Luận văn Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của người Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tính đa dạng của nền văn hoá Việt Nam đƣợc thể hiện bằng những giá
trị văn hoá đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc anh em. Trong nền văn hoá đa
dạng mà thống nhất ấy, những giá trị văn hoá của cộng đồng các dân tộc ít
ngƣời có vị trí quan trọng. Với điều kiện địa lí tự nhiên khác nhau, mỗi dân
tộc đã tìm ra phƣơng thức ứng xử thiên nhiên khác nhau, hình thành tập quán
sản xuất. Đây có thể đƣợc coi là một lâu đài văn hóa đồ sộ của mỗi tộc
ngƣời, là sản phẩm đƣợc tích lũy, chắt lọc qua hàng ngàn năm lịch sử, tạo
nên bản sắc văn hóa dân tộc, làm thành chuẩn mực để phân biệt dân tộc này
với dân tộc khác. Tuy nhiên, hiện nay, những giá trị văn hoá đã bị mai một,
thậm chí biến mất. Yêu cầu đặt ra là phải có biện pháp giữ gìn, phát huy
những di sản văn hoá đó.
Lục Nam là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang với 8 dân tộc anh
em sinh sống, trong đó ngƣời Dao cƣ trú chủ yếu ở 4 xã Lục Sơn, Bình Sơn,
Vô Tranh, Trƣờng Sơn. Quá trình đấu tranh lâu dài với thiên nhiên, lao động
sản xuất để sinh tồn đã hình thành những kinh nghiệm sản xuất và đƣợc
truyền từ đời này sang đời khác tạo nên bản sắc văn hoá của ngƣời Dao nơi
đây. Tuy nhiên, để hội nhập và phát triển, việc thay đổi tập quán sản xuất và
áp dụng khoa học kĩ thuật mới là yêu cầu cấp thiết đối với nông nghiệp của
ngƣời Dao ở Lục Nam. Trong số kĩ thuật mới đƣợc áp dụng có những kĩ thuật
đem lại hiệu quả sản xuất, nhƣng cũng có kĩ thuật không phù hợp với đặc thù
về nơi cƣ trú, về tập quán và tổ chức xã hội. Điều đó cho thấy tập quán sản
xuất nông nghiệp của đồng bào dân tộc Dao ở Lục Nam có những điểm tích
cực cần đƣợc phát huy. Việc nghiên cứu về những tri thức dân gian trong sản
xuất nông nghiệp sẽ giúp các cơ quan quản lý có thêm cơ sở để giải quyết tốt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vấn đề trên, nhằm tạo ra sự phát triển nông nghiệp bền vững, góp phần xây
2
dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của tộc ngƣời Dao ở Lục
Nam tỉnh Bắc Giang.
Với những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Tri thức dân gian trong
sản xuất nông nghiệp của người Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của người Dao ở
huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang đã đƣợc nhiều nhà khoa học nghiên cứu ở các
góc độ khác nhau. Trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục của tác giả Lê Quí Đôn
viết năm 1778 đã đề cập tới ngƣời Man (ngƣời Dao) về phong tục tập quán và
địa vực cƣ trú của họ. Đây là cơ sở để làm rõ tên gọi, những nét cơ bản về văn
hóa và địa bàn cƣ trú của dân tộc Dao ở nƣớc ta cũng nhƣ trên địa bàn huyện
Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Năm 1971, chuyên khảo công phu về ngƣời Dao của Viện dân tộc học
xuất bản với nhan đề “Người Dao ở Việt Nam” đã nghiên cứu một cách tổng
thể về ngƣời Dao ở nƣớc ta về nhiều mặt nhƣ nguồn gốc ngƣời Dao, đời sống
vật chất và tinh thần của các nhóm ngƣời Dao sống ở nƣớc ta.
Bài viết Bước đầu tìm hiểu các nhóm Dao ở Việt Nam (Nguyễn Khắc
Tụng, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 87/1996) và đề tài nghiên cứu Trang
phục cổ truyền của người Dao ở Việt Nam (Nông Quốc Tuấn, Bảo tàng văn
hóa các dân tộc Việt Nam, năm 2000) đã làm rõ đƣợc cách phân biệt các
nhóm Dao ở Việt Nam qua trang phục của ngƣời phụ nữ. Các công trình đề
cập tới sự phân bố các nhóm Dao ở nƣớc ta, đây lại là một bằng chứng nữa để
phân biệt các nhóm Dao và địa bàn cƣ trú của họ trong đó có ở huyện Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang.
Cuốn Lịch sử Lục Nam do Ban thƣờng vụ huyện uỷ Lục Nam tổ chức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
biên soạn và xuất bản năm 1994 đã trình bày những nét cơ bản về huyện Lục
3
Nam và ngƣời Dao sống trên địa bàn. Tác phẩm đề cập tới vị trí địa lí, điều
kiện tự nhiên của huyện Lục Nam. Những nội dung không chỉ đề cập tới nghề
sống chính của dân tộc Kinh chiếm đa số mà còn đề cập tới nghề sống chính
của bộ phận ngƣời Dao ở đây, đó là nghề nông nghiệp. Tác phẩm cho thấy
tầm quan trọng của nông nghiệp trong đời sống của ngƣời Dao nơi đây và đặc
biệt với tầm quan trọng nhƣ vậy họ đã có những cách thức sản xuất nhƣ thế
nào để đảm bảo cuộc sống.
Công trình Địa chí Bắc Giang - Địa lí và kinh tế, do Sở văn hoá thông
tin Bắc Giang phối hợp với Trung tâm UNESCO thông tin tƣ liệu lịch sử và
văn hoá Việt Nam, (năm 2003), đã giới thiệu về dân tộc Dao ở Bắc Giang từ
địa vực cƣ trú, truyền thống văn hoá đến tập quán canh tác.
Các công trình Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2003) và Lịch sử
Đảng bộ huyện Lục Nam (2003) đã giới thiệu sơ lƣợc về ngƣời Dao nhƣ địa
bàn cƣ trú, tên gọi của các nhóm ngƣời Dao tại địa phƣơng và những truyền
thống của họ trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần. Tác phẩm, là cơ sở
để giải thích và làm rõ quá trình di cƣ và tên gọi các nhóm ngƣời Dao ở huyện
Lục Nam.
Năm 2006, Bảo tàng Bắc Giang xuất bản công trình “Di sản văn hoá
Bắc Giang về Văn hoá phi vật thể”, tác phẩm là sự khái quát về những nét
văn hóa phi vật thể của cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Bắc Giang trong đó có
đề cập tới ngƣời Dao về địa bàn cƣ trú, những nét văn hoá tiêu biểu của họ
trong đời sống vật chất và tinh thần. Tác phẩm cũng đã cơ bản giới thiệu
đƣợc những tri thức dân gian của dân tộc Dao ở Bắc Giang trong các lĩnh
vực của đời sống trong đó có những tri thức dân gian liên quan tới lĩnh vực
nông nghiệp.
Những kết quả nghiên cứu trên đây chính là ý kiến gợi mở, nguồn tài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
liệu quan trọng giúp tác giả tiếp cận và nghiên cứu đề tài.
4
3. Đối tƣợng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp
bao gồm các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi của dân tộc Dao ở huyện Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang trong truyền thống và hiện tại.
Mục đích: Nghiên cứu tri thức dân gian truyền thống và hiện tại
trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam. Nghiên cứu
đó xác định những tri thức nào đã biến đổi, sự biến đổi đó phù hợp hoặc
không phù hợp với điều kiện tự nhiên, môi trƣờng sinh thái và phƣơng thức
canh tác hiện tại. Từ đó, đề xuất hƣớng áp dụng khoa học kĩ thuật có hiệu
quả nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững ngành kinh tế nông nghiệp của
ngƣời Dao ở địa phƣơng.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và nguồn gốc của ngƣời
Dao của huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
- Hệ thống lại những tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của
ngƣời Dao ở huyện Lục Nam trong truyền thống.
- Làm rõ sự biến đổi của tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp
dƣới tác động của các yếu tố nội sinh và ngoại sinh thời điểm hiện nay. Từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của tri thức dân gian của
ngƣời Dao trong sản xuất nông nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các thôn bản có
đông ngƣời Dao sinh sống, đó là 4 xã Lục Sơn, Bình Sơn, Vô Tranh và
Trƣờng Sơn - huyện Lục Nam.
Về mặt thời gian: Nghiên cứu những tri thức dân gian trong sản xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nông nghiệp truyền thống và hiện tại.
5
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Nguồn tƣ liệu
Nguồn tài liệu chung: Bao gồm một số sách sử và địa chí cổ; các công
trình nghiên cứu, sách, báo, tạp chí đã xuất bản của các nhà khoa học trong và
ngoài nƣớc.
Nguồn tài liệu địa phƣơng: Các công trình nghiên cứu về lịch sử, lịch
sử Đảng bộ và văn hoá tộc ngƣời ở tỉnh Bắc Giang nói chung và huyện Lục
Nam nói riêng.
Nguồn tƣ liệu điền dã: Bao gồm sự quan sát trực tiếp cảnh quan, môi
trƣờng, nguồn tài liệu truyền miệng thông qua phỏng vấn trực tiếp.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp lịch sử nghiên cứu khái quát về huyện Lục Nam, nguồn
gốc tộc ngƣời, các tập quán trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao nơi
đây và những biến đổi của nó trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phƣơng pháp logic nhằm rút ra những nhận xét, đánh giá khách quan về vấn
đề nghiên cứu, giúp ngƣời đọc có cái nhìn hệ thống và khái quát về những tri
thức trong nông nghiệp của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Phƣơng pháp điền dã dân tộc học khai thác đƣợc nguồn tƣ liệu thực tế
không đƣợc ghi lại thành văn đồng thời khẳng định tính chính xác của nó.
Ngoài ra, đề tài còn kết hợp với một số phƣơng pháp khác nhƣ so sánh, đối
chiếu, phân tích, tổng hợp các nguồn tƣ liệu liên quan để rút ra những kết luận
khoa học.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn hệ thống đƣợc những tri thức dân gian trong sản xuất nông
nghiệp của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang nhƣ: chọn đất, chọn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giống, lựa chọn thời vụ, cách thức chăm sóc, bảo quản sản phẩm...
6
Qua nghiên cứu Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của
người Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang làm sáng tỏ sự biến đổi của tri
thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp dƣới tác động của các yếu tố nội
sinh và ngoại sinh. Đây sẽ là cơ sở ý tƣởng cho các công trình nghiên cứu
khoa học sau này.
Luận văn cũng góp phần vào việc giới thiệu bản sắc văn hoá của dân
tộc Dao ở huyện Lục Nam nói riêng và cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Bắc
Giang nói chung. Luận văn là nguồn tƣ liệu cho dạy học lịch sử địa phƣơng,
giáo dục tƣ tƣởng tình cảm yêu quê hƣơng, đất nƣớc.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của luận văn đƣợc chia
thành 3 chƣơng.
Chƣơng 1. Khái quát về huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang.
Chƣơng 2. Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao
ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang trong truyền thống.
Chƣơng 3. Sự biến đổi của tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp
của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang hiện nay.
Cuối cùng là tài liệu tham khảo, phụ lục bao gồm một số bảng biểu và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ảnh minh họa.
7
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN LỤC NAM
1.1. Lịch sử hành chính huyện Lục Nam
Vùng đất Lục Nam ngày nay vốn thuộc địa phận huyện Na Ngạn thời
Lý- Trần; huyện Na Ngạn - Lục Na thời thuộc Minh; huyện Lục Ngạn thời Lê
sơ; huyện Lục Ngạn, Phƣợng Sơn thời Mạc; huyện Lục Ngạn - Phƣợng Nhãn
- Bảo Lợi thời Lê trung hƣng - Tây Sơn và thời Nguyễn.
Thời kỳ thực dân Pháp thống trị, năm 1889, thực dân Pháp thành lập tỉnh
Lục Nam, tỉnh lỵ đóng ở thị trấn Lục Nam. Năm 1891, tỉnh Lục Nam bị giải
thể, thuộc về tỉnh Bắc Ninh [3, tr.7].
Sau ngày hòa bình lập lai, ngày 21 tháng 1 năm 1957, huyện Lục Nam
đƣợc thành lập (thuộc tỉnh Bắc Giang). Theo Nghị định số 24-Ttg của Thủ
tƣớng Chính phủ, 3 xã Cẩm Lý, Vũ Xá, Đan Hội thuộc huyện Chí Linh của
Hải Dƣơng; 2 xã Yên Sơn, Bắc Lũng thuộc huyện Yên Dũng - Bắc Giang; 7
xã: Hoà Bình A, Tam Dị, Bảo Đài, Bảo Sơn, Tiên Hƣng, Phƣơng Sơn, Tân
Lập thuộc huyện Lạng Giang-Bắc Giang đƣợc trả về huyện Lục Ngạn (cũ).
Trên cơ sở hai huyện là Lục Ngạn và Sơn Động (cũ) chia thành 3 huyện là
Lục Ngạn, Sơn Động và Lục Nam. Khi ấy, Lục Nam có 19 xã và 1 thị trấn:
Nam Sơn, Cẩm Lý, Vũ Xá, Đan Hội, Yên Sơn A, Yên Sơn B, Bắc Sơn, Bắc
Lũng, Bảo Đài, Bảo Sơn, Tam Dị, Hoà Bình A, Hoà Bình B, Tiên Hƣng, Tân
Lập, Phƣơng Sơn, Mỹ An, Nghĩa Phƣơng, Trƣờng Sơn và Thị trấn Lục Nam.
Theo Nghị định số 535-TC CQNTNĐ kí ngày 6 - 9 - 1957 hai xã là Nam Sơn
và Bắc Lũng đƣợc chia thành 4 xã là: Nam Sơn, Cƣơng Sơn, Bắc Lũng và
Khám Lạng [3, tr.7].
Ngày 28-7-1958, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 241-NV chia xã Phƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Sơn thành 2 xã Phƣơng Sơn và Thanh Sơn; chia xã Hoà Bình B thành 2 xã
8
Đông Hƣng và Tiên Nha; chia xã Yên Sơn B thành 2 xã Bình Sơn và Hùng
Sơn; chia xã Mỹ An thành 2 xã Mỹ An và Trƣờng Giang. Đồng thời theo
Nghị định, xã Mỹ An đƣợc chuyển về huyện Lục Ngạn, còn xã Lan Mẫu
thuộc huyện Yên Dũng đƣợc chuyển về huyện Lục Nam.
Thực hiện chỉ thị số 23-TTg kí ngày 15-4-1963 của Thủ tƣớng Chính
phủ, 2 xã đƣợc trả lại tên cũ là Hoà Bình A thành Chu Điện và Bắc Sơn thành
Vô Tranh, 4 xã đƣợc đổi tên mới là Tân Lập thành Đông Phú, Hùng Sơn
thành Lục Sơn, Thanh Sơn thành Thanh Lâm và Nam Sơn thành Huyền Sơn.
Kể từ đây, huyện Lục Nam có 25 xã và 1 thị trấn: Bảo Đài, Bắc Sơn,
Bắc Lũng, Bình Sơn, Cẩm Lý, Cƣơng Sơn, Chu Điện, Đan Hội, Đông Phú,
Đông Hƣng, Huyền Sơn, Khám Lạng, Lan Mẫu, Lục Sơn, Nghĩa Phƣơng,
Phƣơng Sơn, Tam Dị, Tiên Nha, Tiên Hƣng, Thanh Lâm, Trƣờng Giang,
Trƣờng Sơn, Vũ Xá, Vô Tranh, Yên Sơn và Thị trấn Lục Nam.
Ngày 18-2-1997, Chính phủ ra Nghị định số 19/CP thành lập Thị trấn
Đồi Ngô trên cơ sở tách một phần dân cƣ từ xã Chu Điện, Tiên Hƣng, Tam
Dị. Thị trấn huyện lị Đồi Ngô đƣợc đầu tƣ qui hoạch, xây dựng kết cấu hạ
tầng thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của huyện.
1.2. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
Lục Nam là huyện miền núi, nằm ở phía Đông - Nam của tỉnh Bắc
Giang, có diện tích tự nhiên 59.858 ha. Địa hình của huyện chia thành ba
vùng: vùng núi, vùng trung du và chiêm trũng. Diện tích đất nông nghiệp là
14.800 héc ta, diện tích đất rừng và đồi là 31.170 héc ta.
Huyện Lục Nam nằm ở vị trí từ 21 độ 11 phút đến 21 độ 27 phút vĩ độ
Bắc; từ 106 độ 18 phút đến 106 độ 41 phút kinh độ Đông. Phía Bắc huyện
Lục Nam giáp huyện Lục Ngạn, phía Tây Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giáp hai tỉnh Quảng Ninh và Hải Dƣơng, phía Đông giáp huyện Sơn Động,
9
phía Tây giáp hai huyện là Lạng Giang và Yên Dũng. Trung tâm huyện cách
Hà Nội 100km và cách thành phố Bắc Giang 25km.
Do nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa khu vực núi rừng Đông - Bắc với khu
vực Trung du và đồng bằng Bắc bộ nên khí hậu Lục Nam có tính đa dạng của
chế độ hoàn lƣu gió mùa nhiệt đới phức hợp, có phân hóa rõ rệt theo mùa.
Nhiệt độ bình quân hàng năm là 22,90C. Do sự ảnh hƣởng của địa hình nên
trong cùng một huyện cũng có sự chênh lệch về nhiệt độ, tạo ra những tiểu
vùng khí hậu khác nhau. Số ngày mƣa của huyện trong năm trung bình là 107
ngày, mƣa phân bố không đều giữa các vùng trong huyện, giữa các tháng
trong năm. Mùa mƣa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9, tập trung ở các tháng 6,
7 và 8 (chiếm từ 50 - 60% lƣợng nƣớc mƣa của cả năm).
Huyện Lục Nam có Sông Lục Nam chảy qua từ đầu đến cuối huyện.
Sông Lục Nam phát nguyên từ Đình Lập (Lạng Sơn), thời cổ mang tên là
Minh Đức và đƣợc mệnh danh là một Trƣờng Giang đẹp nhất Bắc Kì. Sông
dài 178 km, chi lƣu là các sông Cẩm Đàn, sông Thanh Luận, sông Bò. Đối với
huyện, đây là nguồn nƣớc chính phục vụ cho nông nghiệp. Nƣớc từ sông Lục
Nam đƣợc dẫn qua các kênh mƣơng về các đầm, ao, hồ tạo ra hệ thống thủy
lợi phong phú, thuận lợi. Ven sông hình thành các làng chài đánh bắt cá và
đây cũng là nghề sống chủ yếu của các làng sống ven sông. Sông Lục, núi
Huyền còn tạo ra một cảnh tƣợng hùng vĩ, rất đẹp, là nguồn lợi cho du lịch
đang đƣợc quan tâm đầu tƣ và khai thác.
Đất đai của huyện Lục Nam rất đa dạng. Đất đồi, đƣợc hình thành chủ
yếu do sự phong hóa của các loại đá mẹ sa thạch và phiến thạch, một phần do
sự phong hoá của đất phù sa cổ, do đó đất đồi của Lục Nam nghèo dinh
dƣỡng. Đất ruộng, loại đất này cũng có nhiều loại nhƣng chủ yếu đƣợc chia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
làm 3 nhóm là đất ruộng lúa nƣớc có nguồn gốc Feralit, có nguồn gốc Feralit
10
bạc mầu và lúa nƣớc có nguồn gốc phù sa. Nhìn chung, đất ruộng của Lục
Nam diện tích không lớn, ít dinh dƣỡng.
Toàn huyện có 26.300 ha rừng, trong đó rừng tự nhiên và rừng tái sinh
là 14.300 ha. Rừng nguyên sinh với hai ba tầng cây, tầng thứ nhất với các loại
hầu hết là gỗ quý nhƣ đinh, lim, sến, táu, dẻ; tầng thứ hai là những cây thấp -
cây bụi nhƣ tre, nứa, song, mây. Tuy nhiên, do khai thác chƣa hợp lí nên rừng
nguyên sinh diện tích còn lại không nhiều, chủ yếu là rừng tái sinh, khó định
tầng, bề ngoài rậm rạp, độ che tán lớn, nhƣng bên trong rỗng, cây to gỗ lớn
còn lại ít, phần lớn là gỗ tạp hoặc rừng tre, nứa xen gỗ tạp. Nhiều nơi, chân
núi và sƣờn núi vẫn còn rừng cây che phủ nhƣng đến gần đỉnh núi chỉ có cây
bụi hoặc sim, mua, ràng ràng, cỏ gianh. Huyện Lục Nam có mỏ than bùn khá
lớn, tập trung chủ yếu ở 2 xã là Lục Sơn và Trƣờng Sơn. Ngoài ra còn có đất
sét, có hai loại là đất sét chịu lửa và đất sét làm gạch ngói.
Nhìn chung, huyện Lục Nam có điều kiện thuận lợi về đất, nƣớc, rừng
để phát triển nền nông lâm nghiệp đa dạng về cây trồng, vật nuôi đảm bảo
cuộc sống ổn định cho đồng bào các dân tộc tại địa phƣơng.
1.3. Nguồn gốc ngƣời Dao ở huyện Lục Nam
1.3.1. Tên gọi và nguồn gốc tộc người
Ngƣời Dao ở Việt Nam có khoảng 600 nghìn ngƣời cƣ trú ở 18 tỉnh
(Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Cao Bằng, Yên Bái, Quảng Ninh, Thái
Nguyên, Bắc Cạn, Lai Châu, Lạng Sơn, Hoà Bình, Sơn La, Phú Thọ, Bắc
Giang, Thanh Hoá, Đắc Lắc, Đồng Nai và Hà Tây). Do nhiều biến cố lịch
sử, ngƣời Dao ở Trung Quốc phân tán thành nhiều nhóm nhỏ trong đó có
một số nhóm vào Việt Nam "Không còn nghi ngờ gì nữa, họ vốn có nguồn
gốc ở Trung Quốc, quá trình thiên di của họ vào Việt Nam là một thời kỳ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dài". [8, tr. 56]. Do nhiều biến cố lịch sử nhƣ, một bộ phận ngƣời Dao đã
11
phải di cƣ vào Lạng Sơn và Quảng Ninh (Việt Nam) rồi từ đây đi sang các
huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Thế của Bắc Giang qua
nhiều thời kì, bằng nhiều con đƣờng, với nhiều nhóm địa phƣơng khác
nhau để sinh cơ lập nghiệp. [27; tr. 299].
Mặc dù có rất nhiều nhóm Dao với những tên gọi khác nhau, nhƣng căn
cứ vào đặc điểm văn hoá mà nét chủ yếu của nó là trang phục phụ nữ, các nhà
khoa học chia ngƣời Dao ở Việt Nam thành các nhóm sau đây:
+ Dao Đỏ còn có tên Dao Cóc Ngáng, Dao Sừng, Dao Dụ Lạy
+ Dao Quần Chẹt (Dao Sơn Đầu, Dao Tam Đảo, Dao Nga Hoàng)
+ Dao Lô Gang (Thanh Phán, Dao Đội Ván, Dao Cóc Mùn)
+ Dao Tiền
+ Dao Quần Trắng
+ Dao Thanh Y (Dao Ban Y, Dao Chàm)
+ Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao Áo Dài, Dao Tẻn) [ 8, tr36]
Về tiếng nói ngôn ngữ dân tộc Dao đƣợc các nhà nghiên cứu xếp vào
ngữ hệ Mông - Dao. Đến nay ngƣời Dao chƣa có chữ viết riêng, từ xa xƣa,
đồng bào dựa vào chữ Hán để phiên âm ra chữ Nôm gọi là chữ Nôm Dao và
sử dụng bộ chữ này để ghi chép gia phả, sách cúng, sáng tác truyện, thơ… Về
tiếng nói, các nhóm Dao đều nói chung một thứ tiếng, đó là tiếng Dao. Sự
khác nhau về tiếng nói giữa các nhóm không nhiều, chỉ trong một số ít từ và
thanh điệu. Cũng nhƣ tiếng Dao trong cả nƣớc, tiếng Dao ở Bắc Giang cũng
gồm hai phƣơng ngữ: phƣơng ngữ thứ nhất gồm hai nhóm Dao là Lô Gang,
Thanh Phán; phƣơng ngữ thứ hai có nhóm Dao Thanh Y. Tại thời điểm hiện
tại, ngƣời Dao sinh sống tại các bản thuộc các xã của Lục Nam vẫn nói tiếng
Dao trong sinh hoạt hàng ngày. Nhƣng khi có khách là ngƣời dân tộc khác họ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cũng có thể nói đƣợc tiếng Việt làm ngôn ngữ giao tiếp thứ hai.
12
Ở Bắc Giang, thế kỉ XVII, nhóm Dao Thanh Y từ Quảng Đông và Móng
Cái qua Lục Ngạn, đến Bắc Giang, sang sông Đuống rồi ngƣợc lên Tuyên
Quang. Một bộ phận khác lên Yên Bái và Lào Cai, đƣợc gọi là Dao tuyển.
Thế kỉ XVIII, một bộ phận dân tộc Dao từ Quảng Đông và Quảng Tây vào
Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Giang, đó là nhóm Dao Lô Gang [ 21, tr.10].
Nhƣ vậy, dân tộc Dao ở Bắc Giang chủ yếu thuộc các nhóm Dao Thanh
Y, Dao Thanh Phán và Dao Lô Gang. Hiện nay họ sống thành làng riêng hoặc
xen kẽ với một số dân tộc anh em nhƣ Kinh, Tày, Nùng, Sán Chay…Kết quả
khảo sát ở địa phƣơng cho thấy ngƣời Dao sinh sống ở các xã của huyện Lục
Nam có nguồn gốc từ Quảng Ninh di thực sang. Ngƣời Dao ở đây thuộc các
nhóm là Dao Thanh Y và Dao Thanh Phán. Ngƣời Dao ở các bản Gốc Dẻ,
Văn Non, xã Lục Sơn, huyện Lục Nam vẫn nhắc tới một địa danh là Khe Sú,
Ba Trẽ nhƣ nói tới nơi cội nguồn của mình. Một số nhân chứng kể lại, vào
khoảng những năm 20, 30 thế kỉ 20 thì ngƣời Dao mới di cƣ đến đây và sinh
sống cạnh những làng của các dân tộc nhƣ Tày, Nùng hay Kinh. Điều tra xác
minh Khe Sú, Ba Trẽ đều là những bản của ngƣời Dao sinh sống thuộc huyện
Uông Bí của tỉnh Quảng Ninh [55].
Cho đến thời điểm hiện tại, để chỉ ngƣời Dao, các dân tộc khác thƣờng
gọi là ngƣời Mán, Mán Sơn Đầu. Đồng bào Dao thì tự nhận mình là Kiềm
Miền, Dìu Miền. Các công trình nghiên cứu về ngƣời Dao đều ghi rõ tên Mán
bắt đầu từ âm Man (âm Hán - Việt), là tên gọi phiếm xƣng có ý miệt thị dân
tộc vì phong kiến Trung Quốc dùng để chỉ các tộc ngƣời nhỏ bé, sinh sống
bên ngoài địa bàn cƣ trú của ngƣời Hán. Tên gọi Kiềm Miền (Kiềm nghĩa là
rừng, Miền nghĩa là ngƣời), tức là ngƣời ở rừng núi, cũng là tên gọi phiếm
xƣng, không chính xác, vì cùng với ngƣời Dao ở rừng còn có nhiều tộc ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khác sống ở miền núi. Tên Mán Sơn Đầu cũng là tên gọi của các tộc ngƣời
13
khác đặt cho ngƣời Dao ở nhóm Dao Lô Gang, do đồng bào có tục chải đầu
bằng sáp ong.
Tên tự gọi nữa của đồng bào là Dìu Miền, âm Hán Việt: Dìu là Dao,
Miền là ngƣời; có nghĩa là ngƣời Dao. Tên gọi Dao đƣợc nhắc nhiều trong
các truyện truyền miệng, truyện cổ. Theo tài liệu “Người Dao ở Việt Nam”,
tên gọi Dao còn đƣợc ghi trong các thƣ tịch cổ của Trung Quốc. Chẳng hạn
sách “Thuyết man” viết: “Man bắt đầu từ Ngũ Khê gọi là Bàn Hồ ở rải rác
khắp vùng Sở Việt gọi là Dao, lúc bấy giờ có công nên được miễn giao dịch
gọi là Mạc Dao, về sau gọi sai đi là Dao”. Sách “Quế hải ngu hành chí” viết:
“ Người Dao vốn dòng dõi Bàn Hồ ở Ngũ Khê…”. [28, tr. 8]
Nhƣ vậy, “Dao” là tên tự nhận của ngƣời Dao, nó gắn với lịch sử hình
thành tộc ngƣời và đƣợc họ thừa nhận. vào những thập kỉ 60 – 70 của thế kỉ
trƣớc, các nhà khoa học đã đề xuất và đƣợc Chính phủ công nhận “Dao” là
tên gọi chính thức.
