Triết lý quân sự trong nghệ thuật cầm quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
lượt xem 2
download
Tài thao lược của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật và hậu cần trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị, ngoại giao và thực tế chiến trường. Tham luận "Triết lý quân sự trong nghệ thuật cầm quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp" khái quát triết lý quân sự trong nghệ thuật cầm quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và chỉ ra giá trị lịch sử của triết lý ấy. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Triết lý quân sự trong nghệ thuật cầm quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
- TRIẾT LÝ QUÂN SỰ TRONG NGHỆ THUẬT CẦM QUÂN CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP ThS. Nguyễn Trọng Khánh1* - ThS. Nguyễn Thái Hòa2 1 Đại học Cảnh sát Nhân dân Tp. Hồ Chí Minh 2 Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Đà Lạt Email*: nguyentrongkhanhcs@gmail.com Tóm tắt: Tài thao lược của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật và hậu cần trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị, ngoại giao và thực tế chiến trường. Sức mạnh hơn hẳn về kinh tế, tính hiện đại về công nghệ cùng với sức mạnh áp đảo về quân sự và hỏa lực khổng lồ của các quốc gia phương Tây đã phải khuất phục trước tài thao lược của một vị tướng từng một thời là thầy giáo dạy sử. Nhữ ng đóng góp về nghệ thuật quân sự củ a Đại tướng Võ Nguyên Giá p là vô cùng to lớn, góp phần đưa Đại tướng xứng đáng được ghi vào sử sách ngang hàng với những danh tướng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và trên thế giới. Hiện nay, tư tưởng nghệ thuật quân sự của Đại tướng vẫn vẹn nguyên giá trị cho toàn Đảng, toà n Dân và toà n Quân ta. Tham luận, khái quát triết lý quân sự trong nghệ thuật cầm quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và chỉ ra giá trị lịch sử của triết lý ấy. Từ khóa: triết lý quân sự, nghệ thuật cầm quân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong sự nghiệp cầm quân của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn kiên định và quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân ta tiến hành sáng tạo, linh hoạt và đầy hiệu quả. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Đại tướng đã có đóng góp quan trọng trong chỉ đạo tiến hành chiến tranh nhân dân bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước, với triết lý quân sự độc đáo như: lấy dân làm gốc, chiến tranh toàn dân, chiến tranh toàn diện, trường kỳ kháng chiến với tự lực cánh sinh là chính lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh, đánh chắc thắng chắc,... Có thể nói, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là kết quả tất yếu của sự hội tụ, kết tinh toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần, những nhân tố tạo nên sức mạnh văn hóa của dân tộc Việt Nam. Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, triết lý về chiến tranh nhân dân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại thể hiện sự phát triển mới. Đó là việc tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân vững mạnh; “luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, giữ vững độc lập, chủ quyền, coi trọng việc xây dựng sức mạnh 43
- tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân”1. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực tự cường, từng bước hiện đại là phương châm cơ bản của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện tốt điều đó vừa đáp ứng yêu cầu đấu tranh trong thời bình, tạo sức mạnh ngăn chặn âm mưu gây chiến của kẻ thù, vừa đáp ứng yêu cầu chiến tranh nếu xảy ra. Có thể nói, chính những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là nền tảng vững chắc, là động lực chính trị, là tinh thần, là nguồn minh triết vô tận,... có ý nghĩa quyết định để quân và dân ta có một Đại tướng Võ Nguyên Giáp xuất sắc, có một chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Triết lý lấy dân làm gốc và chiến tranh nhân dân Một trong những nét độc đáo của người Việt Nam trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, đó là đánh giặc bằng sức mạnh văn hóa, triết lý này được thế giới công nhận rộng rãi với vô số lần nhắc đến trong nghệ thuật quân sự. Chiến thắng Điện Biên Phủ, ngoài thắng lợi của đường lối chỉ đạo chiến lược, về tổ chức hoạt động quân sự, tài thao lược của nghệ thuật quân sự thì vấn đề cơ bản, cốt lõi là từ sức mạnh văn hóa dân tộc với triết lý “lấy dân làm gốc”. Sức mạnh văn hóa ấy được kế thừa từ truyền thống văn hóa quân sự rất phong phú của dân tộc, tồn tại như một dòng chảy liên tục từ truyền thống tới hiện đại. Những quan điểm, tư tưởng, triết lý quân sự, triết lý giữ nước của dân tộc ta được đúc kết trong lịch sử, như “phải giữ nước từ khi nước chưa nguy”2, “khoan thư sức dân, sâu rễ bền gốc”3, “tướng sĩ một lòng phụ tử”4, “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo” 5… thể hiện rõ sức mạnh văn hóa dân tộc trong chiến tranh. Đến thời đại Hồ Chí Minh, sức mạnh văn hóa tiếp tục được nhân lên với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”6, “không có gì quý hơn độc lập tự do”7… phản ánh giá trị văn hóa và sức mạnh văn hóa dân tộc rất sâu sắc. Những giá trị đó đã trở thành chuẩn mực, truyền thống và phẩm chất của người Việt Nam, là nhân tố quan trọng xây dựng bản lĩnh và nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”, tạo nên bản sắc quân sự độc đáo của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong nghệ thuật quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thì cội rễ minh triết quân sự là ba yếu tố cốt lõi hợp thành: Lấy dân làm gốc - Lòng yêu nước – Chiến tranh nhân dân. Đó cũng là tư tưởng “dân là gốc” của Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Hồ Chí Minh… được Đại tướng vận dụng, quán xuyến trong mọi suy nghĩ và 1 Võ Nguyên Giáp (2023), Tổng tập hồi ký, Nxb. Quân đội Nhân dân, tr.1357. 2 Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 1: Buổi đầu dựng nước, nguồn http://lichsuvn. info/forum/ showthread.php? =7366. 3 Lịch sử Việt Nam (1976), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, Tập 1, tr.80. 4 Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo, nguồn: Wikisource.org. 5 Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo, nguồn: Wikisource.org. 6 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.1018.. 7 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.13. 44
- hành động của mình,... Đa ̣i tướng nó i: “Vi ̣ tướng giỏ i nhấ t ở Viê ̣t Nam là Nhân dân”8. Nhờ từ Nhân dân mà ra, không ho ̣c qua mô ̣t trường võ bi nà o, chỉ bằ ng nghê ̣thuâ ̣t “chiế n ̣ tranh nhân dân” mà đánh ba ̣i hai đế quố c to là Phá p và Mỹ, thu giang sơn về mô ̣t mố i. Từ minh triế t “lấ y dân là m gố c”, lấ y ít đánh nhiề u, lấ y yế u thắ ng ma ̣nh, Đại tướng Võ Nguyên Giá p đã hiện thực hóa bằng nhữ ng quyế t đinh mang tính chất quyết định trong ̣ tư duy quân sự vô cù ng tà i tình và hiê ̣u quả , minh chứ ng qua Chiế n dich biên giớ i (1950), ̣ Chiế n dich Điê ̣n Biên Phủ (1954) và Chiế n dich Hồ Chí Minh (1975). ̣ ̣ Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là sự hội tụ, kết tinh toàn bộ giá trị, những nhân tố tạo nên sức mạnh văn hóa dân tộc Việt Nam. Chiến dịch Điện Biên Phủ cho thấy, vai trò sức mạnh văn hóa dân tộc Việt Nam vô cùng to lớn. Chiến dịch đã huy động được tối đa những tiềm năng sức mạnh vật chất và tinh thần; huy động sức người, sức của, thực hiện “cả nước đồng lòng, toàn dân đánh giặc”; kế thừa và phát huy cao độ truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng căm thù giặc, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, quyết tâm chiến đấu thắng lợi; kế thừa nghệ thuật quân sự đánh giặc độc đáo, sáng tạo, mang đậm bản sắc dân tộc, hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại mới. Chính những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là nền tảng vững chắc, là động lực chính trị, tinh thần - một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định để quân và dân ta giành thắng lợi trong chiến dịch. Tư duy chiế n lươc chiế n tranh nhân dân đã đươ ̣c Đa ̣i tướng Võ Nguyên Giáp đúc ̣ kế t trong nhiề u tá c phẩ m mang tính “binh phá p” củ a mình: Đội quân giả i phó ng (1947); Mấ y vấ n đề đường lố i quân sự củ a Đảng (1970); Vũ trang quầ n chú ng cá ch mạng, xây dựng quân đội nhân dân (1972); Chiế n tranh giả i phó ng dân tộc và chiế n tranh bả o vê ̣ Tổ quố c (1979); Đường tớ i Điê ̣n Biên Phủ ; Tổ ng hà nh dinh trong mù a xuân đại thắ ng (2000)... Đó là viê ̣c tâ ̣p trung xây dựng nề n quố c phò ng toà n dân, thế trâ ̣n quố c phò ng toà n dân gắ n vớ i thế trâ ̣n an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân vữ ng ma ̣nh. Đa ̣i tướng nó i: “Luôn luôn nêu cao tinh thầ n cả nh giá c, giữ vữ ng độc lập, chủ quyề n, coi trọng viê ̣c xây dựng sứ c mạnh tổ ng hợp củ a nề n quố c phò ng toà n dân”9. Theo Đa ̣i tướng Võ Nguyên Giáp, tổ chứ c xây dựng nề n quố c phò ng toà n dân, toà n diê ̣n, đô ̣c lâ ̣p tự chủ , tự lực tự cường, từ ng bước hiê ̣n đa ̣i là phương châm cơ bả n củ a sự nghiê ̣p bả o vê ̣ Tổ quố c. Thực hiê ̣n tố t điề u đó vừ a đáp ứng yêu cầ u đấ u tranh trong thờ i bình, ta ̣o sứ c ma ̣nh ngăn chă ̣n âm mưu gây chiế n củ a kẻ thù , vừ a đáp ứng yêu cầ u chiế n tranh nế u xả y ra. Trong sự nghiệp cầm quân của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn kiên định và quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, 8 Ngô Minh (2014), Minh triế t Võ Nguyên Giá p, nguồn: https://cadn.com.vn/minh-triet-vo-nguyen-giap- post108097.html. 9 Trần Việt Khoa (2023), Tư duy chiến lược quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguồn: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tiep-lua-truyen-thong/tu-duy-chien-luoc-quan-su-cua-dai-tuong-vo-nguyen-giap- 745496. 45
- vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân ta tiến hành sáng tạo, linh hoạt và đầy hiệu quả. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Đại tướng đã có đóng góp quan trọng trong chỉ đạo tiến hành chiến tranh nhân dân bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước: Chiến tranh toàn dân, toàn diện; trường kỳ kháng chiến với tự lực cánh sinh là chính, sự ủng hộ, viện trợ bên ngoài là quan trọng… Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tư duy về chiến tranh nhân dân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại thể hiện sự phát triển mới. Đó là việc tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân vững mạnh; “luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, giữ vững độc lập, chủ quyền, coi trọng việc xây dựng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân”10. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực tự cường, từng bước hiện đại là phương châm cơ bản của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện tốt điều đó vừa đáp ứng yêu cầu đấu tranh trong thời bình, tạo sức mạnh ngăn chặn âm mưu gây chiến của kẻ thù, vừa đáp ứng yêu cầu chiến tranh nếu xảy ra. Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo đánh giá: “Võ Nguyên Giáp là bậc thầy về cách đánh. Ông luôn tìm ra cách đánh độc đáo và sáng tạo, vừa bảo đảm thắng lợi cao nhất cho trận đánh, vừa hạn chế đến mức thấp nhất thương vong cho tướng sĩ. Ông là vị thống soái có tài thao lược kiệt xuất...”11 2.2. Triết lý “Lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh” Cùng với cả nước đánh giặc, nghệ thuật quân sự “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh” cũng chỉ ra rằng, cần phải có lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Vì vậy, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời đại Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Đây là sự kế thừa truyền thống giữ nước quý báu của dân tộc. Trong lịch sử nước nhà, tổ tiên ta cũng đã xây dựng lực lượng vũ trang nhiều thứ quân: quân triều đình (chủ lực); quân các lộ, phủ, châu; quân của các vương hầu, quý tộc; dân binh, thổ binh trong các làng, xã,… tựu chung lại có quân địa phương (tại chỗ) và quân chủ lực (cơ động). Quân địa phương được xây dựng mạnh, rộng khắp, đủ sức làm nòng cốt cho dân ở các địa phương đánh giặc. Quân chủ lực xây dựng theo quan điểm “ngụ binh ư nông”, “quân cốt tinh, không cốt nhiều” đủ sức cơ động thực hiện các đòn đánh tiêu diệt có trọng điểm. Bên cạnh đó, quân đội phải chính nghĩa, có ý chí, quyết tâm chiến đấu cao, như thời nhà Trần, quân sĩ đã thích hai chữ “Sát Thát” lên cánh tay để thể hiện quyết tâm diệt giặc. Phải huấn luyện quân sĩ tinh thông võ nghệ, “tập dượt cung tên khiến người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”, lại phải nắm vững binh pháp. Xây dựng quân đội có tinh thần đoàn 10 Võ Nguyên Giáp (2023), Tổng tập hồi ký, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tr.1357. 11 Trần Việt Khoa (2023), Tư duy chiến lược quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguồn: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tiep-lua-truyen-thong/tu-duy-chien-luoc-quan-su-cua-dai-tuong-vo-nguyen-giap- 745496. 46
- kết, “phải đạt được quân đội đồng lòng như cha con một nhà”12, “tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” có thế mới dùng được. Lại phải chọn dùng tướng giỏi để chỉ huy quân sĩ, “trong quân có người ốm, tướng phải thân hành đem thuốc điều trị, quân có người chết tướng phải khóc thương, quân đi thú xa thì sai vợ con đến nhà thăm hỏi”, song “Tướng dũng có thể giúp được việc đánh thành hãm trận, nhưng liệu tính việc địch, chia đặt quân kỳ, lâm cơ ứng biến nếu không có tướng trí thì không được. Mà kẻ dũng thì thường kém kẻ mưu”13. Do đó, khi “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh” bên cạnh những tướng giỏi cũng cần tướng có nhiều mưu lược để chỉ huy. 2.3. Triết lý “đánh chắc, thắng chắc” Bước vào chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954, so sánh lực lượng quân đội giữa ta và địch trên toàn chiến trường Đông Dương, quân Pháp hơn ta gấp gần 2 lần, hơn nữa Pháp được Mỹ viện trợ kinh tế, quân sự mạnh, có trang bị vũ khí hiện đại hơn ta. Dưới sự chỉ đạo của Đại tướng, ta đẩy mạnh chiến tranh du kích phối hợp với đơn vị chủ lực các liên khu để kìm giữ lực lượng cơ động chiến lược của Pháp; đẩy quân Pháp mất quyền chủ động về chiến lược, luôn bị động đối phó với ta trên khắp chiến trường Đông Dương; khó chi viện cho chiến trường chủ yếu Điện Biên Phủ, làm cho kế hoạch Navarre từng bước bị phá sản. Khi được trao toàn quyền chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ, với vai trò là Tư lệnh chiến dịch, Đại tướng đã kế thừa, vận dụng triết lý “đánh chắc, thắng chắc” của Bộ Chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh và đưa ra một quyết định lịch sử: đó là thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Với quyết định sáng suốt này, chiến dịch quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đã toàn thắng với sự hy sinh xương máu thấp nhất. Tướng Pháp Navarre phải thừa nhận: “Từ năm 1953, 75%-90% lực lượng viễn chinh Pháp đã bị kìm chân ở các địa phương. Ta nhanh chóng cơ động lực lượng chủ lực tập trung trên chiến trường chủ yếu Điện Biên Phủ: 3 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo, Trung đoàn Bộ binh 57 (Đại đoàn 304) và một số đơn vị binh chủng, bảo đảm. Quân Pháp ở Điện Biên Phủ có 19 tiểu đoàn và một số đơn vị quân, binh chủng. Ta đã tạo ưu thế về lực lượng, hỏa lực... lại ở thế có lợi và có cách đánh thích hợp, chuyển từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc””14 nên đã thực hiện thắng lợi quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ. 