intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Từ nghệ thuật giành thắng lợi từng bước đi đến thắng lợi hoàn toàn theo quan điểm của Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng Việt Nam

Chia sẻ: Liễu Yêu Yêu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

32
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Từ nghệ thuật giành thắng lợi từng bước đi đến thắng lợi hoàn toàn theo quan điểm của Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng Việt Nam" dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam để làm rõ nghệ thuật lãnh đạo cách mạng từ thắng lợi từng bước đến thắng lợi hoàn toàn trong tiến trình cách mạng Việt Nam theo quan điểm của Hồ Chí Minh. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Từ nghệ thuật giành thắng lợi từng bước đi đến thắng lợi hoàn toàn theo quan điểm của Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng Việt Nam

  1. TỪ NGHỆ THUẬT GIÀNH THẮNG LỢI TỪNG BƯỚC ĐI ĐẾN THẮNG LỢI HOÀN TOÀN THEO QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG VIỆT NAM Nguyễn Văn Linh1 1. Liên hệ email: linhnv@tdmu.edu.vn TÓM TẮT Giành thắng từng bước đi đến thắng lợi hoàn toàn là một phương pháp cách mạng, một tư tưởng lớn đầy sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là sản phẩm của sự kết hợp những nguyên lý, nguyên tắc cơ bản, biện chứng và khoa học của củ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh với sự tổng kết, khái quát những bài học kinh nghiệm đặc sắc và phong phú. Đó là sự kế thừa và phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước: “Lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”, “Lấy đoản binh thắng trường trận” trong truyền thống mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay, nhờ vận phương pháp đó, từng bước thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách mạng. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, mỗi bước đi của cách mạng, Đảng đã lựa chọn đúng con đường phát triển phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Đặc biệt, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (1/2021) chỉ rõ những bước đi cần thiết để: “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Từ khóa: Cách mạng Việt Nam, giành thắng từng bước, Hồ Chí Minh, thắng lợi hoàn toàn. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Giành thắng từng bước không chỉ được thể hiện nổi bật trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong kháng chiến chống ngoại xâm, mà còn là phương pháp cách mạng được sử dụng phổ biến trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng đất nước và đã trở thành một nghệ thuật. Đó là sự tổng kết truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước qua hàng nghìn năm của dân tộc ta, một trong những bài học vô cùng đặc sắc và quý báu được đúc kết từ thực tiễn sinh động, phong phú và sáng tạo của nhân dân ta. Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh đã biết vận dụng sáng tạo nghệ thuật đó, đã lãnh đạo đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: Thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á; thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nghệ thuật giành thắng lợi từng bước không chỉ được thể hiện rất nổi bật trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong kháng chiến chống ngoại xâm, mà còn là phương pháp cách mạng được sử dụng phổ biến trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng đất nước và đã trở thành một nghệ 273
  2. thuật. Đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới, tiến hành công nghiệp nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phương pháp cách mạng đó vẫn còn nguyên giá trị, giúp cách mạng Việt Nam vững bước tiến lên giành những thắng lợi mới to lớn hơn, thực hiện xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bài viết dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Bài viết sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành, trong đó, chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic. Ngoài ra, bài viết còn sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp… để làm rõ nghệ thuật lãnh đạo cách mạng từ thắng lợi từng bước đến thắng lợi hoàn toàn trong tiến trình cách mạng Việt Nam theo quan điểm của Hồ Chí Minh. 3. GIÀNH THẮNG LỢI TỪNG BƯỚC THEO QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, lần đầu tiên xuất hiện trên chính trường với tên gọi Nguyễn Ái Quốc (1919) - Hồ Chí Minh cùng với một số người Việt Nam yêu nước ở Pháp khi đó gửi tới Hội nghị Vécxây bản Yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam. Bản Yêu sách yêu cầu chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương phải giải quyết quyền tự do, bình đẳng tối thiểu cho nhân dân An Nam. Bản yêu sách không được Hội nghị chấp nhận, từ đó có người cho rằng nó không có tác dụng gì. Nhưng, như theo nhà sử học Pháp Sáclơ Phuốcniô: từ ngày Nguyễn Ái Quốc gửi Bản yêu sách đến Hội nghị Vécxây, Việt kiều hướng cả về anh... Việt kiều tìm đến Nguyễn Ái Quốc để được anh khuyên bảo, giao nhiệm vụ... và vạch ra cho họ thấy cần phải đi con đường nào. Chính sự kiện này đã làm cho Nguyễn Ái Quốc trở thành nhân vật “nguy hiểm” nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp, đã bị chính quyền Pháp theo dõi từng bước rất chặt chẽ, hơn nữa còn bị thẩm vấn, đe