1.3.2. Địa bàn cư trú
Ngƣời Dao ở Việt Nam cƣ trú ở cả ba vùng: vùng cao, vùng giữa, và
vùng thấp. Sống ở vùng cao (trung bình từ 800 - 1000m) phần nhiều là ngƣời
Dao Đỏ, một bộ phận Dao Tiền, Dao Làn Tẻn. Cƣ trú ở vùng giữa (trung bình
từ 400-600m) chủ yếu là ngƣời Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang, Dao Thanh
Phán. Vùng thấp, chuyển tiếp giữa vùng núi và đồng bằng (độ cao khoảng
200m) là địa bàn cƣ trú của ngƣời Dao Quần Trắng, Dao Quần Chẹt, Dao
Tiền v.v ...Ở Bắc Giang, dân tộc Dao là một trong 7 thành phần dân tộc chủ
yếu của tỉnh, sinh sống chủ yếu ở Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế.
Tuy số lƣợng không đông lắm, dân số 7.337 ngƣời (số liệu năm 2003), đứng
thứ 7 về dân số trong 7 dân tộc chủ yếu sinh sống trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và quá trình cƣ trú tại Bắc Giang chƣa lâu song đồng bào đã ổn định cuộc
14
sống của mình, coi Bắc Giang là quê hƣơng và đóng góp sức mình xây dựng
quê hƣơng mới, đồng thời mang những nét văn hóa đặc trƣng của mình đóng
góp cùng các dân tộc anh em, góp phần tạo nên sắc thái văn hóa riêng của tỉnh
Bắc Giang [27]. Các công trình nghiên cứu về ngƣời Dao ở Bắc Giang cho
biết ở Bắc Giang có 4 nhóm Dao là Dao Thanh Phán, Dao Đỏ, Dao Thanh Y
và Dao Lô Gang. Qua khảo sát thực tế tại địa bàn cƣ trú, ngƣời Dao ở Bắc
Giang có 3 nhóm Dao chủ yếu là: Dao Lô Gang, Dao Thanh Phán và Dao
Thanh Y.. Ở Lục Nam có hai nhóm Dao Thanh Phán và Dao đỏ sống chủ yếu
trong 4 xã: Lục Sơn, Bình Sơn, Trƣờng Sơn và Vô Tranh.
Bảng1. Thống kê số lượng theo nhóm người Dao ở huyện Lục Nam
năm 2009
STT Bản Xã Số hộ Số khẩu Nhóm
1 Gốc Dẻ Lục Sơn 70 340 Thanh Y
2 Văn Non Lục Sơn 178 925 Thanh Y
3 Đồng Đỉnh Bình Sơn 115 480 Thanh Phán
4 Vua Bà Trƣờng Sơn 72 Thanh Y 324
5 Đồng Vành 1 Lục Sơn 61 219 Thanh Phán
6 Đồng Vành 2 Lục Sơn 62 221 Thanh Phán
7 20 Vô Tranh 90 Thanh Phán
(Phiếu khảo sát về Các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình các dân
tộc huyện Lục Nam, tháng 10 năm 2009)
Ngƣời Dao Thanh Phán và Dao Thanh Y sinh sống tại các thôn bản của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
huyện Lục Nam đã coi đây là quê hƣơng của mình, đang đóng góp công sức
15
xây dựng cuộc sống, xây dựng quê hƣơng ngày càng giàu đẹp. Thôn bản của
ngƣời Dao thƣờng tập trung thành từng cụm gần rừng, đồi. Thƣờng mỗi hộ ở
một quả đồi, khu nào đất đẹp thì hai hay ba hộ ở cạnh nhau. Ranh giới giữa
các bản thƣờng là đƣờng mòn, khe núi, dòng suối… đƣợc dân bản công nhận
theo quy ƣớc không thành văn. Ngoài một số ruộng nƣơng đã có ngƣời sở
hữu, còn tất cả rừng, suối, núi đều thuộc quyền sử dụng chung của mọi nhà
trong bản. Đồng bào hạn chế những ngƣời ở nơi khác đến làm ruộng, nƣơng
hoặc lấy gỗ ở phạm vi thôn bản mình.
Dân cƣ trong mỗi thôn bản thƣờng chỉ có từ 2 - 3 họ, trong đó bao giờ
cũng có một họ đông ngƣời hơn và thƣờng là họ của những ngƣời đến cƣ trú
đầu tiên. Mỗi thôn, bản Dao đều có những nghi lễ chung: liên quan đến trồng
trọt, chăn nuôi, sắn bắn. Thƣờng thì trƣớc khi gieo trồng (đầu xuân), khi lúa
mọc cao (mùa hè), sau khi gặt lúa (mùa thu), lúc hạn hán kéo dài, trong bản
có dịch gia súc hoặc ngƣời ốm đau nhiều… là dân bản lại họp nhau cúng thổ
thần, bàn việc chung, tổ chức ăn uống chung.
Từ xƣa, thôn bản ngƣời Dao đã vận hành theo phƣơng thức tự quản.
Mỗi bản thƣờng có ngƣời đứng đầu, giữ vai trò trụ cột, điều hành toàn bộ mọi
hoạt động của bản. Nếu bản có một dòng họ cƣ trú thì ngƣời đứng đầu bản do
ngƣời có uy tín trong dòng họ nắm giữ. Khi thôn bản có nhiều họ cƣ trú thì
dân bản chọn ngƣời có uy tín, biết cúng thổ thần, am hiểu phong tục tập quán
dân tộc, lai lịch và mối quan hệ họ hàng của dân bản, có kinh nghiệm đoán
định thời tiết… để bầu vào chức đứng đầu bản.
Ngƣời đứng đầu thôn, bản đƣợc bà con tôn trọng và tin cậy, khi có việc
không tự phân xử đƣợc các bên đều đến hỏi ngƣời đứng đầu bản và làm theo
sự phân sử của ngƣời này. Ở các nhóm dân tộc Dao, bên cạnh vai trò chính
của ngƣời đứng đầu thôn, bản thì các cụ già làng, trƣởng họ và thầy cúng là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những ngƣời có uy tín cao, thƣờng có mặt trong các công việc chung của bản,
16
thôn, đƣợc dân bản tôn trọng. Hiện nay, ngƣời phụ trách các tổ chức đoàn thể
nhƣ Chi hội Phụ nữ, Chi hội Nông dân, Chi hội Cựu chiến binh, chi đoàn
thanh niên, ban công tác mặt trận và nhất là vai trò của chi bộ Đảng ở thôn,
bản có tiếng nói giúp trƣởng thôn, bản làm tốt hơn nhiệm vụ của mình.
Ngoài khu vực cƣ trú, mỗi thôn bản còn có đất canh tác, rừng núi, suối,
ao, đƣờng đi… hợp lại thành đất bản. Ranh giới giữa các bản có tính ƣớc lệ
nhƣng đƣợc tôn trọng. Trong địa vực đất bản, các gia đình đƣợc quyền khai
phá nƣơng rẫy nhƣng không đƣợc khai phá rừng đầu nguồn, rừng cấm, chỗ
đất đã có chủ (đƣợc đánh dấu bằng cọc gỗ nhỏ hoặc gài lá gianh). Hết thời
điểm phát nƣơng mà ngƣời đánh dấu không khai phá, coi nhƣ đất vô chủ. Nếu
tranh chấp nƣơng đã đánh dấu thì cây nêu của ai cắm trên mảnh đất đó lá héo
hơn, đất thuộc về ngƣời đó. Mảnh nƣơng đã canh tác, bỏ hoá hai, ba vụ vẫn
của chủ cũ. Đất công (đƣờng đi, suối, rừng cấm, bãi chăn thả…) do ngƣời
đứng đầu bản quản lý, các hộ dân trong bản có trách nhiệm giữ gìn, tu sửa,
bảo vệ. Nhiều bản ngƣời Dao có quy định về bảo vệ rừng và nguồn nƣớc khá
chặt chẽ. Tiêu biểu nhƣ bản Đồng Vành, xã Lục Sơn, huyện Lục Nam. Mỗi
bản đều có một khu rừng đầu nguồn, ở đó thần rừng trú ngụ, rất thiêng, không
ai đƣợc thu hái măng, vầu, nứa, chặt củi. Nếu để trâu bò vào rừng làm đổ cây,
gẫy măng thì bị phạt khá nặng.
Đối với nguồn nƣớc duy trì sản xuất và sinh hoạt, đồng bào thƣờng
xuyên tu sửa, khơi dòng lấy nƣớc đầu nguồn. Ai thả xác súc vật chết vào
nguồn nƣớc ăn thì phải làm lại máng nƣớc và khơi nguồn nƣớc khác cho
ngƣời bị hại. Đồng bào cũng quy định không đƣợc chôn cất ngƣời chết gần
nguồn nƣớc. Sông suối chảy qua thôn bản nào thì thôn bản đó quản lý. Nguồn
thuỷ sản (cá, tôm, cua, ốc, hến…) dân bản đều đƣợc hƣởng nhƣng không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đƣợc đánh bắt bằng hình thức ruốc bằng cây lá độc. Để bảo vệ hoa màu, hiện
17
nay ở nhiều thôn bản đồng bào tuân thủ việc không thả rông trâu bò, lợn, gà,
vịt… Ai vi phạm phải bồi thƣờng cho ngƣời bị hại.
Gia đình chủ yếu của dân tộc Dao ở huyện Lục Nam, chủ yếu là hình
thức phụ quyền. Mỗi gia đình thƣờng có 2 thế hệ (gồm cha mẹ và các con
chƣa lập gia đình) hoặc 3 thế hệ (gồm một cặp vợ chồng, các con chƣa lập gia
đình và ông bà). Rất hiếm gặp những gia đình lớn bốn thế hệ. Xu hƣớng phát
triển của gia đình ở các nhóm Dao là: con trai sau khi lập gia đình nếu có
điều kiện thì tách ra ở riêng, thƣờng dựng nhà gần nhà bố mẹ, đƣợc bố mẹ
chia tài sản (ruộng, trâu, gia cầm) làm vốn ban đầu nhằm bảo đảm cuộc sống.
Trong gia đình, quyền lực thuộc về ngƣời đàn ông, nếu bố chết thì con trai
trƣởng thay thế. Ngƣời chồng chủ yếu lo những công việc lớn nhƣ lập kế
hoạch làm ăn, làm nhà, cúng bái, săn bắn, đối ngoại. Những việc này đều
đƣợc các con lớn tuổi bàn bạc và thống nhất. Ngƣời vợ đóng vai trò chính về
nội trợ, quản lý kinh tế gia đình, may vá thêu thùa, giáo dục con cái. Các công
việc nƣơng rẫy, ruộng vƣờn cả hai vợ chồng đều gánh vác. Trong mọi công
việc, đời sống hàng ngày, vợ nghe lời chồng, con cái vâng lời cha mẹ, em
nghe lời anh chị. Trong quan hệ giữa con dâu, em dâu với bố mẹ chồng, anh
chồng, ngƣời con rể với mẹ vợ… có quy định nghiêm ngặt: con dâu, em dâu
không đƣợc ăn cùng mâm, không đƣợc đến khu vực ngủ của bố chồng, anh
chồng; ngƣợc lại bố chồng, anh chồng không đƣợc đến gần giƣờng ngủ của
em dâu, con dâu.
Ngƣời Dao ở Lục Nam có các họ chính: Bàn, Đặng, Triệu, Trƣơng,
Trần, Lã, Lý. Trong các họ Dao, họ Bàn đƣợc coi là gốc. Mỗi dòng họ thƣờng
có một trƣởng họ do các gia đình trong dòng họ cử ra. Nhà trƣởng họ gọi là
nhà lớn, nơi đặt bàn thờ ông tổ, nơi cúng lễ, ăn tết và cấp sắc chung cho các
thành viên trong họ. Trƣởng họ có trách nhiệm chủ trì lễ cấp sắc, lễ cúng bàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Vƣơng, là đầu mối quán xuyến việc giúp đỡ các gia đình trong tông tộc làm
18
nhà, tổ chức đám cƣới, chia gia tài, làm ma, chay,.. Ngƣợc lại, các thành viên
trong dòng họ có bổn phận giúp đỡ lẫn nhau tận tình khi có nhà gặp khó khăn,
hoạn nạn.
Bộ nữ phục nhóm Dao Thanh Y gồm có: quần dài (khoa), áo dài (gủi),
mũ (mâu), khăn (plảu mìn), yếm (tùng pàn), thắt lƣng (thỉn làng). Đặc điểm
của nhóm là phụ nữ thƣờng đội chiếc mũ nhỏ có gắn nhiều chiếc cúc tròn
bằng bạc ở vòng quanh mặt ngoài, trên áo thêu hoa văn trang trí hình ngƣời
đội hoa. Phụ nữ nhóm Dao Thanh Y để tóc dài, búi tóc lên đỉnh đầu, đội mũ
hình tròn. Cốt mũ bằng sơ mƣớp, ngoài lợp chỉ đen, quanh thành mũ gắn hai
hàng khuy bạc song song (đƣờng kính mỗi khuy trên 1,5cm), mỗi hàng gồm
40 khuy; đỉnh mũ phẳng, có gắn ngôi sao bạc tám cánh hoặc mƣời cánh,
đƣờng kính của sao xấp xỉ đƣờng kính mặt phẳng tròn của đỉnh mũ. Bên
ngoài mũ phủ chiếc khăn nhỏ mầu đỏ hoặc trắng thêu hoa văn, có hai dải vải,
mỗi dải rộng 4-5cm, mầu đỏ, đính từ hai góc khăn, thả buông hai bờ vai. Áo
của phụ nữ Dao Thanh Y xẻ ngực dài đến ống chân, màu chàm. Cổ áo thấp,
vẫn nối liền với nẹp ngực nhƣng có phân biệt với nẹp ngực bằng dải vải rộng
4cm, màu trắng, chạy từ ngực phải vòng qua cổ sau sang ngực trái, thêu nhiều
hoa văn. áo xẻ tà từ gấu lên đến thắt lƣng. Gấu áo và các mép xẻ tà, xẻ ngực
viền vải đỏ. ống tay áo rộng vừa phải, cổ tay áo may vải đỏ từ cổ tay lên đến
bắp tay (10cm). Hai thân áo trƣớc so le: bên phải dài trên 60cm từ vai xuống,
bên trái dài hơn 90cm, nếp trong mỗi thân là vải đỏ. Cũng nhƣ áo phụ nữ các
nhóm Dao khác, áo phụ nữ nhóm Dao Thanh Y không có khuy, khi mặc dùng
dây lƣng buộc ngoài, nút thắt phía lƣng. Các đầu dây lƣng thả dài đến khoeo
chân. Dây lƣng của phụ nữ Dao Thanh Y bằng vải trắng, dài 3,5 - 4m, rộng 4
- 5cm, trên mặt thêu kín các đƣờng chỉ xanh, đỏ xen lẫn nhau theo hình chân
rết. Yếm ngực là một vuông vải có hình ô trám, chia làm hai tam giác cân,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tam giác phía trên để trắng, ở giữa có gắn một bán cầu bằng bạc có đƣờng
19
kính 3 - 4cm, tam giác bên dƣới là vải đỏ. Quần phụ nữ Dao Thanh Y mầu
chàm, may kiểu chân què, ống rộng vừa phải, không thêu. Đồ trang sức gồm
vòng cổ (tẳng khuỳn), vòng tay (ná sằm), nhẫn (pô đà quỳn) bằng bạc. Bộ nữ
phục nhóm Dao Thanh Phán gồm có áo (linh lùi), yếm (nom càm), quần (chu
chùn), thắt lƣng (hầu hang), khăn (nom mùa), mũ (đổng) (mũ chỉ giành cho
các bé gái). Trang phục nữ nhóm Dao Thanh Phán có đặc điểm chỉ có một
màu chàm thẫm, không có hoa văn trang trí. Trƣớc đây đồng bào mặc áo dài
có thêu trang trí trên nẹp cổ. Hiện nay một số nơi, nữ Dao Thanh Phán mặc áo
ngắn cài khuy bên sƣờn phải nhƣ áo của ngƣời Hoa.
Kể chuyện là hình thức sinh hoạt văn hóa rất độc đáo của ngƣời Dao.
Hầu hết các truyện thần thoại, truyện cổ tích của ngƣời Dao đều đƣợc viết
thành thơ. Do đó có thể vừa đọc, vừa hát khi kể. Thƣờng trong các buổi lễ cầu
mùa, lễ cấp sắc kéo dài nhiều ngày, những ngƣời già thƣờng kể chuyện cho
con cháu nghe bên bếp lửa. Cũng có khi trong cuộc hát, hai bên hát về một
câu chuyện cổ với mục đích thử sự hiểu biết của đối phƣơng. Với cách hát
này, cùng một câu chuyện song mỗi bên lần lƣợt hát từng đoạn sau đó dừng
lại để bên kia phải hát tiếp. Bên nào không tiếp tục hát đƣợc coi nhƣ kém cỏi.
Do đó những câu chuyện cổ đƣợc phổ biến rất rộng trong cộng đồng.
Hát dân ca (báo dung) là một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần đã
tồn tại từ lâu đời trong cộng đồng dân tộc Dao ở Lục Nam. Dân ca Dao đƣợc
cất lên trong nhiều trƣờng hợp, nhiều hoàn cảnh khác nhau chứ không đơn
thuần là những lời ca giải trí khi nhàn rỗi, lời hát giao duyên của nam nữ
thanh niên. Hát dân ca đặc sắc nhất là loại hình hát giao duyên. Thời gian tổ
chức hát thƣờng vào lúc nông nhàn, nhất là vào dịp lễ hội.
Cũng nhƣ các tộc ngƣời khác, vào đầu mùa xuân, ngƣời Dao Lục Nam
tổ chức nhiều lễ hội (xíp bịp xuân). Những lễ hội này thƣờng đƣợc tổ chức tại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
các ngôi đình, chùa - địa điểm mà đồng bào cho là linh thiêng nhất trong bản,
20
nơi cƣ ngụ của các vị thánh thần. Tiêu biểu nhất là lễ hội đền Khe Cát, xã
Trƣờng Sơn đƣợc tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch, lễ hội đền Khuôn
Liêng, xã Trƣờng Sơn ngày 10 tháng Giêng âm lịch nhằm mời các vị thần
linh về đón xuân chung vui cùng dân bản, tỏ lòng biết ơn và cầu xin sự phù hộ
che chở của thánh thần. Trƣớc khi tổ chức dân bản cùng dọn dẹp nơi cúng tế,
các thầy cúng chuẩn bị văn tế. Lễ vật cúng tế do các gia đình trong bản đóng
góp thƣờng gồm có gà, rƣợu, xôi trắng. Có hai loại văn cúng tế, một bài căn
cúng gọi Ngọc Hoàng và một bài văn cúng gọi thần đất. Nội dung của các bài
văn cúng là nhân dịp mùa xuân cây cối vạn vật tốt tƣơi mời các vị thần về
chứng giám lòng thành của dân bản, cùng dân bản đón mùa xuân mới, phù hộ
cho dân bản năm mới mùa màng thuận lợi.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Lục Nam là huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang, nơi đây có điều kiện
địa lý, tự nhiên khá thuận lợi với chất đất phù hợp cho canh tác nông nghiệp,
hệ thống sông suối trải dài cung cấp đầy đủ nƣớc cho sản xuất. Điều kiện tự
nhiên cùng cảnh trí thiên nhiên tƣơi đẹp, núi non hùng vĩ đã khiến cho Lục
Nam trở thành nơi hội tụ của nhiều dân tộc anh em, trong đó có ngƣời Dao.
Ngƣời Dao cƣ trú chủ yếu tại các xã Lục Sơn, Bình Sơn, Trƣờng Sơn, Vô
Tranh của huyện. Đồng bào di cƣ từ Quảng Ninh tới Lục Nam từ những năm
đầu thập kỷ 30 của thế kỷ 20. Ngƣời Dao ở Lục Nam thuộc hai nhóm Dao
Thanh Y và Dao Thanh Phán. Đồng bào sinh sống thành từng bản riêng và
còn bảo lƣu đƣợc nhiều phong tục tập quán độc đáo mang bản sắc văn hoá
của tộc ngƣời, trong đó có tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp. trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sản xuất nông nghiệp.
21
CHƢƠNG 2
TRI THỨC DÂN GIAN TRONG SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP CỦA NGƢỜI DAO HUYỆN LỤC NAM
TỈNH BẮC GIANG TRONG TRUYỀN THỐNG
2.1. Quan niệm về tri thức dân gian
Tri thức dân gian, kiến thức truyền thống (Traditionnal knowledge) hay
kiến thức địa phƣơng (Local knowledge) là hệ thống các kiến thức của các
cộng đồng dân bản địa trên quy mô lãnh thổ khác nhau. Nó đƣợc hình thành,
tồn tại và phát triển lâu dài cùng với lịch sử phát triển cụ thể của cộng đồng,
với sự tham gia của tất cả các thành viên trong cộng đồng [44, tr.23]. Tri thức
dân gian bao hàm tất cả các lĩnh vực của cuộc sống xã hội nhƣ: nông nghiệp,
sức khỏe, giáo dục… Trong nông nghiệp, tri thức dân gian đƣợc thể hiện
trong trồng trọt và chăn nuôi. Về trồng trọt: các giống cây bản địa, kinh
nghiệm xác định giống nào cây ấy, lịch thời vụ và dự đoán thời tiết, các kinh
nghiệm tƣới tiêu, sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu, cách thu hoạch và bảo
quản, cất trữ lƣơng thực, các kinh nghiệm sản xuất trên đất dốc, nƣơng rẫy.
Trong chăn nuôi: kinh nghiệm chọn giống gia súc, quản lý bãi chăn thả theo
mùa, các cây lƣơng thực cho gia súc, các cây thuốc cho gia súc…
Kiến thức dân gian đƣợc hình thành và biến đổi liên tục qua nhiều thế
hệ trong một cộng đồng địa phƣơng nhất định. Tri thức dân gian là sản phẩm
đƣợc tạo ra trong quá trình lao động sản xuất của toàn cộng đồng. Theo thời
gian, các kinh nghiệm truyền thống này đƣợc biến cải để ngày càng hoàn
thiện hơn, nghĩa là có hiệu quả và thích ứng cao hơn với các thay đổi của môi
trƣờng tự nhiên và xã hội. Theo dòng lịch sử, nhiều kiến thức cũ đã không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
còn ý nghĩa nên mất đi, các kiến thức địa phƣơng mới đang liên tục đƣợc nảy
22
sinh và hoàn thiện. Tri thức dân gian hay kiến thức bản địa có khả năng thích
ứng cao với môi trƣờng riêng của địa phƣơng, nơi đã hình thành và phát triển
kiến thức đó. Đây là một ƣu điểm rất quan trọng mà các hệ thống kĩ thuật từ
bên ngoài không có đƣợc.
Tri thức dân gian do toàn thể cộng đồng sáng tạo ra qua lao động trực
tiếp. Toàn thể cộng đồng đó bao gồm cả đàn ông, đàn bà, trẻ em, ngƣời già.
Tri thức dân gian đƣợc lƣu giữ bằng trí nhớ và truyền bá từ thế hệ này qua thế
hệ khác bằng truyền miệng, thơ ca, tế lễ và nhiều tập tục khác nhau. Đây là
điểm khác biệt so với kiến thức khoa học và thƣờng gây khó khăn cho ngƣời
nghiên cứu, nhất là ngƣời ngoài cộng đồng, ngƣời không cùng ngôn ngữ và
văn hóa. Tri thức dân gian luôn gắn liền và hòa nhập với nền văn hóa, tập tục
địa phƣơng. Vì vậy khả năng tiếp thu, ứng dụng trong cộng đồng là rất dễ
dàng. Trong thực tế chúng ta đã từng thấy rằng có những kĩ thuật mới đƣa lại
hiệu quả cao hơn nhƣng không đƣợc dân chúng chấp nhận vì trái với tập tục
văn hóa của địa phƣơng.
Tri thức dân gian có tính đa dạng rất cao, vì nó đƣợc hình thành trong
những điều kiện tự nhiên khác nhau và đƣợc mọi thành viên trong cộng đồng
sáng tạo ra nên sự khác nhau về giới tính, tuổi tác, kĩ năng, kinh nghiệm, tình
trạng kinh tế… đã làm cho hệ thống này hết sức phong phú.
Ngày nay, tri thức dân gian đang có nguy cơ bị mai một dần. Tri thức
dân gian có thể bị thất lạc tự nhiên do kĩ thuật, công cụ lao động đƣợc cải tiến
hoặc tri thức ấy không còn đƣợc sử dụng nữa. Nó cũng có thể bị thất truyền
do không đƣợc ghi chép thành văn bản, vì vậy mà việc nghiên cứu và bảo tồn
là rất quan trọng. Nghiên cứu tri thức dân gian sẽ nâng cao đƣợc nhận thức về
kho tàng kiến thức bản địa đối với sự phát triển. Quá trình phát triển và sự gia
tăng dân số đã thúc đẩy sự thất lạc của tri thức dân gian. Việc thực hiện các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dự án ở vùng cao là hết sức quan trọng nhƣng để đạt hiện quả cao thì các nhà
23
khoa học không thể bỏ qua việc kết hợp giữa kiến thức hiện đại và những tri
thức dân gian, đây cũng là yếu tố tao ra sự phát triển bền vững.
Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở huyện
Lục Nam, tỉnh Bắc Giang vừa là những kinh nghiệm của cuộc sống xã hội
do các thế hệ trƣớc để lại, lại vừa là những kinh nghiệm của các thế hệ hôm
nay tích lũy, bổ sung nhƣng nó cũng tiếp thu những kinh nghiệm dân gian
của các thành phần dân tộc khác ở trong và ngoài tỉnh. Do đó, khi nói về
những tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở huyện
Lục Nam, tỉnh Bắc Giang là nói về một địa phƣơng nhƣng nó không thể
không có những nét chung mà các thành phần dân tộc khác, địa phƣơng
khác cũng có. Vì thế việc hiểu tƣờng tận những tri thức dân gian ở Bắc
Giang là hết sức quan trọng.
2.2. Hệ thống tri thức dân gian về sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao
Lục Nam trong truyền thống
Cũng nhƣ các dân tộc khác ở khu vực phía Bắc, hoạt động kinh tế chủ
yếu của ngƣời Dao ở Lục Nam là nông nghiệp. Trồng trọt và chăn nuôi đƣợc
ngƣời Dao lấy làm nghề sống chính từ lâu đời. Chính vì tầm quan trọng của
nó nên việc đúc rút những kinh nghiệm thành hệ thống kiến thức đã đƣợc
ngƣời Dao tiến hành. Ngày nay những nét độc đáo và khác biệt của hệ thống
tri thức trong nông nghiệp rất cần đƣợc nghiên cứu để kịp thời khắc phục mặt
tiêu cực cũng nhƣ tạo điều kiện phát huy những mặt tích cực vốn có của nó.
2.2.1. Trong trồng trọt
2.2.1.1. Nương rẫy
Thời vụ
Trải qua quá trình làm nƣơng những kinh nghiệm dần trở thành truyền
thống và đƣợc đồng bào khái quát thành nông lịch áp dụng đối với canh tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nƣơng rẫy. Chu kì sản xuất ổn định tạo thành nông lịch của đồng bào:
24
Tháng giêng: Sau khi ăn Tết nguyên đán đồng bào tiến hành chọn rừng,
chọn đất để làm nƣơng.
Tháng hai, Tháng ba: Tiến hành phát rẫy.
Tháng tư, tháng năm: Tiến hành đốt nƣơng và bắt đầu tra lúa.
Tháng sáu, tháng bảy: Tiến hành làm cỏ đợt một.
Tháng tám: Tiến hành làm cỏ đợt hai.
Tháng chín, tháng mười: Tiếp tục chăm sóc và tiến hành thu hoạch lúa.
Qua lịch nông nghiệp đối với nƣơng rẫy của ngƣời Dao ở Lục Nam,
chúng ta thấy rằng việc sản xuất của đồng bào phụ thuộc chặt chẽ vào tự
nhiên. Đối với canh tác nƣơng rẫy, nguồn nƣớc mƣa hàng năm là quan trọng
nhất. Do là nguồn nƣớc chính phục vụ cho canh tác nƣơng rẫy nên thời gian
sinh trƣởng của cây lúa nƣơng và các giống cây trồng khác đều phải gắn với
mùa mƣa. Nƣơng chỉ làm một vụ và phải trùng vào mùa mƣa để đảm bảo đủ
nƣớc cho lúa suốt thời gian sinh trƣởng.
