Luận văn Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của người Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tính đa dạng của nền văn hoá Việt Nam đƣợc thể hiện bằng những giá

trị văn hoá đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc anh em. Trong nền văn hoá đa

dạng mà thống nhất ấy, những giá trị văn hoá của cộng đồng các dân tộc ít

ngƣời có vị trí quan trọng. Với điều kiện địa lí tự nhiên khác nhau, mỗi dân

tộc đã tìm ra phƣơng thức ứng xử thiên nhiên khác nhau, hình thành tập quán

sản xuất. Đây có thể đƣợc coi là một lâu đài văn hóa đồ sộ của mỗi tộc

ngƣời, là sản phẩm đƣợc tích lũy, chắt lọc qua hàng ngàn năm lịch sử, tạo

nên bản sắc văn hóa dân tộc, làm thành chuẩn mực để phân biệt dân tộc này

với dân tộc khác. Tuy nhiên, hiện nay, những giá trị văn hoá đã bị mai một,

thậm chí biến mất. Yêu cầu đặt ra là phải có biện pháp giữ gìn, phát huy

những di sản văn hoá đó.

Lục Nam là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang với 8 dân tộc anh

em sinh sống, trong đó ngƣời Dao cƣ trú chủ yếu ở 4 xã Lục Sơn, Bình Sơn,

Vô Tranh, Trƣờng Sơn. Quá trình đấu tranh lâu dài với thiên nhiên, lao động

sản xuất để sinh tồn đã hình thành những kinh nghiệm sản xuất và đƣợc

truyền từ đời này sang đời khác tạo nên bản sắc văn hoá của ngƣời Dao nơi

đây. Tuy nhiên, để hội nhập và phát triển, việc thay đổi tập quán sản xuất và

áp dụng khoa học kĩ thuật mới là yêu cầu cấp thiết đối với nông nghiệp của

ngƣời Dao ở Lục Nam. Trong số kĩ thuật mới đƣợc áp dụng có những kĩ thuật

đem lại hiệu quả sản xuất, nhƣng cũng có kĩ thuật không phù hợp với đặc thù

về nơi cƣ trú, về tập quán và tổ chức xã hội. Điều đó cho thấy tập quán sản

xuất nông nghiệp của đồng bào dân tộc Dao ở Lục Nam có những điểm tích

cực cần đƣợc phát huy. Việc nghiên cứu về những tri thức dân gian trong sản

xuất nông nghiệp sẽ giúp các cơ quan quản lý có thêm cơ sở để giải quyết tốt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vấn đề trên, nhằm tạo ra sự phát triển nông nghiệp bền vững, góp phần xây

2

dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của tộc ngƣời Dao ở Lục

Nam tỉnh Bắc Giang.

Với những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Tri thức dân gian trong

sản xuất nông nghiệp của người Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang”.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Về Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của người Dao ở

huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang đã đƣợc nhiều nhà khoa học nghiên cứu ở các

góc độ khác nhau. Trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục của tác giả Lê Quí Đôn

viết năm 1778 đã đề cập tới ngƣời Man (ngƣời Dao) về phong tục tập quán và

địa vực cƣ trú của họ. Đây là cơ sở để làm rõ tên gọi, những nét cơ bản về văn

hóa và địa bàn cƣ trú của dân tộc Dao ở nƣớc ta cũng nhƣ trên địa bàn huyện

Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

Năm 1971, chuyên khảo công phu về ngƣời Dao của Viện dân tộc học

xuất bản với nhan đề “Người Dao ở Việt Nam” đã nghiên cứu một cách tổng

thể về ngƣời Dao ở nƣớc ta về nhiều mặt nhƣ nguồn gốc ngƣời Dao, đời sống

vật chất và tinh thần của các nhóm ngƣời Dao sống ở nƣớc ta.

Bài viết Bước đầu tìm hiểu các nhóm Dao ở Việt Nam (Nguyễn Khắc

Tụng, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 87/1996) và đề tài nghiên cứu Trang

phục cổ truyền của người Dao ở Việt Nam (Nông Quốc Tuấn, Bảo tàng văn

hóa các dân tộc Việt Nam, năm 2000) đã làm rõ đƣợc cách phân biệt các

nhóm Dao ở Việt Nam qua trang phục của ngƣời phụ nữ. Các công trình đề

cập tới sự phân bố các nhóm Dao ở nƣớc ta, đây lại là một bằng chứng nữa để

phân biệt các nhóm Dao và địa bàn cƣ trú của họ trong đó có ở huyện Lục

Nam, tỉnh Bắc Giang.

Cuốn Lịch sử Lục Nam do Ban thƣờng vụ huyện uỷ Lục Nam tổ chức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

biên soạn và xuất bản năm 1994 đã trình bày những nét cơ bản về huyện Lục

3

Nam và ngƣời Dao sống trên địa bàn. Tác phẩm đề cập tới vị trí địa lí, điều

kiện tự nhiên của huyện Lục Nam. Những nội dung không chỉ đề cập tới nghề

sống chính của dân tộc Kinh chiếm đa số mà còn đề cập tới nghề sống chính

của bộ phận ngƣời Dao ở đây, đó là nghề nông nghiệp. Tác phẩm cho thấy

tầm quan trọng của nông nghiệp trong đời sống của ngƣời Dao nơi đây và đặc

biệt với tầm quan trọng nhƣ vậy họ đã có những cách thức sản xuất nhƣ thế

nào để đảm bảo cuộc sống.

Công trình Địa chí Bắc Giang - Địa lí và kinh tế, do Sở văn hoá thông

tin Bắc Giang phối hợp với Trung tâm UNESCO thông tin tƣ liệu lịch sử và

văn hoá Việt Nam, (năm 2003), đã giới thiệu về dân tộc Dao ở Bắc Giang từ

địa vực cƣ trú, truyền thống văn hoá đến tập quán canh tác.

Các công trình Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2003) và Lịch sử

Đảng bộ huyện Lục Nam (2003) đã giới thiệu sơ lƣợc về ngƣời Dao nhƣ địa

bàn cƣ trú, tên gọi của các nhóm ngƣời Dao tại địa phƣơng và những truyền

thống của họ trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần. Tác phẩm, là cơ sở

để giải thích và làm rõ quá trình di cƣ và tên gọi các nhóm ngƣời Dao ở huyện

Lục Nam.

Năm 2006, Bảo tàng Bắc Giang xuất bản công trình “Di sản văn hoá

Bắc Giang về Văn hoá phi vật thể”, tác phẩm là sự khái quát về những nét

văn hóa phi vật thể của cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Bắc Giang trong đó có

đề cập tới ngƣời Dao về địa bàn cƣ trú, những nét văn hoá tiêu biểu của họ

trong đời sống vật chất và tinh thần. Tác phẩm cũng đã cơ bản giới thiệu

đƣợc những tri thức dân gian của dân tộc Dao ở Bắc Giang trong các lĩnh

vực của đời sống trong đó có những tri thức dân gian liên quan tới lĩnh vực

nông nghiệp.

Những kết quả nghiên cứu trên đây chính là ý kiến gợi mở, nguồn tài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

liệu quan trọng giúp tác giả tiếp cận và nghiên cứu đề tài.

4

3. Đối tƣợng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu: Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp

bao gồm các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi của dân tộc Dao ở huyện Lục

Nam, tỉnh Bắc Giang trong truyền thống và hiện tại.

Mục đích: Nghiên cứu tri thức dân gian truyền thống và hiện tại

trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam. Nghiên cứu

đó xác định những tri thức nào đã biến đổi, sự biến đổi đó phù hợp hoặc

không phù hợp với điều kiện tự nhiên, môi trƣờng sinh thái và phƣơng thức

canh tác hiện tại. Từ đó, đề xuất hƣớng áp dụng khoa học kĩ thuật có hiệu

quả nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững ngành kinh tế nông nghiệp của

ngƣời Dao ở địa phƣơng.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Khái quát về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và nguồn gốc của ngƣời

Dao của huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

- Hệ thống lại những tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của

ngƣời Dao ở huyện Lục Nam trong truyền thống.

- Làm rõ sự biến đổi của tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp

dƣới tác động của các yếu tố nội sinh và ngoại sinh thời điểm hiện nay. Từ đó

đề xuất các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của tri thức dân gian của

ngƣời Dao trong sản xuất nông nghiệp.

Phạm vi nghiên cứu:

Về mặt không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các thôn bản có

đông ngƣời Dao sinh sống, đó là 4 xã Lục Sơn, Bình Sơn, Vô Tranh và

Trƣờng Sơn - huyện Lục Nam.

Về mặt thời gian: Nghiên cứu những tri thức dân gian trong sản xuất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nông nghiệp truyền thống và hiện tại.

5

4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài

Nguồn tƣ liệu

Nguồn tài liệu chung: Bao gồm một số sách sử và địa chí cổ; các công

trình nghiên cứu, sách, báo, tạp chí đã xuất bản của các nhà khoa học trong và

ngoài nƣớc.

Nguồn tài liệu địa phƣơng: Các công trình nghiên cứu về lịch sử, lịch

sử Đảng bộ và văn hoá tộc ngƣời ở tỉnh Bắc Giang nói chung và huyện Lục

Nam nói riêng.

Nguồn tƣ liệu điền dã: Bao gồm sự quan sát trực tiếp cảnh quan, môi

trƣờng, nguồn tài liệu truyền miệng thông qua phỏng vấn trực tiếp.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Phƣơng pháp lịch sử nghiên cứu khái quát về huyện Lục Nam, nguồn

gốc tộc ngƣời, các tập quán trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao nơi

đây và những biến đổi của nó trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Phƣơng pháp logic nhằm rút ra những nhận xét, đánh giá khách quan về vấn

đề nghiên cứu, giúp ngƣời đọc có cái nhìn hệ thống và khái quát về những tri

thức trong nông nghiệp của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

Phƣơng pháp điền dã dân tộc học khai thác đƣợc nguồn tƣ liệu thực tế

không đƣợc ghi lại thành văn đồng thời khẳng định tính chính xác của nó.

Ngoài ra, đề tài còn kết hợp với một số phƣơng pháp khác nhƣ so sánh, đối

chiếu, phân tích, tổng hợp các nguồn tƣ liệu liên quan để rút ra những kết luận

khoa học.

5. Đóng góp của luận văn

Luận văn hệ thống đƣợc những tri thức dân gian trong sản xuất nông

nghiệp của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang nhƣ: chọn đất, chọn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giống, lựa chọn thời vụ, cách thức chăm sóc, bảo quản sản phẩm...

6

Qua nghiên cứu Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của

người Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang làm sáng tỏ sự biến đổi của tri

thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp dƣới tác động của các yếu tố nội

sinh và ngoại sinh. Đây sẽ là cơ sở ý tƣởng cho các công trình nghiên cứu

khoa học sau này.

Luận văn cũng góp phần vào việc giới thiệu bản sắc văn hoá của dân

tộc Dao ở huyện Lục Nam nói riêng và cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Bắc

Giang nói chung. Luận văn là nguồn tƣ liệu cho dạy học lịch sử địa phƣơng,

giáo dục tƣ tƣởng tình cảm yêu quê hƣơng, đất nƣớc.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài các phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của luận văn đƣợc chia

thành 3 chƣơng.

Chƣơng 1. Khái quát về huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang.

Chƣơng 2. Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao

ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang trong truyền thống.

Chƣơng 3. Sự biến đổi của tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp

của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang hiện nay.

Cuối cùng là tài liệu tham khảo, phụ lục bao gồm một số bảng biểu và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ảnh minh họa.

7

CHƢƠNG 1

KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN LỤC NAM

1.1. Lịch sử hành chính huyện Lục Nam

Vùng đất Lục Nam ngày nay vốn thuộc địa phận huyện Na Ngạn thời

Lý- Trần; huyện Na Ngạn - Lục Na thời thuộc Minh; huyện Lục Ngạn thời Lê

sơ; huyện Lục Ngạn, Phƣợng Sơn thời Mạc; huyện Lục Ngạn - Phƣợng Nhãn

- Bảo Lợi thời Lê trung hƣng - Tây Sơn và thời Nguyễn.

Thời kỳ thực dân Pháp thống trị, năm 1889, thực dân Pháp thành lập tỉnh

Lục Nam, tỉnh lỵ đóng ở thị trấn Lục Nam. Năm 1891, tỉnh Lục Nam bị giải

thể, thuộc về tỉnh Bắc Ninh [3, tr.7].

Sau ngày hòa bình lập lai, ngày 21 tháng 1 năm 1957, huyện Lục Nam

đƣợc thành lập (thuộc tỉnh Bắc Giang). Theo Nghị định số 24-Ttg của Thủ

tƣớng Chính phủ, 3 xã Cẩm Lý, Vũ Xá, Đan Hội thuộc huyện Chí Linh của

Hải Dƣơng; 2 xã Yên Sơn, Bắc Lũng thuộc huyện Yên Dũng - Bắc Giang; 7

xã: Hoà Bình A, Tam Dị, Bảo Đài, Bảo Sơn, Tiên Hƣng, Phƣơng Sơn, Tân

Lập thuộc huyện Lạng Giang-Bắc Giang đƣợc trả về huyện Lục Ngạn (cũ).

Trên cơ sở hai huyện là Lục Ngạn và Sơn Động (cũ) chia thành 3 huyện là

Lục Ngạn, Sơn Động và Lục Nam. Khi ấy, Lục Nam có 19 xã và 1 thị trấn:

Nam Sơn, Cẩm Lý, Vũ Xá, Đan Hội, Yên Sơn A, Yên Sơn B, Bắc Sơn, Bắc

Lũng, Bảo Đài, Bảo Sơn, Tam Dị, Hoà Bình A, Hoà Bình B, Tiên Hƣng, Tân

Lập, Phƣơng Sơn, Mỹ An, Nghĩa Phƣơng, Trƣờng Sơn và Thị trấn Lục Nam.

Theo Nghị định số 535-TC CQNTNĐ kí ngày 6 - 9 - 1957 hai xã là Nam Sơn

và Bắc Lũng đƣợc chia thành 4 xã là: Nam Sơn, Cƣơng Sơn, Bắc Lũng và

Khám Lạng [3, tr.7].

Ngày 28-7-1958, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 241-NV chia xã Phƣơng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Sơn thành 2 xã Phƣơng Sơn và Thanh Sơn; chia xã Hoà Bình B thành 2 xã

8

Đông Hƣng và Tiên Nha; chia xã Yên Sơn B thành 2 xã Bình Sơn và Hùng

Sơn; chia xã Mỹ An thành 2 xã Mỹ An và Trƣờng Giang. Đồng thời theo

Nghị định, xã Mỹ An đƣợc chuyển về huyện Lục Ngạn, còn xã Lan Mẫu

thuộc huyện Yên Dũng đƣợc chuyển về huyện Lục Nam.

Thực hiện chỉ thị số 23-TTg kí ngày 15-4-1963 của Thủ tƣớng Chính

phủ, 2 xã đƣợc trả lại tên cũ là Hoà Bình A thành Chu Điện và Bắc Sơn thành

Vô Tranh, 4 xã đƣợc đổi tên mới là Tân Lập thành Đông Phú, Hùng Sơn

thành Lục Sơn, Thanh Sơn thành Thanh Lâm và Nam Sơn thành Huyền Sơn.

Kể từ đây, huyện Lục Nam có 25 xã và 1 thị trấn: Bảo Đài, Bắc Sơn,

Bắc Lũng, Bình Sơn, Cẩm Lý, Cƣơng Sơn, Chu Điện, Đan Hội, Đông Phú,

Đông Hƣng, Huyền Sơn, Khám Lạng, Lan Mẫu, Lục Sơn, Nghĩa Phƣơng,

Phƣơng Sơn, Tam Dị, Tiên Nha, Tiên Hƣng, Thanh Lâm, Trƣờng Giang,

Trƣờng Sơn, Vũ Xá, Vô Tranh, Yên Sơn và Thị trấn Lục Nam.

Ngày 18-2-1997, Chính phủ ra Nghị định số 19/CP thành lập Thị trấn

Đồi Ngô trên cơ sở tách một phần dân cƣ từ xã Chu Điện, Tiên Hƣng, Tam

Dị. Thị trấn huyện lị Đồi Ngô đƣợc đầu tƣ qui hoạch, xây dựng kết cấu hạ

tầng thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của huyện.

1.2. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên

Lục Nam là huyện miền núi, nằm ở phía Đông - Nam của tỉnh Bắc

Giang, có diện tích tự nhiên 59.858 ha. Địa hình của huyện chia thành ba

vùng: vùng núi, vùng trung du và chiêm trũng. Diện tích đất nông nghiệp là

14.800 héc ta, diện tích đất rừng và đồi là 31.170 héc ta.

Huyện Lục Nam nằm ở vị trí từ 21 độ 11 phút đến 21 độ 27 phút vĩ độ

Bắc; từ 106 độ 18 phút đến 106 độ 41 phút kinh độ Đông. Phía Bắc huyện

Lục Nam giáp huyện Lục Ngạn, phía Tây Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giáp hai tỉnh Quảng Ninh và Hải Dƣơng, phía Đông giáp huyện Sơn Động,

9

phía Tây giáp hai huyện là Lạng Giang và Yên Dũng. Trung tâm huyện cách

Hà Nội 100km và cách thành phố Bắc Giang 25km.

Do nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa khu vực núi rừng Đông - Bắc với khu

vực Trung du và đồng bằng Bắc bộ nên khí hậu Lục Nam có tính đa dạng của

chế độ hoàn lƣu gió mùa nhiệt đới phức hợp, có phân hóa rõ rệt theo mùa.

Nhiệt độ bình quân hàng năm là 22,90C. Do sự ảnh hƣởng của địa hình nên

trong cùng một huyện cũng có sự chênh lệch về nhiệt độ, tạo ra những tiểu

vùng khí hậu khác nhau. Số ngày mƣa của huyện trong năm trung bình là 107

ngày, mƣa phân bố không đều giữa các vùng trong huyện, giữa các tháng

trong năm. Mùa mƣa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9, tập trung ở các tháng 6,

7 và 8 (chiếm từ 50 - 60% lƣợng nƣớc mƣa của cả năm).

Huyện Lục Nam có Sông Lục Nam chảy qua từ đầu đến cuối huyện.

Sông Lục Nam phát nguyên từ Đình Lập (Lạng Sơn), thời cổ mang tên là

Minh Đức và đƣợc mệnh danh là một Trƣờng Giang đẹp nhất Bắc Kì. Sông

dài 178 km, chi lƣu là các sông Cẩm Đàn, sông Thanh Luận, sông Bò. Đối với

huyện, đây là nguồn nƣớc chính phục vụ cho nông nghiệp. Nƣớc từ sông Lục

Nam đƣợc dẫn qua các kênh mƣơng về các đầm, ao, hồ tạo ra hệ thống thủy

lợi phong phú, thuận lợi. Ven sông hình thành các làng chài đánh bắt cá và

đây cũng là nghề sống chủ yếu của các làng sống ven sông. Sông Lục, núi

Huyền còn tạo ra một cảnh tƣợng hùng vĩ, rất đẹp, là nguồn lợi cho du lịch

đang đƣợc quan tâm đầu tƣ và khai thác.

Đất đai của huyện Lục Nam rất đa dạng. Đất đồi, đƣợc hình thành chủ

yếu do sự phong hóa của các loại đá mẹ sa thạch và phiến thạch, một phần do

sự phong hoá của đất phù sa cổ, do đó đất đồi của Lục Nam nghèo dinh

dƣỡng. Đất ruộng, loại đất này cũng có nhiều loại nhƣng chủ yếu đƣợc chia

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

làm 3 nhóm là đất ruộng lúa nƣớc có nguồn gốc Feralit, có nguồn gốc Feralit

10

bạc mầu và lúa nƣớc có nguồn gốc phù sa. Nhìn chung, đất ruộng của Lục

Nam diện tích không lớn, ít dinh dƣỡng.

Toàn huyện có 26.300 ha rừng, trong đó rừng tự nhiên và rừng tái sinh

là 14.300 ha. Rừng nguyên sinh với hai ba tầng cây, tầng thứ nhất với các loại

hầu hết là gỗ quý nhƣ đinh, lim, sến, táu, dẻ; tầng thứ hai là những cây thấp -

cây bụi nhƣ tre, nứa, song, mây. Tuy nhiên, do khai thác chƣa hợp lí nên rừng

nguyên sinh diện tích còn lại không nhiều, chủ yếu là rừng tái sinh, khó định

tầng, bề ngoài rậm rạp, độ che tán lớn, nhƣng bên trong rỗng, cây to gỗ lớn

còn lại ít, phần lớn là gỗ tạp hoặc rừng tre, nứa xen gỗ tạp. Nhiều nơi, chân

núi và sƣờn núi vẫn còn rừng cây che phủ nhƣng đến gần đỉnh núi chỉ có cây

bụi hoặc sim, mua, ràng ràng, cỏ gianh. Huyện Lục Nam có mỏ than bùn khá

lớn, tập trung chủ yếu ở 2 xã là Lục Sơn và Trƣờng Sơn. Ngoài ra còn có đất

sét, có hai loại là đất sét chịu lửa và đất sét làm gạch ngói.

Nhìn chung, huyện Lục Nam có điều kiện thuận lợi về đất, nƣớc, rừng

để phát triển nền nông lâm nghiệp đa dạng về cây trồng, vật nuôi đảm bảo

cuộc sống ổn định cho đồng bào các dân tộc tại địa phƣơng.

1.3. Nguồn gốc ngƣời Dao ở huyện Lục Nam

1.3.1. Tên gọi và nguồn gốc tộc người

Ngƣời Dao ở Việt Nam có khoảng 600 nghìn ngƣời cƣ trú ở 18 tỉnh

(Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Cao Bằng, Yên Bái, Quảng Ninh, Thái

Nguyên, Bắc Cạn, Lai Châu, Lạng Sơn, Hoà Bình, Sơn La, Phú Thọ, Bắc

Giang, Thanh Hoá, Đắc Lắc, Đồng Nai và Hà Tây). Do nhiều biến cố lịch

sử, ngƣời Dao ở Trung Quốc phân tán thành nhiều nhóm nhỏ trong đó có

một số nhóm vào Việt Nam "Không còn nghi ngờ gì nữa, họ vốn có nguồn

gốc ở Trung Quốc, quá trình thiên di của họ vào Việt Nam là một thời kỳ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dài". [8, tr. 56]. Do nhiều biến cố lịch sử nhƣ, một bộ phận ngƣời Dao đã

11

phải di cƣ vào Lạng Sơn và Quảng Ninh (Việt Nam) rồi từ đây đi sang các

huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Thế của Bắc Giang qua

nhiều thời kì, bằng nhiều con đƣờng, với nhiều nhóm địa phƣơng khác

nhau để sinh cơ lập nghiệp. [27; tr. 299].

Mặc dù có rất nhiều nhóm Dao với những tên gọi khác nhau, nhƣng căn

cứ vào đặc điểm văn hoá mà nét chủ yếu của nó là trang phục phụ nữ, các nhà

khoa học chia ngƣời Dao ở Việt Nam thành các nhóm sau đây:

+ Dao Đỏ còn có tên Dao Cóc Ngáng, Dao Sừng, Dao Dụ Lạy

+ Dao Quần Chẹt (Dao Sơn Đầu, Dao Tam Đảo, Dao Nga Hoàng)

+ Dao Lô Gang (Thanh Phán, Dao Đội Ván, Dao Cóc Mùn)

+ Dao Tiền

+ Dao Quần Trắng

+ Dao Thanh Y (Dao Ban Y, Dao Chàm)

+ Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao Áo Dài, Dao Tẻn) [ 8, tr36]

Về tiếng nói ngôn ngữ dân tộc Dao đƣợc các nhà nghiên cứu xếp vào

ngữ hệ Mông - Dao. Đến nay ngƣời Dao chƣa có chữ viết riêng, từ xa xƣa,

đồng bào dựa vào chữ Hán để phiên âm ra chữ Nôm gọi là chữ Nôm Dao và

sử dụng bộ chữ này để ghi chép gia phả, sách cúng, sáng tác truyện, thơ… Về

tiếng nói, các nhóm Dao đều nói chung một thứ tiếng, đó là tiếng Dao. Sự

khác nhau về tiếng nói giữa các nhóm không nhiều, chỉ trong một số ít từ và

thanh điệu. Cũng nhƣ tiếng Dao trong cả nƣớc, tiếng Dao ở Bắc Giang cũng

gồm hai phƣơng ngữ: phƣơng ngữ thứ nhất gồm hai nhóm Dao là Lô Gang,

Thanh Phán; phƣơng ngữ thứ hai có nhóm Dao Thanh Y. Tại thời điểm hiện

tại, ngƣời Dao sinh sống tại các bản thuộc các xã của Lục Nam vẫn nói tiếng

Dao trong sinh hoạt hàng ngày. Nhƣng khi có khách là ngƣời dân tộc khác họ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cũng có thể nói đƣợc tiếng Việt làm ngôn ngữ giao tiếp thứ hai.

12

Ở Bắc Giang, thế kỉ XVII, nhóm Dao Thanh Y từ Quảng Đông và Móng

Cái qua Lục Ngạn, đến Bắc Giang, sang sông Đuống rồi ngƣợc lên Tuyên

Quang. Một bộ phận khác lên Yên Bái và Lào Cai, đƣợc gọi là Dao tuyển.

Thế kỉ XVIII, một bộ phận dân tộc Dao từ Quảng Đông và Quảng Tây vào

Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Giang, đó là nhóm Dao Lô Gang [ 21, tr.10].

Nhƣ vậy, dân tộc Dao ở Bắc Giang chủ yếu thuộc các nhóm Dao Thanh

Y, Dao Thanh Phán và Dao Lô Gang. Hiện nay họ sống thành làng riêng hoặc

xen kẽ với một số dân tộc anh em nhƣ Kinh, Tày, Nùng, Sán Chay…Kết quả

khảo sát ở địa phƣơng cho thấy ngƣời Dao sinh sống ở các xã của huyện Lục

Nam có nguồn gốc từ Quảng Ninh di thực sang. Ngƣời Dao ở đây thuộc các

nhóm là Dao Thanh Y và Dao Thanh Phán. Ngƣời Dao ở các bản Gốc Dẻ,

Văn Non, xã Lục Sơn, huyện Lục Nam vẫn nhắc tới một địa danh là Khe Sú,

Ba Trẽ nhƣ nói tới nơi cội nguồn của mình. Một số nhân chứng kể lại, vào

khoảng những năm 20, 30 thế kỉ 20 thì ngƣời Dao mới di cƣ đến đây và sinh

sống cạnh những làng của các dân tộc nhƣ Tày, Nùng hay Kinh. Điều tra xác

minh Khe Sú, Ba Trẽ đều là những bản của ngƣời Dao sinh sống thuộc huyện

Uông Bí của tỉnh Quảng Ninh [55].

Cho đến thời điểm hiện tại, để chỉ ngƣời Dao, các dân tộc khác thƣờng

gọi là ngƣời Mán, Mán Sơn Đầu. Đồng bào Dao thì tự nhận mình là Kiềm

Miền, Dìu Miền. Các công trình nghiên cứu về ngƣời Dao đều ghi rõ tên Mán

bắt đầu từ âm Man (âm Hán - Việt), là tên gọi phiếm xƣng có ý miệt thị dân

tộc vì phong kiến Trung Quốc dùng để chỉ các tộc ngƣời nhỏ bé, sinh sống

bên ngoài địa bàn cƣ trú của ngƣời Hán. Tên gọi Kiềm Miền (Kiềm nghĩa là

rừng, Miền nghĩa là ngƣời), tức là ngƣời ở rừng núi, cũng là tên gọi phiếm

xƣng, không chính xác, vì cùng với ngƣời Dao ở rừng còn có nhiều tộc ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khác sống ở miền núi. Tên Mán Sơn Đầu cũng là tên gọi của các tộc ngƣời

13

khác đặt cho ngƣời Dao ở nhóm Dao Lô Gang, do đồng bào có tục chải đầu

bằng sáp ong.

Tên tự gọi nữa của đồng bào là Dìu Miền, âm Hán Việt: Dìu là Dao,

Miền là ngƣời; có nghĩa là ngƣời Dao. Tên gọi Dao đƣợc nhắc nhiều trong

các truyện truyền miệng, truyện cổ. Theo tài liệu “Người Dao ở Việt Nam”,

tên gọi Dao còn đƣợc ghi trong các thƣ tịch cổ của Trung Quốc. Chẳng hạn

sách “Thuyết man” viết: “Man bắt đầu từ Ngũ Khê gọi là Bàn Hồ ở rải rác

khắp vùng Sở Việt gọi là Dao, lúc bấy giờ có công nên được miễn giao dịch

gọi là Mạc Dao, về sau gọi sai đi là Dao”. Sách “Quế hải ngu hành chí” viết:

“ Người Dao vốn dòng dõi Bàn Hồ ở Ngũ Khê…”. [28, tr. 8]

Nhƣ vậy, “Dao” là tên tự nhận của ngƣời Dao, nó gắn với lịch sử hình

thành tộc ngƣời và đƣợc họ thừa nhận. vào những thập kỉ 60 – 70 của thế kỉ

trƣớc, các nhà khoa học đã đề xuất và đƣợc Chính phủ công nhận “Dao” là

tên gọi chính thức.

1.3.2. Địa bàn cư trú

Ngƣời Dao ở Việt Nam cƣ trú ở cả ba vùng: vùng cao, vùng giữa, và

vùng thấp. Sống ở vùng cao (trung bình từ 800 - 1000m) phần nhiều là ngƣời

Dao Đỏ, một bộ phận Dao Tiền, Dao Làn Tẻn. Cƣ trú ở vùng giữa (trung bình

từ 400-600m) chủ yếu là ngƣời Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang, Dao Thanh

Phán. Vùng thấp, chuyển tiếp giữa vùng núi và đồng bằng (độ cao khoảng

200m) là địa bàn cƣ trú của ngƣời Dao Quần Trắng, Dao Quần Chẹt, Dao

Tiền v.v ...Ở Bắc Giang, dân tộc Dao là một trong 7 thành phần dân tộc chủ

yếu của tỉnh, sinh sống chủ yếu ở Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế.

Tuy số lƣợng không đông lắm, dân số 7.337 ngƣời (số liệu năm 2003), đứng

thứ 7 về dân số trong 7 dân tộc chủ yếu sinh sống trên địa bàn tỉnh Bắc Giang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và quá trình cƣ trú tại Bắc Giang chƣa lâu song đồng bào đã ổn định cuộc

14

sống của mình, coi Bắc Giang là quê hƣơng và đóng góp sức mình xây dựng

quê hƣơng mới, đồng thời mang những nét văn hóa đặc trƣng của mình đóng

góp cùng các dân tộc anh em, góp phần tạo nên sắc thái văn hóa riêng của tỉnh

Bắc Giang [27]. Các công trình nghiên cứu về ngƣời Dao ở Bắc Giang cho

biết ở Bắc Giang có 4 nhóm Dao là Dao Thanh Phán, Dao Đỏ, Dao Thanh Y

và Dao Lô Gang. Qua khảo sát thực tế tại địa bàn cƣ trú, ngƣời Dao ở Bắc

Giang có 3 nhóm Dao chủ yếu là: Dao Lô Gang, Dao Thanh Phán và Dao

Thanh Y.. Ở Lục Nam có hai nhóm Dao Thanh Phán và Dao đỏ sống chủ yếu

trong 4 xã: Lục Sơn, Bình Sơn, Trƣờng Sơn và Vô Tranh.

Bảng1. Thống kê số lượng theo nhóm người Dao ở huyện Lục Nam

năm 2009

STT Bản Xã Số hộ Số khẩu Nhóm

1 Gốc Dẻ Lục Sơn 70 340 Thanh Y

2 Văn Non Lục Sơn 178 925 Thanh Y

3 Đồng Đỉnh Bình Sơn 115 480 Thanh Phán

4 Vua Bà Trƣờng Sơn 72 Thanh Y 324

5 Đồng Vành 1 Lục Sơn 61 219 Thanh Phán

6 Đồng Vành 2 Lục Sơn 62 221 Thanh Phán

7 20 Vô Tranh 90 Thanh Phán

(Phiếu khảo sát về Các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình các dân

tộc huyện Lục Nam, tháng 10 năm 2009)

Ngƣời Dao Thanh Phán và Dao Thanh Y sinh sống tại các thôn bản của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

huyện Lục Nam đã coi đây là quê hƣơng của mình, đang đóng góp công sức

15

xây dựng cuộc sống, xây dựng quê hƣơng ngày càng giàu đẹp. Thôn bản của

ngƣời Dao thƣờng tập trung thành từng cụm gần rừng, đồi. Thƣờng mỗi hộ ở

một quả đồi, khu nào đất đẹp thì hai hay ba hộ ở cạnh nhau. Ranh giới giữa

các bản thƣờng là đƣờng mòn, khe núi, dòng suối… đƣợc dân bản công nhận

theo quy ƣớc không thành văn. Ngoài một số ruộng nƣơng đã có ngƣời sở

hữu, còn tất cả rừng, suối, núi đều thuộc quyền sử dụng chung của mọi nhà

trong bản. Đồng bào hạn chế những ngƣời ở nơi khác đến làm ruộng, nƣơng

hoặc lấy gỗ ở phạm vi thôn bản mình.

Dân cƣ trong mỗi thôn bản thƣờng chỉ có từ 2 - 3 họ, trong đó bao giờ

cũng có một họ đông ngƣời hơn và thƣờng là họ của những ngƣời đến cƣ trú

đầu tiên. Mỗi thôn, bản Dao đều có những nghi lễ chung: liên quan đến trồng

trọt, chăn nuôi, sắn bắn. Thƣờng thì trƣớc khi gieo trồng (đầu xuân), khi lúa

mọc cao (mùa hè), sau khi gặt lúa (mùa thu), lúc hạn hán kéo dài, trong bản

có dịch gia súc hoặc ngƣời ốm đau nhiều… là dân bản lại họp nhau cúng thổ

thần, bàn việc chung, tổ chức ăn uống chung.

Từ xƣa, thôn bản ngƣời Dao đã vận hành theo phƣơng thức tự quản.

Mỗi bản thƣờng có ngƣời đứng đầu, giữ vai trò trụ cột, điều hành toàn bộ mọi

hoạt động của bản. Nếu bản có một dòng họ cƣ trú thì ngƣời đứng đầu bản do

ngƣời có uy tín trong dòng họ nắm giữ. Khi thôn bản có nhiều họ cƣ trú thì

dân bản chọn ngƣời có uy tín, biết cúng thổ thần, am hiểu phong tục tập quán

dân tộc, lai lịch và mối quan hệ họ hàng của dân bản, có kinh nghiệm đoán

định thời tiết… để bầu vào chức đứng đầu bản.

Ngƣời đứng đầu thôn, bản đƣợc bà con tôn trọng và tin cậy, khi có việc

không tự phân xử đƣợc các bên đều đến hỏi ngƣời đứng đầu bản và làm theo

sự phân sử của ngƣời này. Ở các nhóm dân tộc Dao, bên cạnh vai trò chính

của ngƣời đứng đầu thôn, bản thì các cụ già làng, trƣởng họ và thầy cúng là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những ngƣời có uy tín cao, thƣờng có mặt trong các công việc chung của bản,

16

thôn, đƣợc dân bản tôn trọng. Hiện nay, ngƣời phụ trách các tổ chức đoàn thể

nhƣ Chi hội Phụ nữ, Chi hội Nông dân, Chi hội Cựu chiến binh, chi đoàn

thanh niên, ban công tác mặt trận và nhất là vai trò của chi bộ Đảng ở thôn,

bản có tiếng nói giúp trƣởng thôn, bản làm tốt hơn nhiệm vụ của mình.

Ngoài khu vực cƣ trú, mỗi thôn bản còn có đất canh tác, rừng núi, suối,

ao, đƣờng đi… hợp lại thành đất bản. Ranh giới giữa các bản có tính ƣớc lệ

nhƣng đƣợc tôn trọng. Trong địa vực đất bản, các gia đình đƣợc quyền khai

phá nƣơng rẫy nhƣng không đƣợc khai phá rừng đầu nguồn, rừng cấm, chỗ

đất đã có chủ (đƣợc đánh dấu bằng cọc gỗ nhỏ hoặc gài lá gianh). Hết thời

điểm phát nƣơng mà ngƣời đánh dấu không khai phá, coi nhƣ đất vô chủ. Nếu

tranh chấp nƣơng đã đánh dấu thì cây nêu của ai cắm trên mảnh đất đó lá héo

hơn, đất thuộc về ngƣời đó. Mảnh nƣơng đã canh tác, bỏ hoá hai, ba vụ vẫn

của chủ cũ. Đất công (đƣờng đi, suối, rừng cấm, bãi chăn thả…) do ngƣời

đứng đầu bản quản lý, các hộ dân trong bản có trách nhiệm giữ gìn, tu sửa,

bảo vệ. Nhiều bản ngƣời Dao có quy định về bảo vệ rừng và nguồn nƣớc khá

chặt chẽ. Tiêu biểu nhƣ bản Đồng Vành, xã Lục Sơn, huyện Lục Nam. Mỗi

bản đều có một khu rừng đầu nguồn, ở đó thần rừng trú ngụ, rất thiêng, không

ai đƣợc thu hái măng, vầu, nứa, chặt củi. Nếu để trâu bò vào rừng làm đổ cây,

gẫy măng thì bị phạt khá nặng.

Đối với nguồn nƣớc duy trì sản xuất và sinh hoạt, đồng bào thƣờng

xuyên tu sửa, khơi dòng lấy nƣớc đầu nguồn. Ai thả xác súc vật chết vào

nguồn nƣớc ăn thì phải làm lại máng nƣớc và khơi nguồn nƣớc khác cho

ngƣời bị hại. Đồng bào cũng quy định không đƣợc chôn cất ngƣời chết gần

nguồn nƣớc. Sông suối chảy qua thôn bản nào thì thôn bản đó quản lý. Nguồn

thuỷ sản (cá, tôm, cua, ốc, hến…) dân bản đều đƣợc hƣởng nhƣng không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đƣợc đánh bắt bằng hình thức ruốc bằng cây lá độc. Để bảo vệ hoa màu, hiện

17

nay ở nhiều thôn bản đồng bào tuân thủ việc không thả rông trâu bò, lợn, gà,

vịt… Ai vi phạm phải bồi thƣờng cho ngƣời bị hại.

Gia đình chủ yếu của dân tộc Dao ở huyện Lục Nam, chủ yếu là hình

thức phụ quyền. Mỗi gia đình thƣờng có 2 thế hệ (gồm cha mẹ và các con

chƣa lập gia đình) hoặc 3 thế hệ (gồm một cặp vợ chồng, các con chƣa lập gia

đình và ông bà). Rất hiếm gặp những gia đình lớn bốn thế hệ. Xu hƣớng phát

triển của gia đình ở các nhóm Dao là: con trai sau khi lập gia đình nếu có

điều kiện thì tách ra ở riêng, thƣờng dựng nhà gần nhà bố mẹ, đƣợc bố mẹ

chia tài sản (ruộng, trâu, gia cầm) làm vốn ban đầu nhằm bảo đảm cuộc sống.

Trong gia đình, quyền lực thuộc về ngƣời đàn ông, nếu bố chết thì con trai

trƣởng thay thế. Ngƣời chồng chủ yếu lo những công việc lớn nhƣ lập kế

hoạch làm ăn, làm nhà, cúng bái, săn bắn, đối ngoại. Những việc này đều

đƣợc các con lớn tuổi bàn bạc và thống nhất. Ngƣời vợ đóng vai trò chính về

nội trợ, quản lý kinh tế gia đình, may vá thêu thùa, giáo dục con cái. Các công

việc nƣơng rẫy, ruộng vƣờn cả hai vợ chồng đều gánh vác. Trong mọi công

việc, đời sống hàng ngày, vợ nghe lời chồng, con cái vâng lời cha mẹ, em

nghe lời anh chị. Trong quan hệ giữa con dâu, em dâu với bố mẹ chồng, anh

chồng, ngƣời con rể với mẹ vợ… có quy định nghiêm ngặt: con dâu, em dâu

không đƣợc ăn cùng mâm, không đƣợc đến khu vực ngủ của bố chồng, anh

chồng; ngƣợc lại bố chồng, anh chồng không đƣợc đến gần giƣờng ngủ của

em dâu, con dâu.

Ngƣời Dao ở Lục Nam có các họ chính: Bàn, Đặng, Triệu, Trƣơng,

Trần, Lã, Lý. Trong các họ Dao, họ Bàn đƣợc coi là gốc. Mỗi dòng họ thƣờng

có một trƣởng họ do các gia đình trong dòng họ cử ra. Nhà trƣởng họ gọi là

nhà lớn, nơi đặt bàn thờ ông tổ, nơi cúng lễ, ăn tết và cấp sắc chung cho các

thành viên trong họ. Trƣởng họ có trách nhiệm chủ trì lễ cấp sắc, lễ cúng bàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Vƣơng, là đầu mối quán xuyến việc giúp đỡ các gia đình trong tông tộc làm

18

nhà, tổ chức đám cƣới, chia gia tài, làm ma, chay,.. Ngƣợc lại, các thành viên

trong dòng họ có bổn phận giúp đỡ lẫn nhau tận tình khi có nhà gặp khó khăn,

hoạn nạn.

Bộ nữ phục nhóm Dao Thanh Y gồm có: quần dài (khoa), áo dài (gủi),

mũ (mâu), khăn (plảu mìn), yếm (tùng pàn), thắt lƣng (thỉn làng). Đặc điểm

của nhóm là phụ nữ thƣờng đội chiếc mũ nhỏ có gắn nhiều chiếc cúc tròn

bằng bạc ở vòng quanh mặt ngoài, trên áo thêu hoa văn trang trí hình ngƣời

đội hoa. Phụ nữ nhóm Dao Thanh Y để tóc dài, búi tóc lên đỉnh đầu, đội mũ

hình tròn. Cốt mũ bằng sơ mƣớp, ngoài lợp chỉ đen, quanh thành mũ gắn hai

hàng khuy bạc song song (đƣờng kính mỗi khuy trên 1,5cm), mỗi hàng gồm

40 khuy; đỉnh mũ phẳng, có gắn ngôi sao bạc tám cánh hoặc mƣời cánh,

đƣờng kính của sao xấp xỉ đƣờng kính mặt phẳng tròn của đỉnh mũ. Bên

ngoài mũ phủ chiếc khăn nhỏ mầu đỏ hoặc trắng thêu hoa văn, có hai dải vải,

mỗi dải rộng 4-5cm, mầu đỏ, đính từ hai góc khăn, thả buông hai bờ vai. Áo

của phụ nữ Dao Thanh Y xẻ ngực dài đến ống chân, màu chàm. Cổ áo thấp,

vẫn nối liền với nẹp ngực nhƣng có phân biệt với nẹp ngực bằng dải vải rộng

4cm, màu trắng, chạy từ ngực phải vòng qua cổ sau sang ngực trái, thêu nhiều

hoa văn. áo xẻ tà từ gấu lên đến thắt lƣng. Gấu áo và các mép xẻ tà, xẻ ngực

viền vải đỏ. ống tay áo rộng vừa phải, cổ tay áo may vải đỏ từ cổ tay lên đến

bắp tay (10cm). Hai thân áo trƣớc so le: bên phải dài trên 60cm từ vai xuống,

bên trái dài hơn 90cm, nếp trong mỗi thân là vải đỏ. Cũng nhƣ áo phụ nữ các

nhóm Dao khác, áo phụ nữ nhóm Dao Thanh Y không có khuy, khi mặc dùng

dây lƣng buộc ngoài, nút thắt phía lƣng. Các đầu dây lƣng thả dài đến khoeo

chân. Dây lƣng của phụ nữ Dao Thanh Y bằng vải trắng, dài 3,5 - 4m, rộng 4

- 5cm, trên mặt thêu kín các đƣờng chỉ xanh, đỏ xen lẫn nhau theo hình chân

rết. Yếm ngực là một vuông vải có hình ô trám, chia làm hai tam giác cân,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tam giác phía trên để trắng, ở giữa có gắn một bán cầu bằng bạc có đƣờng

19

kính 3 - 4cm, tam giác bên dƣới là vải đỏ. Quần phụ nữ Dao Thanh Y mầu

chàm, may kiểu chân què, ống rộng vừa phải, không thêu. Đồ trang sức gồm

vòng cổ (tẳng khuỳn), vòng tay (ná sằm), nhẫn (pô đà quỳn) bằng bạc. Bộ nữ

phục nhóm Dao Thanh Phán gồm có áo (linh lùi), yếm (nom càm), quần (chu

chùn), thắt lƣng (hầu hang), khăn (nom mùa), mũ (đổng) (mũ chỉ giành cho

các bé gái). Trang phục nữ nhóm Dao Thanh Phán có đặc điểm chỉ có một

màu chàm thẫm, không có hoa văn trang trí. Trƣớc đây đồng bào mặc áo dài

có thêu trang trí trên nẹp cổ. Hiện nay một số nơi, nữ Dao Thanh Phán mặc áo

ngắn cài khuy bên sƣờn phải nhƣ áo của ngƣời Hoa.

Kể chuyện là hình thức sinh hoạt văn hóa rất độc đáo của ngƣời Dao.

Hầu hết các truyện thần thoại, truyện cổ tích của ngƣời Dao đều đƣợc viết

thành thơ. Do đó có thể vừa đọc, vừa hát khi kể. Thƣờng trong các buổi lễ cầu

mùa, lễ cấp sắc kéo dài nhiều ngày, những ngƣời già thƣờng kể chuyện cho

con cháu nghe bên bếp lửa. Cũng có khi trong cuộc hát, hai bên hát về một

câu chuyện cổ với mục đích thử sự hiểu biết của đối phƣơng. Với cách hát

này, cùng một câu chuyện song mỗi bên lần lƣợt hát từng đoạn sau đó dừng

lại để bên kia phải hát tiếp. Bên nào không tiếp tục hát đƣợc coi nhƣ kém cỏi.

Do đó những câu chuyện cổ đƣợc phổ biến rất rộng trong cộng đồng.

Hát dân ca (báo dung) là một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần đã

tồn tại từ lâu đời trong cộng đồng dân tộc Dao ở Lục Nam. Dân ca Dao đƣợc

cất lên trong nhiều trƣờng hợp, nhiều hoàn cảnh khác nhau chứ không đơn

thuần là những lời ca giải trí khi nhàn rỗi, lời hát giao duyên của nam nữ

thanh niên. Hát dân ca đặc sắc nhất là loại hình hát giao duyên. Thời gian tổ

chức hát thƣờng vào lúc nông nhàn, nhất là vào dịp lễ hội.

Cũng nhƣ các tộc ngƣời khác, vào đầu mùa xuân, ngƣời Dao Lục Nam

tổ chức nhiều lễ hội (xíp bịp xuân). Những lễ hội này thƣờng đƣợc tổ chức tại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

các ngôi đình, chùa - địa điểm mà đồng bào cho là linh thiêng nhất trong bản,

20

nơi cƣ ngụ của các vị thánh thần. Tiêu biểu nhất là lễ hội đền Khe Cát, xã

Trƣờng Sơn đƣợc tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch, lễ hội đền Khuôn

Liêng, xã Trƣờng Sơn ngày 10 tháng Giêng âm lịch nhằm mời các vị thần

linh về đón xuân chung vui cùng dân bản, tỏ lòng biết ơn và cầu xin sự phù hộ

che chở của thánh thần. Trƣớc khi tổ chức dân bản cùng dọn dẹp nơi cúng tế,

các thầy cúng chuẩn bị văn tế. Lễ vật cúng tế do các gia đình trong bản đóng

góp thƣờng gồm có gà, rƣợu, xôi trắng. Có hai loại văn cúng tế, một bài căn

cúng gọi Ngọc Hoàng và một bài văn cúng gọi thần đất. Nội dung của các bài

văn cúng là nhân dịp mùa xuân cây cối vạn vật tốt tƣơi mời các vị thần về

chứng giám lòng thành của dân bản, cùng dân bản đón mùa xuân mới, phù hộ

cho dân bản năm mới mùa màng thuận lợi.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Lục Nam là huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang, nơi đây có điều kiện

địa lý, tự nhiên khá thuận lợi với chất đất phù hợp cho canh tác nông nghiệp,

hệ thống sông suối trải dài cung cấp đầy đủ nƣớc cho sản xuất. Điều kiện tự

nhiên cùng cảnh trí thiên nhiên tƣơi đẹp, núi non hùng vĩ đã khiến cho Lục

Nam trở thành nơi hội tụ của nhiều dân tộc anh em, trong đó có ngƣời Dao.

Ngƣời Dao cƣ trú chủ yếu tại các xã Lục Sơn, Bình Sơn, Trƣờng Sơn, Vô

Tranh của huyện. Đồng bào di cƣ từ Quảng Ninh tới Lục Nam từ những năm

đầu thập kỷ 30 của thế kỷ 20. Ngƣời Dao ở Lục Nam thuộc hai nhóm Dao

Thanh Y và Dao Thanh Phán. Đồng bào sinh sống thành từng bản riêng và

còn bảo lƣu đƣợc nhiều phong tục tập quán độc đáo mang bản sắc văn hoá

của tộc ngƣời, trong đó có tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp. trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sản xuất nông nghiệp.

21

CHƢƠNG 2

TRI THỨC DÂN GIAN TRONG SẢN XUẤT

NÔNG NGHIỆP CỦA NGƢỜI DAO HUYỆN LỤC NAM

TỈNH BẮC GIANG TRONG TRUYỀN THỐNG

2.1. Quan niệm về tri thức dân gian

Tri thức dân gian, kiến thức truyền thống (Traditionnal knowledge) hay

kiến thức địa phƣơng (Local knowledge) là hệ thống các kiến thức của các

cộng đồng dân bản địa trên quy mô lãnh thổ khác nhau. Nó đƣợc hình thành,

tồn tại và phát triển lâu dài cùng với lịch sử phát triển cụ thể của cộng đồng,

với sự tham gia của tất cả các thành viên trong cộng đồng [44, tr.23]. Tri thức

dân gian bao hàm tất cả các lĩnh vực của cuộc sống xã hội nhƣ: nông nghiệp,

sức khỏe, giáo dục… Trong nông nghiệp, tri thức dân gian đƣợc thể hiện

trong trồng trọt và chăn nuôi. Về trồng trọt: các giống cây bản địa, kinh

nghiệm xác định giống nào cây ấy, lịch thời vụ và dự đoán thời tiết, các kinh

nghiệm tƣới tiêu, sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu, cách thu hoạch và bảo

quản, cất trữ lƣơng thực, các kinh nghiệm sản xuất trên đất dốc, nƣơng rẫy.

Trong chăn nuôi: kinh nghiệm chọn giống gia súc, quản lý bãi chăn thả theo

mùa, các cây lƣơng thực cho gia súc, các cây thuốc cho gia súc…

Kiến thức dân gian đƣợc hình thành và biến đổi liên tục qua nhiều thế

hệ trong một cộng đồng địa phƣơng nhất định. Tri thức dân gian là sản phẩm

đƣợc tạo ra trong quá trình lao động sản xuất của toàn cộng đồng. Theo thời

gian, các kinh nghiệm truyền thống này đƣợc biến cải để ngày càng hoàn

thiện hơn, nghĩa là có hiệu quả và thích ứng cao hơn với các thay đổi của môi

trƣờng tự nhiên và xã hội. Theo dòng lịch sử, nhiều kiến thức cũ đã không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

còn ý nghĩa nên mất đi, các kiến thức địa phƣơng mới đang liên tục đƣợc nảy

22

sinh và hoàn thiện. Tri thức dân gian hay kiến thức bản địa có khả năng thích

ứng cao với môi trƣờng riêng của địa phƣơng, nơi đã hình thành và phát triển

kiến thức đó. Đây là một ƣu điểm rất quan trọng mà các hệ thống kĩ thuật từ

bên ngoài không có đƣợc.

Tri thức dân gian do toàn thể cộng đồng sáng tạo ra qua lao động trực

tiếp. Toàn thể cộng đồng đó bao gồm cả đàn ông, đàn bà, trẻ em, ngƣời già.

Tri thức dân gian đƣợc lƣu giữ bằng trí nhớ và truyền bá từ thế hệ này qua thế

hệ khác bằng truyền miệng, thơ ca, tế lễ và nhiều tập tục khác nhau. Đây là

điểm khác biệt so với kiến thức khoa học và thƣờng gây khó khăn cho ngƣời

nghiên cứu, nhất là ngƣời ngoài cộng đồng, ngƣời không cùng ngôn ngữ và

văn hóa. Tri thức dân gian luôn gắn liền và hòa nhập với nền văn hóa, tập tục

địa phƣơng. Vì vậy khả năng tiếp thu, ứng dụng trong cộng đồng là rất dễ

dàng. Trong thực tế chúng ta đã từng thấy rằng có những kĩ thuật mới đƣa lại

hiệu quả cao hơn nhƣng không đƣợc dân chúng chấp nhận vì trái với tập tục

văn hóa của địa phƣơng.

Tri thức dân gian có tính đa dạng rất cao, vì nó đƣợc hình thành trong

những điều kiện tự nhiên khác nhau và đƣợc mọi thành viên trong cộng đồng

sáng tạo ra nên sự khác nhau về giới tính, tuổi tác, kĩ năng, kinh nghiệm, tình

trạng kinh tế… đã làm cho hệ thống này hết sức phong phú.

Ngày nay, tri thức dân gian đang có nguy cơ bị mai một dần. Tri thức

dân gian có thể bị thất lạc tự nhiên do kĩ thuật, công cụ lao động đƣợc cải tiến

hoặc tri thức ấy không còn đƣợc sử dụng nữa. Nó cũng có thể bị thất truyền

do không đƣợc ghi chép thành văn bản, vì vậy mà việc nghiên cứu và bảo tồn

là rất quan trọng. Nghiên cứu tri thức dân gian sẽ nâng cao đƣợc nhận thức về

kho tàng kiến thức bản địa đối với sự phát triển. Quá trình phát triển và sự gia

tăng dân số đã thúc đẩy sự thất lạc của tri thức dân gian. Việc thực hiện các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dự án ở vùng cao là hết sức quan trọng nhƣng để đạt hiện quả cao thì các nhà

23

khoa học không thể bỏ qua việc kết hợp giữa kiến thức hiện đại và những tri

thức dân gian, đây cũng là yếu tố tao ra sự phát triển bền vững.

Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở huyện

Lục Nam, tỉnh Bắc Giang vừa là những kinh nghiệm của cuộc sống xã hội

do các thế hệ trƣớc để lại, lại vừa là những kinh nghiệm của các thế hệ hôm

nay tích lũy, bổ sung nhƣng nó cũng tiếp thu những kinh nghiệm dân gian

của các thành phần dân tộc khác ở trong và ngoài tỉnh. Do đó, khi nói về

những tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở huyện

Lục Nam, tỉnh Bắc Giang là nói về một địa phƣơng nhƣng nó không thể

không có những nét chung mà các thành phần dân tộc khác, địa phƣơng

khác cũng có. Vì thế việc hiểu tƣờng tận những tri thức dân gian ở Bắc

Giang là hết sức quan trọng.

2.2. Hệ thống tri thức dân gian về sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao

Lục Nam trong truyền thống

Cũng nhƣ các dân tộc khác ở khu vực phía Bắc, hoạt động kinh tế chủ

yếu của ngƣời Dao ở Lục Nam là nông nghiệp. Trồng trọt và chăn nuôi đƣợc

ngƣời Dao lấy làm nghề sống chính từ lâu đời. Chính vì tầm quan trọng của

nó nên việc đúc rút những kinh nghiệm thành hệ thống kiến thức đã đƣợc

ngƣời Dao tiến hành. Ngày nay những nét độc đáo và khác biệt của hệ thống

tri thức trong nông nghiệp rất cần đƣợc nghiên cứu để kịp thời khắc phục mặt

tiêu cực cũng nhƣ tạo điều kiện phát huy những mặt tích cực vốn có của nó.

2.2.1. Trong trồng trọt

2.2.1.1. Nương rẫy

Thời vụ

Trải qua quá trình làm nƣơng những kinh nghiệm dần trở thành truyền

thống và đƣợc đồng bào khái quát thành nông lịch áp dụng đối với canh tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nƣơng rẫy. Chu kì sản xuất ổn định tạo thành nông lịch của đồng bào:

24

Tháng giêng: Sau khi ăn Tết nguyên đán đồng bào tiến hành chọn rừng,

chọn đất để làm nƣơng.

Tháng hai, Tháng ba: Tiến hành phát rẫy.

Tháng tư, tháng năm: Tiến hành đốt nƣơng và bắt đầu tra lúa.

Tháng sáu, tháng bảy: Tiến hành làm cỏ đợt một.

Tháng tám: Tiến hành làm cỏ đợt hai.

Tháng chín, tháng mười: Tiếp tục chăm sóc và tiến hành thu hoạch lúa.

Qua lịch nông nghiệp đối với nƣơng rẫy của ngƣời Dao ở Lục Nam,

chúng ta thấy rằng việc sản xuất của đồng bào phụ thuộc chặt chẽ vào tự

nhiên. Đối với canh tác nƣơng rẫy, nguồn nƣớc mƣa hàng năm là quan trọng

nhất. Do là nguồn nƣớc chính phục vụ cho canh tác nƣơng rẫy nên thời gian

sinh trƣởng của cây lúa nƣơng và các giống cây trồng khác đều phải gắn với

mùa mƣa. Nƣơng chỉ làm một vụ và phải trùng vào mùa mƣa để đảm bảo đủ

nƣớc cho lúa suốt thời gian sinh trƣởng.

