ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐẶNG HÙNG NGUYỆT

(Deng Xiong Yue)

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ NGỮ TIẾNG ANH

TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2016

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐẶNG HÙNG NGUYỆT

(Deng Xiong Yue)

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ NGỮ TIẾNG ANH

TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI

Chuyên ngành: Ngôn Ngữ Việt Nam

Mã số: 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Văn Khang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan dây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả đưa ra trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong

bất cứ công trình nào.

Thái Nguyên , ngày 14 tháng 04 năm 2016

Tác giả luận văn

i

Đặng Hùng Nguyệt

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Nguyễn Văn Khang -

người đã tận tình hướng dẫn em thực hiện công trình nghiên cứu này.

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Trường Đại Học Sư Phạm

Thái Nguyên, các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn đã nhiệt tình giảng dạy em

trong khóa học 2014- 2016 vừa qua.

Cảm ơn các cán bộ phòng thư viện Trường Đại Học Sư Phạm Thái

Nguyên và thư viện Quảng tây Trung Quốc đã nhiệt tình cung cấp tư liệu cho

việc thực hiện đề tài này.

Cảm ơn người thân trong gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi

trong suốt quá trình học tập cũng như hoàn thành khóa luận.

Xin trân trọng cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 14 tháng 04 năm 2016

Tác giả luận văn

ii

Đặng Hùng Nguyệt

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii

MỤC LỤC ....................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4

5. Các phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 5

6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 5

7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 7

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN......................................................................... 8

1.1. Tiếp xúc ngôn ngữ và vay mượn từ vựng .................................................. 8

1.1.1. Một số vấn đề về tiếp xúc ngôn ngữ ....................................................... 8

1.1.2. Một số vấn đề về vay mượn từ vựng .................................................... 13

1.1.3. Các cách vay mượn từ vựng.................................................................. 22

1.2. Khái quát về vay mượn từ ngữ trong tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt

hiện đại ........................................................................................................... 23

1.2.1. Hiện tượng vay mượn từ ngữ trong tiếng Hán hiện đại ........................ 23

1.2.2. Hiện tượng vay mượn từ ngữ trong tiếng Việt hiện đại ........................ 27

1.3. Đặc điểm của tiếng Hán và tiếng Việt ...................................................... 32

1.4. Tiểu kết chương 1 ..................................................................................... 33

Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ NGỮ TIẾNG ANH TRONG TIẾNG

HÁN (ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT) ...................................................... 35

2.1. Bối cảnh ngôn ngữ-xã hội của việc xuất hiện từ mượn tiếng Anh trong

iii

tiếng Hán và tiếng Việt hiện đại ...................................................................... 35

2.1.1. Sự thông dụng của tiếng Anh trên thế giới ........................................... 35

2.1.2. Ảnh hưởng của tiếng Anh tại Trung Quốc và Việt Nam ....................... 39

2.1.3. Nhu cầu giữ gìn bản ngữ trong sự phát triển của tiếng Hán và tiếng Việt .. 43

2.1.4. Nhận xét ................................................................................................ 47

2.2. Đặc điểm Hán hóa và Việt hóa các từ mượn tiếng Anh ........................... 48

2.2.1. Nhận xét chung ..................................................................................... 48

2.2.2. Hán hóa từ ngữ tiếng Anh đối chiếu với Việt hóa từ ngữ tiếng Anh .... 49

2.3. Tiểu kết chương 2 ..................................................................................... 62

Chương 3. ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG TỪ NGỮ TIẾNG ANH TRONG

TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT ................................................................... 64

3.1. Hiện trạng sử dụng từ mượn tiếng anh trong tiếng Hán và tiếng Việt

hiện đại ........................................................................................................... 64

3.1.1. Các lĩnh vực xuất hiện từ tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt ...... 64

3.1.2. Đối tượng sử dụng chính của từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán hiện

đại và tiếng Việt hiện đại ................................................................................. 69

3.2. Vai trò của từ mượn tiếng Anh trong tiếng hán và tiếng việt với việc

chuẩn hóa tiếng hán và tiếng việt .................................................................... 70

3.2.1. Vai trò của từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt .............. 70

3.2.2. Từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt với việc chuẩn hóa

tiếng Hán và tiếng Việt .................................................................................... 73

3.3. Tiểu kết chương 3 ..................................................................................... 79

iv

KẾT LUẬN .................................................................................................... 80

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu ngày một phát triển, theo đó

việc giao lưu văn hóa giữa các nước cũng được mở rộng không ngừng.

Trong mấy năm gần đây, việc giao lưu văn hóa giữa phương Tây và

phương Đông càng ngày càng mạnh. Vì vậy sự giao lưu giữa các nền kinh

tế, văn hóa, công nghiệp vv... rất cần có một công cụ làm cầu nối chung, và

đó chính là ngôn ngữ. Trong lịch sử phát triển của loài người nói chung và

ngôn ngữ học nói riêng, vay mượn từ vựng là hiện tượng ngôn ngữ đã xuất

hiện từ xa xưa và có xu hướng phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn hiện

nay. Các dân tộc và quốc gia dù có hay không có giáp ranh và địa lý nhưng

do giao lưu về kinh tế, xã hội, văn hóa... nên ít nhiều có sự tiếp xúc với

nhau dẫn đến sự giao thoa về ngôn ngữ. Trong quá trình giao thoa đó ngôn

ngữ của một dân tộc sẽ du nhập các yếu tố ngôn ngữ từ các ngôn ngữ của

dân tộc khác để hoàn thiện thêm cho chính nó.

1.2. Trong xu thế tất yếu đó, tiếng Hán và tiếng Việt cũng không thể

tự bằng lòng với chính nó mà phải chuyển mình để thay đổi. Thực tế, sự

tiếp xúc giữa tiếng Hán và tiếng Việt đã có lịch sử từ lâu đời. Thông qua sử

sách có thể thấy, từ tiếng Anh được thu nhận vào tiếng Việt từ thời Tiên

Tần. Ngay từ thời kỳ đó tiếng Hán đã bộc lộ nội lực mạnh mẽ khi không

ngừng tiếp thu những từ ngữ nước ngoài, biến những từ ngữ đó thành một

1

bộ phận của tiếng Hán. Chúng có thể mang đặc điểm của tiếng Hán để làm

phong phú thêm cho chính nó. Một thời gian dài, tiếng Việt ở một nửa đất

nước Việt Nam là miền Nam có sự tiếp xúc trực tiếp với tiếng Anh làm nên

cả một Pidgin Anh trong lớp người làm việc cho Mĩ . Nhưng lượng từ tiếng

Anh vào tiếng Việt lại không đáng kể, phải đến ngững năm 90 của thế kỷ XX

, sự xuất hiện các từ tiếng Anh trong tiếng Việt mới ngày càng gia tăng.

1.3. Kết quả khảo sát cho thấy, tiếng Anh là ngôn ngữ quốc tế được sử

dụng thông dụng nhất có ảnh hưởng đến 80% - 85% lượng thông tin trên thế

giới. Tiếng Anh trở thành lingua franca và hình thành các biến thể tiếng Anh.

Như đã biết, nhiều từ tiếng Anh đều được sử dụng trong các ngôn ngữ nói

chung, trong tiếng Việt và tiếng Hán nói riêng. Trong những từ vay mượn

nước ngoài của tiếng Hán hiện đại, từ vay mượn tiếng Anh chiếm số lượng

lớn nhất và có vị trí đáng kể nhất.

Vì những lý do trên, chúng tôi lựa chọn: “Một số đặc điểm của từ ngữ

tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt hiện đại” làm đề tài luận văn thạc sĩ.

2. Lịch sử vấn đề

1) Về từ vay mượn, các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc và Việt Nam

đều đưa ra sự phân tích cụ thể trong những công trình nghiên cứu quy mô,

nhưng chủ yếu là nghiên cứu từ vay mượn khi đặt trong quan hệ với ngôn ngữ

mà mình cần nghiên cứu.

2) Ở Trung Quốc, tác giả Sử Hữu Vi trong cuốn “Từ ngoại lai trong

tiếng Hán” đã trình bày cụ thể nhiều vấn đề về từ ngoại lai. Ông cho rằng:

“Từ vay mượn trong tiếng Hán là từ ngoại lai có nghĩa là dưới tiền đề trong

2

toàn bộ hoặc một phần của mẫu từ ngoại lai được sử dụng bằng lời nói của

mình, và có mức độ khác nhau của các từ tiếng Hán. Nói đúng ra, từ thực tế

từ ngoại lai đang được sử dụng ở Trung Quốc một thời gian dài, ngoại ngữ

tương đối cố định vay mượn từ vựng".

Tác giả Trung Quốc Dương Tích Bành trong cuốn “Nghiên cứu từ

ngoại lai trong tiếng Hán” tiếp cận từ vay mượn ở các khía cạnh tính chất,

phạm vi và các cách tiếp nhận từ vay mượn.

Tác giả Trung Quốc Trưng Cẩm Văn trong cuốn “Vấn đề phân loại từ

mượn tiếng Hán” lại tiếp cận từ ngoại lai chủ yếu qua việc phân loại các từ

mượn này và đặc điểm của từng cách phân loại đó.

Ở Việt Nam, tác giả Việt Nam Đỗ Hồng Dương khảo sát các từ mượn

tiếng Anh đang sử dụng trong tiếng Việt đời sống, trình bày nhiều vấn đề cụ

thể về từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Việt hiện đại.

Tác giả Nguyễn Văn Khang trong cuốn “Từ ngoại lai trong tiếng Việt”

đã trình bày cụ thể nhiều vấn đề lý luận từ ngoại lai. Theo ông cho biết, tôi

không sử dụng “từ mượn” như “từ mượn tiếng Hán” hay “từ mượn tiếng

Pháp” mà chỉ sử dụng “từ tiếng Anh được sử dụng trong tiếng Việt”.

Tóm lại, do phát triển của xã hội, kinh tế, văn hóa, công nghệ thông tin

và giao lưu trong các dân tộc và quốc gia, vay mượn từ ngữ là hệ quả của sự

ảnh hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ có nguyên nhân từ tiếp xúc ngôn ngữ.

Cho nên những nhà nghiên cứu Trung Quốc và Việt Nam đã nghiên cứu

nhiều vấn đề về từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán và từ ngữ tiếng Anh trong

tiếng Việt. Nhưng vẫn có việc nghiên cứu chưa hoàn thành, nhiều ý kiến về

quy phạm hóa từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán hiện đại và trong tiếng Việt

hiện đại chưa đạt được thống nhất. Ngoài ra, cũng có những việc nghiên cứu

3

về vấn đề này chưa hoàn thành.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là các từ ngữ tiếng Anh được

sử dụng trong tiếng Hán và tiếng Việt. Luận vân chủ yếu nghiên cứu các từ

ngữ tiếng Anh được sử dụng trong đời sống.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn này là theo các từ ngữ tiếng Anh

được sử dụng trong tiếng Hán hiện đại, nội dung luận văn này sẽ bao gồm

khảo sát các từ ngữ tiếng Anh đang sử dụng trong tiếng Hán hiện nay và có

liên hệ với các từ ngữ tiếng Anh đang sử dụng trong tiếng Việt .

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Thông qua khảo sát các từ ngữ tiếng Anh được sử dụng trong tiếng

Hán hiện đại có liên hệ với từ tiếng Anh trong tiếng Việt, luận văn tìm

hiểu các cách tiếp nhận từ nước ngoài và tìm hiểu chuẩn hóa về việc từ

ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt hiện đại; góp phần vào việc

nghiên cứu đặc điểm của từ ngữ tiếng Anh được sử dụng trong tiếng Hán

và tiếng Việt hiện đại.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích đề ra, luận văn xác định một số nhiệm vụ cụ thể

sau đây:

- Hệ thống hóa một số cơ sở lý thuyết liên quan được dùng làm căn cứ

lí luận cho đề tài, trong đó tập trung vào lý thuyết về tiếp xúc ngôn ngữ và

4

vay mượn từ vựng.