Chọn đất
Trƣớc kia đồng bào Dao ở Lục Nam chỉ làm nƣơng du canh với kĩ
thuật “đao canh hỏa chủng” nguyên thủy. Thời gian canh tác ở mỗi mảnh
nƣơng là hết sức hạn chế, khi đất trồng bị bạc mầu, năng suất giảm thì đồng
bào bỏ để tìm nƣơng mới. Việc chọn đất có ý nghĩa quyết định đến sự thành
bại của mỗi vụ mùa sản xuất. Theo các bậc cao niên, khi chọn đất phát nƣơng,
nên chọn các khu rừng già. Đất ở đây thƣờng có mầu vàng sậm hoặc mầu nâu
đen do lớp mùn phân hủy từ lá rừng rụng xuống, phủ lên hết lớp này đến lớp
khác. Kinh nghiệm dân gian cho thấy, đất nƣơng gốc rừng già bao giờ cũng
tơi xốp, độ phì nhiêu cao, giữ ẩm tốt hơn so với các loại đất khác và phù hợp
với nhiều loại cây trồng [56]. Khi chọn nơi để phát nƣơng đồng bào cũng tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đến khả năng mở rộng diện tích canh tác cho những vụ sau. Vì vậy nƣơng của
25
ngƣời Dao thƣờng ở cách xa nhau, mỗi gia đình chiếm cứ một vài vạt đồi
rộng, năm nay chƣa khai thác hết, năm sau tiếp tục khai quang để mở rộng
diện tích. Nƣơng rẫy của ngƣời Dao thƣờng ở xa bản, một mặt là do tập quán
qui định nhƣng mặt khác là do những nơi ở gần thì đều đã đƣợc khai thác cạn
kiệt, không còn khả năng trồng tỉa nữa. Khi tìm đƣợc một mảnh nƣơng vừa ý,
các gia đình ngƣời Dao chọn ngày lành tháng tốt (ngày này đều đến xem tại
nhà thầy cúng trong bản, thƣờng là những ngày 6, ngày 9 trong tháng âm lịch)
để tiến hành phát nƣơng. Lễ cúng nƣơng tại nhà thì lễ vật có gà, xôi, rƣợu để
cúng thổ thần, thổ địa, thần rừng, thần cây. Để cúng lễ trên nƣơng, ngƣời chủ
gia đình chuẩn bị lễ gồm cây lúa đan từ tre, nứa, rƣợu, các thanh tre mỏng đến
làm lễ trên mảnh nƣơng. Cây lúa đƣợc cắm ở giữa, các thanh tre cắm tròn
xung quanh tƣợng trƣng cho sự bảo vệ, ngƣời chủ gia đình thắp hƣơng khấn
vái rồi rót rƣợu vòng quanh cây lúa, cầu mong cho cây lúa trên mảnh nƣơng
này trổ nhiều bông, ngƣời trồng đƣợc ăn no, mạnh khoẻ.
Chọn giống
Nƣơng sau khi đƣợc khai quang đƣợc đồng bào sử dụng để canh tác
lúa nƣơng. Giống lúa nƣơng, thƣờng là các loại lúa nếp nƣơng, lúa mộ, tẻ đỏ,
bao thai lùn, chân trâu lùn, Má tai, Tài lũ pin. Lúa nếp nƣơng là loại lúa có
thân cao, năng suất trung bình, hạt thóc màu sẫm, gạo trắng và thơm đƣợc
đồng bào dùng làm bánh dày hay nấu rƣợu. Giống lúa này ít bị sâu bệnh, do
cây cứng không đổ nên ngƣời Dao hay trồng. Với lúa tẻ, trƣớc đây, ngƣời
Dao thƣờng gieo trồng loại cây cao, hạt nhỏ, gạo đỏ, ăn dẻo và thơm. Loại lúa
này có nhƣợc điểm là hay bị đổ non và năng suất không cao nhƣng bù lại, dễ
chăm sóc và không tốn phân bón.
Khi mang thóc giống ra nƣơng, đồng bào làm lễ cúng thóc giống. Chủ
nhà lập đàn cúng trƣớc bàn thờ tổ tiên, trên bàn đặt cụm lúa giống; bát nƣớc,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đôi đũa, bát gạo, đĩa xôi và con gà luộc, một tờ giấy bản vẽ các hình theo thứ
26
tự: mặt trời, ngƣời cầm nông cụ, bó lúa, một đàn gà, một đàn cá, một con rắn.
Khi thầy khấn xong thì đặt cụm lúa và tờ giấy bản vào đống thóc giống. Tra
nƣơng xong thì đốt giấy. Trong khi cúng thóc giống cấm ngƣời lạ vào nhà, sợ
hồn thóc sẽ theo ngƣời đó đi mất. Trong một ngày một đêm sau khi cúng,
những ngƣời trong nhà cũng không đƣợc đến nhà ngƣời khác, sợ hồn lúa đi
theo và ở luôn lại nhà đó.
Ngô có hai loại là ngô nếp và ngô tẻ. Ngô nếp hạt to, ăn dẻo và trồng
đƣợc cả hai vụ. Ngô tẻ có màu vàng, cây cao, lá to, ăn hơi khô. Loại ngô này
thƣờng ít bị sâu bệnh. Còn có loại ngô tẻ khác, cây cao, hạt có màu trắng. Hai
loại ngô tẻ đều trồng đƣợc hai vụ nhƣng ngô có màu vàng đƣợc đồng bào Dao
trồng nhiều hơn bởi cho năng suất và sản lƣợng cao. Ngô tẻ đƣợc trồng nhiều
hơn ngô nếp.
Cũng nhƣ lúa, đối với ngô đồng bào rất chú ý đến khâu chọn giống.
Ngô đƣợc chọn làm giống bắp phải to, hạt mẩy đều, không có sâu bệnh. Sau
khi lựa chọn trong số ngô nhà mình những bắp ngô giống vừa ý, ngƣời Dao
để riêng bóc hết lớp vỏ áo bên ngoài phơi ngoài nắng cho khô, sau đó buộc 5 -
6 bắp thành từng bó đem treo hoặc gác lên sàn bếp. Số ngô còn lại sau khi
đƣợc phơi khô cũng đƣợc bó thành từng bó cất trong bồ hoặc treo trên xà nhà.
Khi sử dụng đồng bào mới tách hạt ra khỏi bắp.
Sau khi chọn giống, đồng bào tiến hành gieo hạt trên các nƣơng đồi.
Công cụ dùng để chọc lỗ gieo hạt trên nƣơng là chiếc gậy làm bằng một đoạn
cây chắc, đẽo nhọn một đầu, có chiều dài từ 2 - 2,5m, tiết diện ngang vừa nắm
tay cầm. Ngƣời Dao gieo trồng lúa nƣơng từ chân dốc lên đỉnh nƣơng. Họ
dàn thành hàng ngang theo từng cặp, một nam một nữ. Nam đi giật lùi, dùng
gậy để chọc thành từng hốc, nữ theo sau bỏ hạt vào hốc. Khoảng cách giữa
các hốc tƣơng đƣơng với độ dài bàn chân, khoảng 20 - 30 cm. Khi gieo hạt,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những ngƣời phụ nữ Dao thƣờng đeo bên hông một cái giỏ nhỏ, đựng khoảng
27
1-2 kg thóc rồi, lần lƣợt bỏ vào từng lỗ, mỗi lỗ chừng từ 10 - 15 hạt. Giỏ đựng
thóc giống để tra này trông giống nhƣ cái giỏ tre của ngƣời Việt đƣợc đồng
bào gọi là liểng và đan bằng cật giang. Miệng trên của liểng của ngƣời Dao
Thanh Y lại có kích thƣớc khác, cụ thể đƣờng kính 14 cm, cao 19 cm. Đó là
dụng cụ vừa để thóc giống khi tra hạt trên nƣơng vừa để đựng đồ khô cần bảo
quản nhẹ trên bếp. Sau khi tra xong hạt, đồng bào thƣờng dùng cành cây quét
nhẹ trên mặt đất cho đất phủ kín hạt giống, tránh sự phá hoại của chim, chuột.
Cũng có khi đồng bào dùng phƣơng pháp vãi hạt nhƣng với yêu cầu là
đất phải đƣợc chuẩn bị chu đáo hơn so với kiểu chọc lỗ tra hạt. Gieo theo kiểu
này nƣơng lúa sẽ ít cỏ, đất xốp và giữ đƣợc độ ẩm lâu hơn, do vậy tạo điều
kiện cho lúa mọc đều, phát triển nhanh. Tuy nhiên, gieo vãi lại có nhƣợc điểm
là nếu mới vãi hạt mà gặp mƣa to thì có tình trạng có nơi lúa mọc thƣa, nơi
khác lại mọc dầy, không thể làm cỏ bằng cào đƣợc mà phải làm trực tiếp bằng
tay. Gặp phải trời mƣa to, lúa dễ bị đổ, ảnh hƣởng đến năng suất và thu hoạch.
Với những đám nƣơng đã từng gieo trồng, nếu ở những nơi có địa hình tƣơng
đối bằng phẳng thì khâu làm đất đƣợc thực hiện bằng cày, bừa. Còn ở những
nơi có độ dốc lớn bà con thƣờng phải dùng cuốc để rẫy cỏ và sau đó mới bổ
hốc gieo trồng. Để đề phòng sâu kiến ăn mầm lúa, đồng bào thƣờng trộn thêm
một chút tro bếp vào hạt giống rồi dùng tay bốc hạt tra vào hốc.
Đối với sắn, ngƣời Dao trồng sắn chủ yếu trên các nƣơng đồi có độ dốc
tƣơng đối lớn. Đây là những đám nƣơng đã trở nên cằn cỗi sau khi trồng các
loại cây thực phẩm. Đồng bào trồng hai loại sắn phổ biến là sắn trắng và sắn
đỏ. Sắn đƣợc trồng vào tháng Giêng, sau khi ăn tết xong đồng bào tiến hành
cày nƣơng, đánh luống trồng sắn. Luống trồng sắn đƣợc đánh cao từ 25 -
30cm, rộng 40 - 45cm. Hố trồng có độ sâu từ 10 - 15cm chạy thẳng theo mạch
luống. Mỗi hố cách nhau chừng 30 - 35cm. Nhƣ khoai lang, sắn đƣợc trồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bằng thân (cành), giống đƣợc giữ từ vụ trƣớc. Sau khi thu hoạch sắn về, ngƣời
28
ta chọn những cây có thân to, mắt dầy, không bị sâu bệnh. Số cây giống này
đƣợc bó riêng để nơi râm mát. Trƣớc thời gian trồng 20 ngày đồng bào đem
vùi gốc xuống đất sâu 30 - 35cm cho thân sắn tƣơi trở lại. Đến ngày trồng cây
sắn đƣợc cắt thành từng đoạn có chiều dài trung bình từ 18 - 22cm. Sau khi
cắt sắn đƣợc trồng ngay xuống đất để hạn chế sự mất nhựa tạo điều kiện cho
mầm cây mau phát triển. Hom đƣợc trồng nghiêng theo chiều luống tạo thành
góc 20o. So với các cây lƣơng thực khác sắn có ƣu điểm là tính chịu hạn rất
tốt, ít bị sâu bệnh và không phải chăm bón nhiều. Thông thƣờng sau khi trồng
đƣợc hai hoặc ba tháng đồng bào xới cỏ, bỏ phân vun luống gốc cho cao hơn
để kích thích quá trình tạo củ sau này.
Sắn thƣờng đƣợc thu hoạch vào tháng 11. Khi thu hoạch về sắn đƣợc
bóc vỏ thái thành những lát vát mỏng trải đều ra sân phơi. Khi đã khô, sắn
đƣợc bảo quản trong các bao tải hoặc đƣợc đựng trong chum, chĩnh. Khác với
ngô và thóc, sắn có khả năng hút ẩm rất cao do vậy rất dễ bị nấm mốc, ảnh
hƣởng trực tiếp đến chất lƣợng sử dụng sau này. Để khắc phục nhƣợc điểm
này trung bình mỗi tháng đồng bào lại bỏ sắn ra phơi một lần để chống ẩm
mốc. Sắn là nguồn lƣơng thực quan trọng trong cơ cấu bữa ăn hàng ngày của
đồng bào dân tộc Dao ở Lục Nam. Sắn đƣợc độn cùng với cơm hoặc làm
thành bánh. Mặc dù sắn không ngon bằng ngô, nhƣng do đất đai trung du,
diện tích nƣơng đồi nhiều (hơn 50% tổng quỹ đất canh tác của mỗi hộ) nên
diện tích trồng cây sắn hơn trồng ngô và các cây lƣơng thực thực phẩm khác.
Do vậy, sản lƣợng sắn cao hơn nhiều lần so với sản lƣợng các cây lƣơng thực
thực phẩm khác. Những năm đƣợc mùa lúa, sắn là nguồn lƣơng thực dự
phòng cho năm sau hoặc đƣợc sử dụng để nấu rƣợu hay chăn nuôi gia súc, gia
cầm hoặc bán cho Nhà nƣớc theo hình thức trả tiền hoặc đổi lấy vải và các đồ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dùng sinh hoạt trong gia đình.
29
Chăm sóc
Đồng bào Dao Lục Nam không có nhiều biện pháp để chăm bón mà
hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên, năm mƣa thuận thì đƣợc mùa còn
những năm gặp hạn hoặc mƣa quá nhiều thì đều ảnh hƣởng rất lớn tới năng
suất. Lúa trên nƣơng không đƣợc đồng bào chăm bón bằng bất cứ loại phân
bón nào mà chỉ dựa và những mùn cây và tro đốt để lúa sinh trƣởng và phát
triển. Từ khi tra hạt cho tới khi thu hoạch đồng bào tiến hành làm cỏ cho
nƣơng, thƣờng từ 1 đến 3 lần.
Trên nƣơng việc bảo vệ thực vật cũng đƣợc tiến hành một cách đơn
giản và hoàn toàn mang tính kinh nghiệm, đồng bào Dao ở các bản huyện Lục
Nam thƣờng có biện pháp trừ sâu, đuổi chuột rất đặc biệt. Để đuổi sâu đồng
bào thƣờng lấy lá cây Thau (một loại cây rừng có nhiều ở địa phƣơng) cắm
vào trong nƣơng, còn để đuổi chuột đỡ phá lúa đồng bào dùng những khóm
riềng để vào trong ruộng để cho chuột khỏi đến phá. Khi lúa mọc xấu, bị bệnh
vàng lá, bị sâu cắn, đồng bào làm lễ cúng đuổi tà ma và rẩy nƣớc phép vào
chỗ lúa bị sâu bệnh. Nếu nhiều nhà đều có nƣơng bị sâu bệnh thì dân bản tổ
chức cúng cầu mùa [56].
Để bảo vệ lúa và hoa mầu, đối với lúa nƣơng ngƣời Dao phải rào và
canh gác vào các dịp chuẩn bị thu hoạch để phòng thú rừng đến phá hoại.
Ngày nay, do làm ruộng nƣơng ngay cạnh nhà nên họ làm hàng rào xung
quang để ngăn gia súc, gia cầm phá hoại. Hàng rào đƣợc đan bằng phên nứa
với các khung gỗ nhỏ và cột làm giá đỡ. Đến nay, do có những đổi mới trong
biện pháp chăm sóc và bảo vệ thực vật nên đồng bào cũng đó tiến hành phun
thuốc trừ sâu, từ 1 đến 2 lần trong thời gian chăm sóc. Cũng nhƣ các chân
ruộng bậc thang, nƣơng đồi là loại đất có độ dốc lớn. Xói mòn do mƣa lũ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đƣợc xem là kẻ thù nguy hiểm số một. Để hạn chế sự rửa trôi của nƣớc mƣa,
30
sau khi trồng cây xong đồng bào tiến hành đào rãnh quanh phía trên ruộng để
nƣớc mƣa không tràn vào làm nát hoa màu rửa trôi lớp màu của ruộng.
Ngƣời Dao ở Lục Nam đã khai thác triệt để các đồi gò hoang hóa cằn
cỗi bạc mầu của miền trung du, với bao mồ hôi xƣơng máu hết thế hệ này đến
thế hệ khác lao động miệt mài không ngơi nghỉ, đồng bào đã cải tạo những
nấm đồi hoang trơ sỏi đá thành bãi hay những triền ruộng bậc thang cấy lúa,
trồng hoa màu có hiệu quả. Trên mỗi loại ruộng, đồng bào lựa chọn những
giống cây thích hợp với chất đất, khí hậu để gieo trồng. Vừa khai thác, vừa cải
tạo từng bƣớc sao cho phát huy tối đa hiệu quả kinh tế.
Quá trình canh tác trên một đám nƣơng của đồng bào dân tộc Dao ở
Trồng lúa,
- Trồng sắn, củ từ,
- Trồng cây lâu năm
Loại cây: ngô, lạc đỗ
củ mỡ
hoặc bỏ hóa 4-5 năm
Đất nƣơng vừa khai phá
Đất nƣơng đã bạc màu
Đất cằn cỗi
Lục Nam có thể tóm tắt trong mô hình sau:
Thông thƣờng, công thức ba giai đoạn trên đƣợc tiến hành trong
khoảng thời gian từ 8 - 10 năm. Sau 4 - 5 năm lại quay lại khai phá để trồng
trọt. Những nƣơng đồi mới đƣợc khai phát, đất còn giàu hàm lƣợng dinh
dƣỡng, đồng bào Dao ƣu tiên gieo lúa hoặc trồng cây hoa màu ngô, lạc. Sau
vài năm sử dụng, đất đó bạc màu ngƣời dân chuyển sang trồng sắn, củ từ, củ
mỡ. Vài năm sau chuyển sang trồng cây lâu năm, hoặc bỏ hóa sau 4 - 5 năm
rồi quay lại khai phát tiến hành các giai đoạn trồng trọt nhƣ trên.
Công cụ lao động:
Thông qua lao động đồng bào đã sáng tạo ra nhiều công cụ lao động để
giải quyết các khâu kỹ thuật trên các nƣơng đồi, chân ruộng khác nhau và
các giống cây trồng khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả và năng suất cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trồng. Trong bộ nông cụ của đồng bào có nhiều nông cụ giống với các dân
31
tộc anh em nhƣ: chiếc cuốc bàn (poong), xẻng, liềm (lìm), chiếc vồ đập đất
(pà đan), trang mạ (tháng), con dao quắm (thung dụ) để đi rừng chặt gỗ phát
nƣơng… Song cũng có một số nông cụ đáng chú ý.
Trên các mảnh nƣơng đƣợc làm sạch đồng bào thƣờng sử dụng chiếc
cày (lày) cổ truyền có lƣỡi và diệp thẳng nhỏ, không có độ cong để có thể
cày lật úp đất. Đây là loại cày rất chắc, nhẹ, lƣỡi cày nhỏ và nhọn, dài 20cm.
Cày mà không chắc, lƣỡi mà không nhỏ thì khó có thể lách qua đƣợc các
hốc đá ong, hốc cây to trên nƣơng. Hiện nay cày của đồng bào là cày chìa
vôi làm từ chất liệu gỗ, sắt và gang. Cày có cấu tạo nhƣ sau: lƣỡi cày làm
bằng sắt có dáng cong nhẹ, lƣỡi có đầu nhọn, sắc, thân lƣỡi dài 35cm. Diệp
cày đúc bằng gang, các bộ phận còn lại đƣợc tạo từ gỗ. Lƣỡi và diệp cày gắn
với thân cày nối với bắp cày bằng gỗ dài 1,6m. Thân cày nối với chằng cày,
vai cày, cá cày.
Dao quắm đƣợc dùng để phát cỏ, chặt cây con. Dao quắm của ngƣời
Dao đƣợc làm từ sắt, lƣỡi mỏng dài 30cm, bản to, đầu lƣỡi nhọn và quặp
vào than lƣỡi. Dao đƣợc tra cán bằng gỗ tròn, có đƣờng kính từ 2 - 2,5cm,
dài 50cm.
Cào làm cỏ có hai loại là cào chuôi gỗ lƣỡi sắt và cào làm hoàn toàn
bằng sắt. Cào chuôi gỗ lƣỡi sắt thân dài 35cm, trong đó phần chuôi gỗ dài
25cm, đƣờng kính 0,3cm. Còn phần lƣỡi sắt có dạng hình khum (2/3 vòng
tròn), rộng 5-7cm, dầy 0.1cm, đầu nhọn.
Dụng cụ cắt lúa nƣơng (khu nhíp): rất nhỏ có thể cầm gọn trong bàn tay
và gặt lúa nƣơng rất nhanh, đƣợc làm từ chất liệu sừng trâu, xƣơng thú và lƣỡi
sắt dài 5cm mài sắc.
Giỏ (cây), túi (xung), thúng (nom màu), bồ (nom bạt), quang gánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(quang đam): các loại đồ dùng này đều đƣợc đan bằng tre, giang hay song
32
mây. Các giỏ nhỏ đều có dây quai đeo và treo trên gác bếp để bảo quản
hạt giống.
Địa hình vùng trung du không bằng phẳng, giao thông đi lại gặp không
ít khó khăn. Qua thực tiễn lao động sản xuất ngƣời Dao ở Lục Nam đã sáng
tạo ra chiếc xe quệt (phung). Xe quệt có khung kết cấu nhƣ khung xe bò, xe
trâu, song không có trục và bánh xe, phần đuôi đƣợc kéo lê trực tiếp xuống
đất. Trông chiếc xe rất đơn giản nhƣng nó đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ vạn
năng, di chuyển đƣợc trên mọi địa hình.
Thu hoạch và bảo quản: Sau khi chăm sóc nƣơng, ruộng là tới những
ngày thu hoạch sản phẩm. Đồng bào Dao ở Lục Nam có tục chọn ngày đi gặt,
theo cụ Tuân (83 tuổi) ở bản Văn Non- Lục Sơn cho biết thì ngày xƣa các cụ
đi gặt thƣờng chọn vào ngày 9 để đi. Ngày 9 tức là những ngày mồng 9, 19
hay 29. Lý do cụ cho biết cũng hết sức đơn giản là vì quan niệm đi gặt vào
ngày 9, số 9 là số lớn nhất nên gặt vào ngày này sẽ đƣợc nhiều lúa và lúa sẽ
lâu hết.
Đối với lúa trên nƣơng, đồng bào dùng một dụng cụ gọi là Khu nhíp để
cắt từng bông lúa, cắt đƣợc bông nào họ bỏ vào một cái giỏ đeo bên hông.
Những bông hạt mẩy to sẽ đƣợc chọn để riêng làm giống cho vụ sau. Sau khi
cắt lúa trên nƣơng về đồng bào thƣờng bó thành từng cụm nhỏ rồi gác lên gác
bếp vừa để sấy khô nhƣng đồng thời cũng là cách bảo quản lúa của đồng bào.
Khi cần sử dụng họ lấy từng cum lúa xuống cho cả vào cối để giã. Cho đến
nay, đồng bào Dao ở Lục Nam không còn làm lúa nƣơng nữa nhƣng những
kinh nghiệm về quá trình lao động trên nƣơng từ khi đốt nƣơng, tra hạt cho
đến khi thu hoạch vẫn đƣợc các cụ già nhớ khá chính xác nhƣ để nhớ lại
những ngày lao động đầy khó khăn, gian khổ. Ở một vài gia đình ngƣời Dao ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lục Nam còn lƣu giữ đƣợc bộ dụng cụ làm nƣơng gần nhƣ nguyên vẹn.
33
Sau khi gặt xong ngƣời Dao tiến hành lễ cúng hồn lúa vào tháng Chạp.
Chủ nhà đặt cụm lúa gặt cuối cùng ở phía dƣới bàn thờ tổ tiên, mục đích cúng
để thu hết hồn lúa về nhà, có nhƣ vậy, các vụ lúa sau mới tƣơi tốt. Vào tết
cơm mới (mùng 10 tháng 10 âm lịch) đƣợc cúng trong nhà để tạ ơn tổ tiên đã
phù hộ cho mùa màng bội thu. Lễ vật gồm nồi cơm mới, rƣợu, thịt cá, canh
rau, vài bông lúa mới. Chủ nhà kể công ơn tổ tiên, cầu mong tổ tiên tiếp tục
phù hộ mãi mãi để việc làm ăn ngày càng gặp nhiều may mắn. Cúng cơm
mới, kiêng không cho ngƣời ngoài, kể cả họ hàng vào nhà.
2.2.1.2. Ruộng nước
Thời vụ
Xƣa kia việc trồng cây lƣơng thực của ngƣời Dao ở Lục Nam thƣờng
phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Những năm mƣa thuận gió hòa thì có đủ
lƣơng thực để ăn, còn không sẽ bị mất mùa đói kém. Hàng năm đồng bào chỉ
cấy trồng đƣợc một vụ lúa mùa vào mùa mƣa từ tháng 4 đến tháng 9 âm lịch.
Bởi vậy, mùa canh tác của ngƣời Dao trƣớc đây là gieo trồng từ tháng 2 đến
tháng 4, thu hoạch trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 10.
Cƣ trú trên mảnh đất ở vùng sƣờn đồi trung du xƣa nay vẫn đƣợc mệnh
danh là nơi “Chó ăn đá, gà ăn sỏi” đất đai bạc màu cằn cỗi tƣởng nhƣ con
ngƣời không thể trụ đƣợc. Song trên thực tế ngƣời Dao ở đây không những
tồn tại đƣợc mà còn phát triển đi lên. Họ biết khai thác triệt để nguồn lực tiềm
năng vốn có để tồn tại và phát triển. Qua bao thế hệ với bao kinh nghiệm
đƣợc đúc rút đƣợc truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, ngƣời Dao đã xây
dựng cho mình một chu kỳ sản xuất khép kín trong 12 tháng vừa phù hợp với
điều kiện đất đai vừa phù hợp với điều kiện khí hậu của vùng trung du.
Lịch nông nghiệp là kết tinh của tri thức dân gian qua nhiều thế hệ luôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tìm cách tồn tại vƣơn lên trong môi trƣờng sống của mình. Cũng nhƣ nhiều cƣ
34
dân nông nghiệp khác ngƣời Dao rất coi trọng tính thời vụ trong sản xuất. Sau
khi ăn tết Nguyên đán một cái tết quan trọng nhất trong năm đồng thời cũng
là kết thúc một năm lao động sản xuất, mở ra một năm mới. Sau tết ngƣời dân
bắt tay vào cày ải làm nƣơng để trồng ngô, sắn, củ từ. Sang tháng 3 sau tết
thanh minh mƣa xuống đồng bào bắt tay vào làm ruộng và đồng thời xới cỏ
cho ngô, sắn đã đƣợc trồng vào tháng giêng (xem bảng 2, trang 35).
Nông lịch mới chỉ là một phác hoạ những nét lớn trong chu kỳ sản xuất
của một năm, còn biết bao công việc khác mà không thể liệt kê hết đƣợc, mùa
tiếp mùa, cây gối cây hết việc đồng lại việc nhà... Những kinh nghiệm quý
báu nhƣ vậy chỉ có thể là kết quả của một quá trình lao động không ngừng tự
trau rồi tri thức, tự đúc rút kinh nghiệm về thiên nhiên để có thể tồn tại trong
môi trƣờng, hơn thế nữa là hoà điệu với môi trƣờng.
Bảng 2 : Lịch nông nghiệp truyền thống đối với ruộng nước
Tháng Các hoạt động chính (âm lịch)
1 Cày ải, trồng đỗ tƣơng, lạc, đi rừng lấy gỗ, lấy củi
2 Tiếp tục cày ải, trồng củ từ, củ mỡ, sắn, xới lạc, đỗ, thu hoạch
khoai lang vụ đông
3 Xới đỗ, củ mỡ, củ từ, sắn, tiếp tục thu hoạch khoai lang vụ đông
trồng mía, trồng bông, cày bừa ruộng chuẩn bị gieo mạ, trồng cà
4 Thu hoạch lúa chiêm, gieo mạ, bừa ải chuẩn bị cấy mùa, thu
hoạch đỗ, lạc tháng 1, tiếp tục trồng bông, trồng mía, thu hoạch
khoai sọ
5 Cấy mùa sớm, tiếp tục thu hoạch đỗ, lạc tháng 2, thu hoạch cà.
Trồng đỗ tƣơng, ngô, lạc, trồng khoai lang lấy giống dây, tiếp tục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thu hoạch khoai sọ
35
Tháng Các hoạt động chính (âm lịch)
6 Tiếp tục cấy mùa, bón phân làm cỏ cho ngô, lạc, đỗ, tiếp tục thu
hoạch cà
7 Cấy lúa muộn, làm cỏ bón phân cho lúa sớm, thu hoạch bông, đỗ
tƣơng, ngô và lạc tháng 5, trồng khoai lang lấy củ
8 Làm cỏ, bón phân lúa muộn, gặt lúa sớm (tháng 5), vun luống
khoai lang, tiếp tục thu hoạch bông
9 Gặt lúa, thu hoạch khoai lang vụ đông
10 Thu hoạch lúa muộn (tháng 7), tiếp tục thu hoạch khoai lang vụ
đông, trồng khoai sọ sớm
11 Cày ruộng thụt cấy chiêm, dệt vải, chuẩn bị ăn tết, trồng khoai sọ
muộn.