Chọn đất

Trƣớc kia đồng bào Dao ở Lục Nam chỉ làm nƣơng du canh với kĩ

thuật “đao canh hỏa chủng” nguyên thủy. Thời gian canh tác ở mỗi mảnh

nƣơng là hết sức hạn chế, khi đất trồng bị bạc mầu, năng suất giảm thì đồng

bào bỏ để tìm nƣơng mới. Việc chọn đất có ý nghĩa quyết định đến sự thành

bại của mỗi vụ mùa sản xuất. Theo các bậc cao niên, khi chọn đất phát nƣơng,

nên chọn các khu rừng già. Đất ở đây thƣờng có mầu vàng sậm hoặc mầu nâu

đen do lớp mùn phân hủy từ lá rừng rụng xuống, phủ lên hết lớp này đến lớp

khác. Kinh nghiệm dân gian cho thấy, đất nƣơng gốc rừng già bao giờ cũng

tơi xốp, độ phì nhiêu cao, giữ ẩm tốt hơn so với các loại đất khác và phù hợp

với nhiều loại cây trồng [56]. Khi chọn nơi để phát nƣơng đồng bào cũng tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đến khả năng mở rộng diện tích canh tác cho những vụ sau. Vì vậy nƣơng của

25

ngƣời Dao thƣờng ở cách xa nhau, mỗi gia đình chiếm cứ một vài vạt đồi

rộng, năm nay chƣa khai thác hết, năm sau tiếp tục khai quang để mở rộng

diện tích. Nƣơng rẫy của ngƣời Dao thƣờng ở xa bản, một mặt là do tập quán

qui định nhƣng mặt khác là do những nơi ở gần thì đều đã đƣợc khai thác cạn

kiệt, không còn khả năng trồng tỉa nữa. Khi tìm đƣợc một mảnh nƣơng vừa ý,

các gia đình ngƣời Dao chọn ngày lành tháng tốt (ngày này đều đến xem tại

nhà thầy cúng trong bản, thƣờng là những ngày 6, ngày 9 trong tháng âm lịch)

để tiến hành phát nƣơng. Lễ cúng nƣơng tại nhà thì lễ vật có gà, xôi, rƣợu để

cúng thổ thần, thổ địa, thần rừng, thần cây. Để cúng lễ trên nƣơng, ngƣời chủ

gia đình chuẩn bị lễ gồm cây lúa đan từ tre, nứa, rƣợu, các thanh tre mỏng đến

làm lễ trên mảnh nƣơng. Cây lúa đƣợc cắm ở giữa, các thanh tre cắm tròn

xung quanh tƣợng trƣng cho sự bảo vệ, ngƣời chủ gia đình thắp hƣơng khấn

vái rồi rót rƣợu vòng quanh cây lúa, cầu mong cho cây lúa trên mảnh nƣơng

này trổ nhiều bông, ngƣời trồng đƣợc ăn no, mạnh khoẻ.

Chọn giống

Nƣơng sau khi đƣợc khai quang đƣợc đồng bào sử dụng để canh tác

lúa nƣơng. Giống lúa nƣơng, thƣờng là các loại lúa nếp nƣơng, lúa mộ, tẻ đỏ,

bao thai lùn, chân trâu lùn, Má tai, Tài lũ pin. Lúa nếp nƣơng là loại lúa có

thân cao, năng suất trung bình, hạt thóc màu sẫm, gạo trắng và thơm đƣợc

đồng bào dùng làm bánh dày hay nấu rƣợu. Giống lúa này ít bị sâu bệnh, do

cây cứng không đổ nên ngƣời Dao hay trồng. Với lúa tẻ, trƣớc đây, ngƣời

Dao thƣờng gieo trồng loại cây cao, hạt nhỏ, gạo đỏ, ăn dẻo và thơm. Loại lúa

này có nhƣợc điểm là hay bị đổ non và năng suất không cao nhƣng bù lại, dễ

chăm sóc và không tốn phân bón.

Khi mang thóc giống ra nƣơng, đồng bào làm lễ cúng thóc giống. Chủ

nhà lập đàn cúng trƣớc bàn thờ tổ tiên, trên bàn đặt cụm lúa giống; bát nƣớc,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đôi đũa, bát gạo, đĩa xôi và con gà luộc, một tờ giấy bản vẽ các hình theo thứ

26

tự: mặt trời, ngƣời cầm nông cụ, bó lúa, một đàn gà, một đàn cá, một con rắn.

Khi thầy khấn xong thì đặt cụm lúa và tờ giấy bản vào đống thóc giống. Tra

nƣơng xong thì đốt giấy. Trong khi cúng thóc giống cấm ngƣời lạ vào nhà, sợ

hồn thóc sẽ theo ngƣời đó đi mất. Trong một ngày một đêm sau khi cúng,

những ngƣời trong nhà cũng không đƣợc đến nhà ngƣời khác, sợ hồn lúa đi

theo và ở luôn lại nhà đó.

Ngô có hai loại là ngô nếp và ngô tẻ. Ngô nếp hạt to, ăn dẻo và trồng

đƣợc cả hai vụ. Ngô tẻ có màu vàng, cây cao, lá to, ăn hơi khô. Loại ngô này

thƣờng ít bị sâu bệnh. Còn có loại ngô tẻ khác, cây cao, hạt có màu trắng. Hai

loại ngô tẻ đều trồng đƣợc hai vụ nhƣng ngô có màu vàng đƣợc đồng bào Dao

trồng nhiều hơn bởi cho năng suất và sản lƣợng cao. Ngô tẻ đƣợc trồng nhiều

hơn ngô nếp.

Cũng nhƣ lúa, đối với ngô đồng bào rất chú ý đến khâu chọn giống.

Ngô đƣợc chọn làm giống bắp phải to, hạt mẩy đều, không có sâu bệnh. Sau

khi lựa chọn trong số ngô nhà mình những bắp ngô giống vừa ý, ngƣời Dao

để riêng bóc hết lớp vỏ áo bên ngoài phơi ngoài nắng cho khô, sau đó buộc 5 -

6 bắp thành từng bó đem treo hoặc gác lên sàn bếp. Số ngô còn lại sau khi

đƣợc phơi khô cũng đƣợc bó thành từng bó cất trong bồ hoặc treo trên xà nhà.

Khi sử dụng đồng bào mới tách hạt ra khỏi bắp.

Sau khi chọn giống, đồng bào tiến hành gieo hạt trên các nƣơng đồi.

Công cụ dùng để chọc lỗ gieo hạt trên nƣơng là chiếc gậy làm bằng một đoạn

cây chắc, đẽo nhọn một đầu, có chiều dài từ 2 - 2,5m, tiết diện ngang vừa nắm

tay cầm. Ngƣời Dao gieo trồng lúa nƣơng từ chân dốc lên đỉnh nƣơng. Họ

dàn thành hàng ngang theo từng cặp, một nam một nữ. Nam đi giật lùi, dùng

gậy để chọc thành từng hốc, nữ theo sau bỏ hạt vào hốc. Khoảng cách giữa

các hốc tƣơng đƣơng với độ dài bàn chân, khoảng 20 - 30 cm. Khi gieo hạt,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những ngƣời phụ nữ Dao thƣờng đeo bên hông một cái giỏ nhỏ, đựng khoảng

27

1-2 kg thóc rồi, lần lƣợt bỏ vào từng lỗ, mỗi lỗ chừng từ 10 - 15 hạt. Giỏ đựng

thóc giống để tra này trông giống nhƣ cái giỏ tre của ngƣời Việt đƣợc đồng

bào gọi là liểng và đan bằng cật giang. Miệng trên của liểng của ngƣời Dao

Thanh Y lại có kích thƣớc khác, cụ thể đƣờng kính 14 cm, cao 19 cm. Đó là

dụng cụ vừa để thóc giống khi tra hạt trên nƣơng vừa để đựng đồ khô cần bảo

quản nhẹ trên bếp. Sau khi tra xong hạt, đồng bào thƣờng dùng cành cây quét

nhẹ trên mặt đất cho đất phủ kín hạt giống, tránh sự phá hoại của chim, chuột.

Cũng có khi đồng bào dùng phƣơng pháp vãi hạt nhƣng với yêu cầu là

đất phải đƣợc chuẩn bị chu đáo hơn so với kiểu chọc lỗ tra hạt. Gieo theo kiểu

này nƣơng lúa sẽ ít cỏ, đất xốp và giữ đƣợc độ ẩm lâu hơn, do vậy tạo điều

kiện cho lúa mọc đều, phát triển nhanh. Tuy nhiên, gieo vãi lại có nhƣợc điểm

là nếu mới vãi hạt mà gặp mƣa to thì có tình trạng có nơi lúa mọc thƣa, nơi

khác lại mọc dầy, không thể làm cỏ bằng cào đƣợc mà phải làm trực tiếp bằng

tay. Gặp phải trời mƣa to, lúa dễ bị đổ, ảnh hƣởng đến năng suất và thu hoạch.

Với những đám nƣơng đã từng gieo trồng, nếu ở những nơi có địa hình tƣơng

đối bằng phẳng thì khâu làm đất đƣợc thực hiện bằng cày, bừa. Còn ở những

nơi có độ dốc lớn bà con thƣờng phải dùng cuốc để rẫy cỏ và sau đó mới bổ

hốc gieo trồng. Để đề phòng sâu kiến ăn mầm lúa, đồng bào thƣờng trộn thêm

một chút tro bếp vào hạt giống rồi dùng tay bốc hạt tra vào hốc.

Đối với sắn, ngƣời Dao trồng sắn chủ yếu trên các nƣơng đồi có độ dốc

tƣơng đối lớn. Đây là những đám nƣơng đã trở nên cằn cỗi sau khi trồng các

loại cây thực phẩm. Đồng bào trồng hai loại sắn phổ biến là sắn trắng và sắn

đỏ. Sắn đƣợc trồng vào tháng Giêng, sau khi ăn tết xong đồng bào tiến hành

cày nƣơng, đánh luống trồng sắn. Luống trồng sắn đƣợc đánh cao từ 25 -

30cm, rộng 40 - 45cm. Hố trồng có độ sâu từ 10 - 15cm chạy thẳng theo mạch

luống. Mỗi hố cách nhau chừng 30 - 35cm. Nhƣ khoai lang, sắn đƣợc trồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bằng thân (cành), giống đƣợc giữ từ vụ trƣớc. Sau khi thu hoạch sắn về, ngƣời

28

ta chọn những cây có thân to, mắt dầy, không bị sâu bệnh. Số cây giống này

đƣợc bó riêng để nơi râm mát. Trƣớc thời gian trồng 20 ngày đồng bào đem

vùi gốc xuống đất sâu 30 - 35cm cho thân sắn tƣơi trở lại. Đến ngày trồng cây

sắn đƣợc cắt thành từng đoạn có chiều dài trung bình từ 18 - 22cm. Sau khi

cắt sắn đƣợc trồng ngay xuống đất để hạn chế sự mất nhựa tạo điều kiện cho

mầm cây mau phát triển. Hom đƣợc trồng nghiêng theo chiều luống tạo thành

góc 20o. So với các cây lƣơng thực khác sắn có ƣu điểm là tính chịu hạn rất

tốt, ít bị sâu bệnh và không phải chăm bón nhiều. Thông thƣờng sau khi trồng

đƣợc hai hoặc ba tháng đồng bào xới cỏ, bỏ phân vun luống gốc cho cao hơn

để kích thích quá trình tạo củ sau này.

Sắn thƣờng đƣợc thu hoạch vào tháng 11. Khi thu hoạch về sắn đƣợc

bóc vỏ thái thành những lát vát mỏng trải đều ra sân phơi. Khi đã khô, sắn

đƣợc bảo quản trong các bao tải hoặc đƣợc đựng trong chum, chĩnh. Khác với

ngô và thóc, sắn có khả năng hút ẩm rất cao do vậy rất dễ bị nấm mốc, ảnh

hƣởng trực tiếp đến chất lƣợng sử dụng sau này. Để khắc phục nhƣợc điểm

này trung bình mỗi tháng đồng bào lại bỏ sắn ra phơi một lần để chống ẩm

mốc. Sắn là nguồn lƣơng thực quan trọng trong cơ cấu bữa ăn hàng ngày của

đồng bào dân tộc Dao ở Lục Nam. Sắn đƣợc độn cùng với cơm hoặc làm

thành bánh. Mặc dù sắn không ngon bằng ngô, nhƣng do đất đai trung du,

diện tích nƣơng đồi nhiều (hơn 50% tổng quỹ đất canh tác của mỗi hộ) nên

diện tích trồng cây sắn hơn trồng ngô và các cây lƣơng thực thực phẩm khác.

Do vậy, sản lƣợng sắn cao hơn nhiều lần so với sản lƣợng các cây lƣơng thực

thực phẩm khác. Những năm đƣợc mùa lúa, sắn là nguồn lƣơng thực dự

phòng cho năm sau hoặc đƣợc sử dụng để nấu rƣợu hay chăn nuôi gia súc, gia

cầm hoặc bán cho Nhà nƣớc theo hình thức trả tiền hoặc đổi lấy vải và các đồ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dùng sinh hoạt trong gia đình.

29

Chăm sóc

Đồng bào Dao Lục Nam không có nhiều biện pháp để chăm bón mà

hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên, năm mƣa thuận thì đƣợc mùa còn

những năm gặp hạn hoặc mƣa quá nhiều thì đều ảnh hƣởng rất lớn tới năng

suất. Lúa trên nƣơng không đƣợc đồng bào chăm bón bằng bất cứ loại phân

bón nào mà chỉ dựa và những mùn cây và tro đốt để lúa sinh trƣởng và phát

triển. Từ khi tra hạt cho tới khi thu hoạch đồng bào tiến hành làm cỏ cho

nƣơng, thƣờng từ 1 đến 3 lần.

Trên nƣơng việc bảo vệ thực vật cũng đƣợc tiến hành một cách đơn

giản và hoàn toàn mang tính kinh nghiệm, đồng bào Dao ở các bản huyện Lục

Nam thƣờng có biện pháp trừ sâu, đuổi chuột rất đặc biệt. Để đuổi sâu đồng

bào thƣờng lấy lá cây Thau (một loại cây rừng có nhiều ở địa phƣơng) cắm

vào trong nƣơng, còn để đuổi chuột đỡ phá lúa đồng bào dùng những khóm

riềng để vào trong ruộng để cho chuột khỏi đến phá. Khi lúa mọc xấu, bị bệnh

vàng lá, bị sâu cắn, đồng bào làm lễ cúng đuổi tà ma và rẩy nƣớc phép vào

chỗ lúa bị sâu bệnh. Nếu nhiều nhà đều có nƣơng bị sâu bệnh thì dân bản tổ

chức cúng cầu mùa [56].

Để bảo vệ lúa và hoa mầu, đối với lúa nƣơng ngƣời Dao phải rào và

canh gác vào các dịp chuẩn bị thu hoạch để phòng thú rừng đến phá hoại.

Ngày nay, do làm ruộng nƣơng ngay cạnh nhà nên họ làm hàng rào xung

quang để ngăn gia súc, gia cầm phá hoại. Hàng rào đƣợc đan bằng phên nứa

với các khung gỗ nhỏ và cột làm giá đỡ. Đến nay, do có những đổi mới trong

biện pháp chăm sóc và bảo vệ thực vật nên đồng bào cũng đó tiến hành phun

thuốc trừ sâu, từ 1 đến 2 lần trong thời gian chăm sóc. Cũng nhƣ các chân

ruộng bậc thang, nƣơng đồi là loại đất có độ dốc lớn. Xói mòn do mƣa lũ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đƣợc xem là kẻ thù nguy hiểm số một. Để hạn chế sự rửa trôi của nƣớc mƣa,

30

sau khi trồng cây xong đồng bào tiến hành đào rãnh quanh phía trên ruộng để

nƣớc mƣa không tràn vào làm nát hoa màu rửa trôi lớp màu của ruộng.

Ngƣời Dao ở Lục Nam đã khai thác triệt để các đồi gò hoang hóa cằn

cỗi bạc mầu của miền trung du, với bao mồ hôi xƣơng máu hết thế hệ này đến

thế hệ khác lao động miệt mài không ngơi nghỉ, đồng bào đã cải tạo những

nấm đồi hoang trơ sỏi đá thành bãi hay những triền ruộng bậc thang cấy lúa,

trồng hoa màu có hiệu quả. Trên mỗi loại ruộng, đồng bào lựa chọn những

giống cây thích hợp với chất đất, khí hậu để gieo trồng. Vừa khai thác, vừa cải

tạo từng bƣớc sao cho phát huy tối đa hiệu quả kinh tế.

Quá trình canh tác trên một đám nƣơng của đồng bào dân tộc Dao ở

Trồng lúa,

- Trồng sắn, củ từ,

- Trồng cây lâu năm

Loại cây: ngô, lạc đỗ

củ mỡ

hoặc bỏ hóa 4-5 năm

Đất nƣơng vừa khai phá

Đất nƣơng đã bạc màu

Đất cằn cỗi

Lục Nam có thể tóm tắt trong mô hình sau:

Thông thƣờng, công thức ba giai đoạn trên đƣợc tiến hành trong

khoảng thời gian từ 8 - 10 năm. Sau 4 - 5 năm lại quay lại khai phá để trồng

trọt. Những nƣơng đồi mới đƣợc khai phát, đất còn giàu hàm lƣợng dinh

dƣỡng, đồng bào Dao ƣu tiên gieo lúa hoặc trồng cây hoa màu ngô, lạc. Sau

vài năm sử dụng, đất đó bạc màu ngƣời dân chuyển sang trồng sắn, củ từ, củ

mỡ. Vài năm sau chuyển sang trồng cây lâu năm, hoặc bỏ hóa sau 4 - 5 năm

rồi quay lại khai phát tiến hành các giai đoạn trồng trọt nhƣ trên.

Công cụ lao động:

Thông qua lao động đồng bào đã sáng tạo ra nhiều công cụ lao động để

giải quyết các khâu kỹ thuật trên các nƣơng đồi, chân ruộng khác nhau và

các giống cây trồng khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả và năng suất cây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trồng. Trong bộ nông cụ của đồng bào có nhiều nông cụ giống với các dân

31

tộc anh em nhƣ: chiếc cuốc bàn (poong), xẻng, liềm (lìm), chiếc vồ đập đất

(pà đan), trang mạ (tháng), con dao quắm (thung dụ) để đi rừng chặt gỗ phát

nƣơng… Song cũng có một số nông cụ đáng chú ý.

Trên các mảnh nƣơng đƣợc làm sạch đồng bào thƣờng sử dụng chiếc

cày (lày) cổ truyền có lƣỡi và diệp thẳng nhỏ, không có độ cong để có thể

cày lật úp đất. Đây là loại cày rất chắc, nhẹ, lƣỡi cày nhỏ và nhọn, dài 20cm.

Cày mà không chắc, lƣỡi mà không nhỏ thì khó có thể lách qua đƣợc các

hốc đá ong, hốc cây to trên nƣơng. Hiện nay cày của đồng bào là cày chìa

vôi làm từ chất liệu gỗ, sắt và gang. Cày có cấu tạo nhƣ sau: lƣỡi cày làm

bằng sắt có dáng cong nhẹ, lƣỡi có đầu nhọn, sắc, thân lƣỡi dài 35cm. Diệp

cày đúc bằng gang, các bộ phận còn lại đƣợc tạo từ gỗ. Lƣỡi và diệp cày gắn

với thân cày nối với bắp cày bằng gỗ dài 1,6m. Thân cày nối với chằng cày,

vai cày, cá cày.

Dao quắm đƣợc dùng để phát cỏ, chặt cây con. Dao quắm của ngƣời

Dao đƣợc làm từ sắt, lƣỡi mỏng dài 30cm, bản to, đầu lƣỡi nhọn và quặp

vào than lƣỡi. Dao đƣợc tra cán bằng gỗ tròn, có đƣờng kính từ 2 - 2,5cm,

dài 50cm.

Cào làm cỏ có hai loại là cào chuôi gỗ lƣỡi sắt và cào làm hoàn toàn

bằng sắt. Cào chuôi gỗ lƣỡi sắt thân dài 35cm, trong đó phần chuôi gỗ dài

25cm, đƣờng kính 0,3cm. Còn phần lƣỡi sắt có dạng hình khum (2/3 vòng

tròn), rộng 5-7cm, dầy 0.1cm, đầu nhọn.

Dụng cụ cắt lúa nƣơng (khu nhíp): rất nhỏ có thể cầm gọn trong bàn tay

và gặt lúa nƣơng rất nhanh, đƣợc làm từ chất liệu sừng trâu, xƣơng thú và lƣỡi

sắt dài 5cm mài sắc.

Giỏ (cây), túi (xung), thúng (nom màu), bồ (nom bạt), quang gánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(quang đam): các loại đồ dùng này đều đƣợc đan bằng tre, giang hay song

32

mây. Các giỏ nhỏ đều có dây quai đeo và treo trên gác bếp để bảo quản

hạt giống.

Địa hình vùng trung du không bằng phẳng, giao thông đi lại gặp không

ít khó khăn. Qua thực tiễn lao động sản xuất ngƣời Dao ở Lục Nam đã sáng

tạo ra chiếc xe quệt (phung). Xe quệt có khung kết cấu nhƣ khung xe bò, xe

trâu, song không có trục và bánh xe, phần đuôi đƣợc kéo lê trực tiếp xuống

đất. Trông chiếc xe rất đơn giản nhƣng nó đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ vạn

năng, di chuyển đƣợc trên mọi địa hình.

Thu hoạch và bảo quản: Sau khi chăm sóc nƣơng, ruộng là tới những

ngày thu hoạch sản phẩm. Đồng bào Dao ở Lục Nam có tục chọn ngày đi gặt,

theo cụ Tuân (83 tuổi) ở bản Văn Non- Lục Sơn cho biết thì ngày xƣa các cụ

đi gặt thƣờng chọn vào ngày 9 để đi. Ngày 9 tức là những ngày mồng 9, 19

hay 29. Lý do cụ cho biết cũng hết sức đơn giản là vì quan niệm đi gặt vào

ngày 9, số 9 là số lớn nhất nên gặt vào ngày này sẽ đƣợc nhiều lúa và lúa sẽ

lâu hết.

Đối với lúa trên nƣơng, đồng bào dùng một dụng cụ gọi là Khu nhíp để

cắt từng bông lúa, cắt đƣợc bông nào họ bỏ vào một cái giỏ đeo bên hông.

Những bông hạt mẩy to sẽ đƣợc chọn để riêng làm giống cho vụ sau. Sau khi

cắt lúa trên nƣơng về đồng bào thƣờng bó thành từng cụm nhỏ rồi gác lên gác

bếp vừa để sấy khô nhƣng đồng thời cũng là cách bảo quản lúa của đồng bào.

Khi cần sử dụng họ lấy từng cum lúa xuống cho cả vào cối để giã. Cho đến

nay, đồng bào Dao ở Lục Nam không còn làm lúa nƣơng nữa nhƣng những

kinh nghiệm về quá trình lao động trên nƣơng từ khi đốt nƣơng, tra hạt cho

đến khi thu hoạch vẫn đƣợc các cụ già nhớ khá chính xác nhƣ để nhớ lại

những ngày lao động đầy khó khăn, gian khổ. Ở một vài gia đình ngƣời Dao ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lục Nam còn lƣu giữ đƣợc bộ dụng cụ làm nƣơng gần nhƣ nguyên vẹn.

33

Sau khi gặt xong ngƣời Dao tiến hành lễ cúng hồn lúa vào tháng Chạp.

Chủ nhà đặt cụm lúa gặt cuối cùng ở phía dƣới bàn thờ tổ tiên, mục đích cúng

để thu hết hồn lúa về nhà, có nhƣ vậy, các vụ lúa sau mới tƣơi tốt. Vào tết

cơm mới (mùng 10 tháng 10 âm lịch) đƣợc cúng trong nhà để tạ ơn tổ tiên đã

phù hộ cho mùa màng bội thu. Lễ vật gồm nồi cơm mới, rƣợu, thịt cá, canh

rau, vài bông lúa mới. Chủ nhà kể công ơn tổ tiên, cầu mong tổ tiên tiếp tục

phù hộ mãi mãi để việc làm ăn ngày càng gặp nhiều may mắn. Cúng cơm

mới, kiêng không cho ngƣời ngoài, kể cả họ hàng vào nhà.

2.2.1.2. Ruộng nước

Thời vụ

Xƣa kia việc trồng cây lƣơng thực của ngƣời Dao ở Lục Nam thƣờng

phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Những năm mƣa thuận gió hòa thì có đủ

lƣơng thực để ăn, còn không sẽ bị mất mùa đói kém. Hàng năm đồng bào chỉ

cấy trồng đƣợc một vụ lúa mùa vào mùa mƣa từ tháng 4 đến tháng 9 âm lịch.

Bởi vậy, mùa canh tác của ngƣời Dao trƣớc đây là gieo trồng từ tháng 2 đến

tháng 4, thu hoạch trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 10.

Cƣ trú trên mảnh đất ở vùng sƣờn đồi trung du xƣa nay vẫn đƣợc mệnh

danh là nơi “Chó ăn đá, gà ăn sỏi” đất đai bạc màu cằn cỗi tƣởng nhƣ con

ngƣời không thể trụ đƣợc. Song trên thực tế ngƣời Dao ở đây không những

tồn tại đƣợc mà còn phát triển đi lên. Họ biết khai thác triệt để nguồn lực tiềm

năng vốn có để tồn tại và phát triển. Qua bao thế hệ với bao kinh nghiệm

đƣợc đúc rút đƣợc truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, ngƣời Dao đã xây

dựng cho mình một chu kỳ sản xuất khép kín trong 12 tháng vừa phù hợp với

điều kiện đất đai vừa phù hợp với điều kiện khí hậu của vùng trung du.

Lịch nông nghiệp là kết tinh của tri thức dân gian qua nhiều thế hệ luôn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tìm cách tồn tại vƣơn lên trong môi trƣờng sống của mình. Cũng nhƣ nhiều cƣ

34

dân nông nghiệp khác ngƣời Dao rất coi trọng tính thời vụ trong sản xuất. Sau

khi ăn tết Nguyên đán một cái tết quan trọng nhất trong năm đồng thời cũng

là kết thúc một năm lao động sản xuất, mở ra một năm mới. Sau tết ngƣời dân

bắt tay vào cày ải làm nƣơng để trồng ngô, sắn, củ từ. Sang tháng 3 sau tết

thanh minh mƣa xuống đồng bào bắt tay vào làm ruộng và đồng thời xới cỏ

cho ngô, sắn đã đƣợc trồng vào tháng giêng (xem bảng 2, trang 35).

Nông lịch mới chỉ là một phác hoạ những nét lớn trong chu kỳ sản xuất

của một năm, còn biết bao công việc khác mà không thể liệt kê hết đƣợc, mùa

tiếp mùa, cây gối cây hết việc đồng lại việc nhà... Những kinh nghiệm quý

báu nhƣ vậy chỉ có thể là kết quả của một quá trình lao động không ngừng tự

trau rồi tri thức, tự đúc rút kinh nghiệm về thiên nhiên để có thể tồn tại trong

môi trƣờng, hơn thế nữa là hoà điệu với môi trƣờng.

Bảng 2 : Lịch nông nghiệp truyền thống đối với ruộng nước

Tháng Các hoạt động chính (âm lịch)

1 Cày ải, trồng đỗ tƣơng, lạc, đi rừng lấy gỗ, lấy củi

2 Tiếp tục cày ải, trồng củ từ, củ mỡ, sắn, xới lạc, đỗ, thu hoạch

khoai lang vụ đông

3 Xới đỗ, củ mỡ, củ từ, sắn, tiếp tục thu hoạch khoai lang vụ đông

trồng mía, trồng bông, cày bừa ruộng chuẩn bị gieo mạ, trồng cà

4 Thu hoạch lúa chiêm, gieo mạ, bừa ải chuẩn bị cấy mùa, thu

hoạch đỗ, lạc tháng 1, tiếp tục trồng bông, trồng mía, thu hoạch

khoai sọ

5 Cấy mùa sớm, tiếp tục thu hoạch đỗ, lạc tháng 2, thu hoạch cà.

Trồng đỗ tƣơng, ngô, lạc, trồng khoai lang lấy giống dây, tiếp tục

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thu hoạch khoai sọ

35

Tháng Các hoạt động chính (âm lịch)

6 Tiếp tục cấy mùa, bón phân làm cỏ cho ngô, lạc, đỗ, tiếp tục thu

hoạch cà

7 Cấy lúa muộn, làm cỏ bón phân cho lúa sớm, thu hoạch bông, đỗ

tƣơng, ngô và lạc tháng 5, trồng khoai lang lấy củ

8 Làm cỏ, bón phân lúa muộn, gặt lúa sớm (tháng 5), vun luống

khoai lang, tiếp tục thu hoạch bông

9 Gặt lúa, thu hoạch khoai lang vụ đông

10 Thu hoạch lúa muộn (tháng 7), tiếp tục thu hoạch khoai lang vụ

đông, trồng khoai sọ sớm

11 Cày ruộng thụt cấy chiêm, dệt vải, chuẩn bị ăn tết, trồng khoai sọ

muộn.