- Khảo sát các đặc điểm của từ ngữ tiếng Anh trong tiếng hán hiện đại

và tiếng Việt hiện đại.

- Liên hệ với các từ tiếng Anh trong tiếng Việt hiện đại để chỉ ra sự

giống và khác nhau giữa chúng.

5. Các phương pháp nghiên cứu

Nhằm nghiên cứu hoàn thiện đề tài này, luận văn sẽ sử dụng bốn

phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:

- Phương pháp hệ thống;

- Phương pháp thống kê, phân loại;

- Phương pháp phân tích, tổng hợp;

- Phương pháp so sánh, đối chiếu.

6. Đóng góp của luận văn

6.1.Về mặt lí luận

Thông qua đề tài, luận văn muốn lý giải sự xuất hiện của từ mượn

tiếng Anh trong tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt hiện đại, sự đối chiếu từ

mượn tiếng Anh trong hai ngôn ngữ đó, tìm ra đặc điểm, chức năng, vai trò,

ảnh hưởng cũng như hoạt động của từ mượn tiếng Anh trong hai ngôn ngữ đó.

Luận văn sẽ vận dụng những lí thuyết liên quan với ngôn ngữ học và những lí

thuyết về từ vay mượn trong ngôn ngữ vv… để phân tích hiện tượng từ mượn

tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt, giải thích tình hình từ tiếng Anh

được sử dụng trong tiếng Hán và tiếng Việt. Những lí thuyết được để tìm ra

những vấn đề chưa hoàn thiện. Khảo sát các loại hình cấu thành từ mượn

tiếng Anh, khảo sát từ mượn tiếng Anh về hình thức, chức năng xã hội, văn

5

hóa, ngữ nghĩa..., khảo sát từ mượn tiếng Anh, phân tích so sánh ảnh hưởng

của từ mượn tiếng Anh đến tiếng Hán và tiếng Việt. Nếu đạt được mục tiêu đề

ra, luận văn sẽ góp phần củng cố lý thuyết từ tiếng Anh trong tiếng Hán và

tiếng Việt. Góp phần tìm ra hướng xử lý từ tiếng Anh trong tiếng Hán và

tiếng Việt nhằm tránh hiện tượng nhầm lẫn, sai lệch...

6.2. Về mặt thực tiễn

Đề tài này sẽ thông qua nghiêu cứu các lĩnh vực trong đời sống để

đạt được mục tiêu đề ra, từ trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, kinh tế,

thương mại, thể thao, thông tin, văn hóa... tất cả mọi lĩnh vực trong đời

sống xã hội, từ tiếng Anh được sử dụng để dịch thuật và được xem như

một ngôn ngữ được sử dụng giao tiếp. Từ thuật ngữ tiếng Anh được sử

dụng rộng rãi trong tiếng Hán và tiếng Việt, ảnh hưởng tiếng Hán và tiếng

Việt rất nhiều. Với sự phân tích hiện trạng từ ngoại lai trong tiếng Hán và

tiếng Việt làm gợi ý, khóa luận đưa ra một vài ý kiến về tình trạng chuẩn

hóa ngôn ngữ trong tiếng Hán, tiếng Việt. Tiếng Việt cũng giống như

tiếng Hán hiện đại, từ vựng của tiếng Việt đang ngày càng mở rộng trên

nhiều phương diện do sự tham gia của các từ ngoại lai, từ mượn tiếng Anh

cũng đóng vai trò quan trọng trong từ ngữ tiếng Việt. Tiếp nhận tự ngoại

lai một cách hợp lý và sáng tạo chính là một trong những cách bảo vệ và

giữ gìn sự trong sáng của tiếng Hán và tiếng Việt. Sự đối chiếu từ ngữ

tiếng Anh trong tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt hiện đại, có thể hiểu biết

từ thuật ngữ trong các lĩnh vực, góp phần to lớn hơn nữa cho người Trung

Quốc và người Việt Nam sử dụng từ tiếng Anh trong đời sống. Luận văn

có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu tiếng Anh

được sử dụng trong tiếng Hán, tiếng Việt ,và giúp người học hiểu biết từ

6

tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tài liệu tham khảo, luận

văn gồm ba chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận

Chương 2: Đặc điểm của từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán hiện đại có

liên hệ với tiếng Việt

Chương 3: Đặc điểm sử dụng từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán hiện

7

đại có liên hệ với tiếng Việt

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Tiếp xúc ngôn ngữ và vay mượn từ vựng

1.1.1. Một số vấn đề về tiếp xúc ngôn ngữ

Khi xem xét vay mượn từ vựng không thể không nói đến “tiếp xúc

ngôn ngữ”. Thuật ngữ “tiếp xúc ngôn ngữ” do Andre’Martinet là người đưa ra

đầu tiền và sau đó được sử dụng rộng rãi nhờ sự ra đời của tác phẩm

Languages in contact (Ngôn ngữ trong sự tiếp xúc/Tiếp xúc ngôn ngữ) của

U.Weinrich. Tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng ngôn ngữ phổ biến trong đời

sống xã hội giao tiếp của con người và vì thế nó là hiện tượng phổ biến đối

với mọi ngôn ngữ trên thế giới. Nó xảy ra khi con người bao gồm cá nhân hay

cộng đồng người sử dụng hai hay nhiều ngôn ngữ. Hay nói cách khác, tiếp

xúc ngôn ngữ xuất hiện khi có hiện tượng song ngữ/ đa ngữ dưới tác động của

các nhân tố ngôn ngữ xã hội. Có một số vấn đề có thể thấy:

1/Truyền thống ngôn ngữ học xác định, tiếp xúc ngôn ngữ về bản chất

là học ngôn ngữ (theo cách nói quen thuộc là học tiếng). Con người muốn biết

từ hai ngôn ngữ trở lên thì phải học. Bởi ngôn ngữ tồn tại trong bộ não của

con người, do đó khi hai hoặc hơn hai ngôn ngữ cùng tồn tại trong bộ não của

một người thì sẽ tạo ra sự tiếp xúc. Vì thế, sự tiếp xúc ngôn ngữ bắt đầu từ

học tập.

Tuy nhiên, ở những cá nhân không học thêm ngôn ngữ khác, nhưng họ

lại có thể sử dụng các yêu tố của ngôn ngữ khác. Trường hợp này sẽ được giải

8

thích như thế nào? Có thể coi đây là kết quả của quá trình khuếch tán ngôn

ngữ. Tiếp xúc ngôn ngữ trước hết xảy ra ở một bộ phận thành viên xã hội, kết

quả tiếp xúc sẽ được các thành viên xã hội mở rộng ra toàn xã hội. Tiếp xúc

dựa vào việc học tập ngôn ngữ của một bộ phận thành viên xã hội mà không

phải đòi hỏi tất cả mọi người tham gia học một ngôn ngữ khác mới coi là tiếp

xúc ngôn ngữ.

2/ Khi nói đến tiếp xúc ngôn ngữ cũng là nhắc đến hai hàm ý như sau:

a. Sự tiếp xúc ở mặt cấu trúc hay còn gọi là sự tiếp xúc trong nội bộ

ngôn ngữ. Đây chính là mối quan hệ tương tác, sự tác động lẫn nhau và ảnh

hưởng lẫn nhau giữa hai hoặc hơn hai ngôn ngữ trong bộ óc của một người.

Sự tiếp xúc này làm nảy sinh ảnh hưởng về mặt cấu trúc. Hệ quả của sự tiếp

xúc nay là sự vay mượn hay sự thẩm thấu các thành phần cũng như các

phương thức, thậm chí làm thay đổi các quy tắc, thay đổi hệ thống và cấu

trúc, đến mức có thể gây nên sự pha trộn giữa hai ngôn ngữ làm nảy sinh ra

một ngôn ngữ mới.

b. Sự tiếp xúc bên ngoài của ngôn ngữ, hay còn gọi là sự tiếp xúc ở mặt

ứng dụng. Đó là việc một người sử dụng hai hoặc hơn hai ngôn ngữ, làm nên

hiện tượng đa ngữ trong sử dụng.

3/ Khi nói đến tiếp xúc ngôn ngữ cũng là nói đến tính định hướng của

nó, hay nói cách khác là “hướng tác động”, “hướng ảnh hưởng” giữa các ngôn

ngữ, có thể đó là sự ảnh hưởng của ngôn ngữ đang sử dụng tới ngôn ngữ tiếp

thu hoặc ngược lại, có khi lại là sự tác động tương hỗ. Tính phương hướng

này được quyết định ở hàng loạt các nhân tố như tính mục đích của việc học

tập, tần số ứng dụng, mức độ thuần thục, bối cảnh ngôn ngữ, bối cảnh văn

9

hóa,... Ví dụ, trong một vùng đa ngữ, các ngôn ngữ tuy là bình đẳng nhau

nhưng có một ngôn ngữ nổi lên có quyền lực như một “ngôn ngữ vùng” thì

hướng tác động trong tiếp xúc sẽ thiên về đơn hướng: ngôn ngữ vùng kia sẽ

ảnh hưởng tới các ngôn ngữ khác mạnh hơn là sự ảnh hưởng ngược lại hoặc

là sự ảnh hưởng giữa các ngôn ngữ còn lại.

4/ Trong quá trình tiếp xúc ngôn ngữ, do có sự tác động, mối quan hệ và

ảnh hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ thì có thể nảy sinh ra một trạng thái

biến thể, đó là hình thức interlanguage. Thông thường, đây là hình thức biến

thể do ảnh hưởng từ ngôn ngữ cơ sở đến ngôn ngữ đích và do vậy, nền tảng của

interlanguage là hệ thống ngôn ngữ của ngôn ngữ đích. Nói cách khác, đó là

hình thức biến thể của ngôn ngữ đích và chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ cơ sở.

Cũng có khi hình thức biến thể là ngôn ngữ cơ sở và chịu ảnh hưởng của ngôn

ngữ đích. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận từ góc độ hình thành biến thể thì giữa

chúng có những khác biệt. Biến thể interguage (ngôn ngữ trung gian) được

hình thành từ sự ảnh hưởng của ngôn ngữ cơ sở tới ngôn ngữ đích. Đây là quá

trình động của việc học tập, tiếp thu ngôn ngữ và thường không ổn định do phụ

thuộc vào quá trình học tập và sử dụng ngôn ngữ đích. Hình thức ảnh hưởng và

thẩm thấu có thể bị triệt tiêu khi mà người học đạt đến trình độ tiếp cận hoàn

toàn với ngôn ngữ đích. Về mặt kết quả, rất có thể interlanguage được “ổn định

hóa” tạo ra biến thể hoặc hình thức biến thể cho ngôn ngữ đích. Ví dụ, tiếng

Hán của người Hoa ở hải ngoại; tiếng Việt của dân tộc Kinh ở Trung Quốc;

tiếng Việt ở vùng Uđontani của cộng đồng người Việt ở Thái Lan.

5/ Như trên đã nêu, cội nguồn của tiếp xúc ngôn ngữ bắt đầu từ việc

học thêm ngôn ngữ khác. Nhìn từ góc độ tiếp xúc, nếu có sự ảnh hưởng từ

10

ngôn ngữ cơ sở sang ngôn ngữ đích thì cái gọi là interlanguage sẽ được

khuếch tán, sự khuếch tán này được quyết định ở cấu trúc ngôn ngữ, tâm lí

ngôn ngữ và thái độ ngôn ngữ. Ngôn ngữ học nhìn nhận tiếp xúc ngôn ngữ là

sự tiếp xúc xã hội mang tính chỉnh thể chứ không phải là sự tiếp xúc thiểu số

càng không thể là tiếp xúc mang tính cá thể hoặc cá nhân. Điều này cũng là để

nhấn mạnh rằng, kết quả của sự tiếp xúc ngôn ngữ chỉ được thực hiện nhờ mở

rộng hoặc khuếch tán.