12 Cấy chiêm ruộng thụt
Nguồn: [54]
Những năm sau này, khi đã định canh, định cƣ, đồng bào Dao làm
ruộng ở vùng thấp. Đó là những bản làng ngƣời Dao cƣ trú xen kẽ cùng ngƣời
Tày, Nùng, Kinh và một số dân tộc thiểu số anh em khác. Ở những vùng đất
này, đồng bào làm ruộng nƣớc và ruộng bậc thang. Ngoài ra, họ còn có những
nƣơng bằng hay nƣơng định canh. Cách thức làm ruộng của ngƣời Dao ở Lục
Nam cũng giống nhƣ các dân tộc khác ở xung quanh họ.
Chọn đất
Đồng bào thƣờng phân đất thành nhiều loại và sử dụng các loại đất đó
vào việc trồng các loại cây giống nhƣ ngƣời Cao Lan. Nếu dựa vào thế đất có
đất bằng và đất dốc. Nhƣng nếu theo chất đất thì có đất đá, đất sét, đất thịt, đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phù sa và đất chua. Còn theo độ cao có đất đồng trũng, đất ruộng cao. Những
36
nơi có đất phù sa mới bồi đắp là những khoảng đất cao, thích hợp với việc
trồng ngô, đậu, khoai lang… Còn loại đất phù sa cổ đƣợc đồng bào Dao canh
tác hai vụ lúa hoặc một vụ lúa, một vụ màu. Đây là loại ruộng bậc thang mà
xƣa kia họ chỉ trồng đƣợc một vụ lúa, nay đã có thể trồng thêm một vụ màu.
Loại đất mùn chiếm một tỷ lệ tƣơng đối lớn, thƣờng đƣợc đồng bào chuyên
trồng lúa, ngô, khoai lang, khoai sọ… Loại đất trên các đồi, núi, có độ dốc
lớn, thích hợp cho tái sinh rừng. Ngoài ra còn có đất đồi, núi, độ cao không
lớn dành cho trồng rừng và các loại cây công nghiệp, cây ăn quả. Đồng bào
thƣờng trồng các loại cây ăn quả nhƣ vải thiều, hồng, xoài, dứa, mía… Hiện
nay đồng bào đều đã trồng đƣợc 2 vụ lúa một năm. Điều đó không chỉ phụ
thuộc vào điều kiện thổ nhƣỡng hay khí hậu thủy văn mà còn phụ thuộc vào
bộ giống lúa của đồng bào hiện nay đã có đủ các giống lúa mới nhƣ 203,
Kháng Mằn, Q5, Bao Thai… Trên cơ sở những loại đất và cách chọn đất nhƣ
vậy, ngƣời Dao ở Lục Nam chia thành các loại ruộng trồng cấy nhƣ sau:
Ruộng lầy thụt là những chân ruộng trong thấp, hẹp. Loại ruộng này lúc
nào cũng có nƣớc nên rất lầy, đất ruộng này rất tốt do nƣớc mƣa rửa trôi từ
đồi bồi tụ lại. Do có nƣớc quanh năm nên đất rất mềm, đồng bào thƣờng cuốc
lật cỏ để ngâm làm phân hoặc cho trâu quần cho nhuyễn rồi cấy. Loại ruộng
này chiếm tỉ lệ diện tích rất ít, đồng bào thƣờng sử dụng vào cấy lúa mỗi năm
2 vụ, phổ biến là cấy lúa nếp. Ruộng lầy thụt có đặc tính dễ bị chua do độ
phèn trong đất cao, để giảm bớt độ phèn trong các chân ruộng này đồng bào
thƣờng bổ xung tro than hoặc rắc vôi bột vào cuối vụ hàng năm.
Ruộng nƣớc - ruộng rộc là những chân ruộng ở các thung lũng rộng
bằng phẳng. Ruộng dùng để cấy lúa nƣớc chủ yếu là lúa tẻ mỗi năm 1 vụ thời
gian còn lại trồng hoa màu.
Ruộng bãi là loại ruộng đƣợc đồng bào đặc biệt quan tâm. Mặc dầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
không có khả năng tích trữ nƣớc, song đất rất tơi xốp và giàu dinh dƣỡng
37
đồng bào trồng xen canh, luân canh nhiều loại cây lƣơng thực, thực phẩm:
ngô, khoai lang, củ từ, củ mỡ, lạc, đỗ tƣơng, sắn, mía…
Ruộng bậc thang là những chân ruộng đƣợc cải tạo từ những nấm đồi
bằng thoải. Ruộng đƣợc cải tạo theo lối giật cấp từ thấp lên cao bao quanh
ven đồi. Ruộng bậc thang có đặc điểm hẹp ngang xong rất dài. Loại ruộng này
thƣờng cấy đƣợc một vụ lúa sớm, vụ còn lại trồng lạc, đỗ tƣơng.
Chọn giống
Trong việc trồng lúa nƣớc, vấn đề chọn và bảo quản giống đƣợc đồng
bào Dao chú trọng và coi đây là một trong những khâu quan trọng, có tính
chất quyết định đến năng suất vụ mùa sau. Lúa nƣớc đƣợc đồng bào Dao
trồng hai loại là nếp và tẻ. Chọn và bảo quản giống lúa đƣợc ngƣời Dao rất
chú trọng, đồng bào coi đây là một trong những khâu quan trọng quyết định
sản lƣợng và chất lƣợng lúa vụ mùa sau. Thƣờng khi lúa đó trổ bông kết hạt,
ngƣời ta chọn trên thửa ruộng mà mình canh tác những khoảnh lúa cho hạt
mẩy, bông dài và chín đều. Khi lúa đƣợc thu hoạch số lúa đƣợc chọn làm
giống này đƣợc cắt riêng, phơi riêng. Sau khi phơi đủ nắng, thóc đƣợc quạt
sạch, sẩy kỹ, bảo quản trong chum chĩnh rất cẩn thận. Các công đoạn xử lý
trên thƣờng đƣợc áp dụng đối với lúa tẻ. Đối với lúa nếp, đồng bào ít khi tách
hạt ra khỏi bông rồi phơi cất nhƣ lúa tẻ, mà vẫn giữ cả bông phơi khô sau đó
bó thành từng bó nhỏ, đem treo trên gác bếp hoặc xà nhà. Kinh nghiệm thực
tế cho thấy, làm nhƣ vậy giống không bị ẩm, mốc và các vi sinh vật phá hoại,
khi xuống giống mầm cây phát triển đều và khỏe. Đến mùa gieo mạ, đồng bào
mới bỏ xuống dùng tay vò từng bó, sau đó sẩy sạch đem ủ để gieo.
Ngƣời Dao ở Lục Nam thƣờng trồng hai vụ ngô. Vụ xuân hè là vụ
chính từ tháng 3 đến tháng 6. Vụ hè thu là vụ chiêm đƣợc trồng vào tháng 6 -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
7 và thu hoạch vào tháng 9 - 10. Trong hai vụ đó, vụ xuân hè có diện tích gieo
38
trồng rộng hơn. Cũng nhƣ lúa, đối với ngô đồng bào rất chú ý đến khâu chọn
giống. Ngô đƣợc chọn làm giống bắp phải to, hạt mẩy đều, không có sâu
bệnh. Sau khi lựa chọn trong số ngô nhà mình những bắp ngô giống vừa ý,
ngƣời Dao để riêng bóc hết lớp vỏ áo bên ngoài phơi ngoài nắng cho khô, sau
đó buộc 5 - 6 bắp thành từng bó đem treo hoặc gác lên sàn bếp. Số ngô còn lại
sau khi đƣợc phơi khô cũng đƣợc bó thành từng bó cất trong bồ hoặc treo trên
xà nhà. Khi sử dụng đồng bào mới tách hạt ra khỏi bắp.
Chăm sóc: Trong việc chăm sóc lúa, ngƣời Dao đã biết dùng phân để
bón cho các loại cây trồng. Đồng bào thƣờng dùng hai loại phân bón chính là
phân chuồng và phân xanh. Phân chuồng đƣợc vãi đều sau khi đã cày vỡ. Sau
đó ngâm kĩ và bừa ngả trƣớc khi cấy. Khoảng 20 ngày sau, khi lúa ra rễ thì
bón thúc bằng phân xanh. Hiện nay, ngoài dùng phân hữu cơ ngƣời Dao ở
Lục Nam còn dùng các loại phân hóa học nhƣ đạm, kali, lân.
Việc làm cỏ cho lúa nƣớc đƣợc tiến hành hai lần: lần đầu tiến hành sau
khi cấy đƣợc khoảng 20 ngày. Sau 25 - 30 ngày, trƣớc khi lúa làm đòng, sau
khi đó dọn sạch cỏ thì bón thúc bằng phân đạm, kali.
Để bảo vệ lúa và hoa mầu, đối với lúa nƣơng ngƣời Dao phải rào và
canh gác vào các dịp chuẩn bị thu hoạch để phòng thú rừng đến phá hoại.
Ngày nay, do làm ruộng nƣơng ngay cạnh nhà nên họ làm hàng rào xung
quang để ngăn gia súc, gia cầm phá hoại. Hàng rào đƣợc đan bằng phên nứa
với các khung gỗ nhỏ và cột làm giá đỡ. Đến nay, do có những đổi mới trong
biện pháp chăm sóc và bảo vệ thực vật nên đồng bào cũng đó tiến hành phun
thuốc trừ sâu, từ 1 đến 2 lần trong thời gian chăm sóc.
Để dẫn nƣớc vào ruộng, trƣớc kia đồng bào thƣờng dùng thân cây Mai,
đục thủng các đốt thành ống rồi dẫn nƣớc từ khe suối về ruộng. Cho đến nay,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
việc sử dụng thân cây Mai vẫn đƣợc tiến hành ở một vài nơi nhƣng chủ yếu là
39
ở những địa điểm không thể dẫn nƣớc bằng mƣơng. Ngày nay, thân cây Mai
còn đƣợc đồng bào thay thế bằng những ống nhựa, vừa tiện lợi vừa đảm bảo
độ bền. [54]
Đối với ruộng nƣớc, đây là loại ruộng nằm dƣới các thung lũng nhỏ,
vào mùa mƣa trên các đồi, khe đổ xuống tích tụ lại cuốn theo lớp đất màu.
Bởi vậy loại ruộng này rất tốt có thể cấy đƣợc 2 vụ lúa trong năm. Tuy nhiên
do nƣớc tích tụ dài ngày, đấy hay bị chua - có độ phèn cao. Để khắc phục
nhƣợc điểm này hàng năm sau khi cày bừa cuốc bờ cho cỏ ngấu làm phân
đồng bào dùng vôi bột rắc đều trên mặt ruộng. Vôi vừa có tính năng làm giảm
độ phèn trong đất vừa diệt các tổ ấu trùng, sâu bệnh trên ruộng.
Để bổ sung hàm lƣợng chất dinh dƣỡng cho đất, hàng năm ngoài lƣợng
phân chuồng, phân xanh, đồng bào còn tận dụng thân và gốc lúa để tăng
cƣờng độ mùn và khoáng chất. Ngƣời Dao có hai phƣơng pháp sử lý rạ.
Trong vụ mùa cũng nhƣ vụ chiêm đồng bào sử dụng chiếc hái làm công cụ cắt
lúa. Lúa đƣợc cắt lửng lấy bông chứ không lấy cả thân nhƣ phƣơng cách dùng
liềm gặt của ngƣời Việt. Để ý quan sát và tìm hiểu sự khác biệt này nhận thấy
sở dĩ có sự khác biệt nhƣ vậy là bởi hai lý do chính. Thứ nhất, nguyên liệu
dùng trong đun nấu của ngƣời Việt rất khan hiếm do vậy vật liệu nào đốt
đƣợc là tận dụng bằng hết thậm chí có thể dùng cuốc đánh cả gốc rạ đem về
đun. Đối với đồng bào dân tộc thiểu số núi chung, đồng bào dân tộc Dao nói
riêng do cƣ trú ở vùng đồi trung du giáp núi nguồn nguyên liệu đốt rất sẵn- đa
dạng phong phú lại gần sát quanh nơi cƣ trú khai thác dễ dàng hơn, sử dụng
thuận lợi hơn dùng nguồn nguyên liệu rơm, rạ. Thứ hai, do đặc trƣng của địa
vực cƣ trú việc chuyên chở, vận chuyển ở miền núi trung du khó khăn hơn rất
nhiều so với vùng đồng bằng. Để đƣa một gánh rạ từ ruộng về nhà mất nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thời gian và công sức hơn so với kiếm một gánh củi quanh nhà. Từ hai lý do
40
này mà rạ đƣợc giữ lại trên các chân ruộng để bổ sung chất dinh dƣỡng cho
đất. Sau khi lúa đƣợc thu hoạch đồng bào để khô rạ rồi đốt sử dụng trực tiếp
nguồn tro bổ sung cho ruộng, vừa làm vệ sinh diệt các tổ ấu trùng, sâu bệnh
trên ruộng. Vụ chiêm, đợi mƣa xuống đồng bào cày úp lật đƣờng cày cho rạ
lật xuống phía dƣới. Để cho rạ ngấu đồng bào mới bừa cấy.
Trên các chân ruộng bậc thang, do không chủ động đƣợc nguồn nƣớc
tƣới tiêu nên năm nào mƣa nhiều đồng bào mới cấy lúa, năm ít mƣa đồng bào
trồng khoai lang, lạc, đỗ… Ruộng bậc thang có đặc điểm độ dốc lớn các chân
ruộng gối nhau chạy từ trên xuống dƣới theo lối giật cấp. Để giảm bớt độ xói
mòn của nƣớc mƣa, theo kinh nghiệm đồng bào thƣờng bố trí các rạch nƣớc
chạy so le từ trên xuống, đồng thời tính toán đặt các rạch nƣớc lửng để điều
tiết và phân phối nƣớc cho các chân ruộng từ trên xuống dƣới đều nhau.
Đối với ruộng bãi ở xung quanh nhà, thƣờng có độ dốc thấp hơn so với
các loại ruộng trên nên đồng bào trồng lạc, vừng, ngô, sắn. Để luân canh
không cho đất nghỉ và bổ sung dinh dƣỡng cho đất đồng bào thƣờng tiến hành
trồng xen các loại hoa màu. Dƣới chân các ruộng bãi đồng bào thƣờng đào
các máng nhỏ hoặc mở rộng thành ao nuôi thả cá. Khi thủy nông chƣa phát
triển đồng bào xem phƣơng cách này là phƣơng pháp tối ƣu nhất để dự trữ
nƣớc tƣới cho cây trồng trên nƣơng. Đồng thời ao là nơi tích tụ chất màu của
đất. Hằng năm vào cuối đông đồng bào lấy bùn dƣới ao lên phơi khô làm
phân (phân bùn) bón cho ruộng nƣơng và bãi.
Canh tác trên những mảnh ruộng, nguồn nƣớc tƣới không chủ động
đƣợc, đồng bào chủ yếu trông chờ vào nguồn nƣớc trời. Lƣợng mƣa đôi khi
quyết định năng suất lúa của vụ mùa đó. Xem mặt trời và các dấu hiệu tự
nhiên khác có thể giúp đồng bào nhận biết trời có mƣa hay không. Vào buổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chiều tối khi mặt trời sắp lặn, nếu thấy những tia sáng chiếu thẳng lên nhƣ
41
những ánh đèn pha là dấu hiệu sẽ có mƣa lớn. Đồng bào còn đúc rút rằng
trông mặt trời lúc sắp lặn có ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mƣa. Các loài vật
trong thiên nhiên cũng có sự cảm ứng thời tiết rất tốt. Các cụ già vẫn thƣờng
bảo con cháu rằng thấy loài kiến tha mồi, tha trứng bò ngƣợc lên cao, hay con
cú, chuồn chuồn bay liệng đầy trời là sắp có mƣa lớn. Biết trời sắp mƣa cây
lúa đƣợc tƣới nƣớc sẽ đơm bông trĩu hạt là đồng bào có thể yên lòng, không
còn thấp thỏm lo cho mùa vụ nữa. Cách nhận biết trời nắng lâu thông qua hai
dấu hiệu: sáng sớm thấy mặt trời ửng đỏ tròn nhƣ lòng đỏ trứng gà nhô cao
quá ngọn núi mà vẫn chƣa phát tán. Trên cây cao ven ao, hồ thấy trứng con
chão chàng (trứng to bằng quả trứng vịt màu trắng, loại này thƣờng đẻ trên
cành cây) đẻ càng gần mặt đất thì trời càng nắng lâu.
Cách nhận biết trời rét dựa vào hai dấu hiệu chính là vào rằm tháng 8
âm lịch trăng tròn ánh sáng phát ra mờ nhƣ có màn sƣơng phủ bao quanh
vầng trăng đục nhƣ nƣớc vo gạo. Đặc điểm này báo hiệu năm nay trời sẽ rét
đậm. Nhạn bay về đồng sớm hơn quy luật hàng năm (vào tháng 9 âm lịch) thì
trời năm đó sẽ rét sớm.
Để nhận biết trời sắp mƣa đồng bào nhận biết qua gia cầm và thực vật.
Nhìn rễ cây đa, cây si thả từ thân, cành xuống nhƣ sợi tơ, đầu múp của rễ
mậm trắng hoặc thấy gà thở há mỏ cánh vừa rộng tìm nằm nơi râm mát.
Nhận biết trời có giông tố, gió lớn, nhìn thấy đàn kiếm tha mồi từ thấp
đến cao, con mối từ gốc, thân cây bay ra từng đàn lớn. Tiếng chim thú trong
rừng gọi nhau không bình thƣờng, gió thổi mang hơi nƣớc có cảm giác mát
lạnh, mây đen kéo tới.
Nhận biết trời sẽ gây lũ lụt: vào buổi hoàng hôn mặt trời lặn vào trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mây phát ra chùm tia sáng đỏ rực (nhƣ đèn ô tô).
42
Nhận biết trời mƣa lụt, mƣa lâu: hang cua ở hồ, ao làm mà lên trên cao
cách mặt nƣớc càng cao thì trời càng mƣa lụt lâu. Trời mƣa dày, mƣa bong
bóng qua giờ Ngọ (11 - 13 giờ). Ngoài hai cách nhận biết này các cụ cao niên
còn nhận biết qua cây cỏ ngoài đồng, hiện đồng bào không nhớ tên chỉ kể lại
rằng: lấy cây cỏ xem đốt của thân cây để từ đó biết trời lụt hay mƣa lâu: cây
càng nhiều đốt thì trời lụt càng lâu, mƣa lâu.
Công cụ lao động
Hiện nay cày của đồng bào là cày chìa vôi làm từ chất liệu gỗ, sắt và
gang. Cày có cấu tạo nhƣ sau: lƣỡi cày làm bằng sắt có dáng cong nhẹ, lƣỡi
có đầu nhọn, sắc, thân lƣỡi dài 35cm. Diệp cày đúc bằng gang, các bộ phận
còn lại đƣợc tạo từ gỗ. Lƣỡi và diệp cày gắn với thân cày nối với bắp cày
bằng gỗ dài 1,6m. Thân cày nối với chằng cày, vai cày, cá cày.
Để làm mịn đất đồng bào dùng tới chiếc bừa (pà), các răng bừa đƣợc
làm bằng tre hoặc gỗ tốt. Tùy theo loại nƣơng mà đồng bào sử dụng bừa ít
răng hay nhiều răng cho phù hợp với địa hình và chất đất. Từ năm 1960 trở lại
đây răng bừa bằng tre đã đƣợc thay thế bằng sắt. [56] Chiếc bừa (pà) mới
đƣợc tạo từ gỗ, tre, sắt theo hình chữ “nhi”, trông bừa giống chiếc đinh ba với
các răng sắc nhọn. Hai tay bừa làm bằng gỗ tròn dài 45cm, nối liền với càng
dƣới của bừa. Càng có chiều dài bằng chiều dài khung bừa là 1,5m. Càng trên
đƣợc làm bằng gỗ gắn chặt vào khung bừa. Trên càng này gắn các răng bừa
bằng sắt dài 30cm, đầu nhọn, sắc. Trƣớc đây ngƣời Dao thƣờng dùng hai trâu
để kéo bừa. Do vậy, tay bừa của họ có ba gọng để buộc dây, gồm 20 - 22
chiếc răng. Gần đây chiếc cày thuộc dạng bừa tay ngang có từ 15 - 22 răng,
chỉ có một trâu kéo.
Để vun đất thành luống ngƣời Dao dùng cào kéo, đƣợc làm bằng gỗ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tre, thân là một thanh gỗ tròn có đƣờng kính 6 - 7cm dài 0,78m liên kết với
43
một thanh gỗ ngang rộng 0,5m. Trên thân đƣợc đục để lắp các răng tre có
chiều rộng 3,2cm, các răng cách đều nhau 2cm. Để giữ các răng này cho chắc
ngƣời ta dùng thanh tre ngang ghim chặt vào hai răng hai đầu và răng ở giữa
bộ phận này đồng bào gọi là phá lạt. Hai bên đầu thanh ngang đƣợc buộc dây
để khi làm một ngƣời xúc một ngƣời kéo rất nhanh năng suất cao hơn gấp
nhiều lần so với dùng cuốc mà ngƣời lao động đỡ vất vả.
Cào làm cỏ có hai loại là cào chuôi gỗ lƣỡi sắt và cào làm hoàn toàn
bằng sắt. Cào chuôi gỗ lƣỡi sắt thân dài 35cm, trong đó phần chuôi gỗ dài
25cm, đƣờng kính 0,3cm. Còn phần lƣỡi sắt có dạng hình khum (2/3 vòng
tròn), rộng 5-7cm, dầy 0.1cm, đầu nhọn.
Hái cắt lúa nƣớc cũng có hai bộ phận chính là thân và lƣỡi. Thân hái
làm bằng loại gỗ nhẹ và dẻo có tiết diện ngang vừa tay cầm, dài khoảng 35-40
cm. Mỏ hái ngắn hơn thân, có đầu nhọn khoèo móc lúa khi gặt. Còn lƣỡi hái
đƣợc làm bằng thép dạng hình cong nhƣ chiếc liềm có bản rộng từ 1,5 - 2cm,
dài 12 -15 cm, với những răng cƣa một chiều. Đòn sóc là dụng cụ gánh lúa
nƣớc, đƣợc làm bằng gỗ, dài chừng 1,5 - 2m, hai đầu đƣợc đẽo nhọn để khi
sóc vào bó lúa sẽ dễ dàng hơn.
Để có đƣợc cuộc sống nông nghiệp định cƣ ổn định ở vùng đất đồi núi
nhƣ Lục Nam, công tác thủy lợi đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo
nƣớc tƣới tiêu cho hoa màu. Để đƣa nƣớc từ ruộng thấp lên ruộng cao, từ các
ao hồ, đầm vào ruộng đồng bào sử dụng tới gầu tát (tẹo tán) và chiếc khau
vẩy (dựi túi). Do sản xuất đơn lẻ, manh mún, nên việc xây dựng các công
trình thuỷ lợi có quy mô và hệ thống là chƣa thể có. Bởi vậy ngƣời lao động
thƣờng lợi dụng các thung lũng nhỏ hẹp có suối chảy qua đắp, ngăn thành hồ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ao để dự trữ nƣớc cho sản xuất, chủ động phần nào công việc tƣới tiêu.
44
Thu hoạch và bảo quản
Nền sản xuất nông nghiệp luôn phụ thuộc vào tự nhiên, bởi vậy
những tri thức dân gian là vốn quý giúp ích rất nhiều cho những ngƣời
nông dân. Chọn ngày đi gặt cũng giống nhƣ thu hoạch lúa trên nƣơng
nhƣng đối với lúa ruộng nƣớc thì còn phải đảm bảo một yếu tố nữa là lúa
trong ruộng phải chín đều hay ít ra thì phần lớn số lúa trong ruộng đã chín
có thể gặt về. Nếu chín không đều khi cắt phải để lại số chƣa chín để đợi
đến ngày chín mới có thể cắt tiếp, trong qúa trình thu hoạch sẽ va chạm
làm rụng hạt của những bông chƣa chín.
Nếu nhƣ lúa trên nƣơng đồng bào chỉ cắt lấy phần ngọn của bông lúa
mang về thì đối với lúa ruộng nƣớc đồng bào lại cắt lấy cả thân cây mang về.
Vì thân cây sau khi tách hết hạt sẽ có nhiều tác dụng khác nhƣ phơi khô thành
rơm làm thức ăn cho trân bò, rơm cũng có thể đƣợc sử dụng nhƣ một loại
phân xanh khi đã qua quá trình ủ và rơm sẽ đƣợc đốt lấy tro phục vụ cho sản
xuất. Lúa cắt đƣợc bó thành từng bó, mỗi bó nặng từ 15 - 20kg, đồng bào
dùng một dụng cụ gọi là Đòn sóc để gánh về. Khi lúa đƣợc thu hoạch số lúa
đƣợc chọn làm giống này đƣợc cắt riêng, phơi riêng. Sau khi phơi đủ nắng,
thóc đƣợc quạt sạch, sẩy kỹ, bảo quản trong chum chĩnh rất cẩn thận. Các
công đoạn xử lý trên thƣờng đƣợc áp dụng đối với lúa tẻ.
Đối với lúa nếp, đồng bào ít khi tách hạt ra khỏi bông rồi phơi cất nhƣ
lúa tẻ mà vẫn giữ cả bông phơi khô sau đó bó thành từng bó nhỏ đem treo trên
gác bếp hoặc xà nhà. Kinh nghiệm thực tế cho thấy làm nhƣ vậy giống không
bị ẩm, mốc và các vi sinh vật phá hoại, khi xuống giống mầm cây phát triển
đều và khỏe. Đến mùa gieo mạ đồng bào mới bỏ xuống dùng tay vò từng bó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sau đó sẩy sạch đem ủ để gieo. [56]
45
Đối với lúa ruộng, chỉ những bông đƣợc chọn làm giống cho vụ sau
mới đƣợc đồng bào để riêng và gác lên gác bếp. Số còn lại, hạt thóc đƣợc tách
khỏi bông, đem sấy hoặc phơi khô. Cách tách hạt thóc khỏi bông của đồng
bào Dao ở Lục Nam cũng rất đặc biệt, một số ít đồng bào bó lúa thành từng
bó nhỏ và sử dụng dụng cụ gọi là Néo để đập cho hạt thóc rơi ra khỏi bông,
cách làm này tốn nhiều sức lao động mà lại không nhanh. Phần lớn số lúa gặt
về đƣợc đồng bào cho trâu nhầy, đến khi nào không hạt thóc nào còn sót lại
mới thôi. Cách làm này không tốn sức lao động của con ngƣời nhƣng có một
nhƣợc điểm là thời gian trâu nhầy lúa thƣờng kéo dài, trong quá trình cho trâu
nhầy luôn phải theo dõi, điều chỉnh cho trâu làm việc và đôi khi hạt thóc còn
bị vỡ. Sau khi cho trâu nhầy, đồng bào phải rũ lại cho sạch, đảm bảo những
hạt thóc đó đƣợc tách hết khỏi bông. Thóc sau đó đƣợc đem phơi khô, khi khô
dùng quạt tay hoặc quạt hòm để quạt sạch bụi, hạt lép rồi cất vào bồ bảo quản.
Đối với ngô, khi thu hoạch ngô đƣợc để nguyên bắp, phơi khô, bó thành
từng bó cất trong bồ hoặc treo trên xà nhà. Số ngô cần sử dụng đến đồng bào
mới tách hạt ra để bảo quản trong bao hoặc cất trong chum, vại đặt ở nơi khô
ráo, tránh chuột bọ. Ngô chủ yếu đƣợc dùng để chăn nuôi nhƣng cũng có khi là
lƣơng thực lúc giáp hạt hoặc mất mùa.