12 Cấy chiêm ruộng thụt

Nguồn: [54]

Những năm sau này, khi đã định canh, định cƣ, đồng bào Dao làm

ruộng ở vùng thấp. Đó là những bản làng ngƣời Dao cƣ trú xen kẽ cùng ngƣời

Tày, Nùng, Kinh và một số dân tộc thiểu số anh em khác. Ở những vùng đất

này, đồng bào làm ruộng nƣớc và ruộng bậc thang. Ngoài ra, họ còn có những

nƣơng bằng hay nƣơng định canh. Cách thức làm ruộng của ngƣời Dao ở Lục

Nam cũng giống nhƣ các dân tộc khác ở xung quanh họ.

Chọn đất

Đồng bào thƣờng phân đất thành nhiều loại và sử dụng các loại đất đó

vào việc trồng các loại cây giống nhƣ ngƣời Cao Lan. Nếu dựa vào thế đất có

đất bằng và đất dốc. Nhƣng nếu theo chất đất thì có đất đá, đất sét, đất thịt, đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phù sa và đất chua. Còn theo độ cao có đất đồng trũng, đất ruộng cao. Những

36

nơi có đất phù sa mới bồi đắp là những khoảng đất cao, thích hợp với việc

trồng ngô, đậu, khoai lang… Còn loại đất phù sa cổ đƣợc đồng bào Dao canh

tác hai vụ lúa hoặc một vụ lúa, một vụ màu. Đây là loại ruộng bậc thang mà

xƣa kia họ chỉ trồng đƣợc một vụ lúa, nay đã có thể trồng thêm một vụ màu.

Loại đất mùn chiếm một tỷ lệ tƣơng đối lớn, thƣờng đƣợc đồng bào chuyên

trồng lúa, ngô, khoai lang, khoai sọ… Loại đất trên các đồi, núi, có độ dốc

lớn, thích hợp cho tái sinh rừng. Ngoài ra còn có đất đồi, núi, độ cao không

lớn dành cho trồng rừng và các loại cây công nghiệp, cây ăn quả. Đồng bào

thƣờng trồng các loại cây ăn quả nhƣ vải thiều, hồng, xoài, dứa, mía… Hiện

nay đồng bào đều đã trồng đƣợc 2 vụ lúa một năm. Điều đó không chỉ phụ

thuộc vào điều kiện thổ nhƣỡng hay khí hậu thủy văn mà còn phụ thuộc vào

bộ giống lúa của đồng bào hiện nay đã có đủ các giống lúa mới nhƣ 203,

Kháng Mằn, Q5, Bao Thai… Trên cơ sở những loại đất và cách chọn đất nhƣ

vậy, ngƣời Dao ở Lục Nam chia thành các loại ruộng trồng cấy nhƣ sau:

Ruộng lầy thụt là những chân ruộng trong thấp, hẹp. Loại ruộng này lúc

nào cũng có nƣớc nên rất lầy, đất ruộng này rất tốt do nƣớc mƣa rửa trôi từ

đồi bồi tụ lại. Do có nƣớc quanh năm nên đất rất mềm, đồng bào thƣờng cuốc

lật cỏ để ngâm làm phân hoặc cho trâu quần cho nhuyễn rồi cấy. Loại ruộng

này chiếm tỉ lệ diện tích rất ít, đồng bào thƣờng sử dụng vào cấy lúa mỗi năm

2 vụ, phổ biến là cấy lúa nếp. Ruộng lầy thụt có đặc tính dễ bị chua do độ

phèn trong đất cao, để giảm bớt độ phèn trong các chân ruộng này đồng bào

thƣờng bổ xung tro than hoặc rắc vôi bột vào cuối vụ hàng năm.

Ruộng nƣớc - ruộng rộc là những chân ruộng ở các thung lũng rộng

bằng phẳng. Ruộng dùng để cấy lúa nƣớc chủ yếu là lúa tẻ mỗi năm 1 vụ thời

gian còn lại trồng hoa màu.

Ruộng bãi là loại ruộng đƣợc đồng bào đặc biệt quan tâm. Mặc dầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

không có khả năng tích trữ nƣớc, song đất rất tơi xốp và giàu dinh dƣỡng

37

đồng bào trồng xen canh, luân canh nhiều loại cây lƣơng thực, thực phẩm:

ngô, khoai lang, củ từ, củ mỡ, lạc, đỗ tƣơng, sắn, mía…

Ruộng bậc thang là những chân ruộng đƣợc cải tạo từ những nấm đồi

bằng thoải. Ruộng đƣợc cải tạo theo lối giật cấp từ thấp lên cao bao quanh

ven đồi. Ruộng bậc thang có đặc điểm hẹp ngang xong rất dài. Loại ruộng này

thƣờng cấy đƣợc một vụ lúa sớm, vụ còn lại trồng lạc, đỗ tƣơng.

Chọn giống

Trong việc trồng lúa nƣớc, vấn đề chọn và bảo quản giống đƣợc đồng

bào Dao chú trọng và coi đây là một trong những khâu quan trọng, có tính

chất quyết định đến năng suất vụ mùa sau. Lúa nƣớc đƣợc đồng bào Dao

trồng hai loại là nếp và tẻ. Chọn và bảo quản giống lúa đƣợc ngƣời Dao rất

chú trọng, đồng bào coi đây là một trong những khâu quan trọng quyết định

sản lƣợng và chất lƣợng lúa vụ mùa sau. Thƣờng khi lúa đó trổ bông kết hạt,

ngƣời ta chọn trên thửa ruộng mà mình canh tác những khoảnh lúa cho hạt

mẩy, bông dài và chín đều. Khi lúa đƣợc thu hoạch số lúa đƣợc chọn làm

giống này đƣợc cắt riêng, phơi riêng. Sau khi phơi đủ nắng, thóc đƣợc quạt

sạch, sẩy kỹ, bảo quản trong chum chĩnh rất cẩn thận. Các công đoạn xử lý

trên thƣờng đƣợc áp dụng đối với lúa tẻ. Đối với lúa nếp, đồng bào ít khi tách

hạt ra khỏi bông rồi phơi cất nhƣ lúa tẻ, mà vẫn giữ cả bông phơi khô sau đó

bó thành từng bó nhỏ, đem treo trên gác bếp hoặc xà nhà. Kinh nghiệm thực

tế cho thấy, làm nhƣ vậy giống không bị ẩm, mốc và các vi sinh vật phá hoại,

khi xuống giống mầm cây phát triển đều và khỏe. Đến mùa gieo mạ, đồng bào

mới bỏ xuống dùng tay vò từng bó, sau đó sẩy sạch đem ủ để gieo.

Ngƣời Dao ở Lục Nam thƣờng trồng hai vụ ngô. Vụ xuân hè là vụ

chính từ tháng 3 đến tháng 6. Vụ hè thu là vụ chiêm đƣợc trồng vào tháng 6 -

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

7 và thu hoạch vào tháng 9 - 10. Trong hai vụ đó, vụ xuân hè có diện tích gieo

38

trồng rộng hơn. Cũng nhƣ lúa, đối với ngô đồng bào rất chú ý đến khâu chọn

giống. Ngô đƣợc chọn làm giống bắp phải to, hạt mẩy đều, không có sâu

bệnh. Sau khi lựa chọn trong số ngô nhà mình những bắp ngô giống vừa ý,

ngƣời Dao để riêng bóc hết lớp vỏ áo bên ngoài phơi ngoài nắng cho khô, sau

đó buộc 5 - 6 bắp thành từng bó đem treo hoặc gác lên sàn bếp. Số ngô còn lại

sau khi đƣợc phơi khô cũng đƣợc bó thành từng bó cất trong bồ hoặc treo trên

xà nhà. Khi sử dụng đồng bào mới tách hạt ra khỏi bắp.

Chăm sóc: Trong việc chăm sóc lúa, ngƣời Dao đã biết dùng phân để

bón cho các loại cây trồng. Đồng bào thƣờng dùng hai loại phân bón chính là

phân chuồng và phân xanh. Phân chuồng đƣợc vãi đều sau khi đã cày vỡ. Sau

đó ngâm kĩ và bừa ngả trƣớc khi cấy. Khoảng 20 ngày sau, khi lúa ra rễ thì

bón thúc bằng phân xanh. Hiện nay, ngoài dùng phân hữu cơ ngƣời Dao ở

Lục Nam còn dùng các loại phân hóa học nhƣ đạm, kali, lân.

Việc làm cỏ cho lúa nƣớc đƣợc tiến hành hai lần: lần đầu tiến hành sau

khi cấy đƣợc khoảng 20 ngày. Sau 25 - 30 ngày, trƣớc khi lúa làm đòng, sau

khi đó dọn sạch cỏ thì bón thúc bằng phân đạm, kali.

Để bảo vệ lúa và hoa mầu, đối với lúa nƣơng ngƣời Dao phải rào và

canh gác vào các dịp chuẩn bị thu hoạch để phòng thú rừng đến phá hoại.

Ngày nay, do làm ruộng nƣơng ngay cạnh nhà nên họ làm hàng rào xung

quang để ngăn gia súc, gia cầm phá hoại. Hàng rào đƣợc đan bằng phên nứa

với các khung gỗ nhỏ và cột làm giá đỡ. Đến nay, do có những đổi mới trong

biện pháp chăm sóc và bảo vệ thực vật nên đồng bào cũng đó tiến hành phun

thuốc trừ sâu, từ 1 đến 2 lần trong thời gian chăm sóc.

Để dẫn nƣớc vào ruộng, trƣớc kia đồng bào thƣờng dùng thân cây Mai,

đục thủng các đốt thành ống rồi dẫn nƣớc từ khe suối về ruộng. Cho đến nay,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

việc sử dụng thân cây Mai vẫn đƣợc tiến hành ở một vài nơi nhƣng chủ yếu là

39

ở những địa điểm không thể dẫn nƣớc bằng mƣơng. Ngày nay, thân cây Mai

còn đƣợc đồng bào thay thế bằng những ống nhựa, vừa tiện lợi vừa đảm bảo

độ bền. [54]

Đối với ruộng nƣớc, đây là loại ruộng nằm dƣới các thung lũng nhỏ,

vào mùa mƣa trên các đồi, khe đổ xuống tích tụ lại cuốn theo lớp đất màu.

Bởi vậy loại ruộng này rất tốt có thể cấy đƣợc 2 vụ lúa trong năm. Tuy nhiên

do nƣớc tích tụ dài ngày, đấy hay bị chua - có độ phèn cao. Để khắc phục

nhƣợc điểm này hàng năm sau khi cày bừa cuốc bờ cho cỏ ngấu làm phân

đồng bào dùng vôi bột rắc đều trên mặt ruộng. Vôi vừa có tính năng làm giảm

độ phèn trong đất vừa diệt các tổ ấu trùng, sâu bệnh trên ruộng.

Để bổ sung hàm lƣợng chất dinh dƣỡng cho đất, hàng năm ngoài lƣợng

phân chuồng, phân xanh, đồng bào còn tận dụng thân và gốc lúa để tăng

cƣờng độ mùn và khoáng chất. Ngƣời Dao có hai phƣơng pháp sử lý rạ.

Trong vụ mùa cũng nhƣ vụ chiêm đồng bào sử dụng chiếc hái làm công cụ cắt

lúa. Lúa đƣợc cắt lửng lấy bông chứ không lấy cả thân nhƣ phƣơng cách dùng

liềm gặt của ngƣời Việt. Để ý quan sát và tìm hiểu sự khác biệt này nhận thấy

sở dĩ có sự khác biệt nhƣ vậy là bởi hai lý do chính. Thứ nhất, nguyên liệu

dùng trong đun nấu của ngƣời Việt rất khan hiếm do vậy vật liệu nào đốt

đƣợc là tận dụng bằng hết thậm chí có thể dùng cuốc đánh cả gốc rạ đem về

đun. Đối với đồng bào dân tộc thiểu số núi chung, đồng bào dân tộc Dao nói

riêng do cƣ trú ở vùng đồi trung du giáp núi nguồn nguyên liệu đốt rất sẵn- đa

dạng phong phú lại gần sát quanh nơi cƣ trú khai thác dễ dàng hơn, sử dụng

thuận lợi hơn dùng nguồn nguyên liệu rơm, rạ. Thứ hai, do đặc trƣng của địa

vực cƣ trú việc chuyên chở, vận chuyển ở miền núi trung du khó khăn hơn rất

nhiều so với vùng đồng bằng. Để đƣa một gánh rạ từ ruộng về nhà mất nhiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thời gian và công sức hơn so với kiếm một gánh củi quanh nhà. Từ hai lý do

40

này mà rạ đƣợc giữ lại trên các chân ruộng để bổ sung chất dinh dƣỡng cho

đất. Sau khi lúa đƣợc thu hoạch đồng bào để khô rạ rồi đốt sử dụng trực tiếp

nguồn tro bổ sung cho ruộng, vừa làm vệ sinh diệt các tổ ấu trùng, sâu bệnh

trên ruộng. Vụ chiêm, đợi mƣa xuống đồng bào cày úp lật đƣờng cày cho rạ

lật xuống phía dƣới. Để cho rạ ngấu đồng bào mới bừa cấy.

Trên các chân ruộng bậc thang, do không chủ động đƣợc nguồn nƣớc

tƣới tiêu nên năm nào mƣa nhiều đồng bào mới cấy lúa, năm ít mƣa đồng bào

trồng khoai lang, lạc, đỗ… Ruộng bậc thang có đặc điểm độ dốc lớn các chân

ruộng gối nhau chạy từ trên xuống dƣới theo lối giật cấp. Để giảm bớt độ xói

mòn của nƣớc mƣa, theo kinh nghiệm đồng bào thƣờng bố trí các rạch nƣớc

chạy so le từ trên xuống, đồng thời tính toán đặt các rạch nƣớc lửng để điều

tiết và phân phối nƣớc cho các chân ruộng từ trên xuống dƣới đều nhau.

Đối với ruộng bãi ở xung quanh nhà, thƣờng có độ dốc thấp hơn so với

các loại ruộng trên nên đồng bào trồng lạc, vừng, ngô, sắn. Để luân canh

không cho đất nghỉ và bổ sung dinh dƣỡng cho đất đồng bào thƣờng tiến hành

trồng xen các loại hoa màu. Dƣới chân các ruộng bãi đồng bào thƣờng đào

các máng nhỏ hoặc mở rộng thành ao nuôi thả cá. Khi thủy nông chƣa phát

triển đồng bào xem phƣơng cách này là phƣơng pháp tối ƣu nhất để dự trữ

nƣớc tƣới cho cây trồng trên nƣơng. Đồng thời ao là nơi tích tụ chất màu của

đất. Hằng năm vào cuối đông đồng bào lấy bùn dƣới ao lên phơi khô làm

phân (phân bùn) bón cho ruộng nƣơng và bãi.

Canh tác trên những mảnh ruộng, nguồn nƣớc tƣới không chủ động

đƣợc, đồng bào chủ yếu trông chờ vào nguồn nƣớc trời. Lƣợng mƣa đôi khi

quyết định năng suất lúa của vụ mùa đó. Xem mặt trời và các dấu hiệu tự

nhiên khác có thể giúp đồng bào nhận biết trời có mƣa hay không. Vào buổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chiều tối khi mặt trời sắp lặn, nếu thấy những tia sáng chiếu thẳng lên nhƣ

41

những ánh đèn pha là dấu hiệu sẽ có mƣa lớn. Đồng bào còn đúc rút rằng

trông mặt trời lúc sắp lặn có ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mƣa. Các loài vật

trong thiên nhiên cũng có sự cảm ứng thời tiết rất tốt. Các cụ già vẫn thƣờng

bảo con cháu rằng thấy loài kiến tha mồi, tha trứng bò ngƣợc lên cao, hay con

cú, chuồn chuồn bay liệng đầy trời là sắp có mƣa lớn. Biết trời sắp mƣa cây

lúa đƣợc tƣới nƣớc sẽ đơm bông trĩu hạt là đồng bào có thể yên lòng, không

còn thấp thỏm lo cho mùa vụ nữa. Cách nhận biết trời nắng lâu thông qua hai

dấu hiệu: sáng sớm thấy mặt trời ửng đỏ tròn nhƣ lòng đỏ trứng gà nhô cao

quá ngọn núi mà vẫn chƣa phát tán. Trên cây cao ven ao, hồ thấy trứng con

chão chàng (trứng to bằng quả trứng vịt màu trắng, loại này thƣờng đẻ trên

cành cây) đẻ càng gần mặt đất thì trời càng nắng lâu.

Cách nhận biết trời rét dựa vào hai dấu hiệu chính là vào rằm tháng 8

âm lịch trăng tròn ánh sáng phát ra mờ nhƣ có màn sƣơng phủ bao quanh

vầng trăng đục nhƣ nƣớc vo gạo. Đặc điểm này báo hiệu năm nay trời sẽ rét

đậm. Nhạn bay về đồng sớm hơn quy luật hàng năm (vào tháng 9 âm lịch) thì

trời năm đó sẽ rét sớm.

Để nhận biết trời sắp mƣa đồng bào nhận biết qua gia cầm và thực vật.

Nhìn rễ cây đa, cây si thả từ thân, cành xuống nhƣ sợi tơ, đầu múp của rễ

mậm trắng hoặc thấy gà thở há mỏ cánh vừa rộng tìm nằm nơi râm mát.

Nhận biết trời có giông tố, gió lớn, nhìn thấy đàn kiếm tha mồi từ thấp

đến cao, con mối từ gốc, thân cây bay ra từng đàn lớn. Tiếng chim thú trong

rừng gọi nhau không bình thƣờng, gió thổi mang hơi nƣớc có cảm giác mát

lạnh, mây đen kéo tới.

Nhận biết trời sẽ gây lũ lụt: vào buổi hoàng hôn mặt trời lặn vào trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mây phát ra chùm tia sáng đỏ rực (nhƣ đèn ô tô).

42

Nhận biết trời mƣa lụt, mƣa lâu: hang cua ở hồ, ao làm mà lên trên cao

cách mặt nƣớc càng cao thì trời càng mƣa lụt lâu. Trời mƣa dày, mƣa bong

bóng qua giờ Ngọ (11 - 13 giờ). Ngoài hai cách nhận biết này các cụ cao niên

còn nhận biết qua cây cỏ ngoài đồng, hiện đồng bào không nhớ tên chỉ kể lại

rằng: lấy cây cỏ xem đốt của thân cây để từ đó biết trời lụt hay mƣa lâu: cây

càng nhiều đốt thì trời lụt càng lâu, mƣa lâu.

Công cụ lao động

Hiện nay cày của đồng bào là cày chìa vôi làm từ chất liệu gỗ, sắt và

gang. Cày có cấu tạo nhƣ sau: lƣỡi cày làm bằng sắt có dáng cong nhẹ, lƣỡi

có đầu nhọn, sắc, thân lƣỡi dài 35cm. Diệp cày đúc bằng gang, các bộ phận

còn lại đƣợc tạo từ gỗ. Lƣỡi và diệp cày gắn với thân cày nối với bắp cày

bằng gỗ dài 1,6m. Thân cày nối với chằng cày, vai cày, cá cày.

Để làm mịn đất đồng bào dùng tới chiếc bừa (pà), các răng bừa đƣợc

làm bằng tre hoặc gỗ tốt. Tùy theo loại nƣơng mà đồng bào sử dụng bừa ít

răng hay nhiều răng cho phù hợp với địa hình và chất đất. Từ năm 1960 trở lại

đây răng bừa bằng tre đã đƣợc thay thế bằng sắt. [56] Chiếc bừa (pà) mới

đƣợc tạo từ gỗ, tre, sắt theo hình chữ “nhi”, trông bừa giống chiếc đinh ba với

các răng sắc nhọn. Hai tay bừa làm bằng gỗ tròn dài 45cm, nối liền với càng

dƣới của bừa. Càng có chiều dài bằng chiều dài khung bừa là 1,5m. Càng trên

đƣợc làm bằng gỗ gắn chặt vào khung bừa. Trên càng này gắn các răng bừa

bằng sắt dài 30cm, đầu nhọn, sắc. Trƣớc đây ngƣời Dao thƣờng dùng hai trâu

để kéo bừa. Do vậy, tay bừa của họ có ba gọng để buộc dây, gồm 20 - 22

chiếc răng. Gần đây chiếc cày thuộc dạng bừa tay ngang có từ 15 - 22 răng,

chỉ có một trâu kéo.

Để vun đất thành luống ngƣời Dao dùng cào kéo, đƣợc làm bằng gỗ và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tre, thân là một thanh gỗ tròn có đƣờng kính 6 - 7cm dài 0,78m liên kết với

43

một thanh gỗ ngang rộng 0,5m. Trên thân đƣợc đục để lắp các răng tre có

chiều rộng 3,2cm, các răng cách đều nhau 2cm. Để giữ các răng này cho chắc

ngƣời ta dùng thanh tre ngang ghim chặt vào hai răng hai đầu và răng ở giữa

bộ phận này đồng bào gọi là phá lạt. Hai bên đầu thanh ngang đƣợc buộc dây

để khi làm một ngƣời xúc một ngƣời kéo rất nhanh năng suất cao hơn gấp

nhiều lần so với dùng cuốc mà ngƣời lao động đỡ vất vả.

Cào làm cỏ có hai loại là cào chuôi gỗ lƣỡi sắt và cào làm hoàn toàn

bằng sắt. Cào chuôi gỗ lƣỡi sắt thân dài 35cm, trong đó phần chuôi gỗ dài

25cm, đƣờng kính 0,3cm. Còn phần lƣỡi sắt có dạng hình khum (2/3 vòng

tròn), rộng 5-7cm, dầy 0.1cm, đầu nhọn.

Hái cắt lúa nƣớc cũng có hai bộ phận chính là thân và lƣỡi. Thân hái

làm bằng loại gỗ nhẹ và dẻo có tiết diện ngang vừa tay cầm, dài khoảng 35-40

cm. Mỏ hái ngắn hơn thân, có đầu nhọn khoèo móc lúa khi gặt. Còn lƣỡi hái

đƣợc làm bằng thép dạng hình cong nhƣ chiếc liềm có bản rộng từ 1,5 - 2cm,

dài 12 -15 cm, với những răng cƣa một chiều. Đòn sóc là dụng cụ gánh lúa

nƣớc, đƣợc làm bằng gỗ, dài chừng 1,5 - 2m, hai đầu đƣợc đẽo nhọn để khi

sóc vào bó lúa sẽ dễ dàng hơn.

Để có đƣợc cuộc sống nông nghiệp định cƣ ổn định ở vùng đất đồi núi

nhƣ Lục Nam, công tác thủy lợi đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo

nƣớc tƣới tiêu cho hoa màu. Để đƣa nƣớc từ ruộng thấp lên ruộng cao, từ các

ao hồ, đầm vào ruộng đồng bào sử dụng tới gầu tát (tẹo tán) và chiếc khau

vẩy (dựi túi). Do sản xuất đơn lẻ, manh mún, nên việc xây dựng các công

trình thuỷ lợi có quy mô và hệ thống là chƣa thể có. Bởi vậy ngƣời lao động

thƣờng lợi dụng các thung lũng nhỏ hẹp có suối chảy qua đắp, ngăn thành hồ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ao để dự trữ nƣớc cho sản xuất, chủ động phần nào công việc tƣới tiêu.

44

Thu hoạch và bảo quản

Nền sản xuất nông nghiệp luôn phụ thuộc vào tự nhiên, bởi vậy

những tri thức dân gian là vốn quý giúp ích rất nhiều cho những ngƣời

nông dân. Chọn ngày đi gặt cũng giống nhƣ thu hoạch lúa trên nƣơng

nhƣng đối với lúa ruộng nƣớc thì còn phải đảm bảo một yếu tố nữa là lúa

trong ruộng phải chín đều hay ít ra thì phần lớn số lúa trong ruộng đã chín

có thể gặt về. Nếu chín không đều khi cắt phải để lại số chƣa chín để đợi

đến ngày chín mới có thể cắt tiếp, trong qúa trình thu hoạch sẽ va chạm

làm rụng hạt của những bông chƣa chín.

Nếu nhƣ lúa trên nƣơng đồng bào chỉ cắt lấy phần ngọn của bông lúa

mang về thì đối với lúa ruộng nƣớc đồng bào lại cắt lấy cả thân cây mang về.

Vì thân cây sau khi tách hết hạt sẽ có nhiều tác dụng khác nhƣ phơi khô thành

rơm làm thức ăn cho trân bò, rơm cũng có thể đƣợc sử dụng nhƣ một loại

phân xanh khi đã qua quá trình ủ và rơm sẽ đƣợc đốt lấy tro phục vụ cho sản

xuất. Lúa cắt đƣợc bó thành từng bó, mỗi bó nặng từ 15 - 20kg, đồng bào

dùng một dụng cụ gọi là Đòn sóc để gánh về. Khi lúa đƣợc thu hoạch số lúa

đƣợc chọn làm giống này đƣợc cắt riêng, phơi riêng. Sau khi phơi đủ nắng,

thóc đƣợc quạt sạch, sẩy kỹ, bảo quản trong chum chĩnh rất cẩn thận. Các

công đoạn xử lý trên thƣờng đƣợc áp dụng đối với lúa tẻ.

Đối với lúa nếp, đồng bào ít khi tách hạt ra khỏi bông rồi phơi cất nhƣ

lúa tẻ mà vẫn giữ cả bông phơi khô sau đó bó thành từng bó nhỏ đem treo trên

gác bếp hoặc xà nhà. Kinh nghiệm thực tế cho thấy làm nhƣ vậy giống không

bị ẩm, mốc và các vi sinh vật phá hoại, khi xuống giống mầm cây phát triển

đều và khỏe. Đến mùa gieo mạ đồng bào mới bỏ xuống dùng tay vò từng bó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sau đó sẩy sạch đem ủ để gieo. [56]

45

Đối với lúa ruộng, chỉ những bông đƣợc chọn làm giống cho vụ sau

mới đƣợc đồng bào để riêng và gác lên gác bếp. Số còn lại, hạt thóc đƣợc tách

khỏi bông, đem sấy hoặc phơi khô. Cách tách hạt thóc khỏi bông của đồng

bào Dao ở Lục Nam cũng rất đặc biệt, một số ít đồng bào bó lúa thành từng

bó nhỏ và sử dụng dụng cụ gọi là Néo để đập cho hạt thóc rơi ra khỏi bông,

cách làm này tốn nhiều sức lao động mà lại không nhanh. Phần lớn số lúa gặt

về đƣợc đồng bào cho trâu nhầy, đến khi nào không hạt thóc nào còn sót lại

mới thôi. Cách làm này không tốn sức lao động của con ngƣời nhƣng có một

nhƣợc điểm là thời gian trâu nhầy lúa thƣờng kéo dài, trong quá trình cho trâu

nhầy luôn phải theo dõi, điều chỉnh cho trâu làm việc và đôi khi hạt thóc còn

bị vỡ. Sau khi cho trâu nhầy, đồng bào phải rũ lại cho sạch, đảm bảo những

hạt thóc đó đƣợc tách hết khỏi bông. Thóc sau đó đƣợc đem phơi khô, khi khô

dùng quạt tay hoặc quạt hòm để quạt sạch bụi, hạt lép rồi cất vào bồ bảo quản.

Đối với ngô, khi thu hoạch ngô đƣợc để nguyên bắp, phơi khô, bó thành

từng bó cất trong bồ hoặc treo trên xà nhà. Số ngô cần sử dụng đến đồng bào

mới tách hạt ra để bảo quản trong bao hoặc cất trong chum, vại đặt ở nơi khô

ráo, tránh chuột bọ. Ngô chủ yếu đƣợc dùng để chăn nuôi nhƣng cũng có khi là

lƣơng thực lúc giáp hạt hoặc mất mùa.