Chuyển từ cách nhìn “sự nghiên cứu lần lượt hai hoặc hơn hai ngôn

ngữ qua cùng một số người” sang cách nhìn “sự nghiên cứu sử dụng ngôn

ngữ của cả cộng đồng giao tiếp”, ngôn ngữ học xã hội coi tiếp xúc ngôn ngữ

là một hiện tượng xã hội, tức là mang tính xã hội. Vì thế, khi nói đến tiếp xúc

ngôn ngữ không thể không nhắc đến các nhân tố xã hội - ngôn ngữ.

- Nói đến nhân tố xã hội tức là nói đến tính cộng đồng xã hội. Chẳng

hạn, khi hai dân tộc nói hai ngôn ngữ khác nhau mà tiếp xúc với nhau thì xu

hướng chung là như sau:

- Ngôn ngữ của dân tộc có sức mạnh về kinh tế, chính trị cao hơn sẽ ảnh

hưởng đến ngôn ngữ của dân tộc có sức mạnh về kinh tế, chính trị thấp hơn.

- Ngôn ngữ của dân tộc có trình độ văn hóa cao hơn sẽ ảnh hưởng đến

ngôn ngữ của dân tộc có trình độ văn hóa thấp hơn (thường thông qua các

kênh giáo dục, văn hóa nghệ thuật, văn học,...)

- Ngôn ngữ của dân tộc có số lượng người nói đông hơn sẽ ảnh hưởng

tới ngôn ngữ có số lượng người nói ít hơn.

- Quan hệ dân tộc cũng có tác dụng khống chế, điều tiết đối với quá

trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ. Mức độ quan hệ và tính mật thiết của các

11

mối quan hệ này sẽ có tác dụng làm tăng hay giảm tốc độ tiếp xúc và ảnh

hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ. Ví dụ, mối gắn kết ở trong một quốc gia

thống nhất đa dân tộc, đa ngôn ngữ sẽ làm cho ngôn ngữ mà với tư cách là

ngôn ngữ quốc gia có ảnh hưởng mạnh đến các ngôn ngữ còn lại.

- Quan hệ về tôn giáo giữa các dân tộc cũng sẽ kéo theo sự tiếp xúc và

ảnh hưởng giữa các ngôn ngữ. Ví dụ, trong các ngôn ngữ dân tộc theo đạo

Tslam có rất nhiều từ ngữ của tiếng A-rập.

Khi nói dến nhân tố xã hội cũng là muốn nói nhân tố chính trị xã hội để

tạo nên hai xu hướng chính trong tiếp xúc ngôn ngữ: tiếp xúc tự giác và tiếp

xúc cưỡng bức. Nói đến nhân tố ngôn ngữ tức là nói đến bản thân ngôn ngữ,

bao gồm sức thẩm thấu ngôn ngữ, mức độ quan hệ thân thuộc giữa các ngôn

ngữ, giữa các ngôn ngữ có chữ viết, giữa các ngôn ngữ không có chữ viết,

giữa ngôn ngữ có chữ viết và ngôn ngữ không có chữ viết,... Chẳng hạn, khi

các ngôn ngữ tiếp xúc với nhau thì:

- Ngôn ngữ có sức thẩm thấu mạnh thường dễ dàng tiếp thu ảnh hưởng

của ngôn ngữ khác.

- Những ngôn ngữ có quan hệ thân thuộc hoặc cùng, gần nhau về loại

hình thì dẽ chịu ảnh hưởng của nhau và vay mượn lẫn nhau.

- Ngôn ngữ không có chữ viết rất dễ chịu ảnh hưởng và tiếp thu các yếu

tố của ngôn ngữ có chữ viết.

Tuy nhiên cũng cần nói thêm rằng, sự tác động của nhân tố xã hội -

Ngôn ngữ thường không chỉ là một mà là sự tổng hợp của nhiều nhân tố dưới

hình thức “nhân tố nọ kéo theo nhân tố kia”. Một số những nhân tố vừa nêu

trên chỉ là mang tính xu hướng, mang tính phổ biến, chứ chưa phải là tất cả

12

hay hoàn toàn như vậy. Chẳng hạn, đối với nhân tố xã hội về nhân khẩu - dân

số, nhiều khi lại xảy ra theo quá trình ngược lại: ngôn ngữ của dân tộc có dân

số ít hơn lại tác động đến ngôn ngữ của dân tộc có dân số đông hơn, về loại

hình giữa các ngôn ngữ thì nhiều khi giữa các ngôn ngữ không có quan hệ

thân thuộc, không cùng loại hình lại có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhau như

ảnh hưởng của tiếng Hán (thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập) đối với tiếng

Nhật, tiếng Triều Tiên là một điển hình cho quan hệ này.

Về con đường tiếp xúc (bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp) dẫn tới ảnh

hưởng ngôn ngữ, có thể chia làm ba loại:

Thứ nhất, ảnh hưởng của khẩu ngữ, thông qua tiếp xúc thường xuyên

giữa thành viên của các dân tộc nói các ngôn ngữ khác nhau. Có hai điều kiện

cho phép xảy ra: (a) hai dân tộc có quan hệ mật thiết với nhau trong đời sống

hằng ngày, thông qua sự tiếp xúc trực tiếp làm nảy sinh ảnh hưởng giữa các

ngôn ngữ, và (b) ngôn ngữ chịu ảnh hưởng mạnh hơn, thường là ngôn ngữ

không có chữ viết.

Thứ hai, ảnh hưởng của sách vở. Đó là ảnh hưởng từ trong sách vở sau

đó mới ảnh hưởng ra ngoài đời sống. Một trong những con đường ảnh hưởng

của sách vở là thông qua dịch thuật. Tất nhiên, điều kiện tiên quyết để cho có

sự ảnh hưởng này là các ngôn ngữ đó phải có chữ viết.

Thứ ba, ảnh hưởng của cả khẩu ngữ và sách vở. Sự ảnh hưởng này chỉ

xảy ra giữa các ngôn ngữ có đủ các điều kiện của cả ảnh hưởng khẩu ngữ và

ảnh hưởng của sách vở.

1.1.2. Một số vấn đề về vay mượn từ vựng

1.1.2.1. Hiện tượng vay mượn từ vựng

a. Bất kì ngôn ngữ nào, trong quá trình hình thành và phát triển của

13

mình cũng thu hút nhiều yếu tố của các ngôn ngữ khác, do đó có nhiều từ ngữ

giống hoặc tương tự với các từ ngữ của các ngôn ngữ khác. Nói cách khác,

trong một ngôn ngữ sự xuất hiện của các từ nước ngoài là điều không thể

tránh khỏi. Bởi “nhu cầu giao lưu đã khiến cho những người nói một ngôn

ngữ nào đó tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp với những người nói những ngôn

ngữ lân cận hay có ưu thế về mặt văn hóa” [4,tr.237]. Vì thế, vay mượn từ

vựng là hiện tượng phổ biến của mọi ngôn ngữ.

b. Vay mượn từ vựng là hệ quả của sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các

ngôn ngữ có nguyên nhân từ tiếp xúc ngôn ngữ. Tiếp xúc ngôn ngữ đã được

đề cập đến từ rất lâu nhưng mãi đến những năm 60 mới trở thành một vấn đề

được nhiều người chấp nhận. Sự tiếp xúc ngôn ngữ là có thực vì một ngôn

ngữ A trong khi giao lưu với một ngôn ngữ B không thể tránh khỏi những ảnh

hưởng nhất định và thực tế đã chứng minh ở một số ngôn ngữ có những sự

thay đổi về cấu trúc do quá trình tiếp xúc với một ngôn ngữ khác. Đây là hiện

tượng chung của ngôn ngữ loài người, mặc dù cách biểu hiện ở mỗi ngôn ngữ

cụ thể là khác nhau. Sự khác nhau này là do loại hình ngôn ngữ quy định.

Cho đến những năm 60, cách tiếp cận của ngôn ngữ học nói chung là

cách tiếp cận đơn ngữ luận. Theo cách tiếp cận này, cấu trúc của một ngôn

ngữ dù là cấu trúc ngữ âm, ngữ pháp hay ngữ nghĩa, đều khép kín ở bản thân

nó, do những quan hệ nội tại quy định. Vì thế, sự tiếp xúc ngôn ngữ thu hẹp

vào sự vay mượn từ, những cách diễn đạt mà không tác động gì tới sự phát

triển của cái cơ chế vận hành của nó.

Sau này, theo quan điểm song ngữ luận, một ngôn ngữ là một thể thống

nhất biện chứng giữa cái cấu trúc nội tại đã có với những khả năng phát triển

do một cấu trúc khác đưa lại. Ngôn ngữ A dù có vay mượn một số lượng lớn

14

từ của ngôn ngữ B nhưng các từ này khi chuyển sang A đều phải biến đổi

theo hình thức ngữ âm của A, theo quy tắc cấu tạo từ của A và khi được sử

dụng ở trong câu phải tuân theo cấu trúc ngữ pháp của A. Như vậy, việc tiếp

xúc chỉ đóng vai trò là áp lực đẩy nhanh sự chuyển biến của cấu trúc chứ

không phải là sự sao chép đơn thuần.

Phan Ngọc nhận xét rằng: “Nói đến tiếp xúc ngôn ngữ là nói đến

những thay đổi rất sâu sắc diễn ra ngay trong cấu trúc của ngôn ngữ A

do ngôn ngữ B đưa đến. Hay nói khác đi, nếu trong quá trình lịch sử, A

không tiếp xúc với B thì tự nó không có cái diện mạo ngày nay, hay muốn

có phải chờ đợi một thời gian lâu dài hơn nhiều và kết quả cũng không

thể hệt như ngày nay được.” [8, tr. 46]. Điều này cho thấy rằng hệ thống

ngôn ngữ là một hệ thống mở, không chấp nhận sự khép kín nên không

ngừng chịu sự giao thoa. Và sự vay mượn là một nhu cầu nội tại, tự thân

của chính ngôn ngữ đi vay chứ không phải do bất cứ sự cưỡng ép nào.

Chính quá trình tiếp xúc đã tạo điều kiện cho mỗi hệ thống ngôn ngữ bộc

lộ những chỗ hổng của mình và sao phỏng được coi là sự lựa chọn tối ưu

để các ngôn ngữ có thể sử dụng những vật liệu vốn có của mình lấp đầy

những chỗ hổng đó. Chính vì mỗi ngôn ngữ có những ưu khuyết điểm và

đặc điểm khác nhau nên hiện tượng vay mượn từ vựng diễn ra khác nhau

giữa các ngôn ngữ và khác nhau giữa các thời kỳ trong bản thân một

ngôn ngữ.

Từ những điều trình bày trên, có thể nhận thấy quá trình tiếp xúc ngôn

ngữ và ảnh hưởng của nó đối với một ngôn ngữ cụ thể thường được đề cập

đến dưới hai góc độ:

15

1. Xu hướng bảo tồn ngôn ngữ bằng việc chống lại các yếu tố ngoại lai.

2. Xu hướng du nhập các yếu tố bên ngoài vào cấu trúc nội tại của

ngôn ngữ.

Thực ra đây chính là hai mặt có tính chất tương hỗ của tiếp xúc ngôn

ngữ. Các yếu tố mới du nhập vào một ngôn ngữ nào đó không chỉ quốc gia,

chính sách ngôn ngữ là chất xúc tác quyết định sự tồn tại hay không của yếu

tố ngoại lai đó.

c. Vay mượn từ vựng là một trong những phương thức quan trọng để

bổ sung cho vốn từ vựng của một ngôn ngữ.

Vay mượn từ vựng là một trong những cách thường thấy nhất để tạo ra

từ mới mà người nói mọi ngôn ngữ đều sử dụng. Cũng như các nền văn hóa,

các ngôn ngữ ít khi tự chúng đã đầy đủ. Hơn nữa khi một ngôn ngữ có khả

năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu về ngữ pháp hay từ vựng của xã hội đang sử

dụng nó đi nữa thì điều kiện tự nhiên, đặc điểm của nền sản xuất cũng như

trình độ phát triển của các xã hội, cái đứng sau sự phát triển của ngôn ngữ,

cũng không bao giờ giống nhau tuyệt đối. Cho nên trong quá trình tiếp xúc

giữa các cộng đồng người, nhu cầu học hỏi ngôn ngữ lẫn nhau để bổ sung cho

những khái niệm mà trước đây mình chưa có là nhu cầu không thể thiếu. Một

ngôn ngữ có thể hấp thu từ ngôn ngữ khác tất cả các đơn vị từ vựng bao gồm:

các đơn vị dưới từ (các yếu tố cấu tạo từ), từ và các cụm từ, các mô hình cấu

tạo từ, các nghĩa hoặc nét nghĩa mới. Ví dụ, hệ thống từ vựng của tiếng Hán

đã thu nhận các đơn vị từ vựng của tiếng Anh, bao gồm:

- Sự xuất hiện các yếu tố cấu tạo từ: các phụ tố với tiền tố và hậu tố dịch

các phụ tố (tiền tố, hậu tố) của tiếng Anh: ism: 主义(chủ nghĩa ), -ty, -ship, -

hood, -ness: 性(tính,ist, -or, -eer: 家,手, 师,者,员(gia, thủ, sư , giả,

16

viên), anti-: 反(phản).

1.1.2.2. Thuật ngữ “từ vay mượn”

a. Khái niệm [9]

Vay, mượn, vay mượn vốn là từ ngữ được sử dụng trong đời sống hằng

ngày chuyển dùng làm thuật ngữ ngôn ngữ học.

Vay: Nhận tiền hay vật của người khác để sử dụng với điều kiện sẽ trả

lại bằng cái cùng loại ít nhất có số lượng hoặc giá trị tương đương.

Mượn: Lấy của người khác để dùng trong một thời gian dài rồi sẽ trả

lại, với sự đồng ý của người đó.

Vay mượn: Vay (nói khái quát).

Từ mượn hay từ vay mượn là các từ được vay mượn từ một ngôn ngữ

khác do quá trình tiếp xúc ngôn ngữ. Con đường vay mượn có thể là theo

cách đi từ khẩu ngữ (lặp lại tương tự vỏ âm thanh của từ được vay mượn)

hoặc theo cách đi từ văn tự, qua sách vở (lặp lại dạng văn tự - chuyển tự,

không nhất thiết từ được phát âm tương tự với từ ở ngôn ngữ được vay

mượn). (Bách khoa toàn thư Việt Nam)

b. Xung quanh việc sử dụng thuật ngữ “từ vay mượn” còn tồn tại các

tên gọi khác nhau và vì thế còn có các ý kiến khác nhau.

Trong tiếng Anh những thuật ngữ chỉ từ vay mượn thường được dùng

nhiều nhất là loan word, alien word, foreign word, borrowing, alienism,

hybird word. Các từ này có một số khác biệt nhất định,ví dụ:

- Loan chỉ đơn vị từ vựng đến từ ngôn ngữ hay phương ngữ khác, được

ngôn ngữ đi vay sử dụng. Tiếng Hán tương đương : 外来词,借词. Tiếng

17

Việt tương đương: từ mượn, từ vay mượn, từ ngoại lai.

- Loan word chỉ các đơn vị từ vựng đến từ ngôn ngữ hay phương ngữ

khác, được ngôn ngữ đi vay sử dụng thông qua thủ thuật dịch âm, phỏng dịch.

Tiếng Hán tương đương: 外来词. Tiếng Việt tương đương: từ ngoại lai.

- Loan blends chỉ các đơn vị từ vựng được mượn từ ngôn ngữ hay

phương ngữ khác bằng phương thức pha tạp giữa một phần ngữ âm mượn và

một phần ngữ âm của ngôn ngữ đi vay. Tiếng Hán tương đương:

外来混合词,混合借词. Tiếng Việt tương đương : từ hỗn hợp ngoại lai.

- Ailen word chỉ các từ vựng đến từ ngôn ngữ khác nói chung.

Ailen nghĩa là ngoại quốc, nên ailen word để chỉ “từ nước ngoài” nói

chung. Tiếng Hán tương đương: 外来词. Tiếng Việt tương đương: từ

ngoại quốc, từ nước ngoài.

- Borrowed, borowing (word) chỉ các đơn vị từ vựng được mượn từ

ngôn ngữ khác bất kể là đã đồng hóa hay chưa đồng hóa về hình thức hay nội

dung (tức là còn nguyên dạng hay đã thay đổi ít nhiều). Tiếng Hán tương

đương: 外来词,借词. Tiếng Việt tương đương: từ mượn, từ vay mượn, từ

ngoại lai.

Cách dùng thông dụng hiện nay vẫn là borowed word, loan word.

Tương ứng trong tiếng Hán đang sử dụng hai cách gọi:

外来词,借词,và tiếng Việt đang sử dụng ba cách gọi: từ mượn, từ vay

mượn, từ ngoại lai. Những cách dùng này đã được dùng quen đến mức “tìm

cách thay đổi nó đi là chuyện vô nghĩa”.

c. Phân loại từ mượn

Nếu căn cứ vào mối liên hệ với sự vật và khái niệm, có thể chia từ

18

mượn thành hai loại như sau:

Những từ mượn biểu thị những sự vật và khái niệm mới xuất hiện,

trong bản ngữ chưa có từ biểu thị. Các từ xô viết, công xô môn, đồng chí, hợp

tác xã, may ô, xà phòng v.v... trong tiếng Việt là như vậy.

Những từ biểu thị những sự vật và khái niệm đã có từ trước trong bản

ngữ đã có từ biểu thị rồi. Trong trường hợp này, từ mượn đồng nghĩa với từ

bản ngữ tiếng Việt tiếp nhận từ ngữ tiếng Hán một cách hệ thống, vì vậy có

hàng loạt từ gốc Hán đồng nghĩa với các từ thuần Việt, Ví dụ: thiên - trời, địa

- đất, cử - cất, tồn - còn, tử - con, tôn - cháu...

Nếu xét về thành ngoại lai, có thể chia từ mượn thành từ phiên âm và từ

sao phỏng.

Phiên âm là phương thức vay mượn từ vựng bằng cách dựa trên (Phỏng

theo) âm đọc của từ ngữ cho vay để ghi lại từ ngữ đó bằng cách đọc cách viết

của ngôn ngữ đi vay. Đó là tiếp nhận cả hình thức lẫn nội dung của từ của

ngôn ngữ khác. Hình thức ngữ âm của các từ của ngoại ngữ có thể thay đổi ít

niều cho phù hợp với quy luật ngữ âm của bản ngữ. Ví dụ:

Ạnh Việt

cowboy Cao bồi

show sô

goft Gôn

penalty Pê-nan-ti

Từ sao phỏng là những từ tiếp nhận một mặt nào đó của từ thuộc ngôn

ngữ khác. Từ sao phỏng có thể chia thành hai loại: sao phỏng cấu tạo từ và

19

sao phỏng ngữ nghĩa.

Sao phỏng cấu tạo từ là trường hợp dùng chất liệu của bản ngữ để cấu

tạo một từ nào đó dựa theo mẫu về kết cấu của các từ tương ứng trong ngôn

ngữ khác. Thực chất của loại này là dịch từng yếu tố có hình thái học của các

từ của ngôn ngữ khác. Như vậy, nó chỉ tiếp nhận mẫu cấu tạo từ trong ngôn

ngữ khác mà thôi. Ví dụ: từ tiếng Nga побраэбепенце là sao phỏng cấu tạo từ

của từ tiếng Pháp subdivision (sự chia nhỏ). Nó được thực hiện bằng cách

dịch tiền tố sub- bằng tiền tố поб, chính tố -divis- bằng –раэбел và hậu tố -

ion bằng -енце. Trong tiếng Việt, các đơn vị từ vựng như chắn bùn, chắn

xích, chiến tranh lạnh... Cũng là sao phỏng cấu tạo từ của các đơn vị tương

ứng trong tiếng Pháp là garde boue, garde chain, guerre froide... Ngoài hiện

tượng sao phỏng cấu tạo từ hoàn toàn. Những từ sao phỏng kiểu này một phần

là dịch các yếu tố tương đương của ngoại ngữ, phần còn lại là tiếp nhận

nguyên si của ngôn ngữ đó. Chẳng hạn từ цбололвуфенце của tiếng Nga bắt

nguồn từ tiếng Hi Lạp là từ eidololatreia (sự thờ thần tượng), trong đó, chính

tố цболо- được tiếp nhận, còn chính tố latr- và phụ tố -eoa được dịch ra tiếng

Nga là слуф- và -енце. Từ мелевцбенце (vô tuyến truyền hình) bắt nguồn từ

từ televisia trong đó chính tố меле có nguồn gốc Hi Lạp, còn chính tố -vis- và

phụ tố -ia (gốc Latin) được dịch ra tiếng Nga là -вцб và -енце.

Sao phỏng ngữ nghĩa là hiện tượng các từ tiếp nhận thêm ý nghĩa của

các từ tương ứng trong ngôn ngữ khác. Các đơn vị từ vựng nước ngoài có thể

được mang vào trong ngôn ngữ đi vay nội dung ngữ nghĩa ở các mức độ khác

20

nhau tùy theo nhu cầu vay mượn của ngôn ngữ đó.

- Mượn toàn bộ nội dung ngữ nghĩa của từ mượn đó. Trường hợp này

thường xảy ra ở từ đơn nghĩa hay các thuật ngữ khoa học.

- Mượn một nghĩa hoặc một vài nghĩa của từ đa nghĩa. Thí dụ, từ banc

trong tiếng Pháp có tới 6 nghĩa 1/ ghế dài, 2/ ghế, 3/bãi, 4/lớp, vỉa, 5/đàn

(cá,...), nhưng tiếng Việt chỉ mượn nghĩa đầu.

- Mượn và có những thay đổi nhất định nội dung nghĩa vốn có. Thí dụ,

từ 走 vốn trong tiếng Hán có nghĩa là “nhạy” (nghĩa cổ) và “đi” ( nghĩa hiện

dùng) được tiếng Việt mượn với nghĩa là “đi khỏi một các lén lút”.

- Mượn và trên cơ sở nghĩa mượn để phát triển nghĩa mới. Ví dụ: a-lô

vốn là thá từ dùng để gợi sự chú ý, được phát triển thêm nghĩa “gợi, báo tin”

(có tin gì nhớ a-lô cho mọi người cùng biết!)

Từ phỏng từ là từ này có thể tiếp thu thêm ý nghĩa của từ tương ứng

trong ngôn ngữ khác là ý nghĩa định danh trực tiếp của chúng phải giống

nhau. Từ này chỉ tiếp nhận thêm ý nghĩa “gây xúc động” là nhờ sao phỏng

ý nghĩa của từ toucher trong tiếng Pháp. Cơ sở của sự sao phỏng này là cả

hai từ đều có ý nghĩa trực tiếp là “sờ mó”. Ý nghĩa “tầm thường, vô vị”

của từ плоскцы cũng là do sao phỏng ý nghĩa của từ tiếng Pháp plat mà

có. Cả hai từ này đều có ý nghĩa trực tiếp là “bằng phẳng”. Từ “ngựa”

trong tiếng Việt và từ “cheval” trong tiếng Pháp cùng chỉ một loài động

vật, nhưng từ cheval còn chỉ một đơn vị sức kéo, do đó, từ ngựa đã có

thêm cả ý nghĩa này (máy 15 ngựa). Nếu hiện tượng sao phỏng cấu tạo từ

dẫn đến sự xuất hiện trong ngôn ngữ những từ mới thì hiện tượng sao

phỏng ngữ nghĩa chỉ dẫn đến sự xuất hiện những từ đồng âm hoặc những

21

ý nghĩa mới của từ đã có.

Về sách lược tiếp nhận từ mượn, có hai loại ý kiến đối nghịch đồng

thời cũng là hai loại sách lược đối lập:Di hóa (foreginization) và quy hóa

(domesticatio). Ý kiến thứ nhất chủ trương nên lấy nguyên ngữ hoặc nguyên

văn tác giả làm nơi quy tụ, điều này không thỏa hiệp đối với người đọc, yêu

cầu người đọc phải tiếp thu sự khác biệt đặc thù của văn hóa nước ngoài; ý

kiến thứ hai chủ trương nên lấy mục đích hoặc dịch theo văn ngôn của người

đọc làm điểm quy tụ, văn dịch quy hóa cho nên khiến cho văn ngôn của người

đọc nghe xong thuận mắt. Quá trình tiếp nhận từ mượn tiếng Anh cũng chủ

yếu là áp dụng hai loại sách lược này.

1.1.3. Các cách vay mượn từ vựng

Về phương pháp tiếp nhận, sự tiếp nhận từ mượn ở các ngôn ngữ

thường diễn ra theo bốn phương pháp chính:

1. Dịch nghĩa (can - ke ngữ nghĩa): Truyền thống ngôn ngữ học gọi

cách vay mượn này là can ke ngữ nghĩa (calque) hay dịch (loan translation).

Từ vay mượn tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt đều có nhiều từ như

thế. Thí dụ: từ tiếng Hán 超人 (siêu nhân), tiếng Anh là superman , 快餐 (đồ

ăn nhanh), tiếng Anh là fast food. Từ tiếng Việt nút cổ chai, tiếng Anh là

bottle neck, tài khoản, tiếng Anh là account.

2. Phiên âm là phương thức vay mượn từ vựng bằng cách dựa trên

(phỏng theo)âm đọc của từ ngữ cho vay để ghi lại từ ngữ đó bằng cách đọc

cách viết của ngôn ngữ đi vay. Thí dụ: từ tiếng Hán 咖啡, phỏng âm theo từ

tiếng Anh coffee, 博客,phỏng âm theo từ tiếng Anh blog. Từ tiếng Việt a-

xít, phỏng âm theo từ tiếng Anh acide, cao-bồi, phỏng âm theo từ tiếng Anh

22

cowboy.

3. Chuyển tự: phương thức này được thực hiện do giữa các ngôn ngữ

không cùng hệ văn tự. Chẳng hạn như sự vay mượn giữa tiếng Anh (thuộc hệ

chữ La- tinh) với tiếng Nga (ngôn ngữ thuộc hệ chữ Ki-rin), ví dụ:

perestroika:nересmройка, glasnost: глсност.

4. Và mượn nguyên dạng của nguyên ngữ. Cách vay mượn này thể hiện

ở hình thức chữ viết: sử dụng nguyên cách viết chính tả đơn vị từ vựng của

ngôn ngữ đi vay. Còn cách đọc thì cố gắng đọc sát với cách đọc của nguyên

ngữ. Ví dụ: stress, heroin, marketing, computer, pressing,... Một số ít các từ

ngữ Hán cũng đã bắt đầu xuất hiện trong văn bản tiếng Việt dưới dạng

nguyên dạng phiên âm La-tinh (gonfu, wushu).

1.2. Khái quát về vay mượn từ ngữ trong tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt

hiện đại

1.2.1. Hiện tượng vay mượn từ ngữ trong tiếng Hán hiện đại

1.2.1.1. Sự hình thành của từ mượn trong tiếng Hán

Trong lịch sử phát triển hơn 5000 năm, giữa các dân tộc Trung Hoa

luôn có sự xung đột và giao lưu văn hóa, sự xung đột và giao lưu ấy không

thể không dẫn đến sự hình thành của từ mượn. Từ mượn trong tiếng Hán nếu

dựa theo nguồn gốc có thể phân thành hai loại: từ mượn trong nước và từ

mượn nước ngoài.

1.2.1.2. Từ mượn nước ngoài

Đối với các yếu tố ngoại lai đến từ tiếng nước ngoài, cho đến nay tiếng

Hán đã có ba đợt du nhập quy mô lớn những yếu tố trong tiếng nước ngoài

vào tiếng bản ngữ.

a. Đợt đầu tiên theo dự đoán vào thời Tần Hán giao tranh, khi những

23

yếu tố ngoại lai từ Tây Vực theo phật giáo du nhập vào tiếng Hán. Phật giáo

bắt đầu truyền bá vào Trung Quốc từ thời Hán Vũ Đế và vô cùng thịnh vượng

vào đời Đường đã mang đến không ít những yếu tố vay mượn du nhập vào

tiếng Hán.

Quá trình du nhập này lại chia thành ba giai đoạn như sau:

1: Giai đoạn đầu là thông qua ngôn ngữ Tây Vực;

2: Giai đoạn hai là thông qua các nhà tu hành (tăng nhân) Ấn Độ, Tây

Tạng nhập vào Trung Nguyên;

3: Giai đoạn cuối cùng là đời Đường.

Dưới đây là những từ mượn được sử dụng nhiều: Phật/bụt (Buddha),

A Di Đa phật (amitàbha), A la hán (arhàn/ arhat), tăng (samgha), Bồ tát

(Bodhisattva), kệ (gàthà), thiền (dhyana), niết bàn (Nibbana), nam vô/ nam

mô (namo; Bali), quan thế âm (Avalkitesvara), quỷ (mà ra).

Quá trình vay mượn này diễn ra rất phức tạp, một từ mượn phải trải qua

nhiều dạng biến đổi rồi mới được định hình.

b. Bắt đầu từ thời Minh Thanh, cùng với sự đổ bộ của các nước phương

Tây vào trung Quốc, các yếu tố của tiếng Tây Âu cũng bắt đầu du nhập vào

tiếng Hán. Chiến tranh thuốc phiện kết thúc đồng thời mở ra một thời kỳ lịch

sử mới ở Trung Quốc. Trên phương diện ngôn ngữ nó đánh dấu thời kỳ tiếng

Hán cận đại. Thời kỳ này đế quốc phong kiến triều Thanh bước vào con

đường diệt vong, những thành phần yêu nước mới và những giai cấp mới đã

bước lên vũ đài chính trị. Dưới tác động của nhiều nguồn ngoại lực, cả đất

nước Trung Quốc chuyển từ thế bị động sang thế chủ động trở thành một xã

hội hiện đại. Nguồn ngoại lực đó chính là các nước phương Tây với một hệ tư

24

tưởng khác. Cuộc tiếp xúc này đem đến sự thay đổi lớn cho xã hội Trung

Quốc trên tất cả các phương diện: chính trị, xã hội, kinh tế... Và đặc biệt là sự

xung đột giữa văn hóa truyền thống Trung Quốc với tư tưởng xã hội hiện đại

cận phương Tây. Chính sự xung đột này đã thúc đẩy sự biến đổi của tiếng

Hán. Từ mượn cũng là một phương diện của sự biến đổi này. Đáng chú ý là

văn hóa Nhật Bản - nền văn hóa vốn tiếp thu nhiều tinh hoa của văn hóa Hán

sau đó lại chịu ảnh hưởng sâu sắc những tác động của làn gió Tây phương

(chủ yếu đến từ Mỹ) cũng ảnh hưởng trở lại một cách mạnh mẽ đến văn hóa

Trung Quốc. Con đường vay mượn vòng vo ấy được thể hiện rõ ràng trong sự

phát triển của tiếng Hán: Thoạt đầu tiếng Nhật mượn chữ Hán, sau đó lại sử

dụng chính những từ mượn đó để ghi lại các khái niệm mượn từ tiếng Anh.

Đến lượt mình, tiếng Hán lại mượn chính những từ đó bằng nguyên chữ Hán

và đọc theo âm Hán. Cách mượn này được gọi là “hình tá pháp” (cách mượn

dạng chữ).

c. Cuộc tiếp xúc văn hóa ngôn ngữ giữa Trung Quốc và các nước

phương Tây kéo dài từ đó cho đến nay. Đặc biệt là khoảng hai mươi năm trở

lại đây, cùng với sự phát triển và biến đổi sâu sắc chưa từng có của toàn thế

giới nói chung và tốc độ hội nhập của Trung Quốc nói riêng, tiếng Hán lại

thêm một lần nữa tiếp nhận thêm những yếu tố ngoại lai mới. Trải qua những

lần tiếp xúc như vậy, từ mượn đã trở thành một bộ phận của tiếng Hán và

ngày càng được sử dụng rộng rãi.

1.2.1.3. Phân loại từ mượn trong tiếng Hán hiện đại

Không thể thống kê cụ thể số lượng từ mượn trong tiếng Hán hiện đại

bởi sự xuất hiện đặc biệt nhiều và sự gia tăng không ngừng của nó, chỉ tính

25

riêng trong hơn 30 năm cải cách, số lượng từ mượn trong tiếng Hán hiện đại

đã tăng lên vài nghìn từ. Có nhiều cách phân loại từ mượn, dưới đây là những

cách phân loại chủ yếu:

Về dạng tồn tại, cũng giống như ở các ngôn ngữ khác, từ mượn trong

tiếng Hán trên thực tế gồm hai bộ phận: một là được viết thành chữ hai là chỉ

dừng lại ở lời nói (do sự phát triển của ngôn ngữ cần dựa vào cả hai con

đường: truyền miệng và chữ viết).

Về nguồn gốc, trong tiếng Hán hiện đại từ mượn tiếng Anh chiếm số

lượng chủ yếu. Từ mượn tiếng Nhật cũng chiếm số lượng đáng kể. Bên cạnh

đó là các từ mượn được du nhập vào từ các khu vực trực thuộc như Đài Loan,

Hồng Kông, Ma Cao, và các từ mượn tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Ý... Tuy

nhiên, từ “nguồn gốc” ở đây cũng chỉ được dùng với nghĩa tương đối - để tạm

chỉ những từ ngữ được mượn trực tiếp từ một ngôn ngữ cụ thể, bởi biệc truy

nguyên nguồn gốc ban đầu của nó là một công việc cực kỳ phức tạp.

Về phạm vi ứng dụng, từ mượn xuất hiện để gọi tên tất cả các phương

diện của cuộc sống do đó nó xuất hiện trong tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính

trị, văn hóa, giáo dục, sinh hoạt... Nếu như từ thời phong kiến trở về trước, từ

mượn chủ yếu là những từ thuộc lĩnh vực tôn giáo, chính trị, văn hóa thì đến

thời kỳ cận đại và hiện đại, tiếng Hán tiếp nhận thêm nhiều từ ngoại lai trên

những lĩnh vực mới mẻ và đa dạng hơn hẳn. Từ giữa thế kỷ XIX Trung Quốc

bắt đầu dịch và giới thiệu văn hóa khoa học kỹ thuật phương Tây, đến cuối

thế kỷ XIX phát triển dịch và giới thiệu các tác phẩm văn học, khoa học, tư

tưởng phương Tây, khiến cho một lượng lớn các từ vựng mới du nhập vào

tiếng Hán để gọi tên những sản phẩm khoa học kỹ thuật hiện đại, các thành

26

tựu văn hóa tư tưởng mới. Cuối thế kỷ XX, cùng với sự tăng nhanh của toàn

cầu hóa kinh tế thế giới, từ vay mượn trong các lĩnh vực thông tin, kỹ thuật

máy tính, trong ngôn ngữ truyền thống và ngôn ngữ giới trẻ gia tăng với tốc

độ chóng mặt.

Về phương thức tiếp nhận: đến nay vẫn còn nhiều tranh luận về tên gọi

và cách phân loại những phương thức tiếp nhận từ mượn. Tuy nhiên phần lớn

các học giả thường chia từ mượn thành hai loại: Từ cấu tạo theo dịch âm và từ

cấu tạo theo dịch nghĩa. Chi tiết về hai cách tiếp nhận này sẽ được đề cập đến

trong chương sau.

Ngoài ra còn có thể phân loại từ mượn từ góc độ sử dụng, từ bình diện

hệ thống cấu trúc, từ góc độ “bảo lưu” hay “thay đổi”... Tất cả cho thấy bức

tranh từ mượn trong tiếng Hán vô cùng đa dạng và phức tạp. Trong khuôn

khổ luận văn này tôi hy vọng tập trung làm sáng tỏ những đặc điểm của một

bộ phận chiếm số lượng chủ yếu nhưng vẫn còn khá mới mẻ của tiếng Hán: từ

mượn tiếng Anh.

1.2.2. Hiện tượng vay mượn từ ngữ trong tiếng Việt hiện đại

1.2.2.1. Khái quát về từ vay mượn trong tiếng Việt

Nhìn từ góc độ vay mượn từ vựng, vốn từ vựng của một ngôn ngữ, về

lý thuyết, sẽ được phân làm hai: những từ bản ngữ và những từ vay mượn.

Thuật ngữ từ vay mượn, cũng vì thế, thường được dùng trong sự đối lập với

từ bản ngữ. Với cách nhìn này, về mặt lý thuyết, có thể hình dung hệ thống từ

vựng tiếng Việt sẽ được lưỡng phân một bên là từ thuần Việt và một bên là từ

vay mượn hay từ ngoại lai.

a. Mặc nhiên, khi nói đến “từ thuần Việt” cũng là nhằm đối lập với từ

27

không thuần Việt - tức là những từ không phải gốc tiếng Việt. Tuy nhiên, đấy

chỉ là lý thuyết, theo đó, cách dùng “thuần Việt” hay một cách khiêm tốn

“Việt” (bớt đi chữ “thuần”) cũng chỉ là mang tính tương đối. Chẳng hạn,

ở góc nhìn này, vào thời điểm này thì có thể cho các từ này là “thuần, bản

ngữ”, nhưng nếu đứng ở góc nhìn khác hoặc lùi về quá khứ một chút thì

lại chưa chắc.

b. Quá trình hình thành, chia tách dân tộc, ngôn ngữ cũng như quá trình

hình thành, tiếp xúc giữa các ngôn ngữ với hàng loạt tác động của các nhân tố

như thời gian, không gian, xã hội đã làm cho khó mà có thể tách ra được một

cách rạch ròi các từ bản ngữ với không bản ngữ. Nếu lần ngược về lịch sử thì

ngay trong những từ ngữ được gọi là thuần Việt/ Việt hiện nay cũng còn cả là

một vấn đề. “Các nhà ngôn ngữ học ngày càng ngả về xu thế cho rằng tiếng

Việt là một ngôn ngữ đa nguồn. Vốn từ vựng của nó được hình thành từ một

cơ tằng bản địa ban dầu, về sau do tiếp xúc với các ngôn ngữ láng giềng mà

ngày càng được bổ sung và phong phú dần lên. Đến nay trong vốn từ vựng

tiếng Việt hiện đại đã bao gồm nhiều từ thuộc các nguồn khác nhau” . Chẳng

hạn, các từ ngữ gốc Môn - Khmer như rú (rừng rú), ruột, cháo, ác tay, tai,

mắt, măng, răng, mệ (mẹ), sấm, chớp, đăm (phải,chiêu (trái), ngái (xa),

trai,... Điều này giúp cho chúng ta giải thích một số yếu tố được gọi là “mất

nghĩa” trong các từ song tiết tiếng Việt.

c. Khái niệm “từ gốc ngoại” hay “từ Việt gốc ngoại” là muốn nói đến

các đơn vị từ vựng của tiếng nước ngoài nhập tịch vào tiếng Việt (như từ

nguồn từ vựng của tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh và một lượng ít ỏi các

28

đơn vị từ ngữ tiếng Nga,... )

Xét về mức độ ( bao gồm cả về số lượng cũng như chất lượng), trong

tiếng Việt số lượng đơn vị từ vựng mượn từ tiếng Hán nhiều hơn cả, chiếm tới

trên 65% và được đồng hóa rất cao; tiếp đến là các đơn vị từ vựng mượn từ

tiếng Pháp (khoảng gần 3000 đơn vị), sau đó đến các đơn vị từ vựng mượn từ

tiếng Anh. Sở dĩ có sự khác nhau về mức độ như vậy là do các nguyên nhân

từ ngôn ngữ và nguyên nhân từ xã hội. Chẳng hạn, xuất phát từ loại hình học

ngôn ngữ cho thấy, rõ ràng các từ ngữ Hán với cách đọc Hán Việt thuận lợi

hơn nhiều so với các từ ngữ của các ngôn ngữ Âu Mĩ như tiếng Anh, tiếng

Pháp,... Lí do là vì, hệ thống ngữ âm tiếng Việt đã gần như bao trọn vẹn hệ

thống cách đọc Hán Việt, mà về lý thuyết, tất cả các từ Hán đều có thể đọc lên

bằng âm Hán Việt, do đó mọi từ Hán đều có tiềm năng trở thành yếu tố Hán

Việt. Trong khi đó, các từ Ấu Âu muốn nhập vào tiếng Việt thì trước hết phải

thay đổi hình thức ngữ âm cho phù hợp với đặc điểm âm tiết của tiếng Việt.

Nói cách khác, đặc điểm cùng loại hình đã giúp cho việc nhập tịch của các từ

Hán vào trong tiếng Việt thuận lợi hơn nhiều so với các từ Ấu Âu.

Xuất phát từ lí do bổ sung khái niệm, có thể nhận thấy, các từ ngữ

Hán Việt sở dĩ xuất hiện ồ ạt là vì ở vào giai đoạn đó vốn từ cơ bản tiếng Việt

chưa hoàn chỉnh, cần bổ sung. Sau này, khi nhập vào tiếng Việt chủ yếu là

thuật ngữ. Đối với các từ mượn tiếng Anh trong tiếng Việt là một vấn đề ngôn

ngữ học xã hội lí thú: một thời gian dài, tiếng Việt ở một nửa đất nước Việt

Nam (miền Nam) có sự tiếp xúc trực tiếp với tiếng Anh (làm nên cả một

Pidgin Anh trong lớp người làm việc cho Mĩ). Nhưng lượng từ Anh vào tiếng

Việt lại không đáng kể. Phải đến những năm 90 của thể kỉ XX, sự xuất hiện

29

các từ Anh trong tiếng Việt mới ngày càng gia tăng. Tình hình này không chỉ

xảy ra ở riêng tiếng Việt mà còn xảy ra ở các ngôn ngữ khác. Đó là do tác

động của sự mở cửa, hội nhập, xu thế toàn cầu hóa với sự trợ giúp của cuộc

cụ chủ yếu, đã tạo ra một “lớp từ vựng quốc tế”. Tuy nhiên, những từ mượn

trong tiếng Việt mà đa phần là từ tiếng Anh hiện nay lại xuất hiện dưới dạng

chữ Anh với các biến thể của cách đọc cố gắng phỏng theo cách đọc tiếng

Anh. Cùng với xu thế đó, một số từ mượn từ tiếng Hán cũng có xu hướng để

nguyên cách viết phiên âm La-tinh tiếng Hán. Vì thế, trong nhiều trường hợp

rất khó phân biệt đâu là từ mượn đã nhập tịch và đâu là từ nước ngoài. Giờ

đây, các khái niệm như “đồng hóa”, “nhập tịch” dường như đang bị lung lay.

1.2.2.2. Phân loại từ ngoại lai trong tiếng Việt

Nhìn từ góc độ vay mượn từ vựng, vốn từ vựng của một ngôn ngữ, về

lý thuyết, tiếng Việt sẽ được phân hai loại: những từ bản ngữ và những từ vay

mượn. Thuật ngữ từ vay mượn, thường được dùng trong sự đối lập với từ bản

ngữ. Về lý thuyết, có thể hình dung hệ thống từ vựng tiếng Việt sẽ được

lưỡng phân một bên là từ thuần Việt và một bên là tư vay mượn hay từ ngoại

lai. Nội dung của hai khái niệm từ thuần Việt và từ vay mượn không có ranh

giới rõ ràng vì từ vựng có xu hướng biển đổi, phát triển qua nhiều giai đoạn.

Cho nên người ta chỉ có thể xác định ranh giới một cách tương đối chắc chắc

nếu xét chúng trong những giai đoạn lịch sử cụ thể, những từ mượn trong giai

đoạn này có thể được coi là từ thuần Việt trong giai đoạn tiếp theo. Tiếng Việt

trong giai đoạn hiện nay chứa đựng nhiều từ ngữ giống hoặc tương tự với các

từ ngữ trong nhiều thứ tiếng khác như: tiếng Thái, tiếng Bana, tiếng Gialai,

tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Nga..., và đặc biệt trong thời gian gần đây là

30

tiếng Anh, tiếng Việt mượn khá nhiều từ tiếng Anh trong ẩm thực, công nghệ

thông tin và giải trí. Dù nhiều từ đã có từ thuần Việt nhưng mọi người vẫn

quen sử dụng từ mượn tiếng Anh.

Nói đến từ ngoại lai, có thể tìm hiểu về các đơn vị từ vựng của tiếng

nước ngoài nhập tịch vào tiếng Việt, nên có khái niệm “từ gốc ngoại” hay “từ

Việt gốc ngoại”. Xét về mức độ (bao gồm cả về số lượng cũng như chất

lượng), trong tiếng Việt số lượng đơn vị từ vựng mượn trong các tiếng nước

ngoài nhiều, vì thế, từ vay mượn trong tiếng Việt có thể phân loại như sau:

1. Từ mượn tiếng Hán. Trong tiếng Việt số lượng đơn vị từ vựng mượn

từ tiếng Hán nhiều hơn cả, chiếm tới trên 65% , bao gồm cả những từ còn ít

nhiều mang cái vỏ vay mượn và cả nhưng từ đã được Việt hóa rất cao, kể cả

các từ mượn theo lối can- ke ngữ nghĩa.

2. Từ mượn tiếng Pháp. Nhìn về quá khứ lịch sử, đất nước Việt Nam

trước kia vẫn là thuộc địa của nước Pháp. Nên trong chính trị, kinh tế, lịch sử,

văn hóa dều bị ảnh hưởng của nước Pháp. Bởi vì bối cảnh lịch sử phát triển

của Việt Nam, từ vay mượn trong tiếng Việt cũng có một lớp từ ngữ mượn từ

tiếng Pháp (khoảng gần 3000 đơn vị).

3. Từ mượn tiếng Anh. Tiếng Anh là ngôn ngữ thông dụng phố biến

nhất trên thế giới, nó cũng là ngôn ngữ quốc tế thông dụng (ICE). Tiếng Anh

đã vay mượn từ ngữ của hơn 350 ngôn ngữ khác nhau. Việt Nam và nước

Anh giao lưu về mặt công nghệ thông tin, kinh tế, văn hóa, lịch sử, giải trí rất

nhiều, nên từ mượn tiếng Anh được sử dụng trong tiếng Viết rất phố biến.