Sau khi gặt xong, ngƣời Dao Lục Nam cũng tổ chức Tết cơm mới vào
mùng 10 tháng 10 âm lịch. Lễ cúng đƣợc tiến hành ở trong trong nhà để tạ ơn
tổ tiên đã phù hộ cho mùa màng bội thu. Lễ vật gồm nồi cơm mới, rƣợu, thịt
cá, canh rau, vài bông lúa mới. Sau khi đặt lễ vật lên bàn thờ tổ tiên chủ nhà
kể công ơn tổ tiên, cầu mong tổ tiên tiếp tục phù hộ để việc làm ăn ngày càng
gặp nhiều may mắn. Khi tiến hành cúng cơm mới, kiêng không cho ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngoài, kể cả họ hàng vào nhà sợ hồn lúa đi theo sẽ không gặp đƣợc may mắn.
46
2.2.2. Trong chăn nuôi
Ngƣời Dao ở Lục Nam coi trồng trọt là hoạt động kinh tế chủ đạo, là
nguồn sống chính, chăn nuôi cũng nhƣ các hoạt động kinh tế khác chỉ mang tính
bổ trợ. Thực ra đây cũng là đặc điểm chung của nhiều cƣ dân phƣơng Đông,
những chủ nhân của nền “văn minh thực vật”. Đồng bào Dao ở huyện Lục Nam
đã biết sử dụng sức kéo của trâu, bò, ngựa trong sản xuất nông nghiệp nên chăn
nuôi cũng có tác dụng quan trọng trực tiếp đến nông nghiệp trồng trọt. Bên cạnh
đó chăn nuôi còn nhằm cung cấp vật tế lễ cho các cuộc hiến sinh, thỏa mãn nhu
cầu thực phẩm cho sinh hoạt cộng đồng nhƣ ma chay, cƣới hỏi, làm nhà mới…
và bổ sung thêm thực phẩm cho các bữa ăn hằng ngày.
Do cuộc sống định cƣ, định canh từ lâu đồng bào đã sử dụng đại gia
súc vào công việc phục vụ sức kéo trong nông nghiệp. Nhƣ vậy, trƣớc hết
chăn nuôi trâu để cung cấp sức kéo cho nông nghiệp, giải quyết một khâu
quan trọng trong toàn bộ quá trình canh tác. Ngoài ra, lƣợng phân chuồng mà
loại động vật này cung cấp đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển
nông nghiệp. Ngoài việc cung cấp sức kéo cho phát triển nông nghiệp chăn
nuôi còn đóng vai trò to lớn trong chu kỳ đời sống của ngƣời Dao. Con trâu
không thể thiếu đƣợc trong lễ chay của đồng bào. Một đám ăn hỏi, một nghi
lễ cúng có thể là cấp sắc, giải hạn, trừ ma... đều phải có gà, lợn.
Ngoài hai mục đích trên chăn nuôi còn có ý nghĩa là một thứ tài sản.
Đồng bào vào những ngày giáp hạt, những năm không đƣợc mùa đã đem trâu
để đổi lấy ngô, lấy sắn, lấy khoai với tính chất hàng đổi hàng. Nhƣ vậy chăn
nuôi với mục đích trao đổi đã xuất hiện song lại đóng vai trò thứ yếu trong
đời sống của đồng bào.
Chăn nuôi đại gia súc đã xuất hiện từ khá sớm, các loại gia súc nhƣ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trâu, bò, ngựa… đƣợc nuôi tại gia đình và nuôi theo đàn tại những bìa rừng.
47
Những đàn gia súc lớn chủ yếu đƣợc chăn thả một cách tự nhiên. Vào mùa
khô cũng nhƣ mùa mƣa, ban ngày trâu bò đƣợc thả trong rừng, ban đêm thì
dồn về nhốt trong chuồng.
Trong sản xuất nông nghiệp, trâu cày là một phần rất quan trọng. Con
trâu là một tài sản lớn trong mỗi gia đình. Tuy vậy chọn đƣợc con trâu tốt
cũng không đơn giản. Bằng kinh nghiệm thực tiễn, ngƣời Dao ở Lục Nam có
thể xem trâu để chọn trâu cày khoẻ. Một con trâu đẹp là trâu tuyền sắc, cơ thể
phát triển cân đối, móng tròn “chỉ móng con, tròn móng cái” (móng con chỉ
thẳng xuống đất, móng cái nhƣ bát úp chứ không choãi bè ra), đuôi dài không
dính phân mao, cổ ngắn, sừng cân. Ngoài ra trâu phải có khoang khoáy đóng
đúng chỗ. Con trâu có khoáy đóng ở đầu xƣơng vai là con trâu khoẻ, chịu cày.
Khi đi chọn trâu phải tránh những con trâu xấu. Thứ nhất, ngƣời Dao có câu
về trâu nếu "thứ nhất tam tinh, thứ nhì sừng vênh " là trâu bƣớng, phi chủ.
Tam tinh là con trâu có khoáy đóng ở đỉnh trán (phần lông trên đỉnh trán
xoáy vặn lại). Họ coi đó là dấu hiệu của tang tóc, không có lợi cho chủ nuôi.
Thứ hai là tránh trâu sừng vênh là loại trâu rất bƣớng, ƣa đâm, húc dễ gây
nguy hiểm cho chủ. Thứ ba là tránh trâu có mang xà. Mang xà có 2 loại:
mang xà đuôi là phần thân đuôi bị nứt làm đôi, mang xà cổ là ở phần cổ có
một vạch trắng. Về chân tránh con trâu chân chạm khoeo-khi trâu đi 2 chân
chạm vào nhau. Trâu chạm khoeo là trâu yếu không kéo đƣợc cày. Con trâu
"đít trâu - đầu nghé" tức phần đầu nhỏ không tƣơng xứng với phần mông
cũng là trâu xấu.
Khi chọn trâu nái đồng bào cơ bản cũng chọn nhƣ chọn trâu đực song
phải cộng thêm một số yếu tố đặc trƣng sinh sản để có đƣợc con trâu nái
khỏe, tốt giống. Đó là dựa trên những đặc điểm: “mắt ốc nhồi, dạ bình vôi”,
“mồm gầu dai, tai lá mít, đít lồng bàn”. Mông nở, háng rộng, đầu nhỏ, mõm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngắn, răng đều. Phân vú đều, cân đối, cửa mình thâm khép kín.
48
Khác với chăn nuôi gia súc lớn, nuôi lợn và gia cầm không đòi hỏi phải
có sự đầu tƣ lớn, chu kì sinh sản nhanh, dễ thu hồi vốn, phù hợp với điều kiện
của mọi gia đình ngƣời Dao. Vì vậy, đây chính là đối tƣợng chăn nuôi chủ
yếu của đồng bào. Hầu nhƣ gia đình nào cũng nuôi lợn, một số nhà nuôi lợn
nái, đàn lợn với cả chục con lớn nhỏ. Lợn nuôi đƣợc thả rông là chính, chỉ
gần tới các dịp lễ tết mới vỗ béo. Chuồng dùng nuôi lợn cũng rất đơn giản, gia
đình có điều kiện thì chuồng đƣợc xây bằng gạch, đối với phần lớn gia đình
thì chuồng nuôi lợn chỉ là những cây gỗ đƣợc đóng xuống đất và buộc chặt lại
với nhau. Cách chọn lợn: trƣớc kia đồng bào hay nuôi lợn ta, tức là các giống
lợn không qua lai tạo, hiện nay là các loại lợn lai có phẩm chất cao. Chọn lợn
phải có đặc điểm: đầu thanh, đít lồng bàn, tai to mỏng rộng cụp xuống, bụng
to. Mình lợn phải dài, chân cao, nhỏ. Da nhẵn bóng, mõm ngắn, bè rộng là lợn
hay ăn.
Trong các giống gia cầm, gà đƣợc nuôi nhiều nhất, phổ biến nhất. Tại
các bản đến điền dã, gia đình nào cũng nuôi gà với số lƣợng nhiều ít khác
nhau, chủ yếu là các giống gà địa phƣơng, nhỏ con, lâu lớn nhƣng thịt chắc,
thơm ngon. Việc nuôi gà vịt cũng đƣợc tiến hành theo kiểu chăn thả tự nhiên,
ban ngày thả đi kiếm thức ăn, ban đêm nhốt vào chuồng hay nhốt vào những
chiếc lồng và mang treo trên vách nhà để tránh chồn cáo. Ngoài mục đích sử
dụng cho các lễ hiến sinh hay làm thực phẩm, lợn, gà vịt là nguồn hàng hóa
quan trọng để bán lấy tiền mua các loại nhu yếu phẩm khác.
Loại gà giống tốt phải là chân vàng, cao chân; mào đứng, màu đỏ. Gà
trống phải là những con to, chân cao to, cổ dài, tiếng gáy thanh, có hơi ngân
khi gáy, lông thâm, mào cờ, và đặc biệt là không bị vôi chân. Đối với gà mái
phải là những con có lông mƣợt, thân một màu (đen hoặc vàng), chân nhỏ dài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vây, đuôi dài tốt lông, đầu nhỏ, mỏ to quắp. Để có đƣợc những con gà thiến
49
béo mập trong ngày Tết, ngƣời dân ở đây thƣờng nhốt chúng trong lồng chặt,
cho ăn cơm nóng hoặc thóc ngâm trong khoảng thời gian 1,5 - 2 tháng. Gà
nuôi theo phƣơng pháp này rất béo, thịt thơm, xƣơng nhỏ, giòn.
Khác với những tộc ngƣời khác ở Lục Nam, ngƣời Dao thƣờng nuôi
chó săn. Gia đình nào cũng có nuôi 1 - 2 con, gia đình khá giả - kinh tế dƣ dật
họ đàn lớn từ 6 - 10 con. Vào tháng 2 tháng 3 hàng năm các bản thƣờng tổ
chức cho chó đi săn tập thể trong rừng. Con mồi săn đƣợc sẽ chia đều cho cả
phƣờng săn. Chó săn tốt ngoài tiêu chuẩn đốm lƣỡi, tai vểnh nhƣ chó nhà còn
đòi hỏi phải là giống chó to, khoẻ, đuôi dài, móng có huyền đề. Đặc biệt bụng
dƣới phải có lông ôm kín. Theo giải thích của đồng bào chó săn bụng có lông
càng nhiều càng tốt, chó có lông dƣới bụng là chó rất thông minh, nhanh nhẹn
và gan dạ. Chọn chó săn đồng bào ít chọn con có lông khoang hay lông đốm
mà con chó thƣờng chỉ có một màu lông đen, vàng hoặc xám. Theo kinh
nghiệm của đồng bào chó săn thƣờng đƣợc nhốt trong cũi, ăn chế độ riêng,
chó nhốt nhiều khi săn mới dữ, chó đói mới ham mồi săn. Để có một con chó
săn tốt đòi hỏi phải đƣợc huấn luyện công phu ngay từ bé, tập săn những con
mồi nhỏ, đến những con mồi lớn. Sau đó mới ra nhập đàn chó săn trong gia
đình. Tất nhiên chó săn phải là chó đực.
Tại các bản ngƣời Dao Thanh Phán, Thanh Y ở Lục Nam, ngoài chăn
nuôi các loại gia súc, gia cầm, còn có một số gia đình còn nuôi ong. Vì sinh
sống gần rừng nên rất thuận lợi cho ong kiếm mật, nuôi ong không yêu cầu
nhiều vốn lại nhanh cho sản phẩm. Thùng nuôi ong làm bằng gỗ, kích thƣớc
trung bình 60 x 40cm, bên trong đặt các cầu sáp cho ong đổ mật. Số lƣợng
cầu nhiều hay ít phụ thuộc vào số lƣợng ong trong đàn. Dƣới cạnh thùng
khoét 3 lỗ nhỏ cho ong ra vào. Các thùng gỗ đƣợc dặt dƣới các gốc cây râm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mát ngoảnh hƣớng Đông Nam hoặc Tây Nam. Khi số lƣợng ong trong đàn
50
quá đông, ong chúa sẽ sinh thêm chúa mới để chuẩn bị tách đàn. Nhộng ong
chúa dài to, có màu trắng đục. Nếu không muốn tách đàn thì tìm cách diệt
nhộng chúa này đi. Khi đàn ong phân đàn, vỡ tổ, tìm bắt lấy ngay ong chúa
cho vào thùng, úp bát con lại, đàn ong sẽ quay về theo chúa. Thời kì này ong
đƣợc nuôi với số lƣợng chƣa lớn vì chủ yếu để tận dụng nguồn tài nguyên có
sẵn từ rừng, sản phẩm làm ra để phục vụ nhu cầu cuộc sống là chính.
Ngƣời Dao ở Lục Nam hầu nhƣ không có cách thức chăm sóc các vật
nuôi mà chủ yếu là chăn thả tự nhiên. Tuy nhiên, khi các vật nuôi mắc một số
bệnh, ngƣời Dao ở Lục Nam có những bài thuốc chữa cho vật nuôi. Để chữa
cho trâu bị lở loét, dùng lá trầu không vò nát cho vào nƣớc đun sôi để rửa vết
thƣơng, tiếp theo lấy lá trầu không già giã cùng với muối trắng đắp băng lại,
ngày làm 2 - 3 lần, sau 5 - 6 ngày vết thƣơng sẽ khỏi. Đối với trâu bệnh đi ỉa
cũng hay mắc phải, khi mắc phải bệnh này ngƣời Dao ở Lục Nam có kinh
nghiệm lấy lá cây Hốc, giã lấy nƣớc cho trâu uống, sau 2 - 3 ngày bệnh sẽ
khỏi. Đối với gà, bệnh rù là bệnh thƣờng xuyên mắc phải. Khi gà mắc bệnh
rù, ngƣời Dao ở Lục Nam dùng tỏi bóc vỏ, đập dập cho gà ăn. Đây chỉ là một
số bệnh phổ biến mà các vật nuôi hay mắc phải và những kinh nghiệm trên
đƣợc ngƣời Dao ở Lục Nam đúc kết qua nhiều thế hệ. Ngoài chữa bệnh cho
vật nuôi bằng các bài thuốc dân gian, ngƣời Dao ở Lục Nam cũng tin vào các
yếu tố thần linh. Khi vật nuôi mắc bệnh họ cho có ma ám gây bệnh vì thế họ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tổ chức mời thầy cúng, đuổi tà ma cho các vật nuôi.
51
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Tri thức dân gian là hệ thống kiến thức của một dân tộc hoặc một cộng
đồng tại một khu vực cụ thể, nó tồn tại và phát triển trong những hoàn cảnh
nhất định với sự đóng góp của mọi thành viên trong động đồng. Tri thức dân
gian đƣợc hình thành trực tiếp từ lao động sản xuất và sinh hoạt văn hoá, xã
hội của mọi ngƣời dân trong cộng đồng, nó đƣợc hoàn thiện dần từ đời này
sang đời khác và đƣợc lƣu truyền chủ yếu bằng truyền miệng từ đời này sang
đời khác. Qua quá trình nghiên cứu, cho thấy ngƣời Dao Thanh Phán, Thanh
Y ở Lục Nam có vốn tri thức dân gian phong phú, đặc biệt là những tri thức
dân gian trong sản xuất nông nghiệp. Đây là vốn tri thức rất cần thiết cho đời
sống của đồng bào, góp phần tích cực tạo ra nguồn lƣơng thực, thực phẩm
nuôi sống con ngƣời. Hệ thống tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp
của ngƣời Dao ở Lục Nam bao gồm rất nhiều kinh nghiệm từ những đúc kết
về thời vụ gieo trồng; chọn đất; chọn giống; kỹ thuật trồng và chăm sóc cây
trồng, vật nuôi; cách bảo quản giống và sản phẩm sau thu hoạch… Nhiều tri
thức hiện nay vẫn đƣợc áp dụng bên cạnh các biện pháp kỹ thuật hiện đại.
Điều đó chứng tỏ sức sống của hệ thống tri thức bản địa và sự phù hợp cũng
nhƣ tính tích cực của tri thức ấy trong xã hội hiện nay.
Tuy nhiên do các yếu tố nội và ngoại sinh hệ thống tri thức dân gian
của cộng đồng ngƣời Dao ở Lục Nam hiện nay đã có sự biến đổi. Vấn đề đặt
ra là phải xác định đƣợc những nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi của hệ thống
tri thức đó và có hƣớng đƣa ra những giải pháp nhằm phát huy những tích
cực, hạn chế tiến tới loại bỏ những tri thức không còn phù hợp nhằm phát
triển nền kinh tế nông nghiệp bền vững, đảm bảo cuộc sống của ngƣời Dao ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lục Nam.
52
CHƢƠNG 3
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA TRI THỨC DÂN GIAN TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA NGƢỜI DAO Ở HUYỆN LỤC NAM TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY
3.1. Những yếu tố tác động đến sự biến đổi của tri thức dân gian trong
sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở Lục Nam
Trƣớc đây, ngƣời Dao nói chung và ngƣời Dao ở huyện Lục Nam nói
riêng chủ yếu sống bằng nƣơng rẫy, lệ thuộc vào tự nhiên. Vì vậy, quá trình
sản xuất nảy sinh nhiều kinh nghiệm quí báu phù hợp với điều kiện của địa
phƣơng song nó cũng làm xuất hiện những tập quán, tín ngƣỡng lạc hậu.
Lƣơng thực sinh sống hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên khiến cho ngƣời dân
rơi vào tình trạng một năm đủ nhiều năm thiếu, cuộc sống thật là khó khăn.
Muốn có cuộc sống no đủ không còn cách nào khác là phải từ bỏ những thói
quen cũ trong sản xuất nhƣng dƣới sự thống trị của thực dân phong kiến cùng
với chiến tranh kéo dài thực hiện đƣợc điều đó là vô cùng khó khăn. Trong
thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đồng bào mới có điều kiện để đổi mới.
Sự đổi mới trong tri thức sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở Lục Nam có
nhiều yếu tố tác động:
Thứ nhất, do chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà
nước đối với các vùng dân tộc thiểu số
Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, mọi chính sách về miền
núi, dân tộc chủ yếu phục vụ mục tiêu đảm bảo khối đại đoàn kết dân tộc.
Hiện nay, khi cả nƣớc bƣớc vào nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã
hội chủ nghĩa, "khoảng cách" giàu và nghèo, giữa miền núi - miền xuôi ngày
càng rộng ra. Nhu cầu bình đẳng trong phát triển gắn liền với quá trình dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chủ hoá trên các lĩnh vực đời sống xã hội của mỗi vùng, mỗi ngƣời ngày
53
càng tăng. Chính vì vậy, yêu cầu bảo vệ môi trƣờng, bảo vệ bản sắc văn hoá
và những giá trị truyền thống cũng tăng lên. Cạnh tranh về các nguồn lực
cho phát triển cũng trở nên gay gắt. Hơn bao giờ hết vấn đề "Bình đẳng,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc, giữa các vùng miền"
lại càng bức thiết.
Ngày 05/3/2007, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành quyết định số
33/2007/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cƣ
cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007-2010. Chính sách này áp dụng
cho việc thực hiện định canh, định cƣ đối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu
số còn du canh, du cƣ thuộc vùng khó khăn quy định tại quyết định số
30/2007/QĐ-TTg ngày 5/3/207 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc ban hành
danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn. Đối tƣợng đƣợc thụ
hƣởng chính sách là hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cƣ không có đất
sản xuất ổn định thuộc quyền sử dụng của hộ theo quy định; nơi ở không ổn
định, xa điểm dân cƣ, di chuyển chỗ ở theo nơi sản xuất và chƣa đƣợc hƣởng
các chính sách hỗ trợ tƣơng tự của Nhà nƣớc. Mục tiêu chung của chính sách
là nhằm tạo điều kiện cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh, du cƣ có
nơi ở ổn định, có điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần, xoá đói giảm nghèo; góp phần bảo vệ rừng, bảo vệ môi trƣờng sinh
thái và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại các địa phƣơng.
Mục tiêu cụ thể của chính sách là phấn đấu đến năm 2010 hoàn thành cơ bản
việc định canh định cƣ cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh du
cƣ trên phạm vi cả nƣớc; 70% số điểm định canh định cƣ tập trung (thôn, bản)
có đủ các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu, phù hợp quy hoạch; 100% số hộ
đồng bào dân tộc thiểu số du canh du cƣ đƣợc tổ chức định canh định cƣ theo
quy hoạch, có nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nƣớc sinh hoạt, tại các điểm định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
canh định cƣ không còn hộ đói; mỗi năm giảm 2-3% số hộ nghèo.
54
Cùng với chính sách định canh, định cƣ, công tác di dân xây dựng kinh
tế mới cũng đƣợc đẩy mạnh. Xây dựng các vùng kinh tế mới là chính sách
của Chính phủ nhằm tổ chức, phân bố lại lao động và dân cƣ trong cả nƣớc,
chuyển một khối lƣợng lớn dân cƣ từ các vùng đồng bằng và thành phố tới
các vùng trung du, miền núi, biên giới, hải đảo. Chính sách nhằm sử dụng hết
mọi lực lƣợng lao động xã hội; tổ chức và quản lý tốt lao động, phân bố lại
lao động giữa các vùng và các ngành nhằm tăng rõ rệt năng suất lao động xã
hội; phân bố hợp lý sức sản xuất ở đồng bằng, trung du và miền núi, điều
chỉnh sức ngƣời giữa các vùng, quy hoạch từng bƣớc các vùng kinh tế, thực
hiện sự phân công phối hợp giữa các vùng kinh tế với nhau. Chính sách này
đƣợc triển khai tại miền Bắc từ năm 1961 và trên toàn quốc từ sau khi đất
nƣớc thống nhất cho đến tận năm 1998. Đây là một trong những yếu tố quan
trọng làm thay đổi tri thức sản xuất trong nông nghiệp của ngƣời Dao ở huyện
Lục Nam.
Ngay từ khi Việt Nam giành đƣợc độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xác định đói nghèo nhƣ là một thứ "giặc", cũng nhƣ giặc dốt, giặc
ngoại xâm, nên đã đƣa ra mục tiêu phấn đấu để nhân dân lao động thoát nạn
bần cùng, làm cho mọi ngƣời có công ăn, việc làm, ấm no và đời sống hạnh
phúc. Giảm đói nghèo không chỉ là một trong những chính sách xã hội cơ
bản, đƣợc Nhà nƣớc đặc biệt quan tâm, mà còn là một bộ phận quan trọng của
mục tiêu phát triển. Chính sách ƣu tiên đầu tƣ phát triển cho kinh tế miền núi
của Đảng và Nhà nƣớc xác định nhƣ một chiến lƣợc cho đồng bào các dân tộc
thiểu số nói chung và dân tộc Dao ở Lục Nam nói riêng. Đói nghèo mang tính
chất vùng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân
tộc ít ngƣời sinh sống, có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Đây là những vùng có điều
kiện sống khó khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
xuất và dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện
55
thiên nhiên khắc nghiệt và thiên tai xảy ra thƣờng xuyên. Mục tiêu tổng quát
trong giai đoạn 2001 - 2010 là cải thiện đáng kể đời sống vật chất, văn hóa và
tinh thần cho nhân dân, tạo nền tảng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hình thành
thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và duy trì
nguồn tài nguyên và văn hóa dân tộc cho thế hệ mai sau. Để đạt đƣợc những
mục tiêu này, cần phải tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
theo hƣớng nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Mở
rộng và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cƣờng cơ sở hạ tầng kinh tế -
xã hội, cải tiến hệ thống giáo dục, đào tạo để nâng cao chất lƣợng nguồn nhân
lực. Tăng cƣờng các lợi thế cạnh tranh trong các cam kết thƣơng mại song
phƣơng và đa phƣơng nhằm chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Tăng trƣởng
phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trƣờng nhằm tạo thêm
việc làm, cải thiện sức khỏe cộng đồng, xóa đói giảm nghèo và ngăn chặn kịp
thời và có hiệu quả các tệ nạn xã hội. Tăng trƣởng kinh tế sẽ tạo ra nguồn lực
cho xóa đói giảm nghèo, đồng thời phải có các chính sách phân bổ nguồn lực
và chính sách xã hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời nghèo tiếp cận
đƣợc các cơ hội cải thiện cuộc sống của mình, tăng thêm nhận thức và nỗ lực
vƣơn lên tự thoát nghèo. Xóa đói giảm nghèo không đơn giản là việc phân
phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trƣởng tại
chỗ, chủ động tự vƣơn lên thoát nghèo. Đồng thời không đơn thuần là sự trợ
giúp một chiều của tăng trƣởng kinh tế đối với các đối tƣợng có nhiều khó
khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tƣơng đối đồng đều
cho phát triển, tạo thêm một lực lƣợng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn
định cho giai đoạn “cất cánh”. Vấn đề đã đƣợc cụ thể hoá bằng các chƣơng
trình, dự án đƣợc triển khai, đƣợc giám sát và đánh giá thƣờng xuyên. Các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghiên cứu đã lập đƣợc bản đồ phân bố đói nghèo đến từng xã, từng hộ. Với
56
những mục tiêu cơ bản là xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói, đạt phổ cập
giáo dục tiểu học, đảm bảo bền vững môi trƣờng. Nhiều chƣơng trình xóa đói,
giảm nghèo, xây dựng kết cấu hạ tầng, giáo dục, y tế đƣợc thực hiện làm thay
đổi đáng kể tình hình kinh tế ở các xã vùng sâu có ngƣời Dao sinh sống của
huyện Lục Nam.
Đời sống đồng bào Dao ở Lục Nam từng bƣớc thay đổi chuyển mình về
mọi mặt. Song sự chuyển mình mạnh mẽ nhất, sự thay đổi có tính chất nhƣ
một bƣớc ngoặt đối với đồng bào là sau Chỉ thị 10 của Bộ Chính trị về đổi
mới cơ chế khoán trong nông lâm nghiệp ra đời, nó giúp cho ngƣời dân nhận
đất rừng yên tâm đầu tƣ vốn, lao động và kinh doanh rừng. Những diện tích
đất trống đồi trọc đƣợc đƣa vào sử dụng ngày càng tăng, các mô hình nông
lâm kết hợp, các trang trại phổ biến ở nhiều nơi.
Năm 1992 Hiến pháp mới ra đời làm cơ sở cho việc xây dựng Luật đất
đai sửa đổi ngày 14/07/1993. Luật đất đai năm 1993 nhằm đổi mới cơ chế
quản lý đất đai nói chung và ngành nông lâm nghiệp nói riêng đồng thời phổ
biến việc giao đất giao rừng. Tiếp đó là các nghị định: Nghị định 64/CP ngày
27/09/1993 quy định về giao đất nông nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp; Nghị định
02/CP ban hành ngày 15/01/1995 về việc giao đất lâm nghiệp cho các tổ chức
hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất lâm
nghiệp; Nghị định 01/CP ban hành ngày 04/10/1995 về việc giao khoán đất sử
dụng vào mục đích nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản trong các doanh
nghiệp nhà nƣớc. Các tổ chức hợp tác xã bị giải thể, thay vào đó là kinh tế hộ
gia đình. Gia đình trở thành một đơn vị kinh tế độc lập, kinh tế hộ gia đình đã
kích thích sự chủ động sáng tạo trong sản xuất, nâng cao tính năng động cá
nhân, khắc phục tính ỷ lại phân chia sản xuất theo kiểu bình quân. Đảng bộ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tỉnh Bắc Giang đã tăng cƣờng khai thác tiềm năng, lợi thế, đẩy mạnh phát
57
triển kinh tế - xã hội vùng cao, tập trung đầu tƣ xây dựng, phát triển cơ sở hạ
tầng, đẩy mạnh sản xuất, giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao
thu nhập và mức sống của đồng bào các dân tộc, nâng cao dân trí và phúc lợi
xã hội.
Những năm qua, các cấp uỷ, chính quyền đã tích cực thực hiện các đề
án, kế hoạch đề ra, quan tâm huy động nguồn lực của các thành phần kinh tế,
các lực lƣợng xã hội cho phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Đảng bộ thực
hiện lồng ghép nhiều chƣơng trình, dự án đầu tƣ cho các xã đặc biệt khó khăn
nhƣ Chƣơng trình 135; Dự án phát triển nông thôn tổng hợp giảm nghèo; Dự
án phát triển miền núi gắn với tiêu thụ sản phẩm; các dự án phát triển lâm
nghiệp, định canh định cƣ; các dự án về giáo dục, y tế, văn hóa, phát thanh -
truyền hình; Chƣơng trình đƣa tiến bộ khoa học lên vùng cao; Chƣơng trình
dậy nghề để giải quyết việc làm tại chỗ cho nông dân và thực hiện các chính
sách trợ giá, trợ cƣớc, hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn….
Trong 5 năm, toàn tỉnh đã huy động đƣợc 1242 tỷ đồng vốn đầu tƣ xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gấp 3,1 lần so với dự kiến ban đầu, đã có 46
sở, ban, ngành, doanh nghiệp, đơn vị quân đội trực tiếp giúp đỡ các xã đặc
biệt khó khăn bằng nhiều hình thức thiết thực.