Sau khi gặt xong, ngƣời Dao Lục Nam cũng tổ chức Tết cơm mới vào

mùng 10 tháng 10 âm lịch. Lễ cúng đƣợc tiến hành ở trong trong nhà để tạ ơn

tổ tiên đã phù hộ cho mùa màng bội thu. Lễ vật gồm nồi cơm mới, rƣợu, thịt

cá, canh rau, vài bông lúa mới. Sau khi đặt lễ vật lên bàn thờ tổ tiên chủ nhà

kể công ơn tổ tiên, cầu mong tổ tiên tiếp tục phù hộ để việc làm ăn ngày càng

gặp nhiều may mắn. Khi tiến hành cúng cơm mới, kiêng không cho ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngoài, kể cả họ hàng vào nhà sợ hồn lúa đi theo sẽ không gặp đƣợc may mắn.

46

2.2.2. Trong chăn nuôi

Ngƣời Dao ở Lục Nam coi trồng trọt là hoạt động kinh tế chủ đạo, là

nguồn sống chính, chăn nuôi cũng nhƣ các hoạt động kinh tế khác chỉ mang tính

bổ trợ. Thực ra đây cũng là đặc điểm chung của nhiều cƣ dân phƣơng Đông,

những chủ nhân của nền “văn minh thực vật”. Đồng bào Dao ở huyện Lục Nam

đã biết sử dụng sức kéo của trâu, bò, ngựa trong sản xuất nông nghiệp nên chăn

nuôi cũng có tác dụng quan trọng trực tiếp đến nông nghiệp trồng trọt. Bên cạnh

đó chăn nuôi còn nhằm cung cấp vật tế lễ cho các cuộc hiến sinh, thỏa mãn nhu

cầu thực phẩm cho sinh hoạt cộng đồng nhƣ ma chay, cƣới hỏi, làm nhà mới…

và bổ sung thêm thực phẩm cho các bữa ăn hằng ngày.

Do cuộc sống định cƣ, định canh từ lâu đồng bào đã sử dụng đại gia

súc vào công việc phục vụ sức kéo trong nông nghiệp. Nhƣ vậy, trƣớc hết

chăn nuôi trâu để cung cấp sức kéo cho nông nghiệp, giải quyết một khâu

quan trọng trong toàn bộ quá trình canh tác. Ngoài ra, lƣợng phân chuồng mà

loại động vật này cung cấp đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển

nông nghiệp. Ngoài việc cung cấp sức kéo cho phát triển nông nghiệp chăn

nuôi còn đóng vai trò to lớn trong chu kỳ đời sống của ngƣời Dao. Con trâu

không thể thiếu đƣợc trong lễ chay của đồng bào. Một đám ăn hỏi, một nghi

lễ cúng có thể là cấp sắc, giải hạn, trừ ma... đều phải có gà, lợn.

Ngoài hai mục đích trên chăn nuôi còn có ý nghĩa là một thứ tài sản.

Đồng bào vào những ngày giáp hạt, những năm không đƣợc mùa đã đem trâu

để đổi lấy ngô, lấy sắn, lấy khoai với tính chất hàng đổi hàng. Nhƣ vậy chăn

nuôi với mục đích trao đổi đã xuất hiện song lại đóng vai trò thứ yếu trong

đời sống của đồng bào.

Chăn nuôi đại gia súc đã xuất hiện từ khá sớm, các loại gia súc nhƣ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trâu, bò, ngựa… đƣợc nuôi tại gia đình và nuôi theo đàn tại những bìa rừng.

47

Những đàn gia súc lớn chủ yếu đƣợc chăn thả một cách tự nhiên. Vào mùa

khô cũng nhƣ mùa mƣa, ban ngày trâu bò đƣợc thả trong rừng, ban đêm thì

dồn về nhốt trong chuồng.

Trong sản xuất nông nghiệp, trâu cày là một phần rất quan trọng. Con

trâu là một tài sản lớn trong mỗi gia đình. Tuy vậy chọn đƣợc con trâu tốt

cũng không đơn giản. Bằng kinh nghiệm thực tiễn, ngƣời Dao ở Lục Nam có

thể xem trâu để chọn trâu cày khoẻ. Một con trâu đẹp là trâu tuyền sắc, cơ thể

phát triển cân đối, móng tròn “chỉ móng con, tròn móng cái” (móng con chỉ

thẳng xuống đất, móng cái nhƣ bát úp chứ không choãi bè ra), đuôi dài không

dính phân mao, cổ ngắn, sừng cân. Ngoài ra trâu phải có khoang khoáy đóng

đúng chỗ. Con trâu có khoáy đóng ở đầu xƣơng vai là con trâu khoẻ, chịu cày.

Khi đi chọn trâu phải tránh những con trâu xấu. Thứ nhất, ngƣời Dao có câu

về trâu nếu "thứ nhất tam tinh, thứ nhì sừng vênh " là trâu bƣớng, phi chủ.

Tam tinh là con trâu có khoáy đóng ở đỉnh trán (phần lông trên đỉnh trán

xoáy vặn lại). Họ coi đó là dấu hiệu của tang tóc, không có lợi cho chủ nuôi.

Thứ hai là tránh trâu sừng vênh là loại trâu rất bƣớng, ƣa đâm, húc dễ gây

nguy hiểm cho chủ. Thứ ba là tránh trâu có mang xà. Mang xà có 2 loại:

mang xà đuôi là phần thân đuôi bị nứt làm đôi, mang xà cổ là ở phần cổ có

một vạch trắng. Về chân tránh con trâu chân chạm khoeo-khi trâu đi 2 chân

chạm vào nhau. Trâu chạm khoeo là trâu yếu không kéo đƣợc cày. Con trâu

"đít trâu - đầu nghé" tức phần đầu nhỏ không tƣơng xứng với phần mông

cũng là trâu xấu.

Khi chọn trâu nái đồng bào cơ bản cũng chọn nhƣ chọn trâu đực song

phải cộng thêm một số yếu tố đặc trƣng sinh sản để có đƣợc con trâu nái

khỏe, tốt giống. Đó là dựa trên những đặc điểm: “mắt ốc nhồi, dạ bình vôi”,

“mồm gầu dai, tai lá mít, đít lồng bàn”. Mông nở, háng rộng, đầu nhỏ, mõm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngắn, răng đều. Phân vú đều, cân đối, cửa mình thâm khép kín.

48

Khác với chăn nuôi gia súc lớn, nuôi lợn và gia cầm không đòi hỏi phải

có sự đầu tƣ lớn, chu kì sinh sản nhanh, dễ thu hồi vốn, phù hợp với điều kiện

của mọi gia đình ngƣời Dao. Vì vậy, đây chính là đối tƣợng chăn nuôi chủ

yếu của đồng bào. Hầu nhƣ gia đình nào cũng nuôi lợn, một số nhà nuôi lợn

nái, đàn lợn với cả chục con lớn nhỏ. Lợn nuôi đƣợc thả rông là chính, chỉ

gần tới các dịp lễ tết mới vỗ béo. Chuồng dùng nuôi lợn cũng rất đơn giản, gia

đình có điều kiện thì chuồng đƣợc xây bằng gạch, đối với phần lớn gia đình

thì chuồng nuôi lợn chỉ là những cây gỗ đƣợc đóng xuống đất và buộc chặt lại

với nhau. Cách chọn lợn: trƣớc kia đồng bào hay nuôi lợn ta, tức là các giống

lợn không qua lai tạo, hiện nay là các loại lợn lai có phẩm chất cao. Chọn lợn

phải có đặc điểm: đầu thanh, đít lồng bàn, tai to mỏng rộng cụp xuống, bụng

to. Mình lợn phải dài, chân cao, nhỏ. Da nhẵn bóng, mõm ngắn, bè rộng là lợn

hay ăn.

Trong các giống gia cầm, gà đƣợc nuôi nhiều nhất, phổ biến nhất. Tại

các bản đến điền dã, gia đình nào cũng nuôi gà với số lƣợng nhiều ít khác

nhau, chủ yếu là các giống gà địa phƣơng, nhỏ con, lâu lớn nhƣng thịt chắc,

thơm ngon. Việc nuôi gà vịt cũng đƣợc tiến hành theo kiểu chăn thả tự nhiên,

ban ngày thả đi kiếm thức ăn, ban đêm nhốt vào chuồng hay nhốt vào những

chiếc lồng và mang treo trên vách nhà để tránh chồn cáo. Ngoài mục đích sử

dụng cho các lễ hiến sinh hay làm thực phẩm, lợn, gà vịt là nguồn hàng hóa

quan trọng để bán lấy tiền mua các loại nhu yếu phẩm khác.

Loại gà giống tốt phải là chân vàng, cao chân; mào đứng, màu đỏ. Gà

trống phải là những con to, chân cao to, cổ dài, tiếng gáy thanh, có hơi ngân

khi gáy, lông thâm, mào cờ, và đặc biệt là không bị vôi chân. Đối với gà mái

phải là những con có lông mƣợt, thân một màu (đen hoặc vàng), chân nhỏ dài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vây, đuôi dài tốt lông, đầu nhỏ, mỏ to quắp. Để có đƣợc những con gà thiến

49

béo mập trong ngày Tết, ngƣời dân ở đây thƣờng nhốt chúng trong lồng chặt,

cho ăn cơm nóng hoặc thóc ngâm trong khoảng thời gian 1,5 - 2 tháng. Gà

nuôi theo phƣơng pháp này rất béo, thịt thơm, xƣơng nhỏ, giòn.

Khác với những tộc ngƣời khác ở Lục Nam, ngƣời Dao thƣờng nuôi

chó săn. Gia đình nào cũng có nuôi 1 - 2 con, gia đình khá giả - kinh tế dƣ dật

họ đàn lớn từ 6 - 10 con. Vào tháng 2 tháng 3 hàng năm các bản thƣờng tổ

chức cho chó đi săn tập thể trong rừng. Con mồi săn đƣợc sẽ chia đều cho cả

phƣờng săn. Chó săn tốt ngoài tiêu chuẩn đốm lƣỡi, tai vểnh nhƣ chó nhà còn

đòi hỏi phải là giống chó to, khoẻ, đuôi dài, móng có huyền đề. Đặc biệt bụng

dƣới phải có lông ôm kín. Theo giải thích của đồng bào chó săn bụng có lông

càng nhiều càng tốt, chó có lông dƣới bụng là chó rất thông minh, nhanh nhẹn

và gan dạ. Chọn chó săn đồng bào ít chọn con có lông khoang hay lông đốm

mà con chó thƣờng chỉ có một màu lông đen, vàng hoặc xám. Theo kinh

nghiệm của đồng bào chó săn thƣờng đƣợc nhốt trong cũi, ăn chế độ riêng,

chó nhốt nhiều khi săn mới dữ, chó đói mới ham mồi săn. Để có một con chó

săn tốt đòi hỏi phải đƣợc huấn luyện công phu ngay từ bé, tập săn những con

mồi nhỏ, đến những con mồi lớn. Sau đó mới ra nhập đàn chó săn trong gia

đình. Tất nhiên chó săn phải là chó đực.

Tại các bản ngƣời Dao Thanh Phán, Thanh Y ở Lục Nam, ngoài chăn

nuôi các loại gia súc, gia cầm, còn có một số gia đình còn nuôi ong. Vì sinh

sống gần rừng nên rất thuận lợi cho ong kiếm mật, nuôi ong không yêu cầu

nhiều vốn lại nhanh cho sản phẩm. Thùng nuôi ong làm bằng gỗ, kích thƣớc

trung bình 60 x 40cm, bên trong đặt các cầu sáp cho ong đổ mật. Số lƣợng

cầu nhiều hay ít phụ thuộc vào số lƣợng ong trong đàn. Dƣới cạnh thùng

khoét 3 lỗ nhỏ cho ong ra vào. Các thùng gỗ đƣợc dặt dƣới các gốc cây râm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mát ngoảnh hƣớng Đông Nam hoặc Tây Nam. Khi số lƣợng ong trong đàn

50

quá đông, ong chúa sẽ sinh thêm chúa mới để chuẩn bị tách đàn. Nhộng ong

chúa dài to, có màu trắng đục. Nếu không muốn tách đàn thì tìm cách diệt

nhộng chúa này đi. Khi đàn ong phân đàn, vỡ tổ, tìm bắt lấy ngay ong chúa

cho vào thùng, úp bát con lại, đàn ong sẽ quay về theo chúa. Thời kì này ong

đƣợc nuôi với số lƣợng chƣa lớn vì chủ yếu để tận dụng nguồn tài nguyên có

sẵn từ rừng, sản phẩm làm ra để phục vụ nhu cầu cuộc sống là chính.

Ngƣời Dao ở Lục Nam hầu nhƣ không có cách thức chăm sóc các vật

nuôi mà chủ yếu là chăn thả tự nhiên. Tuy nhiên, khi các vật nuôi mắc một số

bệnh, ngƣời Dao ở Lục Nam có những bài thuốc chữa cho vật nuôi. Để chữa

cho trâu bị lở loét, dùng lá trầu không vò nát cho vào nƣớc đun sôi để rửa vết

thƣơng, tiếp theo lấy lá trầu không già giã cùng với muối trắng đắp băng lại,

ngày làm 2 - 3 lần, sau 5 - 6 ngày vết thƣơng sẽ khỏi. Đối với trâu bệnh đi ỉa

cũng hay mắc phải, khi mắc phải bệnh này ngƣời Dao ở Lục Nam có kinh

nghiệm lấy lá cây Hốc, giã lấy nƣớc cho trâu uống, sau 2 - 3 ngày bệnh sẽ

khỏi. Đối với gà, bệnh rù là bệnh thƣờng xuyên mắc phải. Khi gà mắc bệnh

rù, ngƣời Dao ở Lục Nam dùng tỏi bóc vỏ, đập dập cho gà ăn. Đây chỉ là một

số bệnh phổ biến mà các vật nuôi hay mắc phải và những kinh nghiệm trên

đƣợc ngƣời Dao ở Lục Nam đúc kết qua nhiều thế hệ. Ngoài chữa bệnh cho

vật nuôi bằng các bài thuốc dân gian, ngƣời Dao ở Lục Nam cũng tin vào các

yếu tố thần linh. Khi vật nuôi mắc bệnh họ cho có ma ám gây bệnh vì thế họ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tổ chức mời thầy cúng, đuổi tà ma cho các vật nuôi.

51

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Tri thức dân gian là hệ thống kiến thức của một dân tộc hoặc một cộng

đồng tại một khu vực cụ thể, nó tồn tại và phát triển trong những hoàn cảnh

nhất định với sự đóng góp của mọi thành viên trong động đồng. Tri thức dân

gian đƣợc hình thành trực tiếp từ lao động sản xuất và sinh hoạt văn hoá, xã

hội của mọi ngƣời dân trong cộng đồng, nó đƣợc hoàn thiện dần từ đời này

sang đời khác và đƣợc lƣu truyền chủ yếu bằng truyền miệng từ đời này sang

đời khác. Qua quá trình nghiên cứu, cho thấy ngƣời Dao Thanh Phán, Thanh

Y ở Lục Nam có vốn tri thức dân gian phong phú, đặc biệt là những tri thức

dân gian trong sản xuất nông nghiệp. Đây là vốn tri thức rất cần thiết cho đời

sống của đồng bào, góp phần tích cực tạo ra nguồn lƣơng thực, thực phẩm

nuôi sống con ngƣời. Hệ thống tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp

của ngƣời Dao ở Lục Nam bao gồm rất nhiều kinh nghiệm từ những đúc kết

về thời vụ gieo trồng; chọn đất; chọn giống; kỹ thuật trồng và chăm sóc cây

trồng, vật nuôi; cách bảo quản giống và sản phẩm sau thu hoạch… Nhiều tri

thức hiện nay vẫn đƣợc áp dụng bên cạnh các biện pháp kỹ thuật hiện đại.

Điều đó chứng tỏ sức sống của hệ thống tri thức bản địa và sự phù hợp cũng

nhƣ tính tích cực của tri thức ấy trong xã hội hiện nay.

Tuy nhiên do các yếu tố nội và ngoại sinh hệ thống tri thức dân gian

của cộng đồng ngƣời Dao ở Lục Nam hiện nay đã có sự biến đổi. Vấn đề đặt

ra là phải xác định đƣợc những nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi của hệ thống

tri thức đó và có hƣớng đƣa ra những giải pháp nhằm phát huy những tích

cực, hạn chế tiến tới loại bỏ những tri thức không còn phù hợp nhằm phát

triển nền kinh tế nông nghiệp bền vững, đảm bảo cuộc sống của ngƣời Dao ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lục Nam.

52

CHƢƠNG 3

SỰ BIẾN ĐỔI CỦA TRI THỨC DÂN GIAN TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA NGƢỜI DAO Ở HUYỆN LỤC NAM TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY

3.1. Những yếu tố tác động đến sự biến đổi của tri thức dân gian trong

sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở Lục Nam

Trƣớc đây, ngƣời Dao nói chung và ngƣời Dao ở huyện Lục Nam nói

riêng chủ yếu sống bằng nƣơng rẫy, lệ thuộc vào tự nhiên. Vì vậy, quá trình

sản xuất nảy sinh nhiều kinh nghiệm quí báu phù hợp với điều kiện của địa

phƣơng song nó cũng làm xuất hiện những tập quán, tín ngƣỡng lạc hậu.

Lƣơng thực sinh sống hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên khiến cho ngƣời dân

rơi vào tình trạng một năm đủ nhiều năm thiếu, cuộc sống thật là khó khăn.

Muốn có cuộc sống no đủ không còn cách nào khác là phải từ bỏ những thói

quen cũ trong sản xuất nhƣng dƣới sự thống trị của thực dân phong kiến cùng

với chiến tranh kéo dài thực hiện đƣợc điều đó là vô cùng khó khăn. Trong

thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đồng bào mới có điều kiện để đổi mới.

Sự đổi mới trong tri thức sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở Lục Nam có

nhiều yếu tố tác động:

Thứ nhất, do chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà

nước đối với các vùng dân tộc thiểu số

Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, mọi chính sách về miền

núi, dân tộc chủ yếu phục vụ mục tiêu đảm bảo khối đại đoàn kết dân tộc.

Hiện nay, khi cả nƣớc bƣớc vào nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã

hội chủ nghĩa, "khoảng cách" giàu và nghèo, giữa miền núi - miền xuôi ngày

càng rộng ra. Nhu cầu bình đẳng trong phát triển gắn liền với quá trình dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chủ hoá trên các lĩnh vực đời sống xã hội của mỗi vùng, mỗi ngƣời ngày

53

càng tăng. Chính vì vậy, yêu cầu bảo vệ môi trƣờng, bảo vệ bản sắc văn hoá

và những giá trị truyền thống cũng tăng lên. Cạnh tranh về các nguồn lực

cho phát triển cũng trở nên gay gắt. Hơn bao giờ hết vấn đề "Bình đẳng,

tương trợ, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc, giữa các vùng miền"

lại càng bức thiết.

Ngày 05/3/2007, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành quyết định số

33/2007/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cƣ

cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007-2010. Chính sách này áp dụng

cho việc thực hiện định canh, định cƣ đối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu

số còn du canh, du cƣ thuộc vùng khó khăn quy định tại quyết định số

30/2007/QĐ-TTg ngày 5/3/207 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc ban hành

danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn. Đối tƣợng đƣợc thụ

hƣởng chính sách là hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cƣ không có đất

sản xuất ổn định thuộc quyền sử dụng của hộ theo quy định; nơi ở không ổn

định, xa điểm dân cƣ, di chuyển chỗ ở theo nơi sản xuất và chƣa đƣợc hƣởng

các chính sách hỗ trợ tƣơng tự của Nhà nƣớc. Mục tiêu chung của chính sách

là nhằm tạo điều kiện cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh, du cƣ có

nơi ở ổn định, có điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần, xoá đói giảm nghèo; góp phần bảo vệ rừng, bảo vệ môi trƣờng sinh

thái và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại các địa phƣơng.

Mục tiêu cụ thể của chính sách là phấn đấu đến năm 2010 hoàn thành cơ bản

việc định canh định cƣ cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh du

cƣ trên phạm vi cả nƣớc; 70% số điểm định canh định cƣ tập trung (thôn, bản)

có đủ các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu, phù hợp quy hoạch; 100% số hộ

đồng bào dân tộc thiểu số du canh du cƣ đƣợc tổ chức định canh định cƣ theo

quy hoạch, có nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nƣớc sinh hoạt, tại các điểm định

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

canh định cƣ không còn hộ đói; mỗi năm giảm 2-3% số hộ nghèo.

54

Cùng với chính sách định canh, định cƣ, công tác di dân xây dựng kinh

tế mới cũng đƣợc đẩy mạnh. Xây dựng các vùng kinh tế mới là chính sách

của Chính phủ nhằm tổ chức, phân bố lại lao động và dân cƣ trong cả nƣớc,

chuyển một khối lƣợng lớn dân cƣ từ các vùng đồng bằng và thành phố tới

các vùng trung du, miền núi, biên giới, hải đảo. Chính sách nhằm sử dụng hết

mọi lực lƣợng lao động xã hội; tổ chức và quản lý tốt lao động, phân bố lại

lao động giữa các vùng và các ngành nhằm tăng rõ rệt năng suất lao động xã

hội; phân bố hợp lý sức sản xuất ở đồng bằng, trung du và miền núi, điều

chỉnh sức ngƣời giữa các vùng, quy hoạch từng bƣớc các vùng kinh tế, thực

hiện sự phân công phối hợp giữa các vùng kinh tế với nhau. Chính sách này

đƣợc triển khai tại miền Bắc từ năm 1961 và trên toàn quốc từ sau khi đất

nƣớc thống nhất cho đến tận năm 1998. Đây là một trong những yếu tố quan

trọng làm thay đổi tri thức sản xuất trong nông nghiệp của ngƣời Dao ở huyện

Lục Nam.

Ngay từ khi Việt Nam giành đƣợc độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã xác định đói nghèo nhƣ là một thứ "giặc", cũng nhƣ giặc dốt, giặc

ngoại xâm, nên đã đƣa ra mục tiêu phấn đấu để nhân dân lao động thoát nạn

bần cùng, làm cho mọi ngƣời có công ăn, việc làm, ấm no và đời sống hạnh

phúc. Giảm đói nghèo không chỉ là một trong những chính sách xã hội cơ

bản, đƣợc Nhà nƣớc đặc biệt quan tâm, mà còn là một bộ phận quan trọng của

mục tiêu phát triển. Chính sách ƣu tiên đầu tƣ phát triển cho kinh tế miền núi

của Đảng và Nhà nƣớc xác định nhƣ một chiến lƣợc cho đồng bào các dân tộc

thiểu số nói chung và dân tộc Dao ở Lục Nam nói riêng. Đói nghèo mang tính

chất vùng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân

tộc ít ngƣời sinh sống, có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Đây là những vùng có điều

kiện sống khó khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

xuất và dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện

55

thiên nhiên khắc nghiệt và thiên tai xảy ra thƣờng xuyên. Mục tiêu tổng quát

trong giai đoạn 2001 - 2010 là cải thiện đáng kể đời sống vật chất, văn hóa và

tinh thần cho nhân dân, tạo nền tảng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hình thành

thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và duy trì

nguồn tài nguyên và văn hóa dân tộc cho thế hệ mai sau. Để đạt đƣợc những

mục tiêu này, cần phải tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động

theo hƣớng nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Mở

rộng và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cƣờng cơ sở hạ tầng kinh tế -

xã hội, cải tiến hệ thống giáo dục, đào tạo để nâng cao chất lƣợng nguồn nhân

lực. Tăng cƣờng các lợi thế cạnh tranh trong các cam kết thƣơng mại song

phƣơng và đa phƣơng nhằm chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Tăng trƣởng

phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trƣờng nhằm tạo thêm

việc làm, cải thiện sức khỏe cộng đồng, xóa đói giảm nghèo và ngăn chặn kịp

thời và có hiệu quả các tệ nạn xã hội. Tăng trƣởng kinh tế sẽ tạo ra nguồn lực

cho xóa đói giảm nghèo, đồng thời phải có các chính sách phân bổ nguồn lực

và chính sách xã hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời nghèo tiếp cận

đƣợc các cơ hội cải thiện cuộc sống của mình, tăng thêm nhận thức và nỗ lực

vƣơn lên tự thoát nghèo. Xóa đói giảm nghèo không đơn giản là việc phân

phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trƣởng tại

chỗ, chủ động tự vƣơn lên thoát nghèo. Đồng thời không đơn thuần là sự trợ

giúp một chiều của tăng trƣởng kinh tế đối với các đối tƣợng có nhiều khó

khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tƣơng đối đồng đều

cho phát triển, tạo thêm một lực lƣợng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn

định cho giai đoạn “cất cánh”. Vấn đề đã đƣợc cụ thể hoá bằng các chƣơng

trình, dự án đƣợc triển khai, đƣợc giám sát và đánh giá thƣờng xuyên. Các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghiên cứu đã lập đƣợc bản đồ phân bố đói nghèo đến từng xã, từng hộ. Với

56

những mục tiêu cơ bản là xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói, đạt phổ cập

giáo dục tiểu học, đảm bảo bền vững môi trƣờng. Nhiều chƣơng trình xóa đói,

giảm nghèo, xây dựng kết cấu hạ tầng, giáo dục, y tế đƣợc thực hiện làm thay

đổi đáng kể tình hình kinh tế ở các xã vùng sâu có ngƣời Dao sinh sống của

huyện Lục Nam.

Đời sống đồng bào Dao ở Lục Nam từng bƣớc thay đổi chuyển mình về

mọi mặt. Song sự chuyển mình mạnh mẽ nhất, sự thay đổi có tính chất nhƣ

một bƣớc ngoặt đối với đồng bào là sau Chỉ thị 10 của Bộ Chính trị về đổi

mới cơ chế khoán trong nông lâm nghiệp ra đời, nó giúp cho ngƣời dân nhận

đất rừng yên tâm đầu tƣ vốn, lao động và kinh doanh rừng. Những diện tích

đất trống đồi trọc đƣợc đƣa vào sử dụng ngày càng tăng, các mô hình nông

lâm kết hợp, các trang trại phổ biến ở nhiều nơi.

Năm 1992 Hiến pháp mới ra đời làm cơ sở cho việc xây dựng Luật đất

đai sửa đổi ngày 14/07/1993. Luật đất đai năm 1993 nhằm đổi mới cơ chế

quản lý đất đai nói chung và ngành nông lâm nghiệp nói riêng đồng thời phổ

biến việc giao đất giao rừng. Tiếp đó là các nghị định: Nghị định 64/CP ngày

27/09/1993 quy định về giao đất nông nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá

nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp; Nghị định

02/CP ban hành ngày 15/01/1995 về việc giao đất lâm nghiệp cho các tổ chức

hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất lâm

nghiệp; Nghị định 01/CP ban hành ngày 04/10/1995 về việc giao khoán đất sử

dụng vào mục đích nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản trong các doanh

nghiệp nhà nƣớc. Các tổ chức hợp tác xã bị giải thể, thay vào đó là kinh tế hộ

gia đình. Gia đình trở thành một đơn vị kinh tế độc lập, kinh tế hộ gia đình đã

kích thích sự chủ động sáng tạo trong sản xuất, nâng cao tính năng động cá

nhân, khắc phục tính ỷ lại phân chia sản xuất theo kiểu bình quân. Đảng bộ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tỉnh Bắc Giang đã tăng cƣờng khai thác tiềm năng, lợi thế, đẩy mạnh phát

57

triển kinh tế - xã hội vùng cao, tập trung đầu tƣ xây dựng, phát triển cơ sở hạ

tầng, đẩy mạnh sản xuất, giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao

thu nhập và mức sống của đồng bào các dân tộc, nâng cao dân trí và phúc lợi

xã hội.

Những năm qua, các cấp uỷ, chính quyền đã tích cực thực hiện các đề

án, kế hoạch đề ra, quan tâm huy động nguồn lực của các thành phần kinh tế,

các lực lƣợng xã hội cho phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Đảng bộ thực

hiện lồng ghép nhiều chƣơng trình, dự án đầu tƣ cho các xã đặc biệt khó khăn

nhƣ Chƣơng trình 135; Dự án phát triển nông thôn tổng hợp giảm nghèo; Dự

án phát triển miền núi gắn với tiêu thụ sản phẩm; các dự án phát triển lâm

nghiệp, định canh định cƣ; các dự án về giáo dục, y tế, văn hóa, phát thanh -

truyền hình; Chƣơng trình đƣa tiến bộ khoa học lên vùng cao; Chƣơng trình

dậy nghề để giải quyết việc làm tại chỗ cho nông dân và thực hiện các chính

sách trợ giá, trợ cƣớc, hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn….

Trong 5 năm, toàn tỉnh đã huy động đƣợc 1242 tỷ đồng vốn đầu tƣ xây dựng

kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gấp 3,1 lần so với dự kiến ban đầu, đã có 46

sở, ban, ngành, doanh nghiệp, đơn vị quân đội trực tiếp giúp đỡ các xã đặc

biệt khó khăn bằng nhiều hình thức thiết thực.