12 Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2003), Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 4, Hoạt động quân sự thời Trần (thế kỷ XIII - XIV), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.302. 13 Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2003), Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 4, Hoạt động quân sự thời Trần (thế kỷ XIII - XIV), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.307. 14 Trần Việt Khoa (2023), Tư duy chiến lược quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguồn: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tiep-lua-truyen-thong/tu-duy-chien-luoc-quan-su-cua-dai-tuong-vo-nguyen-giap- 745496. 47
- 2.4. Ý nghĩa triết lý quân sự trong nghệ thuật cầm quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa ở thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đốt phá thành trì hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, là niềm hy vọng tương lai tươi sáng, cổ vũ cho các dân tộc thuộc địa trên thế giới đứng lên đấu tranh đập tan chế độ thực dân, giành lại độc lập, tự do và nhân phẩm. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”15. Chiến thắng Điện Biên Phủ được coi là một di sản văn hóa quân sự tiêu biểu của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh và được biểu hiện ở các khía cạnh sau: Biểu hiện cao đẹp của tinh thần yêu nước và khát vọng độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ là biểu hiện cao đẹp của tinh thần yêu nước và khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của dân tộc ta. Đó là một động lực tinh thần to lớn trong hoạt động quân sự của quân và dân ta, biểu hiện ở lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm chiến đấu tới cùng, chấp nhận mọi hy sinh, gian khổ để giành thắng lợi. Trong thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi các cấp ủy và cán bộ, chiến sĩ tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày 11/5/1954, nêu rõ: “Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng rất lớn của quân và dân ta từ trước đến nay,… Bộ đội trên Mặt trận Điện Biên Phủ đã quyết tâm tiêu diệt địch, chịu đựng gian khổ, anh dũng chiến đấu. Bộ đội và dân quân du kích trên chiến trường toàn quốc đã liên tục hoạt động phối hợp. Cán bộ và chiến sĩ trong và ngoài Đảng đã trên dưới một lòng hoàn thành nhiệm vụ. Nhân dân đã tích cực tham gia kháng chiến, hăng hái phục vụ tiền tuyến, đi dân công”16. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là kết tinh của nhiều nhân tố, trong đó quan trọng nhất là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cách mạng, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở khối liên minh công - nông trở thành “vũ khí” mạnh nhất của dân ta; bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam. Đó chính là thắng lợi của lòng dũng cảm, ý chí quyết chiến, quyết thắng, đức hy sinh, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn của Quân đội nhân dân, lực lượng vũ trang Việt Nam trước những thử thách khắc nghiệt, tạo nên sức mạnh vô địch để chiến thắng quân xâm lược. Chiến thắng Điện Biên Phủ đồng thời là chiến thắng của tình đoàn kết chiến đấu bền chặt, thủy chung son sắt giữa quân đội và Nhân dân ba nước Đông Dương, sự đoàn kết, giúp đỡ to lớn của các nước anh em, bạn bè quốc tế. 15 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.410. 16 Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.97. 48
- Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 là cột mốc đánh dấu sự sụp đổ chủ nghĩa thực dân kiểu cũ. Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, cũng là phát đột phá khẩu dữ dội đánh sập hoàn toàn thành trì chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức trên thế giới đứng lên đấu tranh đòi quyền tự do, độc lập, quyền sống làm người. Đó còn là chiến thắng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh chống chiến tranh xâm lược, vì hòa bình và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 vĩ đại, đã chấm dứt cuộc chiến phi nghĩa mà những người Pháp tiến bộ, yêu hòa bình, tự do, công lý tiêu biểu như Henri Martin, Raymonde Dien từng lên án và đấu tranh đòi chính phủ Pháp phải đơn phương chấm dứt từ niệu năm trước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”17. “Ngọn lửa Điện Biên Phủ” với sức lan tỏa mãnh liệt đã thổi bùng phong trào cách mạng đang âm ỉ, thức tỉnh ý thức nhân dân sống dưới ách thống trị của thực dân cũ và mới vùng dậy đấu tranh, trở thành chất xúc tác gắn kết phong trào thành một khối vững chắc, là khởi nguồn tạo nên dòng thác khổng lồ cuốn trôi từng mảng lớn hệ thống thuộc địa đang rạn nứt của chủ nghĩa thực dân. Sự kiện Điện Biên Phủ đã nắn lại dòng chảy lịch sử, góp phần hình thành nên một cục diện mới ở khu vực châu Á, châu Phi. Chỉ ba tháng sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân dân Algérie, thuộc địa lớn nhất của Pháp đã nổi dậy đòi độc lập. Khi nói về thắng lợi này, Abdelkader Bensalah - Chủ tịch Thượng viện Algérie cho rằng: “Việt Nam là nguồn cảm hứng lớn. Cuộc đấu tranh anh hùng của nhân dân Việt Nam đã thôi thúc chúng tôi đi đến cùng trong cuộc kháng chiến giành độc lập. Việt Nam là biểu tượng của tự do và lòng dũng cảm. Chiến thắng Điện Biên Phủ trả lời cho chúng tôi câu hỏi, nhân dân Việt Nam có thể chiến thắng đế quốc thực dân, thì tại sao Algérie lại không thể”. Như một phản ứng dây chuyền, các thuộc địa khác của Pháp ở châu Phi như: Morocco, Sudan, Ghana, Guinea, Madagascar, Cameroon… vùng lên mạnh mẽ phá tung xiềng xích nô lệ, buộc thực dân Pháp phải trao trả nền độc lập. Chỉ riêng trong năm 1960 đã có 17 nước châu Phi giành được độc lập và đến năm 1967, Pháp buộc phải trao trả quyền độc lập cho tất cả các nước thuộc địa của Pháp. Điện Biên Phủ là “mồi thuốc dẫn” cho sự bùng nổ của phong trào giải phóng dân tộc với các quốc gia khu vực Mỹ Latinh, tiếp thêm sức mạnh cho họ đứng lên chống lại chế độ độc tài thân Mỹ, đấu tranh đòi thành lập các chính phủ tiến bộ. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang diễn ra liên tục, mạnh mẽ, tạo thêm nhiều “Điện Biên Phủ của châu Mỹ Latinh”. Bằng các hình thức đấu tranh đa dạng, nhiều nước như Bolivia, Venezuela, Colombia, Peru… đã lật đổ chính quyền độc tài phản động, thành lập chính phủ dân tộc, dân chủ, giành lại quyền tự quyết dân tộc. Đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, bước trưởng thành tác chiến vượt bậc của quân đội ta. Chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt 17 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.315. 49
