vua chúa. Song hai chữ này còn có nghĩa và đặc biệt trong việc “đọc” hiện vật khảo là chùa chiền, già lam, cõi Phật. Hoàng cổ học: nhạn - bồ tát đọc thành uyên kim trạch là chỉ chôn tu hành. PQĐTĐ ương-, song long hiến châu đọc thành chép: “Hoàng kim trạch: Nhà vàng, tức lưỡng long triều nhật; đăng đài đọc thành chỉ cho già lam. Thuở xưa, ở Ân Độ, lin ga; ngưu tọa, trư tọa (đều tượng trưng trưởng giả Tu đạt la muôn mua khu vườn Phật) đọc thành trâu lợn dân gian, bệ cây của thái tử Kì đà để xây cất tinh xá tượng Phật đọc thành chân tảng v.v... Vô cúng dàng đức Phật. Thái tử nói đùa rằng thiên lủng. nếu trưởng giả có đủ vàng trải khắp mặt 4. Đành là, để miêu tả một chúng đất trong vườn thì mới chịu bán. Trưởng sinh chìm đắm trong biển mê, mượn bối giả liền y lời, dùng voi chở vàng đến trải cảnh Trần mạt đã “thất đức” (chữ dùng khắp mặt đất. Thái tử Kì đà rất cảm kích của Nguyễn Trãi, cháu ngoại nhà Trần) trước tấm lòng thành của trưởng giả, cho với thanh sắc dâm loạn từ chốn vương nên hiến đất cúng vườn, được trưỏng giả triều đến phố quê, tác phẩm có tính hiện xây thành tinh xá Kì viên. Vì thế già lam thực và sức phê phán mạnh mẽ. Tuy được gọi là Hoàng kim trạch”. Nếu hiểu nhiên, là một tác phẩm thuộc loại chích như trên thì bài thơ mang dáng một bài kệ răn dạy chúng sinh từ chuyện về Hà 0 quái ra đòi từ đời Trần, không ngừng Lôi, có thể diễn giải như sau: Câu 1, Rõ được bổ di từ đời Lê đến nay, Truyện Hà ràng thân hình mày xấu xí là tự bản thể. Ô Lôi cũng là một tự sự trầm tích mà ý Câu 2, Chúng sinh vốn đầy dục vọng về nghĩa, biểu tượng Phật giáo còn lắng thanh sắc. Câu 3, Nếu những thanh sắc đọng trong đó. Giới thanh, giới sắc, giới ấy hướng về cõi Phật. Câu 4, Thì rành dâm là những gì câu chuyện muôn đạt rành thế gian sẽ phải soi vào đó. đến. Tất cả đều mang tinh thần Phật Chúng ta biết rằng Phật pháp giới giáo. Rất tiếc là đến Vũ Quỳnh, với tư thanh sắc nếu thanh sắc ấy hướng đến cách là một đại nho thồi Lê Thánh Tông, dâm tục, đến nghiệp chưổng. Còn thanh đã chỉ rút ra kết luận ngắn ngủi: “Truyện sắc hướng đến tịnh độ thì không hê' cấm Hà Ô Lôi nhằm răn thói dâm ô!”. Đọc sử đoán. Đại tạng kinh chép đầy những thí Việt Nam trung đại, cứ so từ Đại Việt sử chủ, thiên tiên cúng dàng âm nhạc, tràng kí tiền biên (thòi Nguyễn) với Đại Việt sử hoa cho Phật. Khi các bồ tát sinh ra thì kí toàn thư (thời Lê) với Việt sử lược (còn ánh sáng rực rõ, hương hoa thơm ngát, dấu vết thời Trần) là ta thấy ngay dấu âm nhạc vang lừng, đó cũng là thanh là vết Phật giáo ngày càng mò đi bởi nho sắc vậy. Bệ đá chùa Phật Tích còn khắc gia. Học giả Tạ Chí Đại Trường trong trổ cả một dàn nhạc cúng dàng Phật xôn nhiều chuyên luận với cách đọc diễn ngôn xao, tinh tế và vừa đủ siêu phàm vừa đầy của mình đã chỉ ra rất nhiều dấu vết trên hoan lạc. Bài thơ cũng là một trầm tích hiện trường đó. Đó là một cách ứng xử với mà cần hiểu nó trong tính Phật hóa sử liệu đáng để chúng tôi học tập, sau khi