Nhờ đó, kinh tế - xã hội của khu vực miền núi tỉnh Bắc Giang đã có

bƣớc khởi sắc. Giá trị tổng sản phẩm toàn vùng năm 2005 ƣớc đạt 551 tỷ

đồng, tăng 52% so với năm 2000. Trong đó, sản xuất nông, lâm nghiệp chiếm

83%, công nghiệp - xây dựng cơ bản 7%, dịch vụ - thƣơng mại l0%. Cơ cấu

sản xuất nông nghiệp trong vùng bƣớc đầu chuyển dịch theo hƣớng sản xuất

hàng hoá. Tổng diện tích đất canh tác đạt 30,4 nghìn ha, trong đó, cây lƣơng

thực 1l,5 nghìn ha; hình thành vùng cây ăn quả tập trung với diện tích trên 2

vạn ha; chăn nuôi, thuỷ sản đƣợc quan tâm phát triển, sản lƣợng ngành chăn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nuôi năm 2005 ƣớc đạt 5 ngàn tấn, tăng 50% so với năm 2000. Trong đó, đàn

58

lợn tăng 30%, đàn bò tăng 140%, sản lƣợng cá năm 2005 tăng gấp 2,5 lần so

với 2000, vƣợt mục tiêu đề ra. Qua thực hiện chính sách trợ giá, trợ cƣớc đã

hỗ trợ gần 3.000 tấn giống lúa thuần, lúa lai, ngô lai; hơn 1000 lợn giống và

bò giống... Cùng với việc tăng cƣờng công tác khuyến nông, mở rộng áp dụng

kỹ thuật mới trong sản xuất, nên đã góp phần nâng cao đáng kể năng suất, sản

lƣợng một số cây trồng chủ lực. Lâm nghiệp đã từng bƣớc trở thành một nghề

giúp bà con các dân tộc vùng núi ổn định cuộc sống và ngày một gắn bó hơn

với rừng, đã xuất hiện nhiều hộ gia đình làm kinh tế trang trại, kinh doanh

vƣờn, rừng đạt hiệu quả cao. Từ năm 2001 - 2005 đã trồng mới trên 19 nghìn

ha rừng tập trung, đạt 95,7% mục tiêu, tỷ lệ che phủ rừng đạt 39%, tăng 8,2%

so với năm 2000. Một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nhƣ sản xuất vật

liệu xây dựng, chế biến nông, lâm sản, cơ khí sửa chữa, khai thác khoáng sản

đƣợc hình thành và bƣớc đầu phát triển. Hoạt động thƣơng mại - dịch vụ đƣợc

tăng cƣờng, đã đầu tƣ trên 28 tỷ đồng đầu tƣ xây dựng 1l trung tâm cụm - xã,

19 chợ nông thôn vùng cao, với trên 3.000 hộ hoạt động. Thị trƣờng các xã

vùng cao từng bƣớc phong phú hơn, giá cả không có sự chênh lệch lớn so với

vùng xuôi.

Thứ hai, do tác động của kinh tế thị trường

Trong truyền thống, ngƣời Dao ở Lục Nam đã có những trao đổi lâu

đời với các dân tộc anh em trong khu vực cƣ trú và xa hơn, với hình thức trao

đổi hiện vật chủ yếu là đổi trâu lấy lúa, ngô, sắn, hoặc đổi sắn lấy giầy, dép,

mắm, muối… Sau đó, ngƣời Dao ở Lục Nam biết đem tới chợ bán lấy tiền

mua sắm quần áo và đồ dùng sinh hoạt trong gia đình, từ cái kim, sợi chỉ đến

lƣỡi cày, hái, liềm. Việc trao đổi, mua bán theo kiểu này bắt đầu diễn ra sôi

động khi cây trồng hàng hóa xuất hiện trong đời sống kinh tế của đồng bào.

Những chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế nông nghiệp đã tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

động lớn tới sự chuyển biến trong nhận thức về kinh tế thị trƣờng của ngƣời

59

Dao ở Lục Nam và ngƣợc lại. Từ vấn đề tính toán về đầu tƣ, đầu vào, đầu ra

đến nắm bắt tình hình giá cả, về việc vay và trả nợ lãi Nhà nƣớc là những biểu

hiện rất mới mà từ trƣớc tới nay chƣa hề có trong đời sống kinh tế truyền

thống của đồng bào dân tộc Dao ở Bắc Giang nói chung và ở các bản thuộc

Lục Nam nói riêng. Trong gia đình ngƣời Dao, các thành viên trẻ là những

ngƣời đóng vai trò đi tiên phong trong việc tiếp cận các nguồn thông tin mới

về giá cả thị trƣờng, về vay vốn, những thông tin về mùa vụ trong thời gian

tới để từ đó có thể chọn lựa hƣớng đi có tính khả thi nhất cho vụ mùa.

Với mạng lƣới điện đƣợc phủ sóng từ năm 1998 trên toàn xã, máy cày,

máy kéo, máy bơm nƣớc đã xuất hiện trên các cánh đồng, trên đƣờng làng và

trong các thôn bản. Các thiết bị thông tin truyền thông, phƣơng tiện hiện đại

đƣợc ngƣời dân bỏ tiền mua trong những gần đây. Nhờ có phƣơng tiện cơ

giới ngƣời Dao nhất là những ngƣời đàn ông đã mở rộng và tăng tần xuất di

chuyển của mình đặc biệt là có điều kiện tìm hiểu tiếp cận nguồn thông tin

nhanh nhạy, trực tiếp và đa dạng hơn, cũng nhƣ có thể mang nông phẩm đến

những đại lý lớn bán với giá cao nhất mà không bị ép giá bán qua khâu trung

gian mua tại vƣờn. Nhờ đi lại thƣờng xuyên ngƣời Dao ở Lục Nam ngày càng

nắm vững giá cả các mặt hàng, sự biến động lên xuống, nên có thể tham gia

kiểm soát kịp thời các hoạt động trao đổi mua bán. Cùng với chiếc xe máy -

phƣơng tiện đi lại mở rộng quan hệ tiếp cận nguồn thông tin cũng phải kể đến

các vật dụng nhƣ đài, vô tuyến trong việc nâng cao chất lƣợng cuộc sống của

ngƣời dân, mở rộng tri thức trƣớc hết là tri thức nông nghiệp.

Thứ ba, do chuyển biến trong nhận thức của người Dao

Từ chỗ tự cung tự cấp ngƣời Dao ở Lục Nam nhận thấy cần thiết phải

thay đổi cây trồng, vật nuôi theo hƣớng sản xuất hàng hóa. Cán bộ khuyến

nông đƣợc đƣa về tận thôn bản, các lớp tập huấn về kĩ thuật trồng trọt và chăn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nuôi mới đƣợc phổ biến rộng rãi. Thêm và dó là các dự án cây trồng hiệu quả

60

phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai của địa phƣơng đã đƣợc triển khai. Đã

xuất hiện cây trồng hàng hóa, những nội dung mới trong sử dụng sản phẩm

chăn nuôi, đặc biệt hơn là sự gia tăng và biến đổi về chất của những hoạt động

trao đổi mua bán. Những đổi thay bƣớc đầu này cũng đƣợc biểu hiện ở sự

chuyển biến trong tƣ duy của ngƣời dân từ việc nhận thức vai trò của những

sản phẩm hàng hóa, tiền tệ đến nhận thức về sự cần thiết phải đa dạng hóa cây

trồng, phát triển cây trồng hàng hóa, tận dụng tối đa thời gian và nhân lực để

lao động cải thiện đời sống. Những thay đổi trên thực tế và trong nhận thức

của ngƣời dân nhƣ báo hiệu của sự chuyển đổi trong toàn bộ cơ cấu kinh tế.

Từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa, đa dạng hóa cây

trồng hàng hóa hƣớng vào nền kinh tế thị trƣờng. Sự chuyển biến này đã đem

lại những thành quả đáng ghi nhận. Với sự tham gia ngày càng nhiều của

đồng tiền mặt, mức sống của các gia đình ngày một đƣợc cải thiện hơn trƣớc.

3.2. Quá trình biến đổi của tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp

của ngƣời Dao ở Lục Nam

3.2.1. Chuyển hẳn từ nương rẫy sang trồng lúa nước

Cùng với chính sách giao đất, giao rừng đến tay ngƣời lao động, vấn đề

thủy lợi hóa và điện khí hóa đã đƣợc củng cố một bƣớc. Nguồn điện sáng

quốc gia đã đƣợc thắp sáng trên các bản làng đồng bào dân tộc. Mƣơng máng

dẫn nƣớc chảy trên các cánh đồng, các chân ruộng chuyển từ cấy một vụ

không ăn chắc trƣớc đây sang cấy một năm hai vụ lúa, xen vụ màu đông. Trên

các chân ruộng cao và nƣơng đồi các tập đoàn cây ăn quả: vải, na, hồng, dứa

đang đƣợc đƣa vào trồng thử nghiệm bƣớc đầu cho hiệu quả kinh tế cao. Hiện

nay, diện tích rừng già ngày càng bị thu hẹp, mặt khác nhà nƣớc cũng có

nhiều biện pháp tăng cƣờng quản lý rừng và giúp đỡ đồng bào định canh định

cƣ nên việc khai phá rừng làm nƣơng là hoàn toàn không còn đối với đồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bào ngƣời Dao ở huyện Lục Nam. Các giống lúa truyền thống của ngƣời Dao

61

ở Lục Nam bị mất dần do đồng bào bỏ không làm nƣơng nữa. Thay vào đó là

các giống lúa nƣớc mới ít bị sâu bệnh, đỡ phải chăm bón mà lại cho năng suất

cao nhƣ các giống lúa Mộc tuyền, Bao thai, Nông nghiệp 8, Khang ƣu và các

giống mới nhƣ 203, VN18, VN10…

Nếu nhƣ trƣớc đây lúa đƣợc canh tác trên 4 loại ruộng thì hiện nay lúa

chỉ còn đƣợc canh tác trên 2 loại ruộng: ruộng rộc và ruộng bậc thang. Mặc

dầu diện tích trồng lúa thu hẹp song năng suất và sản lƣợng cao hơn rất nhiều

so với trƣớc đây. Sản lƣợng lúa thu hoạch một năm hai vụ ổn định đáp ứng

nhu cầu lƣơng thực cho ngƣời dân. Thực tiễn qua các cuộc điền dã cho thấy

đồng bào Dao không còn bị đói hay ăn độn nhƣ trƣớc nữa.

Ngoài hai vụ lúa chiêm và mùa, ngô, lạc, đỗ, khoai lang… đƣợc

trồng xen trong vụ đông hàng năm. Cũng nhƣ lúa các cây hoa màu trƣớc

đây đã đƣợc thay thế bằng các giống mới cho thời gian sinh trƣởng ngắn

hơn mà năng suất vẫn cao hơn trƣớc. Giống ngô hiện nay đồng bào trồng

phổ biến là giống ngô lai DK999 cho năng suất trung bình 250kg/sào.

Trƣớc đây đồng bào gieo hạt, nay để bảo đảm cây trồng đồng bào đánh bùn

dƣới ao lên vƣờn phơi khô, đánh tơi tra hạt, khi cây cao chừng 15 - 20cm

mới đánh ra ruộng trồng. Sản lƣợng ngô, khoai đông đóng vai trò rất lớn

trong đầu tƣ phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm. Cùng ngô và khoai lang

đồng bào còn trồng xen canh xu hào, bắp cải, các loại đỗ cung cấp thực

phẩm cho sinh hoạt hàng ngày.

3.2.2 Từ độc canh cây lúa chuyển sang đa dạng hóa cây trồng, chú trọng

đầu tư phát triển cây trồng hàng hóa

Sự biến đổi trong cơ cấu cây trồng kéo theo sự phân bố và sắp xếp lại

chu kỳ sản xuất trong năm, một số cây truyền thống trƣớc đây nay không còn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phù hợp trong điều kiện và bối cảnh một nền kinh tế mới đƣợc thay thế bằng

62

những giống cây khác mang lại hiệu quả và giá trị kinh tế cao hơn. Quá trình

chuyển dịch cơ cấu cây trồng này đƣợc thể hiện rất rõ trong bảng lịch nông nghiệp

hiện nay.

Bảng 3: Lịch nông nghiệp hiện nay của người Dao ở Lục Nam

Tháng Các hoạt động chính (âm lịch)

1 Gieo mạ cấy chiêm, thu hoạch ngô đông

Trồng ngô xuân, lạc mùa, đỗ xanh, đỗ tƣơng, cấy chiêm, thu 2 hoạch cà, tỉa lúa, làm cỏ lúa.

Tỉa lúa, xới cỏ vải, tƣới vải, hồng, na. Hun luống ngô, đỗ, lạc, 3 thu hoạch cà.

Gieo mạ cấy mùa, tƣới vải, hồng, na, tiếp tục thu hoạch cà, làm 4 cỏ vƣờn, cày ải, bừa ngả ruộng màu.

5 Thu hoạch lúa chiêm, lạc, ngô, đỗ và bắt đầu thu hoạch vải.

6 Cấy mùa, tiếp tục thu hoạch vải, thu hoạch dứa.

7 Làm vƣờn tỉa cành, bón gốc vải, tỉa lúa trên ruộng – làm cỏ mùa.

8 Thu hoạch hồng, trồng khoai lang vụ đông.

9 Thu hoạch lúa mùa, trồng ngô đông, làm cỏ vƣờn.

10 Xới ngô, khoai lang đông, làm vƣờn, trồng cà, cày ải ruộng.

Làm cỏ ngô, bón phân cho ngô, chăm sóc vƣờn cây, tiếp tục 11 trồng cà, bừa ải, cày ải.

12 Cày ải chuẩn bị cấy chiêm, bón phân gốc vải. Chuẩn bị ăn Tết.

Nguồn: [54]

Trƣớc đây do thiếu nƣớc các chân ruộng phần lớn chỉ đƣợc cấy một vụ,

thậm chí một vụ còn không ăn chắc, năng suất bấp bênh trung bình một sào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thu đƣợc 3 - 5 gánh thóc tƣơng đƣơng với 50 - 75kg thóc. Hiện nay các công

63

trình thuỷ lợi đã đƣợc cải tạo một bƣớc đƣa nƣớc tƣới tiêu về từng làng bản,

bà con đã chủ động đƣợc nguồn nƣớc tƣới tiêu, mỗi năm cấy hai vụ: vụ chiêm

và vụ mùa xen vụ đông hoa màu. Những giống lúa năng suất thấp trƣớc đây

đã đƣợc thay thế hoàn toàn bằng các giống lúa lai: CR 203; khang dân, hai

dòng cho năng suất từ 175 - 200kg thóc/sào.

Cùng với phƣơng pháp truyền thống về xử lý đất, bón phân chăm sóc

cây trồng… đồng bào Dao bƣớc đầu áp dụng thử nghiệm các phƣơng pháp

khoa học mới vào trong sản xuất. Nếu nhƣ trƣớc đây đồng bào gieo mạ trên

các chân ruộng cao sau 30 - 40 ngày mới đƣợc nhổ cấy thì hiện nay phần lớn

đồng bào áp dụng phƣơng pháp gieo thẳng và dùng thuốc trừ cỏ. Kỹ thuật

canh tác mới này rút ngắn đƣợc một khâu trong phƣơng pháp sản xuất truyền

thống của đồng bào, giảm thời gian lao động đáng kể mà năng suất cây trồng

nâng cao. Các loại phân hóa học: phân đạm, phân lân, ka li, thuốc trừ sâu…

đang đƣợc bà con đƣa vào sử dụng thử nghiệm trên các cánh đồng góp phần

bảo vệ đất, nâng cao sản lƣợng cây trồng rõ rệt.

Quá trình cơ giới hóa trong nông nghiệp từng bƣớc thay thế sức lao

động của con ngƣời. Chiếc máy kéo, máy cày xuất hiện ngày một nhiều trên

các cánh đồng, giảm thiểu khâu lao động nặng nhọc nhất của nhà nông. Trong

làng bản máy xay xát gạo, máy tuốt lúa thay thế hoàn toàn các phƣơng pháp

lao động thủ công giản đơn trƣớc đây. Trong sản xuất nông nghiệp hiện nay

phần lớn máy móc đã thay thế cho đôi tay ngƣời lao động. Con ngƣời đƣợc

giải phóng đôi tay để dành công sức và thời gian đầu tƣ vào những công việc

khác đem lại lợi ích kinh tế cao hơn.

Ngoài bãi, trên ruộng cao - ruộng bậc thang và trên nƣơng trƣớc chủ

yếu để trồng cây thực phẩm, và cây lấy bột: sắn, ngô nay trên các chân ruộng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

này đồng bào Dao ở Lục Nam từng bƣớc thay thế bằng những cây ăn quả, cây

64

trồng hàng hoá: hồng, vải, na, dứa vv… mang lại hiệu quả kinh tế cao, đặc

biệt là cây vải thiều. Đồng bào Dao coi cây vải thiều là cây xóa đói giảm

nghèo, ngƣời dân coi việc trồng vải là một cách làm giàu.

Giống vải phổ biến đƣợc trồng là giống: U Hồng, Thanh Hà, trong đó

giống Thanh Hà đƣợc trồng phổ biến hơn, vải chín mang màu đỏ tƣơi, hạt

nhỏ, cùi dầy. Vải đƣợc nhân giống bằng phƣơng pháp chiết cành. Cây đƣợc

lựa chọn để triết cành là những cây khỏe mạnh có tuổi từ 6 - 15 tuổi, quả to

đều và ngon cho năng suất cao ổn định. Cành đƣợc chọn để chiết là những

cành bánh tẻ có 2 - 3 trạc tán phát triển tốt, sạch sâu bệnh. Đƣờng kính cành

từ 1,5 - 2 cm.

Đồng bào Dao thƣờng chiết cành vào hai vụ : xuân hè và thu đông. Vụ

xuân hè, tiến hành chiết cành trong tháng 4, trồng vào tháng 8, tháng 9. Vụ

thu đông, chiết cành vào đầu tháng 10 hàng năm và trồng vào mùa xuân năm

sau. Trƣớc khi cành chiết đƣợc cắt khỏi cây đƣa xuống hố trồng đƣợc giâm từ

8 - 10 ngày trong bùn trộn lẫn rơm chặt nhỏ để kích thích sự sinh trƣởng và

làm quen với môi trƣờng mới của rễ.

Vải là cây ăn quả có khả năng chịu hạn rất tốt, đặc biệt rất thích hợp

với đất feralít vàng đỏ. Các chân ruộng bậc thang, các nƣơng đồi là điều kiện

lý tƣởng cho cây vải phát triển. Hố trồng vải trên loại đất này rất to và sâu, rộng 1,5m2 - 2m2, sâu 0,6m - 0,8m. Vải đƣợc trồng bố trí theo đƣờng đồng

nƣớc, dọc các đƣờng đồng nƣớc đƣợc trồng xen dứa vừa tiết kiệm đất, vừa

chống sự rửa trôi. Trong 5 năm trở lại đây cây vải bắt đầu đƣợc trồng đại trà

trên các bãi. Đất bãi là loại đất thịt nhẹ cát pha, đất có đặc điểm hút và thấm

nƣớc nhanh, mƣa mau úng, nắng mau khô. Vải đƣợc trồng trên loại đất này

hố đƣợc đào thƣờng rất to và sâu. Sau đó lấp đất trộn cùng phân hữu cơ trở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lại. Đặt bầu đất ngang với nền đất cũ sau đó đắp cao vƣợt hơn so với bề mặt

65

nền cũ 40 - 60cm. Vào mùa mƣa để cho nƣớc thoát nhanh đồng bào thƣờng

đào các rãnh thoát nhỏ xen cùng hàng vải. Trong 2 - 3 năm đầu khi cây vải

chƣa phủ tán đồng bào Dao tận dụng trồng xen các loại ngô, lạc, đỗ, vừng

cùng một số loại rau ăn. Sau 3 - 4 năm cây vải bắt đầu cho thu hoạch ổn định.

Nhƣ vậy, có thể nhận thấy sự xuất hiện của cây ăn quả - cây trồng hàng

hóa. Hay nói đúng hơn sự xuất hiện vai trò hàng hóa của cây trồng đã bƣớc

đầu làm thay đổi nền kinh tế truyền thống khép kín tự cung tự cấp của dân tộc

Dao ở Lục Nam. Hơn nữa sự xuất hiện của tập đoàn cây trồng hàng hóa còn

làm thay đổi tƣ duy truyền thống của ngƣời Dao với việc nhận thức rõ về

nguồn thu nhập cải thiện nâng cao đời sống.

Cùng với cây vải thiều, hồng đang trở thành mối quan tâm của đồng

bào. Cây hồng xƣa đƣợc các gia đình trồng nhiều trong vƣờn nhà cho trẻ ăn,

trong tƣ duy truyền thống chƣa bao giờ cây hồng đƣợc coi là cây trồng hàng

hóa. Ngƣời dân trồng ba loại hồng chủ yếu: hồng Thái, hồng Thạch Thất và

hồng Nhân Hậu. Trong ba loại hồng trên hồng nhân hậu đƣợc trồng phổ biến

hơn cả bởi năng suất cao hơn và cho thu hoạch sớm hơn. Song không phải hộ

gia đình nào cũng có thể trồng đƣợc hồng mang tính phổ biến nhƣ cây vải. Ở

đây không phải hồng là loại cây khó trồng mà giống mua ban đầu giá rất cao.

Vào thời điểm những năm 1996 - 1997 giá một gốc hồng mua đƣợc 4 - 5 gốc

vải. Bởi vậy, mặc dù giá trị kinh tế của hồng Nhân hậu mang lại hiệu quả cao

hơn xong với giá thành cao rất ít hộ gia đình có đủ điều kiện kinh tế để tiếp

cận cây trồng hàng hóa đầy triển vọng này. Hồng đƣợc trồng bằng phƣơng

pháp ƣơm rễ. Hàng năm vào tháng 8 sau khi thu hoạch quả đồng bào tiến

hành bới gốc cắt rễ. Rễ đƣợc chọn lựa là những rễ thuộc nhóm rễ phụ của cây

có độ tuổi 2 năm trở lên, đƣờng kính rễ tối thiểu 1,2cm. Rễ đƣợc cắt thành

từng đoạn nhỏ có chiều dài 0,20m - 0,25m, mỗi rễ đƣợc ƣơm trong từng giỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhỏ đƣợc đan bằng tre để nơi dâm mát. Khi rễ đã nẩy lộc bà con tiến hành đào

66

hố sâu 0,5m, rộng 0,6m, đợi khi có mƣa xuân đồng bào đƣa xuống trồng. Sau

3 - 4 năm hồng nhân hậu bắt đầu cho thu hoạch.

Trong kinh tế truyền thống trƣớc đây dân tộc Dao ở Lục Nam cũng đã

trồng dứa ở bãi và trên nƣơng đồi nhƣng số ngƣời trồng không nhiều. Dứa

đƣợc trồng để làm hàng rào ngăn cách ruộng giữa hai nhà và cũng là để giữ

đất hạn chế sự rửa trôi của nƣớc. Xuất phát từ mục đích nhƣ vậy mà cây dứa

ít đƣợc quan tâm chăm sóc. Phải đến khi nền kinh tế thị trƣờng phát triển

những cây dứa quen thuộc trong vƣờn nhà trƣớc đây mới thực sự đƣợc quan

tâm chăm sóc bởi lợi ích kinh tế mà nó đem lại không nhỏ. Đồng bào trồng

chủ yếu giống dứa Phú Thọ, giống này quả nhỏ xong rất ngọt đƣợc thị trƣờng

ƣa chuộng. Dứa đƣợc trồng xen với vải và hồng để giữ độ ẩm và chống sự rửa

trôi cho đất mà chất lƣợng, năng suất rất cao. Trong một hai năm gần đây bà

con đƣợc cán bộ nông nghiệp của tỉnh và huyện về phổ biến giống dứa lai

mới cho năng suất cao hơn rất nhiều giống dứa nội truyền thống trƣớc đây.

Đƣợc Nhà nƣớc hỗ trợ vốn và giống, rất nhiều hộ bắt đầu trồng thử nghiệm

loại dứa mới này với hy vọng mang lại hiệu quả và giá trị kinh tế cao hơn.

Nhƣ vậy, trong những năm gần đây nhu cầu chuyển đổi cơ cấu cây

trồng không còn là chỉ thị, chủ trƣơng chuyển hƣớng phát triển kinh tế của

Nhà nƣớc ta nói chung, tỉnh Bắc Giang nói riêng, hay chỉ dừng lại ở các cấp

chính quyền, các đoàn thể, hiệp hội mà nhu cầu này thực sự đã trở thành tự

giác trong phƣơng hƣớng phát triển kinh tế của ngƣời Dao ở Lục Nan. Sự

chuyển đổi cơ cấu cây trồng tiếp tục đi nhanh hơn trong hai, ba năm trở lại

đây với việc hỗ trợ vốn của Nhà nƣớc cho các hộ gia đình tạo điều kiện đầu tƣ

vào mở rộng diện tích, đa dạng hóa cây trồng.

3.2.3 Chăn nuôi theo xu hướng thị trường

Cùng với sự đổi mới trong trồng trọt, ngành chăn nuôi đang từng bƣớc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vƣơn lên tạo sự chuyển biến toàn diện trong nông nghiệp. Nếu nhƣ trong chăn

67

nuôi truyền thống, đại gia súc nhƣ trâu, bò đƣợc quan tâm phát triển hơn, gia

cầm, thì trong điều kiện kinh tế mới gia cầm không ngừng vƣơn lên về số

lƣợng. Nhìn một cách tổng quan, xét đến cùng cũng là phù hợp với logic

trong sự phát triển kinh tế ở đây. Trong kinh tế truyền thống trẻ nhỏ đƣợc xem

là đối tƣợng duy nhất đảm trách việc chăn thả trâu thì nay chúng phải cắp

sách tới trƣờng. Những bãi cỏ, những nấm đồi hoang trƣớc đây đƣợc dùng

vào việc chăn thả đại gia súc nay đã đƣợc phủ kín cây ăn quả. Những chân

ruộng trƣớc đây cấy một vụ, vụ còn lại bỏ hoang cho chăn thả trâu nay những

chân ruộng này đã cấy đƣợc hai vụ xen một vụ màu đông, luân canh, xen

canh không cho đất nghỉ, đất bây giờ là “thước đất thước vàng”. Bởi lý do

trên mà địa bàn chăn thả đại gia súc ngày một thu hẹp, yếu tố này tác động

trực tiếp đến sự phát triển đại gia súc. Hơn nữa khi khoa học kỹ thuật đƣợc

đƣa vào trong sản xuất nông nghiệp, các máy móc thay thế dần sức kéo của

trâu thuận lợi hơn, năng suất cao hơn. Phong trào xây dựng làng bản văn hóa

ở Bắc Giang đã đƣợc triển khai sâu rộng tới từng làng bản, từng hộ gia đình

tạo nên phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa mới. Những phong

tục lạc hậu, mê tín dị đoan bị đẩy lùi, trong lễ cúng của đồng bào Dao hiện

nay không nhất thiết phải có trâu nhƣ trƣớc. Từ tất cả các điều kiện chủ quan

cũng nhƣ khách quan kể trên đã hạn chế và thu hẹp dần số lƣợng đàn trâu.

Khi đời sống vật chất đƣợc cải thiện, đồng bào đã có vốn, lúc này

ngƣời dân mới có nguồn lƣơng thực dƣ thừa để đầu tƣ vào phát triển tiểu gia

súc, gia cầm trong đó lợn và gà đƣợc nuôi phổ biến. Các giống lợn, gà mới có

thời gian sinh trƣởng ngắn, sản lƣợng, chất lƣợng cao đã dần thay thế các

giống lợn, gà sản lƣợng thấp trƣớc đây. Cùng với sự thay đổi về giống là sự

thay đổi về cơ cấu thành phần thức ăn trong chăn nuôi. Hiện đồng bào đang

áp dụng công thức chăn nuôi theo khoa học tăng hàm lƣợng dinh dƣỡng trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khẩu phần thức ăn bằng các loại cám tổng hợp do sản xuất công nghiệp dƣới

68

sự hƣớng dẫn của cán bộ khuyến nông. Trong kinh tế truyền thống trƣớc đây

do điều kiện kinh tế khó khăn mỗi hộ gia đình chỉ nuôi từ 1 đến 2 con lợn sau

9 - 10 tháng mới xuất chuồng, chăn nuôi chỉ dừng lại ở mục đích phục vụ các

đám lễ mà chƣa đƣợc mua bán. Nay với phƣơng pháp chăn nuôi tiên tiến khoa

học mỗi lứa lợn đồng bào chỉ cần nuôi 3,5 đến 4 tháng là thịt đƣợc. Nhƣ vậy

chăn nuôi hiện nay giảm đƣợc 1/2 khoảng thời gian so với chăn nuôi trƣớc

đây. Mỗi hộ gia đình nuôi trung bình 4 - 6 con, cá biệt có gia đình nuôi hơn

20 con, mỗi năm chăn nuôi đem lại nguồn thu từ 3 đến 5 triệu đồng, đóng góp

một phần đáng kể cho chi tiêu của mỗi hộ gia đình.