Nhờ đó, kinh tế - xã hội của khu vực miền núi tỉnh Bắc Giang đã có
bƣớc khởi sắc. Giá trị tổng sản phẩm toàn vùng năm 2005 ƣớc đạt 551 tỷ
đồng, tăng 52% so với năm 2000. Trong đó, sản xuất nông, lâm nghiệp chiếm
83%, công nghiệp - xây dựng cơ bản 7%, dịch vụ - thƣơng mại l0%. Cơ cấu
sản xuất nông nghiệp trong vùng bƣớc đầu chuyển dịch theo hƣớng sản xuất
hàng hoá. Tổng diện tích đất canh tác đạt 30,4 nghìn ha, trong đó, cây lƣơng
thực 1l,5 nghìn ha; hình thành vùng cây ăn quả tập trung với diện tích trên 2
vạn ha; chăn nuôi, thuỷ sản đƣợc quan tâm phát triển, sản lƣợng ngành chăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nuôi năm 2005 ƣớc đạt 5 ngàn tấn, tăng 50% so với năm 2000. Trong đó, đàn
58
lợn tăng 30%, đàn bò tăng 140%, sản lƣợng cá năm 2005 tăng gấp 2,5 lần so
với 2000, vƣợt mục tiêu đề ra. Qua thực hiện chính sách trợ giá, trợ cƣớc đã
hỗ trợ gần 3.000 tấn giống lúa thuần, lúa lai, ngô lai; hơn 1000 lợn giống và
bò giống... Cùng với việc tăng cƣờng công tác khuyến nông, mở rộng áp dụng
kỹ thuật mới trong sản xuất, nên đã góp phần nâng cao đáng kể năng suất, sản
lƣợng một số cây trồng chủ lực. Lâm nghiệp đã từng bƣớc trở thành một nghề
giúp bà con các dân tộc vùng núi ổn định cuộc sống và ngày một gắn bó hơn
với rừng, đã xuất hiện nhiều hộ gia đình làm kinh tế trang trại, kinh doanh
vƣờn, rừng đạt hiệu quả cao. Từ năm 2001 - 2005 đã trồng mới trên 19 nghìn
ha rừng tập trung, đạt 95,7% mục tiêu, tỷ lệ che phủ rừng đạt 39%, tăng 8,2%
so với năm 2000. Một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nhƣ sản xuất vật
liệu xây dựng, chế biến nông, lâm sản, cơ khí sửa chữa, khai thác khoáng sản
đƣợc hình thành và bƣớc đầu phát triển. Hoạt động thƣơng mại - dịch vụ đƣợc
tăng cƣờng, đã đầu tƣ trên 28 tỷ đồng đầu tƣ xây dựng 1l trung tâm cụm - xã,
19 chợ nông thôn vùng cao, với trên 3.000 hộ hoạt động. Thị trƣờng các xã
vùng cao từng bƣớc phong phú hơn, giá cả không có sự chênh lệch lớn so với
vùng xuôi.
Thứ hai, do tác động của kinh tế thị trường
Trong truyền thống, ngƣời Dao ở Lục Nam đã có những trao đổi lâu
đời với các dân tộc anh em trong khu vực cƣ trú và xa hơn, với hình thức trao
đổi hiện vật chủ yếu là đổi trâu lấy lúa, ngô, sắn, hoặc đổi sắn lấy giầy, dép,
mắm, muối… Sau đó, ngƣời Dao ở Lục Nam biết đem tới chợ bán lấy tiền
mua sắm quần áo và đồ dùng sinh hoạt trong gia đình, từ cái kim, sợi chỉ đến
lƣỡi cày, hái, liềm. Việc trao đổi, mua bán theo kiểu này bắt đầu diễn ra sôi
động khi cây trồng hàng hóa xuất hiện trong đời sống kinh tế của đồng bào.
Những chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế nông nghiệp đã tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
động lớn tới sự chuyển biến trong nhận thức về kinh tế thị trƣờng của ngƣời
59
Dao ở Lục Nam và ngƣợc lại. Từ vấn đề tính toán về đầu tƣ, đầu vào, đầu ra
đến nắm bắt tình hình giá cả, về việc vay và trả nợ lãi Nhà nƣớc là những biểu
hiện rất mới mà từ trƣớc tới nay chƣa hề có trong đời sống kinh tế truyền
thống của đồng bào dân tộc Dao ở Bắc Giang nói chung và ở các bản thuộc
Lục Nam nói riêng. Trong gia đình ngƣời Dao, các thành viên trẻ là những
ngƣời đóng vai trò đi tiên phong trong việc tiếp cận các nguồn thông tin mới
về giá cả thị trƣờng, về vay vốn, những thông tin về mùa vụ trong thời gian
tới để từ đó có thể chọn lựa hƣớng đi có tính khả thi nhất cho vụ mùa.
Với mạng lƣới điện đƣợc phủ sóng từ năm 1998 trên toàn xã, máy cày,
máy kéo, máy bơm nƣớc đã xuất hiện trên các cánh đồng, trên đƣờng làng và
trong các thôn bản. Các thiết bị thông tin truyền thông, phƣơng tiện hiện đại
đƣợc ngƣời dân bỏ tiền mua trong những gần đây. Nhờ có phƣơng tiện cơ
giới ngƣời Dao nhất là những ngƣời đàn ông đã mở rộng và tăng tần xuất di
chuyển của mình đặc biệt là có điều kiện tìm hiểu tiếp cận nguồn thông tin
nhanh nhạy, trực tiếp và đa dạng hơn, cũng nhƣ có thể mang nông phẩm đến
những đại lý lớn bán với giá cao nhất mà không bị ép giá bán qua khâu trung
gian mua tại vƣờn. Nhờ đi lại thƣờng xuyên ngƣời Dao ở Lục Nam ngày càng
nắm vững giá cả các mặt hàng, sự biến động lên xuống, nên có thể tham gia
kiểm soát kịp thời các hoạt động trao đổi mua bán. Cùng với chiếc xe máy -
phƣơng tiện đi lại mở rộng quan hệ tiếp cận nguồn thông tin cũng phải kể đến
các vật dụng nhƣ đài, vô tuyến trong việc nâng cao chất lƣợng cuộc sống của
ngƣời dân, mở rộng tri thức trƣớc hết là tri thức nông nghiệp.
Thứ ba, do chuyển biến trong nhận thức của người Dao
Từ chỗ tự cung tự cấp ngƣời Dao ở Lục Nam nhận thấy cần thiết phải
thay đổi cây trồng, vật nuôi theo hƣớng sản xuất hàng hóa. Cán bộ khuyến
nông đƣợc đƣa về tận thôn bản, các lớp tập huấn về kĩ thuật trồng trọt và chăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nuôi mới đƣợc phổ biến rộng rãi. Thêm và dó là các dự án cây trồng hiệu quả
60
phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai của địa phƣơng đã đƣợc triển khai. Đã
xuất hiện cây trồng hàng hóa, những nội dung mới trong sử dụng sản phẩm
chăn nuôi, đặc biệt hơn là sự gia tăng và biến đổi về chất của những hoạt động
trao đổi mua bán. Những đổi thay bƣớc đầu này cũng đƣợc biểu hiện ở sự
chuyển biến trong tƣ duy của ngƣời dân từ việc nhận thức vai trò của những
sản phẩm hàng hóa, tiền tệ đến nhận thức về sự cần thiết phải đa dạng hóa cây
trồng, phát triển cây trồng hàng hóa, tận dụng tối đa thời gian và nhân lực để
lao động cải thiện đời sống. Những thay đổi trên thực tế và trong nhận thức
của ngƣời dân nhƣ báo hiệu của sự chuyển đổi trong toàn bộ cơ cấu kinh tế.
Từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa, đa dạng hóa cây
trồng hàng hóa hƣớng vào nền kinh tế thị trƣờng. Sự chuyển biến này đã đem
lại những thành quả đáng ghi nhận. Với sự tham gia ngày càng nhiều của
đồng tiền mặt, mức sống của các gia đình ngày một đƣợc cải thiện hơn trƣớc.
3.2. Quá trình biến đổi của tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp
của ngƣời Dao ở Lục Nam
3.2.1. Chuyển hẳn từ nương rẫy sang trồng lúa nước
Cùng với chính sách giao đất, giao rừng đến tay ngƣời lao động, vấn đề
thủy lợi hóa và điện khí hóa đã đƣợc củng cố một bƣớc. Nguồn điện sáng
quốc gia đã đƣợc thắp sáng trên các bản làng đồng bào dân tộc. Mƣơng máng
dẫn nƣớc chảy trên các cánh đồng, các chân ruộng chuyển từ cấy một vụ
không ăn chắc trƣớc đây sang cấy một năm hai vụ lúa, xen vụ màu đông. Trên
các chân ruộng cao và nƣơng đồi các tập đoàn cây ăn quả: vải, na, hồng, dứa
đang đƣợc đƣa vào trồng thử nghiệm bƣớc đầu cho hiệu quả kinh tế cao. Hiện
nay, diện tích rừng già ngày càng bị thu hẹp, mặt khác nhà nƣớc cũng có
nhiều biện pháp tăng cƣờng quản lý rừng và giúp đỡ đồng bào định canh định
cƣ nên việc khai phá rừng làm nƣơng là hoàn toàn không còn đối với đồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bào ngƣời Dao ở huyện Lục Nam. Các giống lúa truyền thống của ngƣời Dao
61
ở Lục Nam bị mất dần do đồng bào bỏ không làm nƣơng nữa. Thay vào đó là
các giống lúa nƣớc mới ít bị sâu bệnh, đỡ phải chăm bón mà lại cho năng suất
cao nhƣ các giống lúa Mộc tuyền, Bao thai, Nông nghiệp 8, Khang ƣu và các
giống mới nhƣ 203, VN18, VN10…
Nếu nhƣ trƣớc đây lúa đƣợc canh tác trên 4 loại ruộng thì hiện nay lúa
chỉ còn đƣợc canh tác trên 2 loại ruộng: ruộng rộc và ruộng bậc thang. Mặc
dầu diện tích trồng lúa thu hẹp song năng suất và sản lƣợng cao hơn rất nhiều
so với trƣớc đây. Sản lƣợng lúa thu hoạch một năm hai vụ ổn định đáp ứng
nhu cầu lƣơng thực cho ngƣời dân. Thực tiễn qua các cuộc điền dã cho thấy
đồng bào Dao không còn bị đói hay ăn độn nhƣ trƣớc nữa.
Ngoài hai vụ lúa chiêm và mùa, ngô, lạc, đỗ, khoai lang… đƣợc
trồng xen trong vụ đông hàng năm. Cũng nhƣ lúa các cây hoa màu trƣớc
đây đã đƣợc thay thế bằng các giống mới cho thời gian sinh trƣởng ngắn
hơn mà năng suất vẫn cao hơn trƣớc. Giống ngô hiện nay đồng bào trồng
phổ biến là giống ngô lai DK999 cho năng suất trung bình 250kg/sào.
Trƣớc đây đồng bào gieo hạt, nay để bảo đảm cây trồng đồng bào đánh bùn
dƣới ao lên vƣờn phơi khô, đánh tơi tra hạt, khi cây cao chừng 15 - 20cm
mới đánh ra ruộng trồng. Sản lƣợng ngô, khoai đông đóng vai trò rất lớn
trong đầu tƣ phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm. Cùng ngô và khoai lang
đồng bào còn trồng xen canh xu hào, bắp cải, các loại đỗ cung cấp thực
phẩm cho sinh hoạt hàng ngày.
3.2.2 Từ độc canh cây lúa chuyển sang đa dạng hóa cây trồng, chú trọng
đầu tư phát triển cây trồng hàng hóa
Sự biến đổi trong cơ cấu cây trồng kéo theo sự phân bố và sắp xếp lại
chu kỳ sản xuất trong năm, một số cây truyền thống trƣớc đây nay không còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phù hợp trong điều kiện và bối cảnh một nền kinh tế mới đƣợc thay thế bằng
62
những giống cây khác mang lại hiệu quả và giá trị kinh tế cao hơn. Quá trình
chuyển dịch cơ cấu cây trồng này đƣợc thể hiện rất rõ trong bảng lịch nông nghiệp
hiện nay.
Bảng 3: Lịch nông nghiệp hiện nay của người Dao ở Lục Nam
Tháng Các hoạt động chính (âm lịch)
1 Gieo mạ cấy chiêm, thu hoạch ngô đông
Trồng ngô xuân, lạc mùa, đỗ xanh, đỗ tƣơng, cấy chiêm, thu 2 hoạch cà, tỉa lúa, làm cỏ lúa.
Tỉa lúa, xới cỏ vải, tƣới vải, hồng, na. Hun luống ngô, đỗ, lạc, 3 thu hoạch cà.
Gieo mạ cấy mùa, tƣới vải, hồng, na, tiếp tục thu hoạch cà, làm 4 cỏ vƣờn, cày ải, bừa ngả ruộng màu.
5 Thu hoạch lúa chiêm, lạc, ngô, đỗ và bắt đầu thu hoạch vải.
6 Cấy mùa, tiếp tục thu hoạch vải, thu hoạch dứa.
7 Làm vƣờn tỉa cành, bón gốc vải, tỉa lúa trên ruộng – làm cỏ mùa.
8 Thu hoạch hồng, trồng khoai lang vụ đông.
9 Thu hoạch lúa mùa, trồng ngô đông, làm cỏ vƣờn.
10 Xới ngô, khoai lang đông, làm vƣờn, trồng cà, cày ải ruộng.
Làm cỏ ngô, bón phân cho ngô, chăm sóc vƣờn cây, tiếp tục 11 trồng cà, bừa ải, cày ải.
12 Cày ải chuẩn bị cấy chiêm, bón phân gốc vải. Chuẩn bị ăn Tết.
Nguồn: [54]
Trƣớc đây do thiếu nƣớc các chân ruộng phần lớn chỉ đƣợc cấy một vụ,
thậm chí một vụ còn không ăn chắc, năng suất bấp bênh trung bình một sào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thu đƣợc 3 - 5 gánh thóc tƣơng đƣơng với 50 - 75kg thóc. Hiện nay các công
63
trình thuỷ lợi đã đƣợc cải tạo một bƣớc đƣa nƣớc tƣới tiêu về từng làng bản,
bà con đã chủ động đƣợc nguồn nƣớc tƣới tiêu, mỗi năm cấy hai vụ: vụ chiêm
và vụ mùa xen vụ đông hoa màu. Những giống lúa năng suất thấp trƣớc đây
đã đƣợc thay thế hoàn toàn bằng các giống lúa lai: CR 203; khang dân, hai
dòng cho năng suất từ 175 - 200kg thóc/sào.
Cùng với phƣơng pháp truyền thống về xử lý đất, bón phân chăm sóc
cây trồng… đồng bào Dao bƣớc đầu áp dụng thử nghiệm các phƣơng pháp
khoa học mới vào trong sản xuất. Nếu nhƣ trƣớc đây đồng bào gieo mạ trên
các chân ruộng cao sau 30 - 40 ngày mới đƣợc nhổ cấy thì hiện nay phần lớn
đồng bào áp dụng phƣơng pháp gieo thẳng và dùng thuốc trừ cỏ. Kỹ thuật
canh tác mới này rút ngắn đƣợc một khâu trong phƣơng pháp sản xuất truyền
thống của đồng bào, giảm thời gian lao động đáng kể mà năng suất cây trồng
nâng cao. Các loại phân hóa học: phân đạm, phân lân, ka li, thuốc trừ sâu…
đang đƣợc bà con đƣa vào sử dụng thử nghiệm trên các cánh đồng góp phần
bảo vệ đất, nâng cao sản lƣợng cây trồng rõ rệt.
Quá trình cơ giới hóa trong nông nghiệp từng bƣớc thay thế sức lao
động của con ngƣời. Chiếc máy kéo, máy cày xuất hiện ngày một nhiều trên
các cánh đồng, giảm thiểu khâu lao động nặng nhọc nhất của nhà nông. Trong
làng bản máy xay xát gạo, máy tuốt lúa thay thế hoàn toàn các phƣơng pháp
lao động thủ công giản đơn trƣớc đây. Trong sản xuất nông nghiệp hiện nay
phần lớn máy móc đã thay thế cho đôi tay ngƣời lao động. Con ngƣời đƣợc
giải phóng đôi tay để dành công sức và thời gian đầu tƣ vào những công việc
khác đem lại lợi ích kinh tế cao hơn.
Ngoài bãi, trên ruộng cao - ruộng bậc thang và trên nƣơng trƣớc chủ
yếu để trồng cây thực phẩm, và cây lấy bột: sắn, ngô nay trên các chân ruộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
này đồng bào Dao ở Lục Nam từng bƣớc thay thế bằng những cây ăn quả, cây
64
trồng hàng hoá: hồng, vải, na, dứa vv… mang lại hiệu quả kinh tế cao, đặc
biệt là cây vải thiều. Đồng bào Dao coi cây vải thiều là cây xóa đói giảm
nghèo, ngƣời dân coi việc trồng vải là một cách làm giàu.
Giống vải phổ biến đƣợc trồng là giống: U Hồng, Thanh Hà, trong đó
giống Thanh Hà đƣợc trồng phổ biến hơn, vải chín mang màu đỏ tƣơi, hạt
nhỏ, cùi dầy. Vải đƣợc nhân giống bằng phƣơng pháp chiết cành. Cây đƣợc
lựa chọn để triết cành là những cây khỏe mạnh có tuổi từ 6 - 15 tuổi, quả to
đều và ngon cho năng suất cao ổn định. Cành đƣợc chọn để chiết là những
cành bánh tẻ có 2 - 3 trạc tán phát triển tốt, sạch sâu bệnh. Đƣờng kính cành
từ 1,5 - 2 cm.
Đồng bào Dao thƣờng chiết cành vào hai vụ : xuân hè và thu đông. Vụ
xuân hè, tiến hành chiết cành trong tháng 4, trồng vào tháng 8, tháng 9. Vụ
thu đông, chiết cành vào đầu tháng 10 hàng năm và trồng vào mùa xuân năm
sau. Trƣớc khi cành chiết đƣợc cắt khỏi cây đƣa xuống hố trồng đƣợc giâm từ
8 - 10 ngày trong bùn trộn lẫn rơm chặt nhỏ để kích thích sự sinh trƣởng và
làm quen với môi trƣờng mới của rễ.
Vải là cây ăn quả có khả năng chịu hạn rất tốt, đặc biệt rất thích hợp
với đất feralít vàng đỏ. Các chân ruộng bậc thang, các nƣơng đồi là điều kiện
lý tƣởng cho cây vải phát triển. Hố trồng vải trên loại đất này rất to và sâu, rộng 1,5m2 - 2m2, sâu 0,6m - 0,8m. Vải đƣợc trồng bố trí theo đƣờng đồng
nƣớc, dọc các đƣờng đồng nƣớc đƣợc trồng xen dứa vừa tiết kiệm đất, vừa
chống sự rửa trôi. Trong 5 năm trở lại đây cây vải bắt đầu đƣợc trồng đại trà
trên các bãi. Đất bãi là loại đất thịt nhẹ cát pha, đất có đặc điểm hút và thấm
nƣớc nhanh, mƣa mau úng, nắng mau khô. Vải đƣợc trồng trên loại đất này
hố đƣợc đào thƣờng rất to và sâu. Sau đó lấp đất trộn cùng phân hữu cơ trở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lại. Đặt bầu đất ngang với nền đất cũ sau đó đắp cao vƣợt hơn so với bề mặt
65
nền cũ 40 - 60cm. Vào mùa mƣa để cho nƣớc thoát nhanh đồng bào thƣờng
đào các rãnh thoát nhỏ xen cùng hàng vải. Trong 2 - 3 năm đầu khi cây vải
chƣa phủ tán đồng bào Dao tận dụng trồng xen các loại ngô, lạc, đỗ, vừng
cùng một số loại rau ăn. Sau 3 - 4 năm cây vải bắt đầu cho thu hoạch ổn định.
Nhƣ vậy, có thể nhận thấy sự xuất hiện của cây ăn quả - cây trồng hàng
hóa. Hay nói đúng hơn sự xuất hiện vai trò hàng hóa của cây trồng đã bƣớc
đầu làm thay đổi nền kinh tế truyền thống khép kín tự cung tự cấp của dân tộc
Dao ở Lục Nam. Hơn nữa sự xuất hiện của tập đoàn cây trồng hàng hóa còn
làm thay đổi tƣ duy truyền thống của ngƣời Dao với việc nhận thức rõ về
nguồn thu nhập cải thiện nâng cao đời sống.
Cùng với cây vải thiều, hồng đang trở thành mối quan tâm của đồng
bào. Cây hồng xƣa đƣợc các gia đình trồng nhiều trong vƣờn nhà cho trẻ ăn,
trong tƣ duy truyền thống chƣa bao giờ cây hồng đƣợc coi là cây trồng hàng
hóa. Ngƣời dân trồng ba loại hồng chủ yếu: hồng Thái, hồng Thạch Thất và
hồng Nhân Hậu. Trong ba loại hồng trên hồng nhân hậu đƣợc trồng phổ biến
hơn cả bởi năng suất cao hơn và cho thu hoạch sớm hơn. Song không phải hộ
gia đình nào cũng có thể trồng đƣợc hồng mang tính phổ biến nhƣ cây vải. Ở
đây không phải hồng là loại cây khó trồng mà giống mua ban đầu giá rất cao.
Vào thời điểm những năm 1996 - 1997 giá một gốc hồng mua đƣợc 4 - 5 gốc
vải. Bởi vậy, mặc dù giá trị kinh tế của hồng Nhân hậu mang lại hiệu quả cao
hơn xong với giá thành cao rất ít hộ gia đình có đủ điều kiện kinh tế để tiếp
cận cây trồng hàng hóa đầy triển vọng này. Hồng đƣợc trồng bằng phƣơng
pháp ƣơm rễ. Hàng năm vào tháng 8 sau khi thu hoạch quả đồng bào tiến
hành bới gốc cắt rễ. Rễ đƣợc chọn lựa là những rễ thuộc nhóm rễ phụ của cây
có độ tuổi 2 năm trở lên, đƣờng kính rễ tối thiểu 1,2cm. Rễ đƣợc cắt thành
từng đoạn nhỏ có chiều dài 0,20m - 0,25m, mỗi rễ đƣợc ƣơm trong từng giỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhỏ đƣợc đan bằng tre để nơi dâm mát. Khi rễ đã nẩy lộc bà con tiến hành đào
66
hố sâu 0,5m, rộng 0,6m, đợi khi có mƣa xuân đồng bào đƣa xuống trồng. Sau
3 - 4 năm hồng nhân hậu bắt đầu cho thu hoạch.
Trong kinh tế truyền thống trƣớc đây dân tộc Dao ở Lục Nam cũng đã
trồng dứa ở bãi và trên nƣơng đồi nhƣng số ngƣời trồng không nhiều. Dứa
đƣợc trồng để làm hàng rào ngăn cách ruộng giữa hai nhà và cũng là để giữ
đất hạn chế sự rửa trôi của nƣớc. Xuất phát từ mục đích nhƣ vậy mà cây dứa
ít đƣợc quan tâm chăm sóc. Phải đến khi nền kinh tế thị trƣờng phát triển
những cây dứa quen thuộc trong vƣờn nhà trƣớc đây mới thực sự đƣợc quan
tâm chăm sóc bởi lợi ích kinh tế mà nó đem lại không nhỏ. Đồng bào trồng
chủ yếu giống dứa Phú Thọ, giống này quả nhỏ xong rất ngọt đƣợc thị trƣờng
ƣa chuộng. Dứa đƣợc trồng xen với vải và hồng để giữ độ ẩm và chống sự rửa
trôi cho đất mà chất lƣợng, năng suất rất cao. Trong một hai năm gần đây bà
con đƣợc cán bộ nông nghiệp của tỉnh và huyện về phổ biến giống dứa lai
mới cho năng suất cao hơn rất nhiều giống dứa nội truyền thống trƣớc đây.
Đƣợc Nhà nƣớc hỗ trợ vốn và giống, rất nhiều hộ bắt đầu trồng thử nghiệm
loại dứa mới này với hy vọng mang lại hiệu quả và giá trị kinh tế cao hơn.
Nhƣ vậy, trong những năm gần đây nhu cầu chuyển đổi cơ cấu cây
trồng không còn là chỉ thị, chủ trƣơng chuyển hƣớng phát triển kinh tế của
Nhà nƣớc ta nói chung, tỉnh Bắc Giang nói riêng, hay chỉ dừng lại ở các cấp
chính quyền, các đoàn thể, hiệp hội mà nhu cầu này thực sự đã trở thành tự
giác trong phƣơng hƣớng phát triển kinh tế của ngƣời Dao ở Lục Nan. Sự
chuyển đổi cơ cấu cây trồng tiếp tục đi nhanh hơn trong hai, ba năm trở lại
đây với việc hỗ trợ vốn của Nhà nƣớc cho các hộ gia đình tạo điều kiện đầu tƣ
vào mở rộng diện tích, đa dạng hóa cây trồng.
3.2.3 Chăn nuôi theo xu hướng thị trường
Cùng với sự đổi mới trong trồng trọt, ngành chăn nuôi đang từng bƣớc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vƣơn lên tạo sự chuyển biến toàn diện trong nông nghiệp. Nếu nhƣ trong chăn
67
nuôi truyền thống, đại gia súc nhƣ trâu, bò đƣợc quan tâm phát triển hơn, gia
cầm, thì trong điều kiện kinh tế mới gia cầm không ngừng vƣơn lên về số
lƣợng. Nhìn một cách tổng quan, xét đến cùng cũng là phù hợp với logic
trong sự phát triển kinh tế ở đây. Trong kinh tế truyền thống trẻ nhỏ đƣợc xem
là đối tƣợng duy nhất đảm trách việc chăn thả trâu thì nay chúng phải cắp
sách tới trƣờng. Những bãi cỏ, những nấm đồi hoang trƣớc đây đƣợc dùng
vào việc chăn thả đại gia súc nay đã đƣợc phủ kín cây ăn quả. Những chân
ruộng trƣớc đây cấy một vụ, vụ còn lại bỏ hoang cho chăn thả trâu nay những
chân ruộng này đã cấy đƣợc hai vụ xen một vụ màu đông, luân canh, xen
canh không cho đất nghỉ, đất bây giờ là “thước đất thước vàng”. Bởi lý do
trên mà địa bàn chăn thả đại gia súc ngày một thu hẹp, yếu tố này tác động
trực tiếp đến sự phát triển đại gia súc. Hơn nữa khi khoa học kỹ thuật đƣợc
đƣa vào trong sản xuất nông nghiệp, các máy móc thay thế dần sức kéo của
trâu thuận lợi hơn, năng suất cao hơn. Phong trào xây dựng làng bản văn hóa
ở Bắc Giang đã đƣợc triển khai sâu rộng tới từng làng bản, từng hộ gia đình
tạo nên phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa mới. Những phong
tục lạc hậu, mê tín dị đoan bị đẩy lùi, trong lễ cúng của đồng bào Dao hiện
nay không nhất thiết phải có trâu nhƣ trƣớc. Từ tất cả các điều kiện chủ quan
cũng nhƣ khách quan kể trên đã hạn chế và thu hẹp dần số lƣợng đàn trâu.
Khi đời sống vật chất đƣợc cải thiện, đồng bào đã có vốn, lúc này
ngƣời dân mới có nguồn lƣơng thực dƣ thừa để đầu tƣ vào phát triển tiểu gia
súc, gia cầm trong đó lợn và gà đƣợc nuôi phổ biến. Các giống lợn, gà mới có
thời gian sinh trƣởng ngắn, sản lƣợng, chất lƣợng cao đã dần thay thế các
giống lợn, gà sản lƣợng thấp trƣớc đây. Cùng với sự thay đổi về giống là sự
thay đổi về cơ cấu thành phần thức ăn trong chăn nuôi. Hiện đồng bào đang
áp dụng công thức chăn nuôi theo khoa học tăng hàm lƣợng dinh dƣỡng trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khẩu phần thức ăn bằng các loại cám tổng hợp do sản xuất công nghiệp dƣới
68
sự hƣớng dẫn của cán bộ khuyến nông. Trong kinh tế truyền thống trƣớc đây
do điều kiện kinh tế khó khăn mỗi hộ gia đình chỉ nuôi từ 1 đến 2 con lợn sau
9 - 10 tháng mới xuất chuồng, chăn nuôi chỉ dừng lại ở mục đích phục vụ các
đám lễ mà chƣa đƣợc mua bán. Nay với phƣơng pháp chăn nuôi tiên tiến khoa
học mỗi lứa lợn đồng bào chỉ cần nuôi 3,5 đến 4 tháng là thịt đƣợc. Nhƣ vậy
chăn nuôi hiện nay giảm đƣợc 1/2 khoảng thời gian so với chăn nuôi trƣớc
đây. Mỗi hộ gia đình nuôi trung bình 4 - 6 con, cá biệt có gia đình nuôi hơn
20 con, mỗi năm chăn nuôi đem lại nguồn thu từ 3 đến 5 triệu đồng, đóng góp
một phần đáng kể cho chi tiêu của mỗi hộ gia đình.