doạ, dụ dỗ và tìm mọi cách triệt hại về sau này (Đặng Xuân Kỳ, 2004). Việc tố cáo tội ác và vạch trần bản chất xấu xa, tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp và chủ nghĩa thực dân nói chung để thức tỉnh nhân dân Việt Nam, nhân dân các nước thuộc địa cũng như giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân ở ngay trên đất Pháp; việc đấu tranh để thực hiện và phát triển những luận điểm của Lênin về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc trong Đảng Cộng sản Pháp và trong phong trào cộng sản quốc tế trong những năm 20 của thế kỷ XX là những thắng lợi quan trọng tiếp theo của Nguyễn Ái Quốc. Giai đoạn từ 1925 - 1930 là thời gian Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 là kết quả tất yếu của sự phát triển đó, tạo nên bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử đối với cách mạng Việt Nam. Tại Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930, đã thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng. Trong đó, nội dung của Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt thể hiện rõ đường lối của cách mạng Việt Nam, với chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã phản ánh sự kết hợp giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ 274
  3. XX; đồng thời, là sản phẩm của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã giương cao ngọn cờ lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, làm nên một cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ Tĩnh. Lúc này, cao trào đã diễn ra đều khắp ở 25 tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt mạnh mẽ từ Ngày Quốc tế Lao động 1/5/1930, trong đó, Nghệ Tĩnh là nơi phát triển mạnh mẽ nhất. Nhiều cuộc đấu tranh với các hình thức như rải truyền đơn, treo cờ Đảng, tổ chức mít tinh, biểu tình, tuần hành thị uy... Cuộc đấu tranh ngoài mục tiêu kinh tế, còn có mục tiêu chính trị, kết hợp mục tiêu kinh tế với chính trị; kết hợp giữa thành thị và nông thôn; lực lượng cách mạng đã có sự liên kết giữa công nhân nhà máy với nông dân làng xã... Cao trào cách mạng 1930 - 1931 là một sự kiện trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chính quyền Xô viết Nghệ Tĩnh dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn và còn sơ khai nhưng đã để lại những dấu ấn tốt đẹp về một nhà nước công - nông đầu tiên, chưa có trong tiền lệ lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của người dân nô lệ. Đến cao trào cách mạng 1936 - 1939, đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh trong thời kỳ mới là từ đấu tranh bí mật sang công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm tập hợp quần chúng rộng rãi, giáo dục và lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Từ “thắng một bước” về tập hợp lực lượng, xuất phát từ tình hình thực tế của đất nước, Đảng ta đã dần hình thành Mặt trận với tính chất của một tổ chức quần chúng rộng lớn; từ đó huy động thêm lực lượng để xây dựng thực lực cách mạng: “Dựa chắc vào lực lượng tích cực, tranh thủ các lực lượng trung gian, phân hóa và cô lập kẻ thù”. Khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, phátxít Nhật nhảy vào Đông Dương, thực dân Pháp đã quỳ gối dâng Đông Dương cho Nhật, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bảy chỉ rõ: “Chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế mới…nó phải ứng dụng khôn khéo để thực hiện nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2000a) Đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tập trung vào “Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là nhiệm vụ trước tiên”, “Chưa chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc”, “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của của toàn thể dân tộc”, “Trong giai đoạn hiện tại ai cũng biết rằng: nếu không đánh đuổi được Pháp-Nhật thì vận mạng của dân tộc phải chịu kiếp ngựa trâu muôn đời, mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải quyết được” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2000b). Thể hiện tinh thần biết thắng từng bước, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (5/1941) xác định chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc “Không phải giai cấp vô sản Đông Dương bỏ mất nhiệm vụ điền địa đâu, cũng không phải đi lùi lại một bước, mà chỉ bước một bước ngắn hơn để có sức mà bước một bước dài hơn” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2000b) Chủ 275
  4. trì Hội nghị Trung ương tám của Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy” (Hồ Chí Minh, 2011a). Đây là sự chuyển hướng chiến lược đặc biệt quan trọng, phù hợp với những biến đổi của tình hình thế giới và trong nước đang diễn biến rất nhanh chóng. Đảng ta đã thấy sự cần thiết phải lãnh đạo quần chúng từ đấu tranh chính trị, từng bước tiến lên đấu tranh vũ trang để tiến tới giành chính quyền khi thời cơ đến. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, dân tộc ta lại bước vào một thời kỳ hết sức hiểm nghèo, tình thế như “ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân tập trung chống ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Khi cuộc kháng chiến lan rộng, chủ trương “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” đã được đẩy mạnh trong cả nước. Cuộc cách mạng ruộng đất được tạm gác lại trước Cách mạng Tháng Tám đỡ được rải ra thực hiện từng bước cùng với việc đẩy mạnh công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bằng các biện pháp thích hợp như giảm tô, giảm tức, hiến điền, tạm cấp ruộng đất ... Chưa bao giờ phương pháp biết thắng từng bước lại được sử dụng nhiều như trong thời kỳ này. Nhờ đó, chính quyền cách mạng đã được giữ vững, chúng ta đã tranh thủ được thời gian xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài mà ta biết trước là khó tranh khỏi. Việc ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946 thực sự là mẫu mực của nghệ thuật về sách lược, nghệ thuật biết thắng từng bước, của sự nhân nhượng có nguyên tắc, để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu quyết liệt sau đó. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp phát triển đến đỉnh cao, chúng ta đã tiến hành cải cách ruộng đất, nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi quyết định, đồng thời hoàn thành nốt nhiệm vụ cơ bản thứ hai của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trước âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ độc lập, tự do. Khi cơ hội tìm kiếm giải pháp hòa bình không còn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chủ động mở đầu cuộc kháng chiến đúng thời điểm và kịp thời chuyển cả nước vào thời chiến, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân. Ngay đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, trong đó Người khẳng định rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”. Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính” trở thành ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Với chiến thắng Việt Bắc (1947), chiến thắng Biên giới (1950) và nhiều chiến thắng của ta sau đó ở cả miền Nam và miền Bắc, địch từ thế chủ động đã rơi vào thế ngày càng bị động, ta từ thế phòng ngự đã chuyển từng bước sang thế phản công trên quy mô ngày càng lớn, từ du kích chiến chuyển dần sang vận động chiến, công kiên chiến, trận địa chiến, làm thất bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của địch. Những thắng lợi từng bước ấy đã tạo điều kiện cho ta đi đến giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, làm cho chủ nghĩa thực dân Pháp bị sụp đổ hoàn toàn ở Việt Nam, đồng thời mở ta thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ là một cột mốc lịch sử hết sức quan trọng, nhưng mục tiêu độc lập, thống nhất Tổ quốc vẫn chưa hoàn thành. 276
  5. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), trước đội quân đế quốc đầu sỏ, có nền kinh tế, khoa học, công nghệ phát triển và tiềm lực quân sự hùng mạnh, Đảng ta đã lãnh đạo quân và dân ta thực hiện phương châm “đánh lâu dài” và nghệ thuật “thắng lợi từng bước”, từ đó để ta có điều kiện xây dựng, từng bước phát triển lực lượng; đồng thời khoét sâu được mâu thuẫn nội bộ địch, đẩy chúng vào thế bị động, lúng túng về chiến lược, chiến dịch và cách đánh. Trong tình hình đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng: miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong cuộc chiến đấu dài nhất lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, trải qua 21 năm chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, phương pháp giành thắng lợi từng bước cũng như các phương pháp cách mạng khác lại được phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam lần lượt đánh thắng mọi chiến lược mà năm đời Tổng thống Mỹ đã thực hiện ở Việt Nam: Chiến lược chiến tranh đơn phương, Chiến lược chiến tranh đặc biệt, Chiến lược chiến tranh cục bộ, Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Để đánh thắng chiến lược chiến tranh của Mỹ, ta đã lần lượt đánh bại các biện pháp chiến lược, chiến thuật của địch, tiêu diệt từng đơn vị quân đội ngụy, làm cho chúng hao hụt quân số, sa sút tinh thần chiến đấu, không phát huy được vai trò “nòng cốt” của cuộc chiến tranh như Mỹ kỳ vọng, đồng thời làm phá sản quốc sách ấp chiến lược, giải phóng nhân dân, giải phóng đất đai, thu hẹp vùng chiếm đóng của địch. Trước nguy cơ bị phá sản của chiến lược Chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ quyết định chuyển sang Chiến tranh cục bộ đưa quân chiến đấu trên bộ vào miền Nam và thực hiện chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc. Trước bối cảnh đó, nghệ thuật thắng địch từng bước đã chuyển sang thực hiện phương châm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Thực hiện phương châm này, ở miền Nam, quân và dân ta đã liên tục tiến công địch, giành thế chủ động trên chiến trường, lần lượt đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 của Mỹ - ngụy. Đặc biệt, đúng vào đêm Giao thừa Tết Mậu Thân 1968, Quân Giải phóng đã bất ngờ mở cuộc tiến công vào hầu khắp các đô thị trên toàn miền Nam; đánh thẳng vào các cơ quan đầu não, khiến Mỹ và chính quyền Sài Gòn choáng váng; làm sụp đổ kế hoạch chiến tranh của chính quyền Tổng thống Johnson và gây ra sự phản ứng mạnh mẽ của nhân dân Mỹ. Ở miền Bắc, quân và dân ta đã đập tan các cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ (từ ngày 5/8/1964 đến cuối năm 1972), góp phần quan trọng cùng quân và dân miền Nam buộc Mỹ phải xuống thang hoàn toàn chiến tranh và buộc phải ký kết Hiệp định Paris ngày 27/ 1/1973. Bằng nghệ thuật thắng từng bước, nhân dân ta không chỉ lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ. Trên cơ sở thế và lực của ta, đến giai đoạn cuối cuộc chiến tranh, quân và dân ta thực hiện chuyển phương châm tác chiến từ “thắng lợi từng bước” sang nỗ lực “giành thắng lợi quyết định, rồi tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”. Thực hiện phương châm mới, quân và dân miền Nam tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, lần lượt giành chiến thắng trong các đòn tiến công chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và cuối cùng là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi 30 năm chiến tranh giải phóng giải phóng dân tộc, thu giang sơn về một mối. 277