Nghề nuôi ong: Nuôi ong ở ngƣời Dao đã có từ lâu đời. Xƣa đồng bào

thƣờng tận dụng các hốc cây trong vƣờn nhà để nuôi ong lấy mật, phƣơng

pháp nuôi này còn mang tính tự nhiên do vậy số mật thu đƣợc hàng năm

không nhiều. Sản phẩm thu đƣợc mới chỉ đủ cho gia đình dùng, mật ong chƣa

đƣợc đem trao đổi mua bán để đem về nguồn tiền mặt phục vụ cho sinh hoạt

gia đình. Những năm gần đây nuôi ong lấy mật phát triển rất mạnh đang dần

trở thành một nghề mới đem lại hiệu quả và giá trị kinh tế cao.

Cùng với sự tăng nhanh về diện tích cây ăn quả là sự nở rộ về số lƣợng

đàn ong. Hiện đồng bào nuôi hai giống ong: ong trong nƣớc và ong nhập từ

nƣớc ngoài. Giống ong trong nƣớc là giống ong đƣợc thuần dƣỡng từ giống

ong mật rừng trƣớc đây, so với ong nhập ngoại, ong trong nƣớc có đặc điểm

nhỏ hơn, ít tiêu tốn thức ăn, chúng rất chịu khó đi lấy mật hoa. Song giống

ong này có nhƣợc điểm là hay đốt, tổ nhỏ, hay bỏ tổ, vào mùa hoa đại trà cho

sản lƣợng mật ít hơn ong ngoại. Giống ong nhập từ nƣớc ngoài, chủ yếu là

ong đƣợc ngƣời dân đƣa vào nuôi thử nghiệm trong 5 năm gần đây. So với

ong trong nƣớc, giống ong ngoại có đặc điểm là con ong to, tiêu thụ thức ăn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhiều, không chịu khó kiếm mật hoa nhƣ ong nội, nhƣng khi vụ hoa đại trà thì

69

cho sản lƣợng mật lớn hơn nhiều lần so với ong nội. Chính tính ƣu việt này

mà số đàn ong ngoại ngày càng đƣợc nhân rộng phổ biến.

Ong đƣợc nuôi trong các thùng bằng chất liệu gỗ, theo giải thích của

đồng bào Dao chất liệu gỗ giữ ẩm tốt hơn và không nóng nhƣ các chất liệu

khác. Thùng gỗ đƣợc đóng với kích cỡ phổ biến cao 50cm – 60cm, rộng 48 –

50cm. Mỗi thùng có từ 4 - 8 cầu ong đối với ong nội và từ 8 - 15 cầu ong đối

với ong ngoại. Cầu ong đƣợc đóng bằng gỗ, thành khuôn có kích cỡ 40cm x

25cm. Dìa phía dƣới thành thùng ong đƣợc trổ 4 - 6 lỗ nhỏ cho ong ra vào.

Hàng năm từ tháng 2 đến tháng 4 là thời điểm hoa vải, nhãn và bạch

đàn nở rộ, đây là thời điểm thu mật chính trong năm. Từ 5 đến 7 ngày đồng

bào thu mật một lần bằng cách kiểm tra cầu ong thấy mọi ổ mật đó vớt nắp

2/3 thì có thể thu mật. Khi các cầu ong đã chứa đầy mật, ong đƣợc rũ ra khỏi

cầu, cầu đƣợc đƣa vào thùng ly tâm để quay cho văng mật ra hết. Sau đó

ngƣời ta lại đặt cầu vào vị trí cũ để cho ong đổ mật.

Nghề nuôi ong lấy mật đem lại hiệu quả kinh tế rất cao. Mỗi lần thu

mật trung bình mỗi thùng ong cho thu 8 - 13 lít mật, tƣơng đƣơng 800.000 – 1.500.000đ. Nhƣ vậy có thể nói nguồn thu từ nghề này lớn gấp nhiều lần so

với trồng lúa. Điển hình có những hộ gia đình nuôi tới 100 - 140 thùng ong

cho thu nhập mỗi năm 35 - 40 triệu đồng. Nguồn lợi kinh tế thu đƣợc từ nghề

chăn nuôi đặc biệt này đang thu hút sự quan tâm của nhiều hộ gia đình khác.

Nhƣ vậy, chăn nuôi hiện nay có nhiều chuyển biến so với chăn nuôi

truyền thống, ở đây không chỉ diễn ra sự chuyển dịch về cơ cấu vật nuôi mà

còn chuyển dịch cả về cơ cấu chăn nuôi. Chăn nuôi giờ đây đang dần thực sự

trở thành một hoạt động sản xuất với vai trò hỗ trợ cho trồng trọt, và là nguồn

tạo thêm thu nhập cho toàn bộ cơ cấu kinh tế. Trƣớc đây gia súc, gia cầm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phần lớn đƣợc sử dụng vào mục đích tín ngƣỡng, thì nay gia súc, gia cầm có

70

thể bán đƣợc đem lại nguồn tiền mặt cho gia đình. Đây là một nội dung rất

mới mà nó chỉ xuất hiện trong khoảng 20 năm trở lại đây. Chăn nuôi không

còn là một hoạt động sản xuất phi hàng hoá nữa mà nó đó trở thành một hoạt

động tạo thu nhập, tạo nguồn quan trọng cho sản xuất. Những chuyển biến về

chất đã biểu hiện ở sự xuất hiện và tăng dần xu hƣớng thị trƣờng hoá trong

chăn nuôi.

3.3. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tính tích cực của tri thức

dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao

3.3.1. Cơ sở để đưa ra giải pháp

3.3.1.1. Cơ sở khoa học

Theo “Từ điển tiếng Việt” thì “Bảo tồn” có nghĩa là giữ lại. Giáo sƣ

Tô Vũ xác định“Khi nói tới bảo tồn, ta luôn nghĩ đến giữ gìn toàn bộ và

nguyên vẹn đối tượng cần bảo tồn… Đối tượng bảo tồn cần thoả mãn hai

điều kiện tiên quyết: Một là, nó phải được nhìn là tinh hoa, là một “giá

trị” đích thực không có gì phải hồ nghi hay bàn cãi. Hai là, nó phải hàm

chứa khả năng, chí ít là tiền năng, đứng vững lâu dài trước những biến đổi

tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là trong giai

đoạn đổi mới hiện nay với chính sách mở cửa và cơ chế thị trường” [30,

tr.242]. Thứ trƣởng Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch Trần Chiến Thắng

nêu: “Nếu bảo tồn không tốt chúng ta sẽ đứt mạch với quá khứ, chúng ta sẽ

bị tác động rất mạnh của cơ chế thị trường, của dòng thác văn minh của

những nước phát triển hơn chúng ta về mặt kinh tế, sẽ đến lúc chúng ta sẽ

mất đi chính mình”. Nên “giữ có phải là giữ nguyên trạng hay là giữ có

phát triển. Giữ nguyên trạng là đóng băng sự sáng tạo, tự do thì lại phá

mất gốc” [32, tr.12]. Từ những nhận định trên, có thể thấy sự phức tạp và

những khó khăn đặt ra cho việc bảo tồn di sản văn hoá, đặc biệt là di sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

văn hoá phi vật thể trong đó có tri thức dân gian. Mặt khác thấy đƣợc tầm

71

quan trọng của việc bảo tồn và phát huy giá trị của các tri thức dân gian

trong đời sống cộng đồng tộc ngƣời. Vì vậy, từ khi tỉnh Bắc Giang đƣợc

thành lập năm 1997, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bắc Giang đã chỉ đạo ngành Văn

hóa Thông tin các huyện tập trung quan tâm chỉ đạo công tác bảo tồn và

phát huy các giá trị di sản văn hoá dân tộc thông qua các văn bản pháp quy,

các đề án, chƣơng trình cụ thể nhƣ:

Đề án xây dựng đời sống văn hoá cơ sở tỉnh Bắc Giang; Đề án bảo tồn

và phát huy các giá trị di sản văn hoá các dân tộc thiểu số tỉnh Bắc Giang giai

đoạn năm 2003- 2005; Đề án bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá

các dân tộc tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2003 – 2010; Kế hoạch tiếp tục bảo tồn

và phát huy các giá trị di sản văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Giang từ năm 2007

-2010; Chƣơng trình phát triển sự nghiệp văn hoá thông tin tỉnh Bắc Giang từ

năm 2007 - 2015. Các đề án, chƣơng trình, kế hoạch này đƣợc xây dựng trên

cơ sở thực tiễn từ năm 1997 - 2000 trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Các chủ

trƣơng trên đã đƣợc phổ biến và triển khai tích cực tới toàn Đảng, toàn dân

trong tỉnh và đã tạo nên một phong trào bảo tồn các giá trị di sản văn hoá các

dân tộc rất tích cực trong đời sống xã hội và đạt hiệu quả tốt.

Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá phi vật thể đƣợc

thực hiện tốt trƣớc hết là ở sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc ta đối với

công tác này. Sự quan tâm đó thể hiện qua chủ trƣơng và đƣờng lối đề ra của

Đảng và Nhà nƣớc ta nên đã tác động tới toàn bộ hệ thống chính trị- xã hội để

tạo nên một ý thức chung của toàn Đảng toàn dân trong công tác bảo tồn và

phát huy di sản văn hoá phi vật thể. Để có đƣợc hiệu quả tốt phải có sự chỉ

đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh thông qua các chủ trƣơng, đƣờng lối các đề án,

kế hoạch, chƣơng trình tới các huyện, thành phố để toàn Đảng, toàn dân thực

hiện. Phát huy cao độ, tích cực các cấp uỷ, cấp chính quyền, các đoàn thể xã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hội cùng tham gia thƣờng xuyên và liên tục và coi đó là một nhiệm vụ không

72

thể thiếu đối với công cuộc xây dựng quê hƣơng đất nƣớc. Tạo ra một sự phối

hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan với ngành Văn hoá thông tin để thực

hiện các đề án, chƣơng trình, kế hoạch theo đúng lộ trình vạch ra. Xây dựng

một đội ngũ những ngƣời làm công tác bảo tồn di sản văn hoá từ trên xuống

cơ sở đủ để thực hiện các nhiệm vụ giao phó. Động viên tích cực tính tự giác

của mỗi cán bộ công chức viên chức làm công tác bảo tồn di sản văn hoá và

của mỗi ngƣời dân trong địa phƣơng thông qua các công việc bảo tồn di sản

văn hoá. Gắn việc bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể với phong trào toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá cơ sở để phát huy hiệu quả cao hơn.

3.3.1.2. Cơ sở thực tiễn

Đồng bào Dao ở Lục Nam cƣ trú chủ yếu ở những nơi mà đồi, núi,

rừng còn chiếm phần lớn diện tích, lại là những vùng sâu, vùng xa, đời sống

kinh tế, văn hoá, xã hội đều còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Sản xuất nông

nghiệp trồng trọt là hoạt động kinh tế chủ đạo, là nguồn sống chính của đồng

bào. Từ thực tiễn cƣ trú nhƣ vậy, để tồn tại và phát triển đi lên ngƣời Dao ở

Lục Nam vừa phải tìm cách thích ứng với việc khai khẩn đất bằng ở các thung

lũng, vừa phải thích ứng với việc khai khẩn đất dốc ven các sƣờn đồi làm

nƣơng, làm bãi. Trải qua bao thế hệ nối tiếp nhau không ngừng tự trau dồi,

đúc rút, đồng bào đã tích luỹ đƣợc nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc xử

lý đất trồng, kỹ thuật canh tác... Nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông

nghiệp cho đến nay vẫn đƣợc đồng bào gìn giữ và thực hiện bên cạnh các biện

pháp kỹ thuật hiện đại.

Để giữ màu cho đất đồng bào có nhiều giải pháp khác nhau. Giải pháp

thông thƣờng và thƣờng xuyên nhất là bón phân chuồng cho cây trồng. Các

loại phân tích luỹ đƣợc trong chăn nuôi (phân trâu, lợn, gà…) đƣợc tận dụng

triệt để. Cách bón phân chủ yếu là bón lót. Đối với các chân ruộng nƣớc dƣới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

các thung lũng đồng bào gánh phân chuồng từ nhà ra đồng để thành nhiều

73

đống nhỏ trƣớc khi bừa cấy. Khi bừa cho nhuyễn đất để cấy, cũng đồng thời

làm cho phân tản đều trên mặt ruộng. Đối với những loại cây trồng trên đất

khô (nương, bãi) nhƣ ngô, khoai, sắn, đậu, lạc… sau khi tra hạt vào hố đồng

bào rắc phân đã đƣợc ủ mục lên trên hạt rồi mới lấp đất. Để tránh các loại sâu

bọ, côn trùng ăn hạt giống cây trồng, đồng bào trộn thêm tro bếp vào phân

mục. Bằng cách bón phân lót khi cấy trồng, đất ruộng đƣợc bồi bổ thêm chất

màu, cây trồng phát triển và sinh trƣởng tốt.

Đất bạc màu không chỉ do cây trồng lấy chất màu từ đất, mà còn do

mƣa lũ làm xói mòn đất màu. Qua thực tiễn sản xuất đồng bào Dao đúc rút

đƣợc rất nhiều kinh nghiệm trong việc chống lại sự rửa trôi của nƣớc. Giải

pháp phổ biến nhất là đắp tạo bờ theo các đƣờng đồng mức, chia đất thành các

chân ruộng bậc thang, nƣơng bậc thang. Tại mỗi chân ruộng đồng bào để một

rạch nƣớc lửng đƣợc bố trí so le từ trên xuống dƣới, từ dƣới lên trên. Những

rạch nƣớc này có chức năng điều hoà mực nƣớc giữa các chân ruộng trên và

dƣới, hạn chế tối đa sự rửa trôi của nƣớc. Những ruộng bậc thang trải khắp

dƣới thung lũng sƣờn đồi chính là kết quả của nhận thức này.

Trên bãi phƣơng pháp xen canh gối vụ đƣợc đồng bào áp dụng phổ biến

để hạn chế sự rửa trôi của nƣớc. Cây ngô đƣợc trồng vào cuối mùa xuân, đầu

mùa hạ và thu hoạch vào cuối mùa hạ và đầu mùa thu. Đây là khoảng thời

gian mƣa nhiều, những hạt mƣa rơi trực tiếp xuống mặt nƣơng, bãi chảy đi

mang theo một lƣợng đất màu lớn. Để hạn chế mƣa rơi thẳng xuống đất, đồng

bào trồng xen vào gốc các loại cây thân dây: khoai lang, cây bí, hoặc cây đậu

xanh, đậu tƣơng. Lá các loại cây này phủ che kín mặt nƣơng góp phần giữ độ

ẩm cho đất, đồng thời hạn chế tối đa nƣớc mƣa rơi trực tiếp xuống mặt đất.

Để làm tăng chất màu cho đất, khi lúa chín đồng bào chỉ cắt phần

ngọn. Phần thân và gốc đƣợc để lại ruộng. Vào cuối tháng Chạp và đầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tháng Giêng âm lịch, trên những chân ruộng cạn các gốc rạ đã khô, đồng

74

bào tiến hành đốt gốc để lấy tro bổ xung chất màu cho đất. Trên nƣơng

những cây cỏ dại cũng đƣợc rẫy, phát vào tháng Giêng, sang tháng hai,

tháng ba cỏ khô, đồng bào cũng đốt lấy tro bón cho cây trồng. Cần phải nói

thêm rằng, việc đốt rạ trên ruộng, đốt cỏ trên nƣơng có ý nghĩa làm sạch

môi trƣờng sản xuất, diệt trừ các loại sâu và trứng sâu, ổ sâu đang kỳ ngủ

đông, đợi xuân về nở ra làm hại cây trồng.

Tri thức về sản xuất nông nghiệp không chỉ đƣợc hình thành trong quá

trình lao động sản xuất mà còn ăn sâu vào cuộc sống tâm linh của đồng bào.

Trong bản, làng đồng bào cƣ trú, hoặc trên đƣờng đi lại giữa các bản làng

thƣờng có các cây cổ thụ sống tập trung. Ở đó đồng bào thƣờng lập miếu thờ

thổ công, hoặc không có miếu thờ nhƣng nơi đó vẫn đƣợc coi là vùng đất

thiêng. Mọi ngƣời có thể ngồi nghỉ ngơi dƣới gốc cây, xong không đƣợc làm

ô uế nơi đó, không đƣợc chặt phá các cây xung quanh, đặc biệt là cây cổ thụ.

Đồng bào quan niệm cây cổ thụ trong bản, trong làng là nơi các vị thần cƣ

ngụ ở đó. Họ bảo vệ, chở che mang lại sự yên bình cho mảnh đất mà dân bản

đang cƣ ngụ. Phá hoại cây cũng chính là phá hoại cuộc sống bình yên của dân

bản. Do vậy, việc bảo vệ cây cổ thụ là trách nhiệm chung của cả dân bản, tập

tục này vẫn còn lƣu truyền cho tới ngày nay.

Mùa xuân về cũng chính là mùa đâm chồi nảy lộc của cây cối, mùa sinh

sản của động vật. Để bảo vệ cây rừng và động vật trong thời kỳ này, trong tín

ngƣỡng của mình đồng bào dân tộc Dao có tục cấm rừng (đóng cửa rừng).

Tục đóng cửa rừng thƣờng bắt đầu từ ngày 25 tháng Chạp cho đến hết tháng

Giêng. Trong khoảng thời gian này dân bản không ai đƣợc vào rừng săn bắt

chim thú, chặt phá cây cối. Đồng bào quan niệm ai phạm vào điều cấm này

sang năm mới hồn cây sẽ ra khỏi nhà họ, gia đình đó sẽ bị mất mùa, những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngƣời trong gia đình hay bị bệnh tật ốm đau.

75

Có thể nói, các tri thức dân gian tộc ngƣời trong sản xuất nông nghiệp

đƣợc ngƣời Dao ở Lục Nam phát huy có hiệu quả ngay trong đời sống kinh tế

hiện nay của đồng bào. Bên cạnh việc sử dụng và phát huy các giá trị tri thức

dân gian vốn có, cộng đồng ngƣời Dao còn tiếp thu khá nhanh những kỹ thuật

cần thiết trong canh tác lúa nƣớc, đặc biệt là kỹ thuật làm thuỷ lợi nhỏ và sử

dụng sức kéo trong khâu làm đất. Các khoảnh ruộng nƣớc của họ thƣờng có

bậc cao thấp khác nhau, mỗi bậc có hệ thống bờ thửa riêng để giữ và điều tiết

nƣớc cho phù hợp với yêu cầu của cây lúa trong mỗi kỳ sinh trƣởng.

Các công đoạn kỹ thuật chính trong canh tác lúa nƣớc của ngƣời Dao

cũng giống nhƣ nhiều dân tộc khác. Nhƣng ở thời kỳ đầu, trình độ canh tác

còn thấp, ngƣời ta chỉ gieo mạ, nhổ cấy - điều tiết nƣớc - làm cỏ - thu hoạch,

không bón bất cứ loại phân hoá học nào. Mãi tới gần đây, khi tiếp thu các

giống lúa mới, phân bón mới trở thành yêu cầu bắt buộc. Có thể nói, chính

những yêu cầu khắt khe về thời vụ cũng nhƣ kỹ thuật canh tác của các giống

lúa mới đã dẫn đến một bƣớc tiến dài trong nhận thức về sản xuất nông

nghiệp của ngƣời Dao. Trong kinh tế sản xuất, một số giá trị tri thức dân gian

tộc ngƣời đã đƣợc ngƣời Dao nâng lên thành những quy tắc, quy định chung

của cả cộng đồng, mà nếu ai không tuân theo sẽ bị xử phạt. Đó chính là sự cụ

thể hoá giá trị tri thức dân gian tộc ngƣời bằng luật tục.

Những năm gần đây, đồng bào dân tộc thiểu số đã phải đối mặt với

những biến đổi to lớn, ảnh hƣởng đến cuộc sống, sinh hoạt cộng đồng nói

chung và đến luật tục nói riêng. Đó là tình trạng thoái hoá đất, sự thay đổi

quyền sở hữu đất rừng. Đất đai đối với sản xuất và đời sống của cộng đồng

dân cƣ có ý nghĩa quan trọng và vô cùng cần thiết. Tuy nhiên hiện nay, thoái

hoá đất đang là xu thế phổ biến đối với nhiều vùng miền núi, nơi tập trung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hơn 3/4 quỹ đất. Các dạng thoái hoá đất chủ yếu là: xói mòn, rửa trôi, đất có

76

độ phì nhiêu thấp và mất cân bằng dinh dƣỡng, đất chua hoá, bạc màu, khô

hạn, lũ quét, đất trƣợt và sạt lở, đất bị ô nhiễm.

Trên 60% diện tích đất ở miền núi có những vấn đề liên quan tới suy

thoái đất. Nguyên nhân suy thoái môi trƣờng đất có nhiều, song chủ yếu do

phƣơng thức canh tác nƣơng rẫy còn thô sơ, lạc hậu của các dân tộc thiểu số,

tình trạng chặt phá, đốt rừng bừa bãi, khai thác tài nguyên khoáng sản không

hợp lý, lạm dụng các chất hữu cơ trong sản xuất, triển khai xây dựng các công

trình hạ tầng nhƣ: nhà ở, đƣờng giao thông, trƣờng học… Sự suy thoái môi

trƣờng đất kéo theo sự suy thoái các quần thể động, thực vật và chiều hƣớng

giảm diện tích đất nông nghiệp trên đầu ngƣời đã đến mức báo động.

Trong bối cảnh đó, các giá trị tri thức dân gian tộc ngƣời trong sản xuất

kinh tế cần đƣợc chọn lọc và phát huy hơn nữa. Đặc biệt, các biện pháp kỹ

thuật canh tác trên đất dốc của đồng bào là một giá trị tri thức hữu ích và thiết

thực để chống xói mòn, hạn chế thoái hoá đất. Canh tác bền vững trên đất dốc

cần thực hiện các biện pháp để làm giảm tối đa tác hại của mƣa và dòng chảy

do mƣa tạo ra, đồng thời làm tăng độ phì nhiêu cho đất. Đồng bào các dân tộc

có nhiều biện pháp nhƣ: làm ruộng bậc thang, xếp bờ đá, bón phân hữu cơ,

trồng cây xanh… Nhƣng biện pháp quan trọng nhất và bền vững nhất đem lại

hiệu quả kinh tế nhất là chọn và bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý trên đất dốc,

trên đỉnh đồi trồng keo, tre, trám… ở giữa trồng các cây lƣơng thực: ngô,

khoai, sắn, đỗ, đậu, lạc, vừng, hoặc trồng cây công nghiệp nhƣ chè. Trồng cây

ăn quả ở dƣới chân đồi.

Bên cạnh việc phát huy các giá trị tri thức dân gian tộc ngƣời, cần thực

hiện tốt công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng về việc sử dụng

hợp lý và tiết kiệm tài nguyên đất, đào tạo và huấn luyện để nâng cao kiến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thức của ngƣời dân về công nghệ, kỹ thuật sử dụng và quản lí đất; tổ chức

77

tuyên truyền và phát động phong trào quần chúng áp dụng các mô hình hiệu

quả sử dụng bền vững tài nguyên đất.

Ngày nay, trƣớc sức ép về gia tăng dân số, về nhu cầu đất đai và xu thế

hội nhập với cuộc sống hiện đại đã ảnh hƣởng ít nhiều đến tính tôn nghiêm

của luật tục. Song ở phƣơng diện nào đó khi pháp luật và các biện pháp giáo

dục khác chƣa phát huy tác dụng nhƣ mong muốn, thì việc khuyến khích và

tạo điều kiện cho đồng bào sử dụng luật tục truyền thống sẽ mang lại hiệu quả

đáng kể, đặc biệt là trong giải quyết vấn đề sở hữu và tranh chấp đất đai,

chống nạn phá rừng và các tệ nạn xã hội khác…

Qua quá trình điều tra, nghiên cứu cho thấy các giá trị tri thức dân gian

trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở Lục Nam rất đa dạng, phong

phú. Các giá trị văn hoá ấy đƣợc thể hiện qua các kinh nghiệm sản xuất, lựa

chọn giống, kỹ thuật canh tác, thời vụ… Các giá trị ấy vẫn đang tồn tại trong

cộng đồng cƣ dân nhƣng đã và đang bị mai một dần.

Hiện nay, cƣ dân trong các bản đã có ý thức bảo tồn các giá trị của di

sản văn hoá dân tộc mình ở mức độ cho phép nhƣ: duy trì tiếng nói mẹ đẻ,

mặc quần áo dân tộc mình vào những dịp lễ hội, duy trì các phong tục nhƣng

có thay đổi, bỏ các yếu tố lạc hậu đi, hàng năm có tổ chức đi hát dân ca giao

lƣu cùng các địa phƣơng bạn… Các hình thức bảo tồn ấy đã đƣợc bà con nhân

dân hƣởng ứng vì mục đích bảo tồn các giá trị văn hoá dân tộc Dao góp phần

làm cho bản làng của ngƣời Dao trở thành một địa điểm văn hoá trong vùng

Lục Sơn, Lục Nam. Bên cạnh việc áp dụng khoa học kỹ thuật mới, đồng bào

vẫn kết hợp với những kinh nghiệm cổ truyền để gieo cấy đúng thời vụ, phù

hợp tình hình địa phƣơng nhằm tăng năng suất cây trồng, đem lại hiệu quả

kinh tế cao. Đây là điều kiện thuận lợi để bảo tồn những giá trị tri thức dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gian trong sản xuất nông nghiệp của đồng bào.

78

3.3.2. Một số giải pháp

Tri thức bản địa của các tộc ngƣời thiểu số ở Lục Nam là một phức hợp

những kinh nghiệm đƣợc hình thành trong thế ứng xử giữa hoạt động của

cộng đồng trong một vùng môi trƣờng có các điều kiện tự nhiên cụ thể để sinh

tồn. Nó đƣợc chọn lọc và truyền từ đời này qua đời khác trong cộng đồng. Tri

thức dân gian có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển, nhƣng cũng có

những mặt hạn chế. Sự hạn chế này xuất phát từ đặc tính địa phƣơng (tính bản

địa, tính tộc ngƣời) của nó rất cao, nên khó phổ biến rộng rãi đến các tộc

ngƣời khác, vùng khác. Tri thức dân gian hiểu theo nghĩa rộng cũng nằm

trong nội hàm của khái niệm “văn hoá”, nhƣng nó ở dạng văn hoá phi vật thể.

Cũng có thể coi dạng văn hoá này nhƣ là một “nguồn lực” có thể trực tiếp huy

động cho sự phát triển ở từng vùng, từng cộng đồng. Trong qúa trình phát

triển và hình thành các giá trị văn hóa, các tộc ngƣời thiểu số ở Việt Nam

không có khái niệm: “tri thức dân gian”. Đây là khái niệm đƣợc các nhà khoa

học phƣơng Tây (sau đó là các nhà khoa học Việt Nam) “định ra” khi nghiên

cứu văn hóa truyền thống của tộc ngƣời, đặt trong mối tƣơng quan và so sánh

với “tri thức khoa học” hiện đại. Thông thƣờng, tri thức dân gian đƣợc phân

thành hai nhóm: một nhóm là các tri thức dƣới dạng “kỹ thuật”; nhóm khác là

các tri thức dƣới dạng văn hoá tín ngƣỡng, luật tục.

Trong việc thực hành phát triển tại các khu vực nông thôn và miền núi,

nhóm thứ nhất (các tri thức về kỹ thuật) đƣợc kết hợp với các tri thức khoa

học hiện đại để thiết lập các dự án kinh tế - xã hội; nhóm thứ hai (các tri thức

về văn hoá - xã hội) đƣợc sử dụng cho mục đích quản lý các nguồn lợi, bảo vệ

môi trƣờng sinh thái trong khu vực của cộng đồng. Tri thức dân gian đã và

đang đóng góp một phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề của địa

phƣơng và tộc ngƣời. Những tri thức về nông nghiệp (kỹ thuật xen canh, chăn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nuôi, đa dạng cây trồng, chăm sóc sức khoẻ vật nuôi, chọn giống cây trồng);

79

sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên (bảo vệ đất, thuỷ lợi và các hình

thức quản lý nƣớc khác); giáo dục (kiến thức truyền miệng, các ngôn ngữ địa

phƣơng) đã có những tác dụng nhất định trong xóa đói giảm nghèo và phát

triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, không phải tri thức dân gian nào cũng đƣợc

sử dụng nhƣ nhau và phát huy hiệu quả trong bối cảnh mới. Do vậy, không

thể chỉ lựa chọn và áp dụng tri thức khoa học, cũng không thể chỉ dựa vào tri

thức dân gian, vấn đề đặt ra là phải kết hợp hai nguồn tri thức ấy vì mục tiêu

phát triển bền vững. Điều đó có nghĩa là khi triển khai các dự án, chúng ta

phải nghiên cứu để lồng ghép và chuyển tải những kinh nghiệm trong bảo vệ

đất, tính lịch sản xuất, trong xen canh, luân canh; những tri thức bảo vệ tài

nguyên thiên nhiên vào việc trồng, bảo vệ rừng, xây dựng mô hình VAC

(vƣờn ao chuồng), VACR (vƣờn, ao, chuồng, rừng); xây dựng các mô hình

vƣờn nhà, vƣờn rừng. Từ đó góp phần vào việc thay đổi nhận thức và thế ứng

xử trong không gian sinh tồn của ngƣời dân miền núi, chuyển từ tập quán khai

thác thiên nhiên một chiều sang tập quán đầu tƣ và tái tạo thiên nhiên. Bên

cạnh đó, những tri thức trong việc chăm sóc sức khoẻ cộng đồng; trong điều

hành, quản lý con ngƣời, quản lý làng bản, xã hội với việc đề cao vai trò của

ngƣời già, của tính cộng đồng, tính nhân văn, của những quan hệ bền chặt

trong gia đình, dòng họ là những kinh nghiệm quý trong việc xây dựng nông

thôn có tăng trƣởng về kinh tế nhƣng vẫn đảm bảo đƣợc công bằng xã hội và

bảo vệ đƣợc môi trƣờng. Đó chính là mục tiêu của phát triển bền vững mà

chúng ta đang hƣớng tới.

Hiện nay, tri thức dân gian của các tộc ngƣời đƣợc coi là một trong

những lợi thế so sánh của một số nƣớc đang phát triển, trong đó có huyện Lục

Nam, tỉnh Bắc Giang. Bởi vậy, việc bảo vệ các tri thức dân gian ở quy mô

làng bản và huyện, tỉnh, đặc biệt là bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tri

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thức dân gian, đƣợc coi là một yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, do bản chất của

80

tri thức dân gian là tồn tại dƣới dạng thông tin đƣợc lƣu truyền qua các thế hệ,

hoặc đƣợc trao đổi giữa các cộng đồng, nên nhiều tri thức quý giá có nguy cơ

bị mai một dần theo thời gian, hoặc bị chiếm đoạt khai thác trái phép ngoài

phạm vi kiểm soát của cộng đồng nắm giữ tri thức. Những hành vi đó không

chỉ gây thiệt hại về kinh tế cho cộng đồng mà nguy hại hơn là phá vỡ nguyên

tắc cân bằng lợi ích giữa cộng đồng nắm giữ và chủ thể khai thác tri thức dân

gian, hủy hoại nỗ lực bảo tồn và phát triển tri thức, đi ngƣợc lại truyền thống

văn hóa, phong tục tập quán của cộng đồng. Do đó, cộng đồng quốc tế rất

quan tâm tới các biện pháp, công cụ thích hợp nhất để bảo vệ hữu hiệu loại tài

sản đặc biệt này, thực chất là bảo hộ khía cạnh sở hữu trí tuệ của tri thức dân

gian. Tri thức dân gian là tài sản chung thuộc cộng đồng hoặc một địa phƣơng

cụ thể. Do đó, nó không thuộc độc quyền của một cá nhân, tổ chức nào và nếu

bị thƣơng mại hóa sẽ gây ảnh hƣởng tiêu cực đến tập quán, tín ngƣỡng, văn

hóa của cả cộng đồng. Trên thực tế, không phải tất cả các tri thức dân gian

đều mang tính tập thể, mà trong nhiều trƣờng hợp các cá nhân có thể tự

nghiên cứu, cải tiến, tạo ra những tri thức mới trên cơ sở vốn tri thức đã có và

đƣợc cộng đồng thừa nhận. Điều quan trọng là, những nhóm ngƣời hay cộng

đồng nắm giữ tri thức bản địa có những quy định riêng trong việc lƣu truyền,

khai thác, phát triển nguồn tri thức đó bằng phong tục tập quán, văn hóa, luật

tục, tôn giáo, tín ngƣỡng, ngôn ngữ của mình.

Sự quan tâm đến tri thức dân gian đƣợc thể hiện rõ trong những báo cáo

của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ ở nhiều quốc gia. Các tổ chức này

cũng nhƣ các tổ chức quốc tế nhƣ Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức Giáo

dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Sở hữu trí tuệ

Liên hợp quốc (WIPO) và Tổ chức Nông lƣơng thế giới (FAO) đều thừa nhận

về vai trò và những đóng góp của tri thức bản địa trong phát triển bền vững.

Do vậy, bảo tồn và phát huy các giá trị của tri thức dân gian là một yêu cầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đƣợc đặt ra cấp bách không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nƣớc đang phát

81

triển trên thế giới. Để bảo tồn và phát huy các giá trị của tri thức dân gian của

các tộc ngƣời thiểu số ở Lục Nam nói riêng và Việt Nam nói chung trong giai

đoạn hiện nay, chúng tôi xin đề xuất một số biện pháp sau:

Thứ nhất, nghiên cứu một cách có hệ thống về tri thức dân gian của từng

tộc ngƣời thiểu số nói riêng và các tộc ngƣời ở Việt Nam nói chung; bảo tồn

và xây dựng bộ hồ sơ về kho tàng tri thức bản địa, tƣ liệu hóa và cung cấp cho

cán bộ và nhân dân địa phƣơng. Thông qua nhiều hình thức khác nhau nhằm

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục… để ngƣời dân khắc phục tâm lý tự ti mặc

cảm, coi thƣờng vốn tri thức truyền thống của cha ông, sùng bái kỹ thuật

phƣơng Tây. Trả lại giá trị và niềm tự hào của các tộc ngƣời về di sản trí tuệ

của chính bản thân họ. Khuyến khích việc sƣu tầm, nghiên cứu và phổ cập trở

lại vốn tri thức dân gian, dần dần đƣa vào chƣơng trình giáo dục nhà trƣờng

những nội dung tri thức dân gian phù hợp với điều kiện cụ thể từng địa

phƣơng và văn hóa truyền thống của tộc ngƣời.

Thứ hai, xác định tri thức dân gian nào còn phù hợp, đánh giá hiệu quả

và tính bền vững của nó; kết hợp sử dụng tri thức dân gian và tri thức khoa

học một cách hợp lý trong những dự án phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa -

môi trƣờng… hiện nay. Các nhà khoa học khi lập kế hoạch nghiên cứu hoặc

trực tiếp tham gia vào các dự án bảo tồn tài nguyên sinh học nói chung, cần

chú ý phải bảo tồn cả tri thức dân gian. Dựa vào tri thức dân gian việc lập các

dự án phát triển sẽ giúp các nhà khoa học không phải điều tra sàng lọc từ đầu,

một công việc rất tốn kém và mất nhiều thời gian.

Thứ ba, có chính sách động viên, khen thƣởng, công nhận các danh hiệu

thầy thuốc dân gian, thầy thuốc cộng đồng đối với những ngƣời có nhiều công

lao trong việc chữa bệnh; danh hiệu nghệ nhân dân gian… đối với những

ngƣời lƣu giữ nhiều giá trị tri thức dân gian của tộc ngƣời. Xây dựng lộ trình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

để bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với tri thức dân gian nhằm bảo hộ các quyền kinh

82

tế và quyền tinh thần của những ngƣời nắm giữ tri thức dân gian. Bảo hộ sở

hữu trí tuệ đối với tri thức dân gian trƣớc hết nhằm bảo vệ quyền tinh thần của

ngƣời nắm giữ tri thức dân gian và quyền ngăn cấm ngƣời khác thƣơng mại

hóa tri thức của mình. Việc khai thác thƣơng mại các tri thức dân gian sẽ

mang lại lợi ích kinh tế cho bản thân những ngƣời nắm giữ tri thức dân gian

và nguồn thu nhập mà cộng đồng có đƣợc sẽ sử dụng để phát triển phúc lợi

của cả cộng đồng.

Thứ tư, nhiều tộc ngƣời thiểu số riêng gắn bó với rừng, đời sống chủ yếu

dựa vào rừng, chính vì thế họ có một hệ thống kiến thức dân gian rất phong

phú liên quan đến rừng. Thực hiện giao đất giao rừng thì những nhận thức và

hoạt động của ngƣời dân theo cách truyền thống của họ có ý nghĩa rất lớn

trong việc bảo vệ, phát triển và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên rừng.

Tóm lại, tri thức dân gian là một trong những thành tố quan trọng của

văn hóa, góp phần làm nên bản sắc tộc ngƣời. Tri thức dân gian có thể coi là

tài sản của mỗi tộc ngƣời trong qúa trình phát triển, phản ánh mối quan hệ của

từng cộng đồng đối với môi trƣờng tự nhiên và xã hội. Kinh nghiệm phát triển

của nhiều quốc gia châu Á và châu Phi trong những thập kỷ qua cho thấy cách

tiếp cận khoa học và công nghệ phƣơng Tây không đủ đáp ứng những quan

niệm phức tạp và đa dạng của nông dân cũng nhƣ những thách thức về kinh tế

- xã hội, môi trƣờng mà ngày nay chúng ta đang phải đƣơng đầu. Ngƣợc lại,

rất nhiều kỹ thuật truyền thống đã đƣa lại hiệu quả cao, đƣợc thử thách và

chọn lọc trong một thời gian dài, có sẵn tại địa phƣơng, phù hợp với văn hóa

và phong tục tập quán của tộc ngƣời [41].

Việt Nam là một quốc gia có đa tộc ngƣời nên tri thức dân gian của

các tộc ngƣời rất phong phú và đa dạng. Mặc dù tri thức dân gian của các tộc

ngƣời mới chỉ dừng lại ở mức độ kinh nghiệm và cảm nhận, nhƣng nhờ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đƣợc rút ra từ hoạt động thực tiễn của con ngƣời, nên nó có giá trị thiết thực

83

trong xã hội hiện nay của mỗi tộc ngƣời. Do đó cần phải coi tri thức dân

gian nhƣ một nguồn tài nguyên quan trọng và lập kế hoạch nghiên cứu, sƣu

tầm, phát huy chúng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc

nói chung, sự nghiệp phát triển bền vững ở vùng miền núi và tộc ngƣời thiểu

số nói riêng.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Do tác động của nhiều yếu tố hệ thống tri thức dân gian trong sản xuất

nông nghiệp của ngƣời Dao ở Lục Nam có nhiều thay đổi. Với sự quan tâm

của Đảng và Nhà nƣớc hình thức canh tác nƣơng rẫy bị xóa bỏ thay vào đó là

trồng rừng, cây ăn quả đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hóa. Từ độc canh

chuyển sang xen canh mang lại hiệu quả cao. Để phù hợp với điều kiện mới,

thời vụ thay đổi phù hợp với các giống cây trồng mới, cho năng suất cao. Bên

cạnh trồng trọt, chăn nuôi cũng có nhiều thay đổi tích cực, số lƣợng và qui mô

chăn thả ngày càng đƣợc mở rộng.

Tuy nhiên trong hệ thống tri thức sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao

ở Lục Nam có nhiều thay đổi song có tri thức cần đƣợc bảo tồn. Công tác bảo

tồn đang đƣợc các nhà nghiên cứu, các cấp chính quyền quan tâm thực hiện.

Trong bối cảnh đó việc tập trung nghiên cứu để hệ thống đƣợc những tích cực

trong tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở Lục Nam

có ý nghĩa quan trọng. Nhà nƣớc cần sớm có những qui định cụ thể về việc sử

dụng đất canh tác, đất rừng nhằm đảm bảo việc sử dụng đúng mục đích và có

hiệu quả. Cơ quan văn hóa cần sớm có kế hoạch tuyên truyền để ngƣời Dao ở

Lục Nam hiểu đƣợc tầm quan trong của việc bảo tồn những giá trị tích cực.

Nội dung nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp phần nào vào sự hiểu

biết về hệ thống tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở

Lục Nam. Sự hiểu biết này là cơ sơ cho các nhà khoa học khác tiếp tục nghiên

cứu để đƣa ra những giải pháp phát triển bền vững, đảm bảo cuộc sống sung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

túc cho ngƣời dân trên địa bàn khó khăn của huyện

84

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu về Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của

ngƣời Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang, đề tài rút ra một số nhận xét sau:

1. Lục Nam là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang, có địa hình

tƣơng đối phức tạp: đồi núi cao, đồi núi thấp xen kẽ là những cánh đồng bằng

phẳng. Sông Lục Nam chảy dài từ đầu đến cuối huyện cùng với hệ thống

mƣơng máng lớn nhỏ tạo thành hệ thống thủy lợi phong phú, thuận lợi cho

sản xuất nông nghiệp. Chất đất tuy không nhiều dinh dƣỡng cho cây trồng

nhƣng thƣờng xuyên đƣợc cải tạo nên năng suất cây trồng liên tục tăng cao.

2. Huyện Lục Nam bao gồm 8 dân tộc, trong đó ngƣời Dao có mặt ở

Lục Nam từ những năm 20, 30 của thế kỷ 20 là bộ phận ngƣời Dao ở Quảng

Ninh di cƣ sang. Ngƣời Dao ở Lục Nam chủ yếu thuộc nhóm Dao Thanh

Phán và Thanh Y, sống chủ yếu tại 4 xã là Bình Sơn, Trƣờng Sơn, Lục Sơn và

Vô Tranh. Mặc dù sinh sống tại vùng đất mới chƣa lâu nhƣng ngƣời Dao đã

xây dựng đƣợc cho mình hệ thống làng bản riêng biệt bên cạnh những xóm

làng của các dân tộc khác nhƣ Kinh, Tày, Nùng, Cao Lan. Quá trình chinh

phục tự nhiên để sinh tồn đã tạo ra cho ngƣời Dao ở Lục Nam những giá trị

văn hóa đặc trƣng đƣợc thể hiện trong đời sống vật chất, tinh thần và trong lao

động sản xuất.

3. Trong điều kiện tự nhiên có thuận lợi nhƣng cũng đầy khó khăn,

ngƣời Dao ở Lục Nam đã hình thành hệ thống tri thức dân gian trong sản xuất

nông nghiệp của mình. Hệ thống bao gồm các kinh nghiệm trong việc lựa

chọn thời vụ, chọn giống, canh tác, chăm sóc cây trồng, vật nuôi và quá trình

thu hoạch, bảo quản sản phẩm. Để phù hợp với điều kiện khí hậu, tài nguyên,

đất, nƣớc, rừng ngƣời Dao ở Lục Nam đã đúc kết kinh nghiệm lựa chọn hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thức canh tác là nƣơng rẫy và ruộng nƣớc. Đối với nƣơng rẫy, ngƣời Dao xác

85

định đƣợc khi nào thì phát nƣơng, khi nào thì gieo hạt để có hiệu quả cao

trong lao động đặc biệt họ có kinh nghiệm chọn giống để có năng suất cao,

xem thời tiết cũng đƣợc đồng bào chú ý và thành kinh nghiệm khá chính xác.

Đối với lúa nƣớc, để phù hợp với chất đất, khí hậu, giống cây trồng đƣợc

lựa chọn cẩn thận nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất. Các giống lúa, ngô,

khoai, sắn chủ yếu đƣợc chọn và giữ lại từ vụ gieo trồng trƣớc. Đối với từng

loại cây trồng mà đồng bào có cách thức chăm sóc phù hợp.

Cùng với trồng trọt, chăn nuôi đƣợc ngƣời Dao ở Lục Nam tiến hành từ

khá sớm với nhiều mục đích. Chăn nuôi để có gia súc làm sức kéo, phục vụ

cho các tín ngƣỡng dân gian, để có thêm nguồn thực phẩm cho bữa ăn hàng

ngày. Đối với các giống vật nuôi từ đại gia súc, tiểu gia súc, gia cầm cũng có

cách chọn cụ thể. Tận dụng thuận lợi gần rừng, ngƣời Dao ở Lục Nam biết

nuôi ong lấy mật, phần lớn gia đình ngƣời Dao đều có thùng nuôi ong trong

vƣờn nhà.

4. Những năm gần đây hệ thống tri thức dân gian trong sản xuất nông

nghiệp của ngƣời Dao ở Lục Nam chịu sự tác động của nhiều yếu tố nên đã có

nhiều thay đổi. Với chính sách giao đất, giao rừng cho ngƣời dân, chính sách

định canh, định cƣ của Đảng và Nhà nƣớc đối với các dân tộc thiểu số nên

ngƣời Dao ở Lục Nam hoàn toàn không làm nƣơng rẫy mà chuyển sang cấy

lúa nƣớc cùng hoa mầu. Đất rừng đƣợc trồng cây ăn quả, cây công nghiệp cho

hiệu quả cao đáp ứng nhu cầu của kinh tế thị trƣờng. Sự nhận thức thay đổi

ngƣời Dao ở Lục Nam đã dẫn tới sự hình thành và phát triển của các loại cây

trồng hàng hóa nhƣ vải, hồng. Diện tích trồng cây ăn quả đƣợc mở rộng

không ngừng vì hiệu quả mà nó mang lại.

Trong truyền thống ngƣời Dao ở Lục Nam chỉ cấy đƣợc một vụ lúa đến

nay với kĩ thuật hiện đại đã cấy đƣợc 2 vụ và thực hiện xen canh với các cây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hoa màu khác. Các giống lúa mới qua lai tạo cho năng suất cao đƣợc gieo

86

trồng thay cho các giống lúa truyền thống. Hiện nay việc chăm sóc, bảo vệ

thực vật đã có nhiều thay đổi, các loại phân hữu cơ, phân hóa học đƣợc sử

dụng ngày càng nhiều vì vậy năng suất cây trồng không ngừng đƣợc cải thiện.

Các dụng cụ lao động thô sơ đƣợc thay thế bằng máy móc phần nào giảm bớt

sức lao động của con ngƣời. Trong chăn nuôi trƣớc kia các loại đại gia súc

đƣợc nuôi phổ biến và nhiều hơn gia cầm thì nay gia cầm đƣợc nuôi nhiều

hơn. Chăn nuôi gia cầm không dừng lại ở việc cung cấp thực phẩm mà là

nguồn hàng hóa cung cấp cho thị trƣờng với lãi suất cao.

5. Mặc dù có nhiều thay đổi song cũng có những đặc điểm tích cực

trong hệ thống tri thức truyền thống cần đƣợc bảo tồn và phát huy giá trị trong

thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Từ thực tế

cộng đồng ngƣời Dao ở Lục Nam, cần tích cực đẩy mạnh tuyên truyền chủ

trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc, giáo dục

truyền thống lịch sử cách mạng của quê hƣơng Bắc Giang để đồng bào Dao

tin tƣởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, yêu quê hƣơng, tích cực xây

dựng bản làng quê hƣơng. Mặt khác, tăng cƣờng tuyên truyền, giáo dục để

đồng bào Dao gìn giữ những giá trị văn hoá của dân tộc mình, góp phần làm

phong phú thêm bản sắc văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Giang. Các dự án bảo

tồn nhằm giữ lại những giá trị truyền thống đang đƣợc triển khai tại các làng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bản của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam.

87

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chỉ đạo phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa

tỉnh Bắc Giang (2004), Làng văn hóa tỉnh Bắc Giang.

2. Ban Thƣờng vụ Huyện uỷ Lục Nam (1994), Lịch sử huyện Lục Nam.

3. Ban Thƣờng vụ Huyện uỷ Lục Nam (2009), Lịch sử Đảng bộ huyện

Lục Nam.

4. Bảo tàng Bắc Giang (2005), Bước đầu tìm hiểu văn hoá các dân tộc.

5. Bảo tàng Bắc Giang (2006), Di sản văn hoá Bắc Giang - Văn hoá phi

vật thể.

6. Bảo tàng Bắc Giang (2008), Di sản văn hoá Bắc Giang, Biên niên sự

kiện và tư liệu lịch sử.

7. Bế Viết Đằng (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế

miền núi, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

8. Bế Viết Đằng (chủ biên) (1971), Người Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

9. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ

tỉnh Bắc Giang lần thứ XIX, Văn phòng Tỉnh uỷ.

10. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Đồng Tháp.

11. Diệp Đình Hoa (2002), Người Dao ở Trung Quốc, Nxb Văn hoá Dân

tộc, Hà Nội.

12. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội, Khoa

Dân tộc (1995), Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và

Nhà nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Khổng Diễn (1996), Những đặc điểm kinh tế xã hội các dân tộc miền

núi phía Bắc, Nxb Khoa học, Hà Nội.

14. Lã Văn Lô (1973), Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

88

15. Lê Nhƣ Hoa (chủ biên) (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb

Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

16. Lê Quý Đôn (1962), Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa hoc xã hội, Hà Nội.

17. Lê Văn Khoa (chủ biên) (1997), Môi trường và phát triển bền vững ở

miền núi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

18. Lê Văn Kì (2002), Lễ hội nông nghiệp Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,

Hà Nội.

19. Người Dao ở Việt Nam (2007), Nxb Thông tấn, Hà Nội.

20. Nguyễn Khắc Tụng (1966), Bước đầu tìm hiểu các nhóm Dao ở Việt

Nam, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 87.

21. Nguyễn Văn Huy (Chủ biên) (1998), Bức tranh văn hoá các dân tộc

Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

22. Nông Quốc Tuấn (2000), Trang thục cổ truyền của người Dao ở Việt

Nam, Đề án nghiên cứu cấp Bộ, Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam.

23. Phan Hữu Dật, Lễ Ngọc Thắng (1998), Lễ hội cầu mùa các dân tộc Việt

Nam, Nxb Khoa học, Hà Nội.

24. Phiếu khảo sát về Các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình các

dân tộc huyện Lục Nam, tháng 10 năm 2009.

25. Sở Văn hoá Thông tin Bắc Giang và Trung tâm UNESCO thông tin tƣ

liệu lịch sử và văn hoá Việt Nam (2003), Địa chí Bắc Giang - Địa lí và

Kinh tế

26. Bảo tàng Bắc Giang (2005), Điều tra văn hóa dân tộc Dao ở tỉnh Bắc Giang.

27. Tỉnh uỷ Bắc Giang (2003), Lịch sử đảng bộ tỉnh Bắc Giang, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

28. Tô Vũ, Âm nhạc Việt Nam truyền thống và hiện đại, Viện âm nhạc, Hà Nội.

29. Toán Anh (2000), Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam, Nxb

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

89

30. Trần Chiến Thắng, Cần thực hiện một cách nghiêm túc công tác bảo

tồn âm nhạc truyền thống, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Âm nhạc Cổ

Truyền trong đời sống hôm nay”, Viện Âm nhạc.

31. Trần Hữu Sơn (1999), Tục ngữ câu đố Dao, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

32. Trần Ngọc Bình (2008), Văn hoá các dân tộc Việt Nam, Nxb Thanh niên,

Hà Nội.

33. Trần Quốc Vƣợng (1963), Qua Nghiên cứu "Bình Hoàng Khoán Điệp"

thử bàn về gốc tích ngƣời Dao, Tạp chí dân tộc, số 40

34. Trần Trọng (1983), Nhìn lại kết quả 13 năm vận động định canh định

cư của vùng dân tộc Dao, Báo dân tộc, số 3 .

35. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia (1998), Sự phát triển

văn hoá xã hội của người Dao hiện đại và tươngg lai, Kỉ yếu hội thảo

nghiên cứu khoa học.

36. Uỷ ban Khoa học xã hội ở Việt Nam (1983), Sổ tay các dân tộc Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

37. Ủy ban nhân dân huyện Lục Nam (2004), Tiềm năng du lịch văn hóa

huyện Lục Nam, Tập kỷ yếu.

38. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2003), Địa chí Bắc Giang - Di sản

Hán - Nôm.

39. Viện Dân Tộc (1987), Một số vấn đề kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi

phía Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

40. Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam (1998), Trung tâm nghiên cứu

sinh thái và môi trƣờng, Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao

trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên, Nxb Nông nghiệp

Hà Nội.

41. Cổng Thông tin Chính phủ, TS. Vũ Trƣờng Giang, Bảo tồn tri thức bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

địa của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

90

NHỮNG NGƢỜI CUNG CẤP THÔNG TIN

Stt

Tên

Địa chỉ

Nghề nghiệp Tuổi

42 Bàn Thị Bé

Gốc Dẻ- Lục Sơn-Lục Nam

Làm ruộng

63

43 Bàn Thị Chính Gốc Dẻ- Lục Sơn-Lục Nam

Làm ruộng

70

44 Bàn Thị Hoa

Vua Bà - Trƣờng Sơn - Lục Nam

Làm ruộng

62

45 Bàn Thị Phƣơng Gốc Dẻ - Lục Sơn - Lục Nam

Làm ruộng

70

46 Bàn Thị Tý

Gốc Dẻ- Lục Sơn-Lục Nam

Làm ruộng

72

47 Đặng Thị Ninh Gốc Dẻ- Lục Sơn-Lục Nam

Làm ruộng

65

48 Đặng Thị Phan Văn Non-Lục Sơn-Lục Nam

Làm ruộng

75

49 Đặng Văn Minh Vua Bà – Trƣờng Sơn – Lục Nam

Làm ruộng

59

50 Đặng Văn Tuân Văn Non-Lục Sơn-Lục Nam

CB nghỉ hƣu

83

51 Lã Văn Long

Gốc Dẻ- Lục Sơn-Lục Nam

Làm ruộng

53

52 Lý Thị Lan

Gốc Dẻ- Lục Sơn-Lục Nam

Làm ruộng

75

53 Lý Thị Quyết

Văn Non-Lục Sơn-Lục Nam

Làm ruộng

74

54 Lý Thị Tƣ

Gốc Dẻ- Lục Sơn-Lục Nam

Làm ruộng

71

55 Lý Văn Bình

Vua Bà – Trƣờng Sơn – Lục Nam

Thầy cúng

56

56 Lý Văn Chính

Vua Bà – Trƣờng Sơn – Lục Nam

Làm ruộng

55

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

91

PHỤ LỤC ẢNH

Hình 1: Trang phục của ngƣời Dao Thanh Y ở Lục Sơn - Lục Nam

(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)

Hình 2: Mũ dội đầu của phụ nữa Dao Thanh Y ở Lục Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)

92

Hình 3: Dụng cụ cắt lúa nƣơng (khu nhíp) của ngƣời Dao ở Lục Nam

(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)

Hình 4: Hái cắt lúa nƣớc của ngƣời Dao ở Lục Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)

93

Hình 5: Cào quắm: dụng cụ làm cỏ cho lúa trên nƣơng

(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)

Hình 6: Cào làm cỏ lạc của ngƣời Dao ở Lục Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)

94

Hình 7: Đòn sóc gánh lúa của ngƣời Dao ở Lục Nam

(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)

Hình 8: Quạt hòm dùng để quạt thóc của ngƣời Dao ở Lục Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)

95

Hình 9: Ruộng bậc thang của ngƣời Dao ở Lục Nam

(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)

Hình 10: Chuồng nuôi lợn của ngƣời Dao ở Lục Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Nguồn ảnh của Nguyễn Đức Thiện tháng 6 năm 2010)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

96

97

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN LỤC NAM

98

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN LỤC NAM .......................................... 7

1.1. Lịch sử hành chính huyện Lục Nam .................................................... 7

1.2. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên ............................................................. 8

CHƢƠNG 2: TRI THỨC DÂN GIAN TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA

NGƢỜI DAO HUYỆN LỤC NAM TỈNH BẮC GIANG TRONG TRUYỀN

THỐNG ......................................................................................................... 21

1.3. Nguồn gốc ngƣời Dao ở huyện Lục Nam........................................... 10

2.1. Quan niệm về tri thức dân gian .......................................................... 21

2.2. Hệ thống tri thức dân gian về sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao Lục

CHƢƠNG 3: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA TRI THỨC DÂN GIAN TRONG SẢN XUẤT

NÔNG NGHIỆP CỦA NGƢỜI DAO Ở HUYỆN LỤC NAM TỈNH BẮC GIANG

HIỆN NAY .................................................................................................... 52

Nam trong truyền thống ............................................................................ 23

3.1. Những yếu tố tác động đến sự biến đổi của tri thức dân gian trong sản

xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở Lục Nam ............................................ 52

3.2. Quá trình biến đổi của tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của

ngƣời Dao ở Lục Nam .............................................................................. 60

3.3. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tính tích cực của tri thức

KẾT LUẬN ................................................................................................... 84

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 87

PHỤ LỤC ẢNH ............................................................................................. 91

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ................................. 70