- Nam, là một chiến công chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta trong thế kỷ XX. Điện Biên Phủ đã được Pháp xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm, với sự đầu tư xây dựng, trang bị hiện đại và được các chuyên gia quân sự Pháp, Mỹ đánh giá là “pháo đài bất khả xâm phạm”, “mồ chôn của Việt Minh”. Nhưng chúng đã nhầm, chính “pháo đài” đó đã trở thành mồ chôn chính chúng. Chiến thắng Điện Biên Phủ là trận quyết chiến thể hiện bước trưởng thành vượt bậc về tác chiến của quân đội ta. Quyết tâm chuyển đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” là quyết định lịch sử đúng đắn, sáng tạo, một minh chứng về tài quân sự, tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân và lòng dũng cảm của vị Tổng Tư lệnh - Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng như sự đồng lòng của toàn dân ta. Việc điều chỉnh phương châm tác chiến này kéo theo việc chuẩn bị lại chiến dịch với muôn vàn khó khăn, từ thế trận bố trí lực lượng đến nhu cầu hậu cần tăng lên gấp nhiều lần, song Quân đội nhân dân Việt Nam quyết tâm thực hiện và đã thực hiện thành công với một nỗ lực rất lớn. Sau chiến tranh, khi tổng kết, nghiên cứu về Chiến dịch Điện Biên Phủ, các tướng lĩnh và các nhà nghiên cứu của hai bên đều thống nhất cho rằng, một nguyên nhân chính làm nên chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam tại chiến dịch này là cách đánh sáng tạo, tổ chức tốt lực lượng, thế trận, sự trưởng thành vượt bậc của tác chiến tiến công hiệp đồng binh chủng và huy động được rất lớn sức người để bảo đảm hậu cần cho chiến dịch, một việc mà Pháp cho rằng không thể giải quyết được. Chỉ thị của Ban Bí thư ngày 11/5/1954 về việc tổ chức cuộc tuyên truyền, động viên mở rộng thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ khẳng định: “Thắng lợi này chứng tỏ quân ta đã tiến một bước vượt bậc về mặt chiến thuật, kỹ thuật, chỉ huy tác chiến và xây dựng quân đội vì trận Điện Biên Phủ là một trận công kiên lớn chưa từng có trong lịch sử từ trước đến nay đã kết thúc bằng sự toàn thắng của ta”18. Trong cuốn hồi ký “L'Agonie de L'Indochine” (Đông Dương hấp hối), một tác phẩm phân tích nguyên nhân thất bại của Pháp tại Đông Dương, tác giả H. Navarre khẳng định: “Nếu Tướng Giáp tiến công vào khoảng 25/1 như ý đồ ban đầu thì chắc chắn ông ta sẽ thất bại. Nhưng không may cho chúng ta, ông đã nhận ra điều đó và đây là một trong những lý do khiến ông tạm ngưng tiến công”19. 3. KẾT LUẬN Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 chứa đựng những giá trị văn hóa, triết lý vô cùng cao đẹp, sẽ mãi trường tồn trên con đường đi đến tương lai tươi sáng của dân tộc, bởi sự tiếp nối và phát huy không ngừng của nhiều thế hệ. Chiến thắng nhắc nhở mỗi người dân, mỗi cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang cần xác định cho mình trách nhiệm tôn vinh và tiếp nối truyền thống Điện Biên Phủ bằng những suy nghĩ, thái độ, động cơ và hành vi cụ thể để làm cho giá trị văn hóa dân tộc không ngừng được làm 18 Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.100. 19 Tạ Hữu Hùng (2019), Chiến thắng Điện Biên Phủ: Từ góc nhìn văn hóa quân sự, nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/quoc-phong2/-/2018/54831/chien-thang-dien-bien-phu--tu-goc-nhin-van-hoa-quan- su.aspx. 50
- giàu trong tình hình mới. Noi gương các thế hệ cha anh, các thế hệ hôm nay với tinh thần Chiến thắng Điện Biên Phủ, hướng tới những chiến thắng tầm vóc trong sự nghiệp đổi mới đất nước ở các lĩnh vực kinh tế, khoa học - công nghệ, giáo dục hay bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,… Trong điều kiện hiện nay, nhân dân, cán bộ, chiến sĩ tiếp tục khơi dậy những đức tính hy sinh, lòng dũng cảm của dân tộc, của “Bộ đội Cụ Hồ” trong Chiến dịch Điện Biên Phủ để tiếp tục hun đúc, phát triển tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ từng tấc đất, vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo của Tổ quốc trong tình hình mới. Mỗi hành động anh dũng trong giúp dân chống thiên tai, giải phóng những mảnh đất đang còn bom mìn, vật nổ, phục vụ cho phát triển kinh tế, quốc kế dân sinh đang tỏa sáng những giá trị văn hóa trong tình hình mới. Tinh thần, sức mạnh văn hóa dân tộc trong Chiến thắng Điện Biên Phủ tiếp tục tôi luyện các thế hệ cán bộ, chiến sĩ vươn tới những đỉnh cao trí tuệ của thời đại, nắm bắt khoa học - công nghệ hiện đại, làm chủ vũ khí công nghệ cao,… để góp phần bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ. 4. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Trần Thái Bình (2022), Bàn về nghệ thuật quân sự “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh” trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, nguồn: http://tapchiqptd.vn/vi/lich- su-quan-su-viet-nam/ban-ve-nghe-thuat-quan-su-lay-nho-thang-lon-lay-it-dich-nhieu-lay-yeu-danh- manh-trong-lich/19180.html. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. [3] Võ Nguyên Giáp (2023), Tổng tập hồi ký, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. [4] Tạ Hữu Hùng (2019), Chiến thắng Điện Biên Phủ: Từ góc nhìn văn hóa quân sự, nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/quoc-phong2/-/2018/54831/chien-thang-dien-bien-phu--tu-goc-nhin-van- hoa-quan-su.aspx. [5] Trần Việt Khoa (2023), Tư duy chiến lược quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguồn: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tiep-lua-truyen-thong/tu-duy-chien-luoc-quan-su-cua-dai-tuong-vo- nguyen-giap-745496. [6] Lịch sử Việt Nam (1976), tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. [7] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. [8] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [9] Ngô Minh (2014), Minh triế t Võ Nguyên Giá p, nguồn: https://cadn.com.vn/minh-triet-vo- nguyen-giap-post108097.html. [10] Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo, Nguồn Wikisource.org, [11] Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 1: Buổi đầu dựng nước, nguồn: http://lichsuvn. info/forum/ showthread.php? =7366. [12] Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2003), Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 4, Hoạt động quân sự thời Trần (thế kỷ XIII - XIV), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 51
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Phong cách sử dụng màu sắc trong cuộc sống
254 p | 568 | 353
-
Vài nét sơ lược về sự Phát triển của Triết học Trung Hoa - Phần 6
14 p | 139 | 37
-
Mối quan hệ mật thiết giữa triết lý âm - dương trong nghệ thuật ẩm thực Hàn Quốc
10 p | 236 | 17
-
Quan niệm nghệ thuật về con người của Rabindranath Tagore trong thơ trữ tình – tình yêu (Khảo sát qua tập Tâm tình hiến dâng)
6 p | 167 | 15
-
Việt Nam trong xu thế hội nhập phát triển dưới con mắt triết học - 1
7 p | 104 | 11
-
Phân loại khoa học của Charles Sanders Pierce: Lịch sử, nội dung và ý nghĩa
11 p | 70 | 7
-
SỰ cần thiết phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN - 2
7 p | 77 | 7
-
Về giá trị nghệ thuật sự gặp gỡ giữa quan điểm văn nghệ của Hải Triều với lý thuyết tiếp nhận hiện đại
5 p | 52 | 5
-
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và về vai trò của người thầy trong sự nghiệp trồng người
6 p | 84 | 4
-
Vũ trụ quan và nhân sinh quan của người Trung Quốc: Nhìn từ “thế giới lâm viên cổ điển” ở Tô Châu
7 p | 9 | 4
-
Bộ thư viện ITIL – thành phần và ứng dụng trong quản lý dịch vụ CNTT
4 p | 6 | 3
-
Vận dụng ca dao, tục ngữ vào giảng dạy học phần triết học Mác ‑ Lênin tại Trường ĐHSP Nghệ thuật TW
4 p | 16 | 3
-
Triết lý giáo dục đại học của Alfred North Whitehead và những điểm gợi mở đối với Việt Nam hiện nay
12 p | 15 | 3
-
Tạp chí Bách Khoa - Số 82: Phần 1
66 p | 69 | 3
-
Đánh giá sinh viên tốt nghiệp - khía cạnh đổi mới quan trọng trong đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo
13 p | 22 | 2
-
Một số vấn đề về việc áp dụng khoa học - công nghệ vào giảng dạy triết học Mác - Lênin trong giai đoạn hiện nay
9 p | 10 | 2
-
Phác thảo một số nội dung cơ bản trong triết lý giáo dục của John Dewey
8 p | 1 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn