Đề bài: Trình bày những nét chính về phong trào thơ Mới<br />
Bài làm<br />
Nền văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổi lên hai trào lưu văn <br />
học tiêu biểu: Văn học hiện thực phê phán và văn học lãng mạn. Nhắc đến trào lưu văn <br />
học lãng mạn không thể không nhắc đến thơ Mới. Đây là một phong trào văn học xuất <br />
hiện và nồ rộ trong vòng mười năm nhưng những thành tựu nó để lại là vô cùng lớn, làm <br />
nên một cuộc cách tân có ý nghĩa cách mạng về thơ ca.<br />
Theo Hoài Thanh, khái niệm thơ Mới phải được hiểu là mới cả về mặt nội dung và hình <br />
thức, mà trước hết là về nội dung, ông cũng cho rằng, thơ ca Việt Nam đi từ thời cổ điển <br />
sang hiện đại là đi từ chữ “ta” đến chữ “tôi” (Một thời đại trong thi ca). Ban đầu, thơ Mới <br />
được hiểu là thơ tự do nhưng đến chặng phát triển đỉnh cao của nó, khái niệm về thơ <br />
Mới được bổ sung và hoàn chỉnh. Thơ Mới là thơ ca phản ánh cái Tôi cá nhân của người <br />
nghệ sĩ với tất cả các cung bậc phong phú đa dạng, phức tạp của nó thông qua hình thức <br />
nghệ thuật có nhiều đổi mới, cách tân nhằm phát huy cá tính sáng tạo độc đáo của mỗi <br />
người nghệ sĩ.<br />
Thơ Mới ra đời là sự vận động phát triển của thơ ca nói chung mang tính tất yếu: đã đến <br />
lúc phải đổi mới, cách tân, nhất là về mặt thể loại để thoát khỏi tính qui phạm hạn chế <br />
cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Bên cạnh đó là sự biến đổi trong đời sống xã hội cũng <br />
làm nảy sinh một bộ phận công chúng mới và không thể không kể đến ảnh hưởng của <br />
văn học phương Tây nói chung, thơ ca lãng mạn và trường phái thơ tượng trưng Pháp nói <br />
chung. Quá trình hình thành của thơ Mới được đánh dấu bằng bài viết “Một lối thơ mới <br />
trình làng giữa làng thơ” kèm theo bài thơ “Tình già” của Phan Khôi đăng trên tờ “Phụ nữ <br />
tân văn” vào tháng 10 năm 1932. Trong bài viết của mình, Phan Khôi công khai chĩa mũi <br />
nhọn vào thơ ca cũ, loại thơ gắn liền với những qui phạm, niêm, luật, vần, đốì, gò bó, <br />
chặt chẽ. Từ đó, ông đề xướng, ra một tư tưởng mới: Thơ phải vượt ra khỏi tính qui <br />
phạm ấy. Thơ không bị bó hẹp bởi số câu, số chữ lại càng không bị chi phối bởi qui định <br />
bằng trắc, niêm luật trong thơ cũ. Với sự kiện này, Phan Khôi đã gây nên được cả một <br />
cao trào hưởng ứng. Chỉ trong một thời gian ngắn, phong trào thơ Mới đã chiếm được ưu <br />
thế trên thi đàn.<br />
Sự xuất hiện, vận động phát triển và đạt đỉnh cao và bước vào thoái trào của phong trào <br />
thơ Mới có thể chia thành ba chặng:<br />
Từ năm 1932 1935, đây là chặng đường phong trào thơ Mới đấu tranh về mặt lí luận, <br />
chứng minh về mặt thực tiễn để khẳng định vị trí, chỗ đứng của mình trên thi đàn văn <br />
học dân tộc. Sau một thời gian ngắn, phong trào thơ Mới thực sự thắng thế. Thơ Mới <br />
chiếm được cảm tình yêu mến của tầng lớp công chúng thị dân, trí thức tiểu tư sản, sinh <br />
viên, học sinh và thế hệ trẻ ở các đô thị. Họ tìm thấy ở đó bức chân dung tâm hồn của <br />
mình, tìm thấy sự giao cảm giữa người nghệ sĩ, thi ca với chính tâm hồn họ. Thơ Mới <br />
thời kì này tuy những sáng tác tuy còn ít ỏi nhưng thực sự có tiếng vang, bước đầu mang <br />
đến những cách tân mới mẻ.<br />
Từ 1936 đến 1939 có thể coi là chặng viên mãn của phong trào thơ Mới với sự xuất hiện <br />
của hàng loạt các tên tuổi mà về sau đã được Hoài Thanh, Hoài Chân tổng kết qua công <br />
trình nghiên cứu của mình, chỉ ra những sắc thái riêng như: Xuân Diệu, Huy Cận, Chế <br />
Lan Viên, Anh Thơ, Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử, Huy Cận... Đặc sắc của phong trài thơ <br />
Mới ở chặng này là nó diễn tả một cách chân thực, sinh động nhiều màu, nhiều vẻ cái tôi <br />
cá nhân của các thi sĩ. Dường như không có bất kì sự trùng hợp nào trong một tính chất <br />
thống nhất của thơ Mới là buồn, sầu, tủi ở mỗi người nghệ sĩ. Hơn nữa, trên bình diện <br />
hình thức nghệ thuật, mỗi nghệ sĩ tìm đã tìm được cách diễn đạt riêng của mình, thể hiện <br />
cá tính sáng tạo nhưng vẫn không tách rời sự gắn bó với quê hương đất nước dân tộc <br />
bằng những rung động trong sáng.<br />
Từ năm 1940 đến nãm 1945, thơ Mới bước vào giai đoạn thoái trào mà nguyên nhân trước <br />
hết là do bản chất của thơ Mới là tìm về cái Tôi, đào sâu cái Tôi cá nhân nhưng đào sâu <br />
mãi cái tôi cá nhân mà không chịu mở rộng nó ra bên ngoài và đưa bên ngoài vào cuộc <br />
sống của chính mình mà cái tôi trở nên nhỏ bé, tất yếu dẫn đến sự bế tắc, nhất là khi <br />
chưa tìm được ánh sáng lí tưởng mới soi đường. Điều này được thể hiện rất rõ trong tập <br />
“Ánh sáng và phù sa” của Chế Lan Viên:<br />
“Ta là ai ngọn gió siêu hình<br />
Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt”<br />
Thơ Mới ra đời là sự vận động phát triển của thơ ca nói chung mang tính tất yếu<br />
Cuộc chiến tranh xâm lược lần hai của thực dân Pháp với không khí bi thương từ thành <br />
thị tới nông thôn cũng ảnh hưởng không nhỏ tới tư tưởng của người nghệ sĩ thơ Mới, vốn <br />
là những người đang vì tôn thờ cái Tôi của mình mà đứng ngoài cuộc... Chính vì những <br />
điều đó mà ở giai đoạn này, thơ Mới có nhiều thay đổi. Các thi sĩ không còn sáng tác <br />
nhiều và sung sức như chặng trước, khiến cho thơ ca có diện mạo khá nghèo nàn. Những <br />
cái tôi cá nhân hoặc trở nên cũ mòn, không phù hợp hoặc mang màu sắc cá nhân, hưởng <br />
thụ với những triết lí của chủ nghĩa cá nhân người tư sản. Thơ Mới xuất hiện xu hướng <br />
chú trọng tới chủ nghĩa hình thức thuần túy như trong nhóm Xuân thu nhã tập. Mặt khác, <br />
một số nhà thơ chủ trương thành lập các trường phái thơ mang tên thơ điên, thơ loạn thể <br />
hiện sự bế tắc trong tư tưởng và quan niệm nghệ thuật. Thơ Mới bước vào giai đoạn <br />
thoái trào dể chuẩn bị cho sự phát triển theo những hướng mới, phù hợp hơn.<br />
Hình thành, phát triển đạt đỉnh cao và suy thoái trong vòng mười năm, không thể phủ nhận <br />
rằng các nhà thơ Mới và thơ ca của họ vẫn đứng ngoài cuộc đấu tranh chung của dân tộc, <br />
chưa phản ánh được những mảng hiện thực được coi là trung tâm, là sôi động nhất thời <br />
bấy giờ; cái Tôi cá nhân vẫn mang màu sắc bi quan chủ nghĩa nhưng thơ Mới cũng đã đạt <br />
được những thành tựu nổi bật. Nhìn chung thơ Mới có giai điệu, âm hưởng buồn nhưng <br />
với cảm hứng bay bổng và lãng mạn của mình thì ý nghĩa khách quan của nó chính là ở <br />
một thái độ đối lập, vượt qua khỏi thực tại đen tối thời bấy giờ, ngầm thể hiện ước mơ <br />
về những sự đổi thay. Thơ Mới đã được viết ra với cảm hứng về quê hương, đất nước, <br />
thiên nhiên, phong cảnh làng quê... rất đỗi quen thuộc. Nó chứng tỏ sự gắn bó với quê <br />
hương đất nước trong tâm hồn các thi sĩ. Đây cũng là một biểu hiện của lòng yêu nước, <br />
và tinh thần dân tộc của các nhà thơ Mới. Thơ Mới cũng mang đến một cuộc các mạng <br />
trong thi ca cả về mặt nội dung và hình thức thơ. Lần đầu tiên, “chữ tôi với cái nghĩa <br />
tuyệt đôi của nó” xuất hiện trong thi ca” cùng với đó là sự nở rộ của các phong cách thơ <br />
độc đáo không một sự lặp lại. Thơ Mới cũng đem đến sự cách tân mới mẻ trong hình <br />
thức thơ phá bỏ tính qui phạm nghiêm ngặt trước đó, mang đến cho thơ một màu sắc <br />
mới, một hình ảnh mới.<br />
Đóng góp đáng ghi nhận của thơ Mới là đã làm nên một cuộc cách tân có ý nghĩa cách <br />
mạng về thơ ca. Đó là một hiện tượng nên có, cần có và phải có trong thơ ca Việt Nam <br />
(Nguyễn Đăng Mạnh).<br />