4. Từ mượn tiếng Nga. Trong tiếng Việt, cũng có một số từ mượn từ

nước Nga, quá trình phát triển của hai nướcc, từ xưa đến nay, hai nước giao

31

lưu văn hóa, chính trị, kinh tế rất nhiều, sự ảnh hưởng của song phương rõ

ràng, xu hướng đi lưu học nước Nga của người Việt Nam càng ngày càng

mạnh, trong tiếng Việt cũng có một lớp từ vay mượn là từ mượn tiếng Nga.

1.3. Đặc điểm của tiếng Hán và tiếng Việt

Tại vì luận văn này chủ yếu nghiên cứu về từ mượn tiếng Anh trong

tiếng Hán và tiếng Việt, vậy nói đến đặc điểm tiếng Hán và tiếng Việt, đây

chủ yếu suy nghĩa đặc điểm của hai tiếng kết hợp với từ vay mượn. Việt Nam

và Trung Quốc là hai nước giáp giới nhau. Chính trị, văn hóa, kinh tế..., các

lĩnh vực trong đời sống có giống nhau nhiều. Đặc biệt ngôn ngữ của hai nước,

đặc điểm của hai ngôn ngữ rất rõ ràng.

Về mặt chữ của hai nước: Tiếng Việt thuộcchữ La - Tinh, Việt Nam gọi

nó là “chữ quốc ngữ”. Tiếng Hán cũng là chữ phép âm, chữ tiếng Hán là chữ

tượng hình, nhưng tiếng Hán cũng dùng hai mươi sáu chữ cái La- Tinh để ghi

âm chữ. Tiếng Anh là chữ La - Tinh, nên các từ mượn tiếng Anh trong hai

ngôn ngữ đó, khi dịch âm, chuyển mã, đổi âm giữa hai ngôn ngữ dễ hơn.

Tiếng Hán và tiếng Việt đều có thanh điệu, tiếng Hán có bốn thanh chính và

một thanh nhẹ, tiếng Việt có sáu thanh. Tuy nhiên, tiếng Anh không có thanh

điệu, nhưng từ mượn tiếng Anh có thể dịch âm theo tiếng Hán và tiếng Việt.

Đây cũng là cách tiếp nhận từ vay mượn và Hán hóa, Việt hóa.

Về mặt cách tiếp nhận từ vay mượn: Trong tiếng Hán và tiếng Việt đều

có nhiều từ ngoại lai trong các lĩnh vực. Ẩm thực, trang phục, công nghệ

thông tin, giải trí..., vậy cách tiếp nhận từ ngoại lai thể hiện rất đa dạng, nói

chung cách tiếp nhận từ ngoại lai có bốn cách: dịch nghĩa, phiên âm, chuyển

tự và mượn nguyên dạng của nguyên ngữ. Đây là bốn cách tiếp nhận từ vay

32

mượn nói chung. Mà trong tiếng Hán còn có cách tiếp nhận từ vay mượn khác

với tiếng Việt. Chẳng hạn, trong tiếng Hán, có cách kết hợp âm và nghĩa,

thêm từ để định danh. Ví dụ từ 可口可乐,từ Anh là coca cola, từ

吉普车,từ Anh là Jeep. Khi tiếng Hán mượn chữ này thì thêm chữ 车 để

biểu thị là một loại xe.

Về mặt Hán hóa và Việt hóa: Tiếng Hán và tiếng Việt hai ngôn ngữ,

không những chỉ có bản ngữ của nó, còn có nhiều từ ngoại lai. Các từ ngoại

lai nhập vào tiếng Hán và tiếng Việt, đa số cần quá trình Hán hóa và Việt hóa.

Bởi vì hai bản ngữ khác nhau, nên cách Hán hóa và Việt hóa cũng khác nhau.

Từ mượn tiếng Anh quá trình Hán hóa và Việt hóa, có đặc điểm từ ngoại lai

cũng có đặc sắc bản ngữ.

1.4. Tiểu kết chương 1

Tóm lại, từ vay mượn hay từ ngoại lai không những là hiện tượng phổ

biến của mọi ngôn ngữ, mà còn là một hiện tượng ngôn ngữ không tránh khỏi

trong giao lưu văn hóa ngôn ngữ. Nó có tác dụng to lớn trong các lĩnh vực của

đời sống. Từ mượn mang tính đa dạng, phong phú, linh hoạt bổ sung cho các

bản ngữ và cung cấp cho con người những nội dung thông tin mới. Nhu cầu

giao lưu đã khiến cho những người nói một ngôn ngữ nào đó tiếp xúc trực

tiếp hay gián tiếp với văn hóa. Sự giao lưu có thể có tính chất hữu nghị hay

thù địch. Nó có thể diễn ra trên bình diện bình thường của những quan hệ

kinh doanh hay buôn bán, hoặc có thể là một sự vay mượn hay trao đổi

những giá trị tinh thần, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo vv... Nên từ vay

33

mượn được xem là ngôn ngữ phố biến trên thế giới và được dung hòa trở

thành một bộ phận tố thành hữu cơ trong văn hóa ngôn ngữ. Tiếng Hán và

tiếng Việt không tách khỏi quy luật chung này. Từ ngoại lai là nguồn bổ

sung quan trọng cho vốn từ tiếng Hán và tiếng Việt cả về số lượng lẫn

chất lượng. Tuy nhiên, chúng ta không thể nào không chú ý đến yếu tố

“đặc sắc Trung Hoa” và “bảo vệ và phát triển tiếng Việt” trong cách tiếp

34

nhận các từ mượn trong hai tiếng.

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ NGỮ TIẾNG ANH

TRONG TIẾNG HÁN (ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT)

2.1. Bối cảnh ngôn ngữ-xã hội của việc xuất hiện từ mượn tiếng Anh

trong tiếng Hán và tiếng Việt hiện đại

2.1.1. Sự thông dụng của tiếng Anh trên thế giới

Tiếng Anh được sử dụng phổ biến chủ yếu là do ảnh hưởng của Mỹ và

Anh trên các lĩnh vực quân sự, kinh tế, khoa học, tin học, chính trị và văn hóa.

Thêm vào đó, trong bối cảnh hội nhập ngày nay, tiếng Anh ngày càng được

phổ biến rộng rãi để trở thành một ngôn ngữ có tính toàn cầu. Theo chuyên

gia ngôn ngữ giảng dạy tại Đại học Bangor ở Xứ Wales David Crystal, thứ

tiếng này đã vay mượn từ vựng từ hơn 350 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới

trong vòng một ngàn năm qua. Ông thống kê rằng tiếng Pháp được vay mượn

nhiều nhất, kể từ thời Trung cổ, với hơn 60.000 từ vựng. Sau đó là tiếng

Latin, Hy Lạp, Ý và Tây Ban Nha. Điều này cũng tạo cơ hội rộng mở cho sự

phổ biến của tiếng Anh trong thời đại ngày nay.

Tiếng Anh là ngôn ngữ phổ thông trên thế giới và là ngôn ngữ bản địa

của khoảng 402 triệu người vào năm 2002. Tiếng Anh dùng như là tiếng nói

chung ở nhiều nước nơi mọi người nói nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ngày nay

có khoảng một tỷ người nói tiếng Anh trên khắp thế giới và con số này ngày

càng tăng lên. Tại Ấn Độ, nơi có gần 200 ngôn ngữ khác nhau được sử dụng

và chỉ có 30% người nói ngôn ngữ chính là tiếng Hindi tiếng Anh đang được

35

coi là ngôn ngữ giao tiếp chính. Chỉ cần một phần nhỏ trong số hơn một tỷ

người dân Ấn Độ ra ngoài giao thương cũng có thể gây ảnh hưởng không nhỏ

tới sự phổ biến của tiếng Anh. Ấn Độ không phải là nước duy nhất trên thế

giới coi tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức trong giao tiếp và sinh hoạt hành

chính. Theo thống kê của các học giả người Pháp năm 2008, hiện nay trên thế

giới có hơn 250 triệu người Trung Quốc học tiếng Anh. Ở Hồng Kông, 9 trên

10 học sinh trung học đều được học tiếng Anh. Trong 80 nước, tiếng Anh là

ngôn ngữ thông dụng thứ hai hay được phổ biến trong việc học. Ở Pháp, để

bắt đầu vào trung học các học sinh phải có ít nhất 4 năm học tiếng Anh hay

tiếng Đức; hầu hết 85% học sinh là chọn học tiếng Anh. Tại Nhật Bản, các

học sinh trung học được đòi hỏi là phải có 6 năm học tiếng Anh trước khi tốt

nghiệp. Tiếng Anh cũng là ngôn ngữ nửa chính thức của 20 nước châu Phi

bao gồm Sierra Leone, Ghana, Nigeria, Liberia và Nam Phi. Các sinh viên

được dạy tiếng Anh tại trường Đại học Makerere ở Uganda, trường đại học

của thành phố Nairobi Ở Kenya và trường đại học của thành phố Dares

Salaam ở Tanzania.

Tiếng Anh là ngôn ngữ thông dụng của thế giới:

Trong lĩnh vực kinh tế: Tiếng Anh trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế

ảnh hưởng đến hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế Châu Âu. Tiếng Anh

tham gia hầu hết vào các thành phần lãnh đạo của các doanh nghiệp. Tổ chức

thương mại tự do Châu Âu làm việc chủ yếu bằng tiếng Anh mặc dù 6 nước

thành viên đều không trực thuộc nước Anh. Ở nhiều nước, người ta bắt buộc

phải học tiếng Anh để đi làm. Các tập đoàn như Datsun và Nisan đều gửi điện

báo với ngôn ngữ tiếng Anh. Như những năm 1985, 80% nhân viên của tập

36

đoàn Mitsui có thể nói, đọc và viết được tiếng Anh, tập đoàn Toyota thì mở

các lớp tiếng Anh tại chức cho nhân viên của mình. Các lớp tiếng Anh đã

được giữ lại ở Ả Rập Saudi cho các công nhân của tập đoàn dầu hỏa Aramco

và trên ba lục địa thuộc Ngân hàng Chase Manhattan.

Trong lĩnh vực chính trị, xã hội: Tiếng Anh là ngôn ngữ chung của các

tổ chức chính trị xuyên quốc gia, các nhóm hoạt động xã hội toàn cầu, các

hoạt động giao lưu văn hóa giữa các dân tộc,... Cho tới thánh chiến Hồi giáo -

nơi tiếng Anh hiển nhiên là phương tiện thông tin giữa những người nói tiếng

Ảrập với phần còn lại của thế giới. Tiếng Anh là ngôn ngữ thống nhất của hội

đồng thế giới Thiên chúa giáo và là một ngôn ngữ chính thức của các thế vận

hội và các cuộc thi hoa hậu hoàn vũ trên thế giới.

Trong các phương tiện truyền thông và giao thông: Tiếng Anh chiếm

ưu thế trong giao thông vận tải và các phương tiện truyền thông. Trong lĩnh

vực du lịch và ngôn ngữ cộng đồng của hàng không quốc tế, tiếng Anh đóng

vai trò chính. Phi công, tiếp viên và kể cả các nhân viên kiểm soát đều nói

tiếng Anh tại các phi trường quốc tế. Cờ và các tín hiệu ánh sáng được sử

dụng trong ngành hàng hải, nhưng “nếu các tàu lớn cần truyền tín hiệu cho

nhau bằng các thông điệp thì họ sẽ tìm kiếm một ngôn ngữ chung và thông

dụng và khi đó tiếng Anh chắc chắn sẽ là chọn lựa chính” (câu nói của một

người bảo vệ bờ biển tại Mỹ, Werner Siems). Năm trong số các đài phát thanh

nổi tiếng là CBS, NBC, ABC, BBC và CBC được 300 triệu người chọn ra là

các đài phát thanh tiếng Anh phổ biến nhất. Tiếng Anh cũng là ngôn ngữ phổ

biến trên các chương trình TV thuộc truyền tải vệ tinh.