  8. TẠP CHÍVHDG s ố 1/2011 37 đã không theo được nhiều chỗ quá vu 2. Phạm V ăn Ánh (2006), “Một vùng địa linh n h ân kiệt”, Tạp chí D ân tộc & Thời đại, khoát, ngẫu hứng của ông. s ố 92. Ngồi mà tưởng tượng ra cái không 3. Vũ Q uỳnh - Kiều P hú (1960), L ĩnh gian thực tồn, không gian văn hóa cách nam chích quái (Đinh Gia K hánh, Nguyễn nay năm sáu trăm năm thật khó. Lúc đó Ngọc San phiên dịch, chú thích và giới thiệu), làng Nhân Mục còn xa cấm cung vời vợi. Nxb. Văn hóa (thuộc Viện V ăn học). Ngoài kinh thành là sông ngòi, ao đầm, 4. N guyên Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt N am , tập 1, 2, Nxb. Giáo cồn bãi, lác đác làng quê vối chùa quán dục. đồi gò um tùm ẩm mốc. Đom đóm ma trơi 5. Nguyên H ùng Vĩ (2006), “ ĩn h N a m L thế chỗ cho điện sáng hơn sao. Nhân dân chích quái - Từ điểm n h ìn văn hóa”, Tạp chí lo ăn lo lụt, lo trộm cướp giặc giã quanh N ghiên cứu văn học, số 8. năm suốt tháng. Phật giáo, Nho giáo, Đạo 6. Chu X uân Giao (2007), “N hà vua giữa giáo với những cố gắng bất tận suốt già dòng xoáy đa chiều: tru y ện H à 0 Lôi từ nhiều ngàn rươi năm đến đó liệu đã giáo hóa góc nhìn, với tru n g tâm là sex và vương quyền”. (Bài tác giả gửi tặ n g ngưòi viết). được bao lăm, khi mà ngay trên đất văn vật Bắc Ninh nổi tiếng cầu Nam, chùa 7. N guyễn T hanh Tùng (2008), “Truyện H à 0 Lôi - M ột hiện tượng lạ của truyện ngắn Bắc, đình Đoài, đầu thế kỉ XX đây thôi, Việt Nam th ế kỉ X - XIV”, m ạng Văn học. trong Bắc Ninh tỉnh khảo dị, tác giả 8. N guyễn P hạm H ùng (2008), Truyện Phạm Xuân Lộc, năm 1920, còn chứng H à 0 Lôi và tinh thần p h ả n biện xã hội dưới kiến vô vàn những tục lệ rất phồn thực, thời vãn Trần, Hợp lưu. “tự nhiên”, ngoài mọi giáo lí của bất cứ 9. Từ Diêu (2010), “Từ “Ma La” không có tôn giáo nào. Những sự QUÁI tồn tại ý kì th ị” - http://cache.baidu.com trong tâm thức dân gian như một lẽ hằng 10. Lý Lược Tam, H uỳnh Ngọc Trảng nhiên, lắng đọng trong dân tục, hóa (1996), Tượng P hật T rung Quốc. Nxb. Mỹ thạch trong ngôn ngữ. th uật. 11. L ỉn h Sơn ph á p bảo Đại tạng kinh, Truyện Hà Ô Lôi, từ sốm đã là một cố Hội Văn hóa giáo dục Linh Sơn Đài Bắc xuất gắng đột xuất cho việc xây dựng một lối bản năm 2000. sông văn minh hơn cho cư dân này, cho 12. P hật Q uang đại từ điền, Hội văn hóa văn hóa này. Bài học mà nó để lại vẫn giáo dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản năm còn ý nghĩa cho ngày nay, khi mà tựa hồ 2000. vẫn như lòi nhân vật: “Đương lúc thiên 13. Đào Duy Anh (2001), H án Việt từ hạ thái bình, quốc gia vô sự, coi phú quý điển, Nxb. Khoa học xã hội. như phù vân, chỉ muôn thanh sắc làm 14. T ừ điển văn học (bộ mối), Nxb. T hế vui!”. Lời cảnh báo thời sự cho cả thế giới giới, 2004. chứ'không riêng nước m ình.n 15. Tạ Chí Đại Trựòng (2006), Thần, người và đất Việt, Nxb. V ăn hóa - thông tin. N.H.Y 16. Tạ Chí Đại Trường, Sex và triều đại - TÀI LIỆU THAM KHẢO Tạp chí Văn học (Hoa Kỳ), số 192 và 198. 1. Kiều Thu Hoạch (2007), “Truyện H à Ô 17. Viện N ghiên cứu H án Nôm (2009), Lôi - Đ ánh giá lại trê n cơ tần g văn hóa Việt - Đ ịa phương chí tỉnh Bắc N in h qua tư liệu Chăm”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4. H án N ôm , Nxb. Khoa học xã hội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2