Nghề nuôi ong: Nuôi ong ở ngƣời Dao đã có từ lâu đời. Xƣa đồng bào
thƣờng tận dụng các hốc cây trong vƣờn nhà để nuôi ong lấy mật, phƣơng
pháp nuôi này còn mang tính tự nhiên do vậy số mật thu đƣợc hàng năm
không nhiều. Sản phẩm thu đƣợc mới chỉ đủ cho gia đình dùng, mật ong chƣa
đƣợc đem trao đổi mua bán để đem về nguồn tiền mặt phục vụ cho sinh hoạt
gia đình. Những năm gần đây nuôi ong lấy mật phát triển rất mạnh đang dần
trở thành một nghề mới đem lại hiệu quả và giá trị kinh tế cao.
Cùng với sự tăng nhanh về diện tích cây ăn quả là sự nở rộ về số lƣợng
đàn ong. Hiện đồng bào nuôi hai giống ong: ong trong nƣớc và ong nhập từ
nƣớc ngoài. Giống ong trong nƣớc là giống ong đƣợc thuần dƣỡng từ giống
ong mật rừng trƣớc đây, so với ong nhập ngoại, ong trong nƣớc có đặc điểm
nhỏ hơn, ít tiêu tốn thức ăn, chúng rất chịu khó đi lấy mật hoa. Song giống
ong này có nhƣợc điểm là hay đốt, tổ nhỏ, hay bỏ tổ, vào mùa hoa đại trà cho
sản lƣợng mật ít hơn ong ngoại. Giống ong nhập từ nƣớc ngoài, chủ yếu là
ong đƣợc ngƣời dân đƣa vào nuôi thử nghiệm trong 5 năm gần đây. So với
ong trong nƣớc, giống ong ngoại có đặc điểm là con ong to, tiêu thụ thức ăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhiều, không chịu khó kiếm mật hoa nhƣ ong nội, nhƣng khi vụ hoa đại trà thì
69
cho sản lƣợng mật lớn hơn nhiều lần so với ong nội. Chính tính ƣu việt này
mà số đàn ong ngoại ngày càng đƣợc nhân rộng phổ biến.
Ong đƣợc nuôi trong các thùng bằng chất liệu gỗ, theo giải thích của
đồng bào Dao chất liệu gỗ giữ ẩm tốt hơn và không nóng nhƣ các chất liệu
khác. Thùng gỗ đƣợc đóng với kích cỡ phổ biến cao 50cm – 60cm, rộng 48 –
50cm. Mỗi thùng có từ 4 - 8 cầu ong đối với ong nội và từ 8 - 15 cầu ong đối
với ong ngoại. Cầu ong đƣợc đóng bằng gỗ, thành khuôn có kích cỡ 40cm x
25cm. Dìa phía dƣới thành thùng ong đƣợc trổ 4 - 6 lỗ nhỏ cho ong ra vào.
Hàng năm từ tháng 2 đến tháng 4 là thời điểm hoa vải, nhãn và bạch
đàn nở rộ, đây là thời điểm thu mật chính trong năm. Từ 5 đến 7 ngày đồng
bào thu mật một lần bằng cách kiểm tra cầu ong thấy mọi ổ mật đó vớt nắp
2/3 thì có thể thu mật. Khi các cầu ong đã chứa đầy mật, ong đƣợc rũ ra khỏi
cầu, cầu đƣợc đƣa vào thùng ly tâm để quay cho văng mật ra hết. Sau đó
ngƣời ta lại đặt cầu vào vị trí cũ để cho ong đổ mật.
Nghề nuôi ong lấy mật đem lại hiệu quả kinh tế rất cao. Mỗi lần thu
mật trung bình mỗi thùng ong cho thu 8 - 13 lít mật, tƣơng đƣơng 800.000 – 1.500.000đ. Nhƣ vậy có thể nói nguồn thu từ nghề này lớn gấp nhiều lần so
với trồng lúa. Điển hình có những hộ gia đình nuôi tới 100 - 140 thùng ong
cho thu nhập mỗi năm 35 - 40 triệu đồng. Nguồn lợi kinh tế thu đƣợc từ nghề
chăn nuôi đặc biệt này đang thu hút sự quan tâm của nhiều hộ gia đình khác.
Nhƣ vậy, chăn nuôi hiện nay có nhiều chuyển biến so với chăn nuôi
truyền thống, ở đây không chỉ diễn ra sự chuyển dịch về cơ cấu vật nuôi mà
còn chuyển dịch cả về cơ cấu chăn nuôi. Chăn nuôi giờ đây đang dần thực sự
trở thành một hoạt động sản xuất với vai trò hỗ trợ cho trồng trọt, và là nguồn
tạo thêm thu nhập cho toàn bộ cơ cấu kinh tế. Trƣớc đây gia súc, gia cầm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phần lớn đƣợc sử dụng vào mục đích tín ngƣỡng, thì nay gia súc, gia cầm có
70
thể bán đƣợc đem lại nguồn tiền mặt cho gia đình. Đây là một nội dung rất
mới mà nó chỉ xuất hiện trong khoảng 20 năm trở lại đây. Chăn nuôi không
còn là một hoạt động sản xuất phi hàng hoá nữa mà nó đó trở thành một hoạt
động tạo thu nhập, tạo nguồn quan trọng cho sản xuất. Những chuyển biến về
chất đã biểu hiện ở sự xuất hiện và tăng dần xu hƣớng thị trƣờng hoá trong
chăn nuôi.
3.3. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tính tích cực của tri thức
dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao
3.3.1. Cơ sở để đưa ra giải pháp
3.3.1.1. Cơ sở khoa học
Theo “Từ điển tiếng Việt” thì “Bảo tồn” có nghĩa là giữ lại. Giáo sƣ
Tô Vũ xác định“Khi nói tới bảo tồn, ta luôn nghĩ đến giữ gìn toàn bộ và
nguyên vẹn đối tượng cần bảo tồn… Đối tượng bảo tồn cần thoả mãn hai
điều kiện tiên quyết: Một là, nó phải được nhìn là tinh hoa, là một “giá
trị” đích thực không có gì phải hồ nghi hay bàn cãi. Hai là, nó phải hàm
chứa khả năng, chí ít là tiền năng, đứng vững lâu dài trước những biến đổi
tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là trong giai
đoạn đổi mới hiện nay với chính sách mở cửa và cơ chế thị trường” [30,
tr.242]. Thứ trƣởng Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch Trần Chiến Thắng
nêu: “Nếu bảo tồn không tốt chúng ta sẽ đứt mạch với quá khứ, chúng ta sẽ
bị tác động rất mạnh của cơ chế thị trường, của dòng thác văn minh của
những nước phát triển hơn chúng ta về mặt kinh tế, sẽ đến lúc chúng ta sẽ
mất đi chính mình”. Nên “giữ có phải là giữ nguyên trạng hay là giữ có
phát triển. Giữ nguyên trạng là đóng băng sự sáng tạo, tự do thì lại phá
mất gốc” [32, tr.12]. Từ những nhận định trên, có thể thấy sự phức tạp và
những khó khăn đặt ra cho việc bảo tồn di sản văn hoá, đặc biệt là di sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
văn hoá phi vật thể trong đó có tri thức dân gian. Mặt khác thấy đƣợc tầm
71
quan trọng của việc bảo tồn và phát huy giá trị của các tri thức dân gian
trong đời sống cộng đồng tộc ngƣời. Vì vậy, từ khi tỉnh Bắc Giang đƣợc
thành lập năm 1997, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bắc Giang đã chỉ đạo ngành Văn
hóa Thông tin các huyện tập trung quan tâm chỉ đạo công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hoá dân tộc thông qua các văn bản pháp quy,
các đề án, chƣơng trình cụ thể nhƣ:
Đề án xây dựng đời sống văn hoá cơ sở tỉnh Bắc Giang; Đề án bảo tồn
và phát huy các giá trị di sản văn hoá các dân tộc thiểu số tỉnh Bắc Giang giai
đoạn năm 2003- 2005; Đề án bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá
các dân tộc tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2003 – 2010; Kế hoạch tiếp tục bảo tồn
và phát huy các giá trị di sản văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Giang từ năm 2007
-2010; Chƣơng trình phát triển sự nghiệp văn hoá thông tin tỉnh Bắc Giang từ
năm 2007 - 2015. Các đề án, chƣơng trình, kế hoạch này đƣợc xây dựng trên
cơ sở thực tiễn từ năm 1997 - 2000 trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Các chủ
trƣơng trên đã đƣợc phổ biến và triển khai tích cực tới toàn Đảng, toàn dân
trong tỉnh và đã tạo nên một phong trào bảo tồn các giá trị di sản văn hoá các
dân tộc rất tích cực trong đời sống xã hội và đạt hiệu quả tốt.
Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá phi vật thể đƣợc
thực hiện tốt trƣớc hết là ở sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc ta đối với
công tác này. Sự quan tâm đó thể hiện qua chủ trƣơng và đƣờng lối đề ra của
Đảng và Nhà nƣớc ta nên đã tác động tới toàn bộ hệ thống chính trị- xã hội để
tạo nên một ý thức chung của toàn Đảng toàn dân trong công tác bảo tồn và
phát huy di sản văn hoá phi vật thể. Để có đƣợc hiệu quả tốt phải có sự chỉ
đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh thông qua các chủ trƣơng, đƣờng lối các đề án,
kế hoạch, chƣơng trình tới các huyện, thành phố để toàn Đảng, toàn dân thực
hiện. Phát huy cao độ, tích cực các cấp uỷ, cấp chính quyền, các đoàn thể xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hội cùng tham gia thƣờng xuyên và liên tục và coi đó là một nhiệm vụ không
72
thể thiếu đối với công cuộc xây dựng quê hƣơng đất nƣớc. Tạo ra một sự phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan với ngành Văn hoá thông tin để thực
hiện các đề án, chƣơng trình, kế hoạch theo đúng lộ trình vạch ra. Xây dựng
một đội ngũ những ngƣời làm công tác bảo tồn di sản văn hoá từ trên xuống
cơ sở đủ để thực hiện các nhiệm vụ giao phó. Động viên tích cực tính tự giác
của mỗi cán bộ công chức viên chức làm công tác bảo tồn di sản văn hoá và
của mỗi ngƣời dân trong địa phƣơng thông qua các công việc bảo tồn di sản
văn hoá. Gắn việc bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể với phong trào toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá cơ sở để phát huy hiệu quả cao hơn.
3.3.1.2. Cơ sở thực tiễn
Đồng bào Dao ở Lục Nam cƣ trú chủ yếu ở những nơi mà đồi, núi,
rừng còn chiếm phần lớn diện tích, lại là những vùng sâu, vùng xa, đời sống
kinh tế, văn hoá, xã hội đều còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Sản xuất nông
nghiệp trồng trọt là hoạt động kinh tế chủ đạo, là nguồn sống chính của đồng
bào. Từ thực tiễn cƣ trú nhƣ vậy, để tồn tại và phát triển đi lên ngƣời Dao ở
Lục Nam vừa phải tìm cách thích ứng với việc khai khẩn đất bằng ở các thung
lũng, vừa phải thích ứng với việc khai khẩn đất dốc ven các sƣờn đồi làm
nƣơng, làm bãi. Trải qua bao thế hệ nối tiếp nhau không ngừng tự trau dồi,
đúc rút, đồng bào đã tích luỹ đƣợc nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc xử
lý đất trồng, kỹ thuật canh tác... Nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông
nghiệp cho đến nay vẫn đƣợc đồng bào gìn giữ và thực hiện bên cạnh các biện
pháp kỹ thuật hiện đại.
Để giữ màu cho đất đồng bào có nhiều giải pháp khác nhau. Giải pháp
thông thƣờng và thƣờng xuyên nhất là bón phân chuồng cho cây trồng. Các
loại phân tích luỹ đƣợc trong chăn nuôi (phân trâu, lợn, gà…) đƣợc tận dụng
triệt để. Cách bón phân chủ yếu là bón lót. Đối với các chân ruộng nƣớc dƣới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
các thung lũng đồng bào gánh phân chuồng từ nhà ra đồng để thành nhiều
73
đống nhỏ trƣớc khi bừa cấy. Khi bừa cho nhuyễn đất để cấy, cũng đồng thời
làm cho phân tản đều trên mặt ruộng. Đối với những loại cây trồng trên đất
khô (nương, bãi) nhƣ ngô, khoai, sắn, đậu, lạc… sau khi tra hạt vào hố đồng
bào rắc phân đã đƣợc ủ mục lên trên hạt rồi mới lấp đất. Để tránh các loại sâu
bọ, côn trùng ăn hạt giống cây trồng, đồng bào trộn thêm tro bếp vào phân
mục. Bằng cách bón phân lót khi cấy trồng, đất ruộng đƣợc bồi bổ thêm chất
màu, cây trồng phát triển và sinh trƣởng tốt.
Đất bạc màu không chỉ do cây trồng lấy chất màu từ đất, mà còn do
mƣa lũ làm xói mòn đất màu. Qua thực tiễn sản xuất đồng bào Dao đúc rút
đƣợc rất nhiều kinh nghiệm trong việc chống lại sự rửa trôi của nƣớc. Giải
pháp phổ biến nhất là đắp tạo bờ theo các đƣờng đồng mức, chia đất thành các
chân ruộng bậc thang, nƣơng bậc thang. Tại mỗi chân ruộng đồng bào để một
rạch nƣớc lửng đƣợc bố trí so le từ trên xuống dƣới, từ dƣới lên trên. Những
rạch nƣớc này có chức năng điều hoà mực nƣớc giữa các chân ruộng trên và
dƣới, hạn chế tối đa sự rửa trôi của nƣớc. Những ruộng bậc thang trải khắp
dƣới thung lũng sƣờn đồi chính là kết quả của nhận thức này.
Trên bãi phƣơng pháp xen canh gối vụ đƣợc đồng bào áp dụng phổ biến
để hạn chế sự rửa trôi của nƣớc. Cây ngô đƣợc trồng vào cuối mùa xuân, đầu
mùa hạ và thu hoạch vào cuối mùa hạ và đầu mùa thu. Đây là khoảng thời
gian mƣa nhiều, những hạt mƣa rơi trực tiếp xuống mặt nƣơng, bãi chảy đi
mang theo một lƣợng đất màu lớn. Để hạn chế mƣa rơi thẳng xuống đất, đồng
bào trồng xen vào gốc các loại cây thân dây: khoai lang, cây bí, hoặc cây đậu
xanh, đậu tƣơng. Lá các loại cây này phủ che kín mặt nƣơng góp phần giữ độ
ẩm cho đất, đồng thời hạn chế tối đa nƣớc mƣa rơi trực tiếp xuống mặt đất.
Để làm tăng chất màu cho đất, khi lúa chín đồng bào chỉ cắt phần
ngọn. Phần thân và gốc đƣợc để lại ruộng. Vào cuối tháng Chạp và đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tháng Giêng âm lịch, trên những chân ruộng cạn các gốc rạ đã khô, đồng
74
bào tiến hành đốt gốc để lấy tro bổ xung chất màu cho đất. Trên nƣơng
những cây cỏ dại cũng đƣợc rẫy, phát vào tháng Giêng, sang tháng hai,
tháng ba cỏ khô, đồng bào cũng đốt lấy tro bón cho cây trồng. Cần phải nói
thêm rằng, việc đốt rạ trên ruộng, đốt cỏ trên nƣơng có ý nghĩa làm sạch
môi trƣờng sản xuất, diệt trừ các loại sâu và trứng sâu, ổ sâu đang kỳ ngủ
đông, đợi xuân về nở ra làm hại cây trồng.
Tri thức về sản xuất nông nghiệp không chỉ đƣợc hình thành trong quá
trình lao động sản xuất mà còn ăn sâu vào cuộc sống tâm linh của đồng bào.
Trong bản, làng đồng bào cƣ trú, hoặc trên đƣờng đi lại giữa các bản làng
thƣờng có các cây cổ thụ sống tập trung. Ở đó đồng bào thƣờng lập miếu thờ
thổ công, hoặc không có miếu thờ nhƣng nơi đó vẫn đƣợc coi là vùng đất
thiêng. Mọi ngƣời có thể ngồi nghỉ ngơi dƣới gốc cây, xong không đƣợc làm
ô uế nơi đó, không đƣợc chặt phá các cây xung quanh, đặc biệt là cây cổ thụ.
Đồng bào quan niệm cây cổ thụ trong bản, trong làng là nơi các vị thần cƣ
ngụ ở đó. Họ bảo vệ, chở che mang lại sự yên bình cho mảnh đất mà dân bản
đang cƣ ngụ. Phá hoại cây cũng chính là phá hoại cuộc sống bình yên của dân
bản. Do vậy, việc bảo vệ cây cổ thụ là trách nhiệm chung của cả dân bản, tập
tục này vẫn còn lƣu truyền cho tới ngày nay.
Mùa xuân về cũng chính là mùa đâm chồi nảy lộc của cây cối, mùa sinh
sản của động vật. Để bảo vệ cây rừng và động vật trong thời kỳ này, trong tín
ngƣỡng của mình đồng bào dân tộc Dao có tục cấm rừng (đóng cửa rừng).
Tục đóng cửa rừng thƣờng bắt đầu từ ngày 25 tháng Chạp cho đến hết tháng
Giêng. Trong khoảng thời gian này dân bản không ai đƣợc vào rừng săn bắt
chim thú, chặt phá cây cối. Đồng bào quan niệm ai phạm vào điều cấm này
sang năm mới hồn cây sẽ ra khỏi nhà họ, gia đình đó sẽ bị mất mùa, những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngƣời trong gia đình hay bị bệnh tật ốm đau.
75
Có thể nói, các tri thức dân gian tộc ngƣời trong sản xuất nông nghiệp
đƣợc ngƣời Dao ở Lục Nam phát huy có hiệu quả ngay trong đời sống kinh tế
hiện nay của đồng bào. Bên cạnh việc sử dụng và phát huy các giá trị tri thức
dân gian vốn có, cộng đồng ngƣời Dao còn tiếp thu khá nhanh những kỹ thuật
cần thiết trong canh tác lúa nƣớc, đặc biệt là kỹ thuật làm thuỷ lợi nhỏ và sử
dụng sức kéo trong khâu làm đất. Các khoảnh ruộng nƣớc của họ thƣờng có
bậc cao thấp khác nhau, mỗi bậc có hệ thống bờ thửa riêng để giữ và điều tiết
nƣớc cho phù hợp với yêu cầu của cây lúa trong mỗi kỳ sinh trƣởng.
Các công đoạn kỹ thuật chính trong canh tác lúa nƣớc của ngƣời Dao
cũng giống nhƣ nhiều dân tộc khác. Nhƣng ở thời kỳ đầu, trình độ canh tác
còn thấp, ngƣời ta chỉ gieo mạ, nhổ cấy - điều tiết nƣớc - làm cỏ - thu hoạch,
không bón bất cứ loại phân hoá học nào. Mãi tới gần đây, khi tiếp thu các
giống lúa mới, phân bón mới trở thành yêu cầu bắt buộc. Có thể nói, chính
những yêu cầu khắt khe về thời vụ cũng nhƣ kỹ thuật canh tác của các giống
lúa mới đã dẫn đến một bƣớc tiến dài trong nhận thức về sản xuất nông
nghiệp của ngƣời Dao. Trong kinh tế sản xuất, một số giá trị tri thức dân gian
tộc ngƣời đã đƣợc ngƣời Dao nâng lên thành những quy tắc, quy định chung
của cả cộng đồng, mà nếu ai không tuân theo sẽ bị xử phạt. Đó chính là sự cụ
thể hoá giá trị tri thức dân gian tộc ngƣời bằng luật tục.
Những năm gần đây, đồng bào dân tộc thiểu số đã phải đối mặt với
những biến đổi to lớn, ảnh hƣởng đến cuộc sống, sinh hoạt cộng đồng nói
chung và đến luật tục nói riêng. Đó là tình trạng thoái hoá đất, sự thay đổi
quyền sở hữu đất rừng. Đất đai đối với sản xuất và đời sống của cộng đồng
dân cƣ có ý nghĩa quan trọng và vô cùng cần thiết. Tuy nhiên hiện nay, thoái
hoá đất đang là xu thế phổ biến đối với nhiều vùng miền núi, nơi tập trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hơn 3/4 quỹ đất. Các dạng thoái hoá đất chủ yếu là: xói mòn, rửa trôi, đất có
76
độ phì nhiêu thấp và mất cân bằng dinh dƣỡng, đất chua hoá, bạc màu, khô
hạn, lũ quét, đất trƣợt và sạt lở, đất bị ô nhiễm.
Trên 60% diện tích đất ở miền núi có những vấn đề liên quan tới suy
thoái đất. Nguyên nhân suy thoái môi trƣờng đất có nhiều, song chủ yếu do
phƣơng thức canh tác nƣơng rẫy còn thô sơ, lạc hậu của các dân tộc thiểu số,
tình trạng chặt phá, đốt rừng bừa bãi, khai thác tài nguyên khoáng sản không
hợp lý, lạm dụng các chất hữu cơ trong sản xuất, triển khai xây dựng các công
trình hạ tầng nhƣ: nhà ở, đƣờng giao thông, trƣờng học… Sự suy thoái môi
trƣờng đất kéo theo sự suy thoái các quần thể động, thực vật và chiều hƣớng
giảm diện tích đất nông nghiệp trên đầu ngƣời đã đến mức báo động.
Trong bối cảnh đó, các giá trị tri thức dân gian tộc ngƣời trong sản xuất
kinh tế cần đƣợc chọn lọc và phát huy hơn nữa. Đặc biệt, các biện pháp kỹ
thuật canh tác trên đất dốc của đồng bào là một giá trị tri thức hữu ích và thiết
thực để chống xói mòn, hạn chế thoái hoá đất. Canh tác bền vững trên đất dốc
cần thực hiện các biện pháp để làm giảm tối đa tác hại của mƣa và dòng chảy
do mƣa tạo ra, đồng thời làm tăng độ phì nhiêu cho đất. Đồng bào các dân tộc
có nhiều biện pháp nhƣ: làm ruộng bậc thang, xếp bờ đá, bón phân hữu cơ,
trồng cây xanh… Nhƣng biện pháp quan trọng nhất và bền vững nhất đem lại
hiệu quả kinh tế nhất là chọn và bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý trên đất dốc,
trên đỉnh đồi trồng keo, tre, trám… ở giữa trồng các cây lƣơng thực: ngô,
khoai, sắn, đỗ, đậu, lạc, vừng, hoặc trồng cây công nghiệp nhƣ chè. Trồng cây
ăn quả ở dƣới chân đồi.
Bên cạnh việc phát huy các giá trị tri thức dân gian tộc ngƣời, cần thực
hiện tốt công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng về việc sử dụng
hợp lý và tiết kiệm tài nguyên đất, đào tạo và huấn luyện để nâng cao kiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thức của ngƣời dân về công nghệ, kỹ thuật sử dụng và quản lí đất; tổ chức
77
tuyên truyền và phát động phong trào quần chúng áp dụng các mô hình hiệu
quả sử dụng bền vững tài nguyên đất.
Ngày nay, trƣớc sức ép về gia tăng dân số, về nhu cầu đất đai và xu thế
hội nhập với cuộc sống hiện đại đã ảnh hƣởng ít nhiều đến tính tôn nghiêm
của luật tục. Song ở phƣơng diện nào đó khi pháp luật và các biện pháp giáo
dục khác chƣa phát huy tác dụng nhƣ mong muốn, thì việc khuyến khích và
tạo điều kiện cho đồng bào sử dụng luật tục truyền thống sẽ mang lại hiệu quả
đáng kể, đặc biệt là trong giải quyết vấn đề sở hữu và tranh chấp đất đai,
chống nạn phá rừng và các tệ nạn xã hội khác…
Qua quá trình điều tra, nghiên cứu cho thấy các giá trị tri thức dân gian
trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở Lục Nam rất đa dạng, phong
phú. Các giá trị văn hoá ấy đƣợc thể hiện qua các kinh nghiệm sản xuất, lựa
chọn giống, kỹ thuật canh tác, thời vụ… Các giá trị ấy vẫn đang tồn tại trong
cộng đồng cƣ dân nhƣng đã và đang bị mai một dần.
Hiện nay, cƣ dân trong các bản đã có ý thức bảo tồn các giá trị của di
sản văn hoá dân tộc mình ở mức độ cho phép nhƣ: duy trì tiếng nói mẹ đẻ,
mặc quần áo dân tộc mình vào những dịp lễ hội, duy trì các phong tục nhƣng
có thay đổi, bỏ các yếu tố lạc hậu đi, hàng năm có tổ chức đi hát dân ca giao
lƣu cùng các địa phƣơng bạn… Các hình thức bảo tồn ấy đã đƣợc bà con nhân
dân hƣởng ứng vì mục đích bảo tồn các giá trị văn hoá dân tộc Dao góp phần
làm cho bản làng của ngƣời Dao trở thành một địa điểm văn hoá trong vùng
Lục Sơn, Lục Nam. Bên cạnh việc áp dụng khoa học kỹ thuật mới, đồng bào
vẫn kết hợp với những kinh nghiệm cổ truyền để gieo cấy đúng thời vụ, phù
hợp tình hình địa phƣơng nhằm tăng năng suất cây trồng, đem lại hiệu quả
kinh tế cao. Đây là điều kiện thuận lợi để bảo tồn những giá trị tri thức dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gian trong sản xuất nông nghiệp của đồng bào.
78
3.3.2. Một số giải pháp
Tri thức bản địa của các tộc ngƣời thiểu số ở Lục Nam là một phức hợp
những kinh nghiệm đƣợc hình thành trong thế ứng xử giữa hoạt động của
cộng đồng trong một vùng môi trƣờng có các điều kiện tự nhiên cụ thể để sinh
tồn. Nó đƣợc chọn lọc và truyền từ đời này qua đời khác trong cộng đồng. Tri
thức dân gian có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển, nhƣng cũng có
những mặt hạn chế. Sự hạn chế này xuất phát từ đặc tính địa phƣơng (tính bản
địa, tính tộc ngƣời) của nó rất cao, nên khó phổ biến rộng rãi đến các tộc
ngƣời khác, vùng khác. Tri thức dân gian hiểu theo nghĩa rộng cũng nằm
trong nội hàm của khái niệm “văn hoá”, nhƣng nó ở dạng văn hoá phi vật thể.
Cũng có thể coi dạng văn hoá này nhƣ là một “nguồn lực” có thể trực tiếp huy
động cho sự phát triển ở từng vùng, từng cộng đồng. Trong qúa trình phát
triển và hình thành các giá trị văn hóa, các tộc ngƣời thiểu số ở Việt Nam
không có khái niệm: “tri thức dân gian”. Đây là khái niệm đƣợc các nhà khoa
học phƣơng Tây (sau đó là các nhà khoa học Việt Nam) “định ra” khi nghiên
cứu văn hóa truyền thống của tộc ngƣời, đặt trong mối tƣơng quan và so sánh
với “tri thức khoa học” hiện đại. Thông thƣờng, tri thức dân gian đƣợc phân
thành hai nhóm: một nhóm là các tri thức dƣới dạng “kỹ thuật”; nhóm khác là
các tri thức dƣới dạng văn hoá tín ngƣỡng, luật tục.