  6. 4. GIÀNH THẮNG LỢI TỪNG BƯỚC TRONG TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC Việc đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội trước đây, cũng như đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ sau năm 1975 trở đi cũng không thể đi ngay đến mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà phải trải qua nhiều bước, nhiều chặng đường, phải giành thắng lợi từng bước, từng chặng. Theo mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội Đảng lần thứ IV xác định, trong thời kỳ 1976 - 1986, bên cạnh những thắng lợi to lớn trong bảo vệ Tổ quốc và nhiều thành tựu đáng kể trong xây dựng đất nước, tình hình kinh tế, xã hội của Việt Nam cũng đã bộc lộ nhiều sai lầm, yếu kém và lâm vào tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng hơn. Thực trạng đó của Việt Nam cùng với những chuyển biến sâu rộng của cục diện thế giới đã đặt ra cho Đảng vấn đề đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đứng trước bối cảnh những khó khăn của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những tìm tòi, đổi mới từng bước để đi đến đổi mới toàn diện đất nước. Quá trình đi tới đường lối đổi mới của Đảng đã diễn ra qua nhiều trăn trở, tìm tòi, khảo nghiệm trong đó có 3 bước đột phá lớn. Bước đột phá mở đầu là Hội nghị Trung ương 6, khoá IV (8/1979) chủ trương bằng mọi cách “làm cho sản xuất bung ra”; không còn xem kế hoạch hoá là hình thức duy nhất để phát triển kinh tế; khẳng định sự cần thiết phải kết hợp kế hoạch với thị trường. Bước đột phá thứ hai là Hội nghị Trung ương 8, khóa V (6/1985) với chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Bước đột phá thứ ba là Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8/l986) với “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”: Thứ nhất, trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc; Thứ hai, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Thứ ba, trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá, tiền tệ, dút khoát xoá bỏ cơ chế tập trung, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Kết luận nói trên của Bộ Chính trị có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng việc soạn thảo lại một cách căn bản Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng, Đại hội quyết định đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986), Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới toàn diện đất nước. Đường lối đổi mới của Đảng, trọng tâm là đổi mới kinh tế chính là tư duy mới về 3 vấn đề cơ bản: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chính lớn cơ cấu đầu tư, trước mắt tập trung cho 3 chương trình kinh tế lớn (sản xuất lương thực-thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu); Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa (từ cơ chế khế hoạch hóa sang cơ chế thị trường). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991) với tinh thần: Trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế -xã hội đến năm 2000,… Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh đã trình bày khái quát những biến đổi to lớn và sâu sắc của tình 278
  7. hình quốc tế tác động đến cách mạng nước ta, nêu lên quan niệm của Đảng về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta sẽ xây dựng là một xã hội có 6 đặc trưng cơ bản: Do nhân dân lao động làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đại hội VIII (6/1996) khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, tiếp tục làm rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và chặng đường tiếp theo trong thời kỳ quá độ; chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóc đất nước là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020; xem đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; làm rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; tiếp tục khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; nhấn mạnh phát triển giáo dục- đào tạo và khoa học- công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001), xác định mục tiêu chung của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện tại là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (điểm mới trong mục tiêu chung này có thêm từ “dân chủ”); đánh giá sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn vị trí, vai trò tư tưởng Hồ Chí Minh; khẳng định mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội cho rằng con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học - công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4/2006) với chủ đề: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Đại hội đã cho rằng nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa cã hội của Đảng đã ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản, xác định mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là 8 đặc trưng. Cùng với đó, tất cả các lĩnh vực của đất nước như chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội , quốc phòng - an ninh và đối ngoại, xây dựng Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng Đảng… được đổi mới đồng bộ để rồi sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Việt Nam đã giành được những thành tựu rất quan trọng. Kinh tế tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định. Nền kinh tế Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, 279
  8. duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được củng cố; thế và lực của đất nước được tăng cường; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1/2011)đã thông qua Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, nêu lên mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là: xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (1/2016) với chủ đề “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đó là những quan điểm vừa có tính kế thừa, vừa có sự đổi mới sáng tạo, mở ra giai đoạn phát triển nhanh và bền vững cho công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới. Đặc biệt, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (1/2021), đã đề ra mục tiêu phát triển tổng quát là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Mục tiêu tổng quát trên đây cũng chính là phương hướng tổng quát, nhiệm vụ cốt lõi, những động lực chủ yếu để phát triển đất nước nhanh và bền vững vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cuối nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, Việt Nam đã ra khỏi tình trạng nước nghèo (có thu nhập thấp), kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (khái niệm nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp đã được sử dụng trong nhiều văn kiện của Đảng, Nhà nước ta). Năm 2020, nước ta đã có thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779USD, vẫn là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp. Trên cơ sở vừa kế thừa mục tiêu được các Đại hội trước đề ra, vừa tiếp thu các tiêu chí theo thông lệ quốc tế, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các mục tiêu cụ thể phát triển đất nước trong những năm tới: Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp (GDP bình quân đầu người ước đạt 4.700-5.000 USD/năm); Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao (GDP bình quân đầu người ước đạt khoảng 7.500 USD/năm); Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao (đến năm 280
  9. đó, tiêu chí sẽ thay đổi, theo tiêu chí hiện nay, GDP bình quân đầu người phải đạt trên 12.535 USD/năm) (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Việc xác định các mục tiêu cụ thể theo các tiêu chí mới thể hiện bước tiến nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là những bước phát triển cơ bản trong giai đoạn cách mạng mới để Việt Nam từng bước sánh vai với các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu từng mong đợi. 5. KẾT LUẬN Từ giành thắng lợi từng bước để đi đến thắng lợi hoàn toàn không có nghĩa là chúng ta chỉ có thắng lợi mà không có thất bại. Bởi lẽ, tiến hành một sự nghiệp cách mạng lớn lao với những khó khăn vô cùng gay go phức tạp, không thể tránh được những sai lầm chủ quan. Vấn đề là khi tạm thời có những thất bại, mất mát, khi phải dừng hoặc lùi lại, Đảng ta phải bình tĩnh phân tích tình hình chủ quan, khách quan, thấy rõ nguyên nhân, rút ra những bài học cần thiết để sau đó tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên và giành thắng lợi cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở: “không say sưa với thắng lợi”; “thắng không kiêu, bại không nản”; “Chúng ta phải nhớ rằng càng gần thắng lợi càng nhiều gian nan” (Hồ Chí Minh (2011b). Người đã nêu một mẫu mực trong việc biết dừng khi cần phải dừng, biết nhân nhượng, lùi bước tạm thời khi cần tránh những đòn tấn công hiểm độc của kẻ thù, biết khắc phục những sai lầm đã đưa đến những tổn thất, những hậu quả tai hại để rồi lại tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi mới. Kế thừa quan điểm của Hồ Chí Minh, trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sáng tạo trong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Giành thắng lợi từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng vẫn là phương pháp cách mạng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 67-68. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000a). Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 6. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 538. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000b). Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 7. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 119. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 111- 112. 5. Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên-2004). Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh. Hà Nội: Nxb Lý luận chính trị, 104-105. 6. Hồ Chí Minh (2011a). Toàn tập, tập 3. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 230. 7. Hồ Chí Minh (2011b). Toàn tập, tập 15. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 463. 281
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0