Trong việc thực hành phát triển tại các khu vực nông thôn và miền núi,
nhóm thứ nhất (các tri thức về kỹ thuật) đƣợc kết hợp với các tri thức khoa
học hiện đại để thiết lập các dự án kinh tế - xã hội; nhóm thứ hai (các tri thức
về văn hoá - xã hội) đƣợc sử dụng cho mục đích quản lý các nguồn lợi, bảo vệ
môi trƣờng sinh thái trong khu vực của cộng đồng. Tri thức dân gian đã và
đang đóng góp một phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề của địa
phƣơng và tộc ngƣời. Những tri thức về nông nghiệp (kỹ thuật xen canh, chăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nuôi, đa dạng cây trồng, chăm sóc sức khoẻ vật nuôi, chọn giống cây trồng);
79
sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên (bảo vệ đất, thuỷ lợi và các hình
thức quản lý nƣớc khác); giáo dục (kiến thức truyền miệng, các ngôn ngữ địa
phƣơng) đã có những tác dụng nhất định trong xóa đói giảm nghèo và phát
triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, không phải tri thức dân gian nào cũng đƣợc
sử dụng nhƣ nhau và phát huy hiệu quả trong bối cảnh mới. Do vậy, không
thể chỉ lựa chọn và áp dụng tri thức khoa học, cũng không thể chỉ dựa vào tri
thức dân gian, vấn đề đặt ra là phải kết hợp hai nguồn tri thức ấy vì mục tiêu
phát triển bền vững. Điều đó có nghĩa là khi triển khai các dự án, chúng ta
phải nghiên cứu để lồng ghép và chuyển tải những kinh nghiệm trong bảo vệ
đất, tính lịch sản xuất, trong xen canh, luân canh; những tri thức bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên vào việc trồng, bảo vệ rừng, xây dựng mô hình VAC
(vƣờn ao chuồng), VACR (vƣờn, ao, chuồng, rừng); xây dựng các mô hình
vƣờn nhà, vƣờn rừng. Từ đó góp phần vào việc thay đổi nhận thức và thế ứng
xử trong không gian sinh tồn của ngƣời dân miền núi, chuyển từ tập quán khai
thác thiên nhiên một chiều sang tập quán đầu tƣ và tái tạo thiên nhiên. Bên
cạnh đó, những tri thức trong việc chăm sóc sức khoẻ cộng đồng; trong điều
hành, quản lý con ngƣời, quản lý làng bản, xã hội với việc đề cao vai trò của
ngƣời già, của tính cộng đồng, tính nhân văn, của những quan hệ bền chặt
trong gia đình, dòng họ là những kinh nghiệm quý trong việc xây dựng nông
thôn có tăng trƣởng về kinh tế nhƣng vẫn đảm bảo đƣợc công bằng xã hội và
bảo vệ đƣợc môi trƣờng. Đó chính là mục tiêu của phát triển bền vững mà
chúng ta đang hƣớng tới.
Hiện nay, tri thức dân gian của các tộc ngƣời đƣợc coi là một trong
những lợi thế so sánh của một số nƣớc đang phát triển, trong đó có huyện Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang. Bởi vậy, việc bảo vệ các tri thức dân gian ở quy mô
làng bản và huyện, tỉnh, đặc biệt là bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tri
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thức dân gian, đƣợc coi là một yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, do bản chất của
80
tri thức dân gian là tồn tại dƣới dạng thông tin đƣợc lƣu truyền qua các thế hệ,
hoặc đƣợc trao đổi giữa các cộng đồng, nên nhiều tri thức quý giá có nguy cơ
bị mai một dần theo thời gian, hoặc bị chiếm đoạt khai thác trái phép ngoài
phạm vi kiểm soát của cộng đồng nắm giữ tri thức. Những hành vi đó không
chỉ gây thiệt hại về kinh tế cho cộng đồng mà nguy hại hơn là phá vỡ nguyên
tắc cân bằng lợi ích giữa cộng đồng nắm giữ và chủ thể khai thác tri thức dân
gian, hủy hoại nỗ lực bảo tồn và phát triển tri thức, đi ngƣợc lại truyền thống
văn hóa, phong tục tập quán của cộng đồng. Do đó, cộng đồng quốc tế rất
quan tâm tới các biện pháp, công cụ thích hợp nhất để bảo vệ hữu hiệu loại tài
sản đặc biệt này, thực chất là bảo hộ khía cạnh sở hữu trí tuệ của tri thức dân
gian. Tri thức dân gian là tài sản chung thuộc cộng đồng hoặc một địa phƣơng
cụ thể. Do đó, nó không thuộc độc quyền của một cá nhân, tổ chức nào và nếu
bị thƣơng mại hóa sẽ gây ảnh hƣởng tiêu cực đến tập quán, tín ngƣỡng, văn
hóa của cả cộng đồng. Trên thực tế, không phải tất cả các tri thức dân gian
đều mang tính tập thể, mà trong nhiều trƣờng hợp các cá nhân có thể tự
nghiên cứu, cải tiến, tạo ra những tri thức mới trên cơ sở vốn tri thức đã có và
đƣợc cộng đồng thừa nhận. Điều quan trọng là, những nhóm ngƣời hay cộng
đồng nắm giữ tri thức bản địa có những quy định riêng trong việc lƣu truyền,
khai thác, phát triển nguồn tri thức đó bằng phong tục tập quán, văn hóa, luật
tục, tôn giáo, tín ngƣỡng, ngôn ngữ của mình.
Sự quan tâm đến tri thức dân gian đƣợc thể hiện rõ trong những báo cáo
của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ ở nhiều quốc gia. Các tổ chức này
cũng nhƣ các tổ chức quốc tế nhƣ Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Sở hữu trí tuệ
Liên hợp quốc (WIPO) và Tổ chức Nông lƣơng thế giới (FAO) đều thừa nhận
về vai trò và những đóng góp của tri thức bản địa trong phát triển bền vững.
Do vậy, bảo tồn và phát huy các giá trị của tri thức dân gian là một yêu cầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đƣợc đặt ra cấp bách không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nƣớc đang phát
81
triển trên thế giới. Để bảo tồn và phát huy các giá trị của tri thức dân gian của
các tộc ngƣời thiểu số ở Lục Nam nói riêng và Việt Nam nói chung trong giai
đoạn hiện nay, chúng tôi xin đề xuất một số biện pháp sau:
Thứ nhất, nghiên cứu một cách có hệ thống về tri thức dân gian của từng
tộc ngƣời thiểu số nói riêng và các tộc ngƣời ở Việt Nam nói chung; bảo tồn
và xây dựng bộ hồ sơ về kho tàng tri thức bản địa, tƣ liệu hóa và cung cấp cho
cán bộ và nhân dân địa phƣơng. Thông qua nhiều hình thức khác nhau nhằm
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục… để ngƣời dân khắc phục tâm lý tự ti mặc
cảm, coi thƣờng vốn tri thức truyền thống của cha ông, sùng bái kỹ thuật
phƣơng Tây. Trả lại giá trị và niềm tự hào của các tộc ngƣời về di sản trí tuệ
của chính bản thân họ. Khuyến khích việc sƣu tầm, nghiên cứu và phổ cập trở
lại vốn tri thức dân gian, dần dần đƣa vào chƣơng trình giáo dục nhà trƣờng
những nội dung tri thức dân gian phù hợp với điều kiện cụ thể từng địa
phƣơng và văn hóa truyền thống của tộc ngƣời.
Thứ hai, xác định tri thức dân gian nào còn phù hợp, đánh giá hiệu quả
và tính bền vững của nó; kết hợp sử dụng tri thức dân gian và tri thức khoa
học một cách hợp lý trong những dự án phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa -
môi trƣờng… hiện nay. Các nhà khoa học khi lập kế hoạch nghiên cứu hoặc
trực tiếp tham gia vào các dự án bảo tồn tài nguyên sinh học nói chung, cần
chú ý phải bảo tồn cả tri thức dân gian. Dựa vào tri thức dân gian việc lập các
dự án phát triển sẽ giúp các nhà khoa học không phải điều tra sàng lọc từ đầu,
một công việc rất tốn kém và mất nhiều thời gian.
Thứ ba, có chính sách động viên, khen thƣởng, công nhận các danh hiệu
thầy thuốc dân gian, thầy thuốc cộng đồng đối với những ngƣời có nhiều công
lao trong việc chữa bệnh; danh hiệu nghệ nhân dân gian… đối với những
ngƣời lƣu giữ nhiều giá trị tri thức dân gian của tộc ngƣời. Xây dựng lộ trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
để bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với tri thức dân gian nhằm bảo hộ các quyền kinh
82
tế và quyền tinh thần của những ngƣời nắm giữ tri thức dân gian. Bảo hộ sở
hữu trí tuệ đối với tri thức dân gian trƣớc hết nhằm bảo vệ quyền tinh thần của
ngƣời nắm giữ tri thức dân gian và quyền ngăn cấm ngƣời khác thƣơng mại
hóa tri thức của mình. Việc khai thác thƣơng mại các tri thức dân gian sẽ
mang lại lợi ích kinh tế cho bản thân những ngƣời nắm giữ tri thức dân gian
và nguồn thu nhập mà cộng đồng có đƣợc sẽ sử dụng để phát triển phúc lợi
của cả cộng đồng.
Thứ tư, nhiều tộc ngƣời thiểu số riêng gắn bó với rừng, đời sống chủ yếu
dựa vào rừng, chính vì thế họ có một hệ thống kiến thức dân gian rất phong
phú liên quan đến rừng. Thực hiện giao đất giao rừng thì những nhận thức và
hoạt động của ngƣời dân theo cách truyền thống của họ có ý nghĩa rất lớn
trong việc bảo vệ, phát triển và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên rừng.
Tóm lại, tri thức dân gian là một trong những thành tố quan trọng của
văn hóa, góp phần làm nên bản sắc tộc ngƣời. Tri thức dân gian có thể coi là
tài sản của mỗi tộc ngƣời trong qúa trình phát triển, phản ánh mối quan hệ của
từng cộng đồng đối với môi trƣờng tự nhiên và xã hội. Kinh nghiệm phát triển
của nhiều quốc gia châu Á và châu Phi trong những thập kỷ qua cho thấy cách
tiếp cận khoa học và công nghệ phƣơng Tây không đủ đáp ứng những quan
niệm phức tạp và đa dạng của nông dân cũng nhƣ những thách thức về kinh tế
- xã hội, môi trƣờng mà ngày nay chúng ta đang phải đƣơng đầu. Ngƣợc lại,
rất nhiều kỹ thuật truyền thống đã đƣa lại hiệu quả cao, đƣợc thử thách và
chọn lọc trong một thời gian dài, có sẵn tại địa phƣơng, phù hợp với văn hóa
và phong tục tập quán của tộc ngƣời [41].
Việt Nam là một quốc gia có đa tộc ngƣời nên tri thức dân gian của
các tộc ngƣời rất phong phú và đa dạng. Mặc dù tri thức dân gian của các tộc
ngƣời mới chỉ dừng lại ở mức độ kinh nghiệm và cảm nhận, nhƣng nhờ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đƣợc rút ra từ hoạt động thực tiễn của con ngƣời, nên nó có giá trị thiết thực
83
trong xã hội hiện nay của mỗi tộc ngƣời. Do đó cần phải coi tri thức dân
gian nhƣ một nguồn tài nguyên quan trọng và lập kế hoạch nghiên cứu, sƣu
tầm, phát huy chúng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc
nói chung, sự nghiệp phát triển bền vững ở vùng miền núi và tộc ngƣời thiểu
số nói riêng.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Do tác động của nhiều yếu tố hệ thống tri thức dân gian trong sản xuất
nông nghiệp của ngƣời Dao ở Lục Nam có nhiều thay đổi. Với sự quan tâm
của Đảng và Nhà nƣớc hình thức canh tác nƣơng rẫy bị xóa bỏ thay vào đó là
trồng rừng, cây ăn quả đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hóa. Từ độc canh
chuyển sang xen canh mang lại hiệu quả cao. Để phù hợp với điều kiện mới,
thời vụ thay đổi phù hợp với các giống cây trồng mới, cho năng suất cao. Bên
cạnh trồng trọt, chăn nuôi cũng có nhiều thay đổi tích cực, số lƣợng và qui mô
chăn thả ngày càng đƣợc mở rộng.
Tuy nhiên trong hệ thống tri thức sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao
ở Lục Nam có nhiều thay đổi song có tri thức cần đƣợc bảo tồn. Công tác bảo
tồn đang đƣợc các nhà nghiên cứu, các cấp chính quyền quan tâm thực hiện.
Trong bối cảnh đó việc tập trung nghiên cứu để hệ thống đƣợc những tích cực
trong tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở Lục Nam
có ý nghĩa quan trọng. Nhà nƣớc cần sớm có những qui định cụ thể về việc sử
dụng đất canh tác, đất rừng nhằm đảm bảo việc sử dụng đúng mục đích và có
hiệu quả. Cơ quan văn hóa cần sớm có kế hoạch tuyên truyền để ngƣời Dao ở
Lục Nam hiểu đƣợc tầm quan trong của việc bảo tồn những giá trị tích cực.
Nội dung nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp phần nào vào sự hiểu
biết về hệ thống tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở
Lục Nam. Sự hiểu biết này là cơ sơ cho các nhà khoa học khác tiếp tục nghiên
cứu để đƣa ra những giải pháp phát triển bền vững, đảm bảo cuộc sống sung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
túc cho ngƣời dân trên địa bàn khó khăn của huyện
84
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu về Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của
ngƣời Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang, đề tài rút ra một số nhận xét sau:
1. Lục Nam là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang, có địa hình
tƣơng đối phức tạp: đồi núi cao, đồi núi thấp xen kẽ là những cánh đồng bằng
phẳng. Sông Lục Nam chảy dài từ đầu đến cuối huyện cùng với hệ thống
mƣơng máng lớn nhỏ tạo thành hệ thống thủy lợi phong phú, thuận lợi cho
sản xuất nông nghiệp. Chất đất tuy không nhiều dinh dƣỡng cho cây trồng
nhƣng thƣờng xuyên đƣợc cải tạo nên năng suất cây trồng liên tục tăng cao.
2. Huyện Lục Nam bao gồm 8 dân tộc, trong đó ngƣời Dao có mặt ở
Lục Nam từ những năm 20, 30 của thế kỷ 20 là bộ phận ngƣời Dao ở Quảng
Ninh di cƣ sang. Ngƣời Dao ở Lục Nam chủ yếu thuộc nhóm Dao Thanh
Phán và Thanh Y, sống chủ yếu tại 4 xã là Bình Sơn, Trƣờng Sơn, Lục Sơn và
Vô Tranh. Mặc dù sinh sống tại vùng đất mới chƣa lâu nhƣng ngƣời Dao đã
xây dựng đƣợc cho mình hệ thống làng bản riêng biệt bên cạnh những xóm
làng của các dân tộc khác nhƣ Kinh, Tày, Nùng, Cao Lan. Quá trình chinh
phục tự nhiên để sinh tồn đã tạo ra cho ngƣời Dao ở Lục Nam những giá trị
văn hóa đặc trƣng đƣợc thể hiện trong đời sống vật chất, tinh thần và trong lao
động sản xuất.
3. Trong điều kiện tự nhiên có thuận lợi nhƣng cũng đầy khó khăn,
ngƣời Dao ở Lục Nam đã hình thành hệ thống tri thức dân gian trong sản xuất
nông nghiệp của mình. Hệ thống bao gồm các kinh nghiệm trong việc lựa
chọn thời vụ, chọn giống, canh tác, chăm sóc cây trồng, vật nuôi và quá trình
thu hoạch, bảo quản sản phẩm. Để phù hợp với điều kiện khí hậu, tài nguyên,
đất, nƣớc, rừng ngƣời Dao ở Lục Nam đã đúc kết kinh nghiệm lựa chọn hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thức canh tác là nƣơng rẫy và ruộng nƣớc. Đối với nƣơng rẫy, ngƣời Dao xác
85
định đƣợc khi nào thì phát nƣơng, khi nào thì gieo hạt để có hiệu quả cao
trong lao động đặc biệt họ có kinh nghiệm chọn giống để có năng suất cao,
xem thời tiết cũng đƣợc đồng bào chú ý và thành kinh nghiệm khá chính xác.
Đối với lúa nƣớc, để phù hợp với chất đất, khí hậu, giống cây trồng đƣợc
lựa chọn cẩn thận nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất. Các giống lúa, ngô,
khoai, sắn chủ yếu đƣợc chọn và giữ lại từ vụ gieo trồng trƣớc. Đối với từng
loại cây trồng mà đồng bào có cách thức chăm sóc phù hợp.
Cùng với trồng trọt, chăn nuôi đƣợc ngƣời Dao ở Lục Nam tiến hành từ
khá sớm với nhiều mục đích. Chăn nuôi để có gia súc làm sức kéo, phục vụ
cho các tín ngƣỡng dân gian, để có thêm nguồn thực phẩm cho bữa ăn hàng
ngày. Đối với các giống vật nuôi từ đại gia súc, tiểu gia súc, gia cầm cũng có
cách chọn cụ thể. Tận dụng thuận lợi gần rừng, ngƣời Dao ở Lục Nam biết
nuôi ong lấy mật, phần lớn gia đình ngƣời Dao đều có thùng nuôi ong trong
vƣờn nhà.
4. Những năm gần đây hệ thống tri thức dân gian trong sản xuất nông
nghiệp của ngƣời Dao ở Lục Nam chịu sự tác động của nhiều yếu tố nên đã có
nhiều thay đổi. Với chính sách giao đất, giao rừng cho ngƣời dân, chính sách
định canh, định cƣ của Đảng và Nhà nƣớc đối với các dân tộc thiểu số nên
ngƣời Dao ở Lục Nam hoàn toàn không làm nƣơng rẫy mà chuyển sang cấy
lúa nƣớc cùng hoa mầu. Đất rừng đƣợc trồng cây ăn quả, cây công nghiệp cho
hiệu quả cao đáp ứng nhu cầu của kinh tế thị trƣờng. Sự nhận thức thay đổi
ngƣời Dao ở Lục Nam đã dẫn tới sự hình thành và phát triển của các loại cây
trồng hàng hóa nhƣ vải, hồng. Diện tích trồng cây ăn quả đƣợc mở rộng
không ngừng vì hiệu quả mà nó mang lại.
Trong truyền thống ngƣời Dao ở Lục Nam chỉ cấy đƣợc một vụ lúa đến
nay với kĩ thuật hiện đại đã cấy đƣợc 2 vụ và thực hiện xen canh với các cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoa màu khác. Các giống lúa mới qua lai tạo cho năng suất cao đƣợc gieo
86
trồng thay cho các giống lúa truyền thống. Hiện nay việc chăm sóc, bảo vệ
thực vật đã có nhiều thay đổi, các loại phân hữu cơ, phân hóa học đƣợc sử
dụng ngày càng nhiều vì vậy năng suất cây trồng không ngừng đƣợc cải thiện.
Các dụng cụ lao động thô sơ đƣợc thay thế bằng máy móc phần nào giảm bớt
sức lao động của con ngƣời. Trong chăn nuôi trƣớc kia các loại đại gia súc
đƣợc nuôi phổ biến và nhiều hơn gia cầm thì nay gia cầm đƣợc nuôi nhiều
hơn. Chăn nuôi gia cầm không dừng lại ở việc cung cấp thực phẩm mà là
nguồn hàng hóa cung cấp cho thị trƣờng với lãi suất cao.
5. Mặc dù có nhiều thay đổi song cũng có những đặc điểm tích cực
trong hệ thống tri thức truyền thống cần đƣợc bảo tồn và phát huy giá trị trong
thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Từ thực tế
cộng đồng ngƣời Dao ở Lục Nam, cần tích cực đẩy mạnh tuyên truyền chủ
trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc, giáo dục
truyền thống lịch sử cách mạng của quê hƣơng Bắc Giang để đồng bào Dao
tin tƣởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, yêu quê hƣơng, tích cực xây
dựng bản làng quê hƣơng. Mặt khác, tăng cƣờng tuyên truyền, giáo dục để
đồng bào Dao gìn giữ những giá trị văn hoá của dân tộc mình, góp phần làm
phong phú thêm bản sắc văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Giang. Các dự án bảo
tồn nhằm giữ lại những giá trị truyền thống đang đƣợc triển khai tại các làng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bản của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam.
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
tỉnh Bắc Giang (2004), Làng văn hóa tỉnh Bắc Giang.
2. Ban Thƣờng vụ Huyện uỷ Lục Nam (1994), Lịch sử huyện Lục Nam.
3. Ban Thƣờng vụ Huyện uỷ Lục Nam (2009), Lịch sử Đảng bộ huyện
Lục Nam.
4. Bảo tàng Bắc Giang (2005), Bước đầu tìm hiểu văn hoá các dân tộc.
5. Bảo tàng Bắc Giang (2006), Di sản văn hoá Bắc Giang - Văn hoá phi
vật thể.
6. Bảo tàng Bắc Giang (2008), Di sản văn hoá Bắc Giang, Biên niên sự
kiện và tư liệu lịch sử.
7. Bế Viết Đằng (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế
miền núi, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
8. Bế Viết Đằng (chủ biên) (1971), Người Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
9. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh Bắc Giang lần thứ XIX, Văn phòng Tỉnh uỷ.
10. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Đồng Tháp.
11. Diệp Đình Hoa (2002), Người Dao ở Trung Quốc, Nxb Văn hoá Dân
tộc, Hà Nội.
12. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội, Khoa
Dân tộc (1995), Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Khổng Diễn (1996), Những đặc điểm kinh tế xã hội các dân tộc miền
núi phía Bắc, Nxb Khoa học, Hà Nội.
14. Lã Văn Lô (1973), Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
88
15. Lê Nhƣ Hoa (chủ biên) (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
16. Lê Quý Đôn (1962), Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa hoc xã hội, Hà Nội.
17. Lê Văn Khoa (chủ biên) (1997), Môi trường và phát triển bền vững ở
miền núi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Lê Văn Kì (2002), Lễ hội nông nghiệp Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
19. Người Dao ở Việt Nam (2007), Nxb Thông tấn, Hà Nội.
20. Nguyễn Khắc Tụng (1966), Bước đầu tìm hiểu các nhóm Dao ở Việt
Nam, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 87.
21. Nguyễn Văn Huy (Chủ biên) (1998), Bức tranh văn hoá các dân tộc
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Nông Quốc Tuấn (2000), Trang thục cổ truyền của người Dao ở Việt
Nam, Đề án nghiên cứu cấp Bộ, Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam.
23. Phan Hữu Dật, Lễ Ngọc Thắng (1998), Lễ hội cầu mùa các dân tộc Việt
Nam, Nxb Khoa học, Hà Nội.
24. Phiếu khảo sát về Các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình các
dân tộc huyện Lục Nam, tháng 10 năm 2009.
25. Sở Văn hoá Thông tin Bắc Giang và Trung tâm UNESCO thông tin tƣ
liệu lịch sử và văn hoá Việt Nam (2003), Địa chí Bắc Giang - Địa lí và
Kinh tế
26. Bảo tàng Bắc Giang (2005), Điều tra văn hóa dân tộc Dao ở tỉnh Bắc Giang.
27. Tỉnh uỷ Bắc Giang (2003), Lịch sử đảng bộ tỉnh Bắc Giang, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Tô Vũ, Âm nhạc Việt Nam truyền thống và hiện đại, Viện âm nhạc, Hà Nội.
29. Toán Anh (2000), Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam, Nxb
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
89
30. Trần Chiến Thắng, Cần thực hiện một cách nghiêm túc công tác bảo
tồn âm nhạc truyền thống, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Âm nhạc Cổ
Truyền trong đời sống hôm nay”, Viện Âm nhạc.
31. Trần Hữu Sơn (1999), Tục ngữ câu đố Dao, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
32. Trần Ngọc Bình (2008), Văn hoá các dân tộc Việt Nam, Nxb Thanh niên,
Hà Nội.
33. Trần Quốc Vƣợng (1963), Qua Nghiên cứu "Bình Hoàng Khoán Điệp"
thử bàn về gốc tích ngƣời Dao, Tạp chí dân tộc, số 40
34. Trần Trọng (1983), Nhìn lại kết quả 13 năm vận động định canh định
cư của vùng dân tộc Dao, Báo dân tộc, số 3 .
35. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia (1998), Sự phát triển
văn hoá xã hội của người Dao hiện đại và tươngg lai, Kỉ yếu hội thảo
nghiên cứu khoa học.
36. Uỷ ban Khoa học xã hội ở Việt Nam (1983), Sổ tay các dân tộc Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. Ủy ban nhân dân huyện Lục Nam (2004), Tiềm năng du lịch văn hóa
huyện Lục Nam, Tập kỷ yếu.
38. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2003), Địa chí Bắc Giang - Di sản
Hán - Nôm.
39. Viện Dân Tộc (1987), Một số vấn đề kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi
phía Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam (1998), Trung tâm nghiên cứu
sinh thái và môi trƣờng, Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao
trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên, Nxb Nông nghiệp
Hà Nội.
41. Cổng Thông tin Chính phủ, TS. Vũ Trƣờng Giang, Bảo tồn tri thức bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
địa của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
90
NHỮNG NGƢỜI CUNG CẤP THÔNG TIN
Stt
Tên
Địa chỉ
Nghề nghiệp Tuổi
42 Bàn Thị Bé
Gốc Dẻ- Lục Sơn-Lục Nam
Làm ruộng
63
43 Bàn Thị Chính Gốc Dẻ- Lục Sơn-Lục Nam
Làm ruộng
70
44 Bàn Thị Hoa
Vua Bà - Trƣờng Sơn - Lục Nam
Làm ruộng
62
45 Bàn Thị Phƣơng Gốc Dẻ - Lục Sơn - Lục Nam
Làm ruộng
70
46 Bàn Thị Tý
Gốc Dẻ- Lục Sơn-Lục Nam
Làm ruộng
72
47 Đặng Thị Ninh Gốc Dẻ- Lục Sơn-Lục Nam
Làm ruộng
65
48 Đặng Thị Phan Văn Non-Lục Sơn-Lục Nam
Làm ruộng
75
49 Đặng Văn Minh Vua Bà – Trƣờng Sơn – Lục Nam
Làm ruộng
59
50 Đặng Văn Tuân Văn Non-Lục Sơn-Lục Nam
CB nghỉ hƣu
83
51 Lã Văn Long
Gốc Dẻ- Lục Sơn-Lục Nam
Làm ruộng
53
52 Lý Thị Lan
Gốc Dẻ- Lục Sơn-Lục Nam
Làm ruộng
75
53 Lý Thị Quyết
Văn Non-Lục Sơn-Lục Nam
Làm ruộng
74
54 Lý Thị Tƣ
Gốc Dẻ- Lục Sơn-Lục Nam
Làm ruộng
71
55 Lý Văn Bình
Vua Bà – Trƣờng Sơn – Lục Nam
Thầy cúng
56
56 Lý Văn Chính
Vua Bà – Trƣờng Sơn – Lục Nam
Làm ruộng
55
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
91
PHỤ LỤC ẢNH
Hình 1: Trang phục của ngƣời Dao Thanh Y ở Lục Sơn - Lục Nam
(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)
Hình 2: Mũ dội đầu của phụ nữa Dao Thanh Y ở Lục Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)
92
Hình 3: Dụng cụ cắt lúa nƣơng (khu nhíp) của ngƣời Dao ở Lục Nam
(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)
Hình 4: Hái cắt lúa nƣớc của ngƣời Dao ở Lục Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)
93
Hình 5: Cào quắm: dụng cụ làm cỏ cho lúa trên nƣơng
(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)
Hình 6: Cào làm cỏ lạc của ngƣời Dao ở Lục Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)
94
Hình 7: Đòn sóc gánh lúa của ngƣời Dao ở Lục Nam
(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)
Hình 8: Quạt hòm dùng để quạt thóc của ngƣời Dao ở Lục Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)
95
Hình 9: Ruộng bậc thang của ngƣời Dao ở Lục Nam
(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)
Hình 10: Chuồng nuôi lợn của ngƣời Dao ở Lục Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
96
97
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN LỤC NAM
98
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN LỤC NAM .......................................... 7
1.1. Lịch sử hành chính huyện Lục Nam .................................................... 7
1.2. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên ............................................................. 8
CHƢƠNG 2: TRI THỨC DÂN GIAN TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA
NGƢỜI DAO HUYỆN LỤC NAM TỈNH BẮC GIANG TRONG TRUYỀN
THỐNG ......................................................................................................... 21
1.3. Nguồn gốc ngƣời Dao ở huyện Lục Nam........................................... 10
2.1. Quan niệm về tri thức dân gian .......................................................... 21
2.2. Hệ thống tri thức dân gian về sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao Lục
CHƢƠNG 3: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA TRI THỨC DÂN GIAN TRONG SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP CỦA NGƢỜI DAO Ở HUYỆN LỤC NAM TỈNH BẮC GIANG
HIỆN NAY .................................................................................................... 52
Nam trong truyền thống ............................................................................ 23
3.1. Những yếu tố tác động đến sự biến đổi của tri thức dân gian trong sản
xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở Lục Nam ............................................ 52
3.2. Quá trình biến đổi của tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của
ngƣời Dao ở Lục Nam .............................................................................. 60
3.3. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tính tích cực của tri thức
KẾT LUẬN ................................................................................................... 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 87
PHỤ LỤC ẢNH ............................................................................................. 91
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ................................. 70