Trong lĩnh vực công nghệ thông tin và khoa học: Ngôn ngữ của thời đại

37

thông tin là tiếng Anh. Cùng với sự phổ biến của internet, ngôi vị thống lĩnh

của tiếng Anh càng được củng cố khi nó là ngôn ngữ của Internet, nơi 80%

thông tin của thế giới được lưu giữ bằng tiếng Anh. Hơn 80% nguồn dự trữ

thông tin của hơn 100 triệu máy tính khắp thế giới là tiếng Anh. 85% các cuộc

trao đổi qua điện thoại quốc tế được sử dụng bằng tiếng Anh, cũng như vậy

với số lượng mail, các cuộc điện báo và truyền tín hiệu qua dây cáp. Chương

trình chỉ dẫn trên máy tính và các chương trình phần mềm thường được dùng

bằng tiếng Anh. Mặc dù tiếng Trung Quốc và các ngôn ngữ khác đang tăng

đáng kể thị phần trên Internet, tiếng Anh vẫn duy trì là ngôn ngữ thông dụng

nhất. Tiếng Đức đã là một ngôn ngữ của khoa học. Nhưng ngày nay, hơn 80%

các bản ghi chép khoa học được trình bày với ngôn ngữ thứ nhất là tiếng Anh.

Tương tự, phân nửa kỹ thuật và khoa học trên thế giới cũng được phổ biến

bằng tiếng Anh và còn được dùng trong các lĩnh vực y học, điện tử và kỹ

thuật không gian.

Tiếng Anh là ngôn ngữ trong văn hóa thế hệ trẻ quốc tế. Những người

trẻ tuổi từ khắp nơi trên thế giới nghe và hát các ca khúc tiếng Anh nổi tiếng

và thậm chí có nhiều người còn không cần hiểu hết ý nghĩa của lời nhạc

nhưng vẫn sử dụng chúng. Các từ break dance, rap music, bodybuilding,

windsurfing và computer hacking đang lấn át dần các từ lóng về âm nhạc của

giới trẻ nhiều nước.

Việc dạy tiếng Anh cũng trở thành một ngành công nghiệp trị giá hàng

triệu USD, với 1/4 dân số thế giới đang đổ xô đi học tiếng Anh. Theo dự đoán

của các chuyên gia, trong lương lai sẽ có khoảng 400 triệu người nói tiếng

Anh bản địa, 300-500 triệu coi đó là ngôn ngữ thứ hai và khoảng 750 triệu coi

38

đó là một ngoại ngữ. Mỹ - nơi tiếng Anh được sử dụng nhiều nhất, cũng chỉ

chiếm 20% số người nói tiếng Anh của thế giới. Chỉ riêng tại châu Á đã

khoảng 350 triệu người nói tiếng Anh, tương đương với tổng dân số nói tiếng

Anh tại Mỹ Canada và Anh cộng lại.

Như vậy, tiếng Anh và toàn cầu hóa đã trải rộng cùng nhau khắp thế

giới. Quá trình đó đã bắt đầu với sự thống trị của hai đế chế nói tiếng Anh

thành công là Anh và Mỹ, và tiếp tục tới ngày nay với đế chế ảo mới, đó

là Internet. Vì thế giống như bóng đá - môn thể thao được ưa chuộng trên

toàn thế giới nhưng ngày nay không còn gắn liền với nguồn gốc của nó là

nước Anh, tiếng Anh không còn thuộc về những người bản địa mà thuộc

về thế giới.

Tuy khẳng định mức độ phổ biến rộng rãi của tiếng Anh song cũng

không thể không nhận thấy rằng: Tiếng Anh không thay thế các ngôn ngữ

khác, thay vào đó nó tác động tới các ngôn ngữ khác bằng cách làm phong

phú thêm hệ thống từ vựng, ngữ pháp của các ngôn ngữ đó. Bản thân tiếng

Anh là một ngôn đã vay mượn rất nhiều từ những ngôn ngữ khác trên thế

giới. Đây vừa là cơ hội cho sự mở rộng tiếng Anh trên thế giới, vừa là cơ hội

để khi tiếp xúc với một ngôn ngữ khác tiếng Anh có thể dung hòa và “cho

mượn” từ vựng của mình.

2.1.2. Ảnh hưởng của tiếng Anh tại Trung Quốc và Việt Nam

2.1.2.1. Trung Quốc với tiếng Anh

Tiếng Anh không phải chỉ mới xuất hiện tại Trung Quốc những năm

gần đây. Sự xuất hiện của tiếng Anh tại Trung Quốc phải tính từ thời phong

kiến của Trung Quốc, khi các thương nhân phương Tây đem hàng hóa và cả

39

khí giới phương Tây cùng với tiếng Anh đến Trung Quốc, nhưng sự xuất hiện

này được coi là không đáng kể, vì nó không được phổ biến rộng rãi và chưa

gây nên ảnh hưởng sâu sắc nào đối với tiếng Hán.

Ảnh hưởng thực sự của tiếng Anh tại Trung Quốc chỉ bắt đầu được tính

từ sau chiến tranh Nha phiến, khi tiếng Anh theo chân các đế quốc phương tây

mà chủ yếu là thực dân Anh tràn vào Trung Quốc. Bên cạnh ý đồ truyền bá

văn minh phương Tây thông qua sách báo, các tác phẩm khoa học kỹ thuật,

văn hóa và tư tưởng vào Trung Quốc, thực dân Anh còn xúc tiến cho rất nhiều

lưu học sinh Trung Quốc được xuất ngoại học tập ở nước ngoài. Chính những

học sinh này, được tiếp xúc với môi trường tiếng Anh bản xứ khi trở về Trung

Quốc đã tiếp tục sử dụng và truyền bá vốn liếng ngoại ngữ này của tiếng Anh

ở Trung Quốc sau này.

Nhưng tiếng Anh ở Trung Quốc không phải lúc nào cũng được phổ

biến rộng rãi, khi mới đến Trung Quốc nó vấp phải sự phản kháng kịch liệt

của nhiều nhân sỹ Trung Quốc muốn giữ gìn truyền thống Hán học lúc bây

giờ, sau này khi cách mạng Trung Quốc thành công nó lại một lần nữa bị bài

xích trong cách mạng văn hóa. Chỉ đến khi Trung Quốc tiến hành cải cách mở

cửa, tiếng Anh mới trở lại với địa vị quan trọng của nó. Thời đại toàn cầu hóa

cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, Trung Quốc với tư cách là một

nước đang phát triển với tốc độ cao, đang hòa nhập vào dòng chảy chung của

kinh tế thế giới và tham gia vào rất nhiều các tổ chức quốc tế - những tổ chức

mà tiếng Anh là ngôn ngữ giao tiếp chính. Hệ quả của quá trình toàn cầu hóa

đó là tiếng Anh xuất hiện ở khắp nơi trên đất nước Trung Quốc: trên các

phương tiện thông tin đại chúng, các sản phẩm nước ngoài xuất hiện ở Trung

40

Quốc, các bậc học của giáo dục Trung Quốc, các giao dịch với người nước

ngoài... Người dân Trung Quốc cũng không thể nào quay mặt với tiếng Anh,

nhất là khi tiếng Anh và trình độ vi tính được coi là tấm giấy thông hành để

tiến vào thế kỷ XXI. Thậm chí tiếng Anh được người Trung Quốc học tập

nhiều đến mức mà Bộ trưởng Tài chính Anh Gordon Brown trong một chuyến

viếng thăm chính thức Trung Quốc đã khẳng định: “trong 20 năm qua số

người nói tiếng Anh ở Trung Quốc dường như đã vượt xa số người sử dụng

tiếng Anh như ngôn ngữ mẹ đẻ trên toàn thế giới. Đây là cơ hội lớn đối với

nước Anh” (Trả lời phỏng vấn của các phóng viên tại Bắc Kinh ngày

31/8/2004). Một số nước nói tiếng Anh đã nhân cơ hội đó để xuất khẩu” ngôn

ngữ”, đặc biệt là nước Anh, làm cho học tiếng Anh thực sự trở thành một làn

sóng mới tại Trung Quốc, trạng thái song ngữ Anh - Trung thường xuất hiện

ở những người được gọi là “thông thạo” tiếng Anh hay thói quen sử dụng lẫn

tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Hán là hệ quả trực tiếp của làn sóng mới này.

2.1.2.2. Việt Nam với tiếng Anh

Nhìn vào thực tế ở Việt Nam có thể thấy, sự bùng nổ tiếng Anh ở Việt

Nam bắt đầu từ thời kỳ Đổi mới - 1986, nhưng thực sự là những năm nửa sau

của thập niên 90 ở thế kỉ XX, khi chính sách “đổi mới - mở cửa - hội nhập”

của Đảng và Nhà nước Việt Nam được quán triệt và phát huy. Tiếng Anh trở

thành một cầu nối quan trọng bậc nhất (so với các ngôn ngữ khác) để Việt

Nam vươn ra thế giới, chính sự đòi hỏi bức thiết này đã thúc đẩy sự mở rộng

và nâng cao vị thế của tiếng Anh ở Việt Nam. Nói một cách không quá rằng,

tiếng Anh đã đi vào đời sống của mỗi nhà, mỗi người, len lỏi trong từng ngõ

xóm,... Chẳng hạn, những người làm ngoại giao, làm khoa học, những doanh

41

nhân giao tiếp bằng tiếng Anh, giao tiếp chuyển mã Anh - Việt, trộn mã Việt -

Anh đã đành, nay cả những người già thôn quê cũng có thể nói bai bai với

đứa cháu nhỏ; những đứa trẻ lên hai đã biết hát hép bi bơ đây tu diu ( happy

birthday to you) trong buổi sinh nhật, biết nói hép pi niu ia (happy new year)

khi Tết đến: người điều khiển xích lô, xe ôm có thể dùng tiếng Anh “bồi” để

nói giá với khách nước ngoài (ví dụ: two you two dollas, you ok you sit down,

no ok you go); trong vũ trường, rạp hát, thậm chí đến “bà bán rau ở chợ” cũng

có thể trộn vài từ tiếng Anh vào trong giao tiếp tiếng Việt của mình; các công

chức coi việc học và sử dụng tiếng Anh luôn là “nỗi niềm canh cánh”, bởi nhu

cầu đòi hỏi của công việc và cả yêu cầu về tiêu chuẩn của công chức thời nay.

Vì thế, bên cạnh lí do tác động của việc bùng nổ sử dụng tiếng Anh trên thế

giới, có thể thấy những lí do chủ yếu làm bùng nổ tiếng Anh ở Việt Nam.

- Nhu cầu sử dụng tiếng Anh thực sự do đòi hỏi của hội nhập đã tác

động đến từng thành viên trong xã hội, nhất là những người có quan hệ hợp

tác với nước ngoài, những người cần đến các tri thức mà phải nhờ tiếng Anh

làm công cụ.

- Các thiết bị, sản phẩm xuất hiện ở Việt Nam chủ yếu được dùng bằng

tiếng Anh (nếu bằng một thứ tiếng nước ngoài khác thì thường có tiếng Anh

kèm theo).

- Các giao dịch với nước ngoài cũng như với người nước ngoài ở Việt

Nam chủ yều là bằng tiếng Anh và có thể dùng tiếng Anh để thay thế cho mọi

ngôn ngữ.

- Tiếng Anh trở thành một nhu cầu và yêu cầu gần như cơ bản đối với

quan chức và công thức. Các quan chức của nhà nước có chế độ được đào tạo

bằng tiếng Anh, các cán bộ nhân viên nhà nước có yêu cầu được đào tạo và

42

phải biết sử dụng ngoại ngữ (trong đó cơ bản là ngoại ngữ tiếng Anh).

- Các ấn phẩm bằng tiếng Anh xuất hiện ngày một nhiều. Các chương

trình trên truyền hình nhất là chương trình quảng cáo, ca nhạc, thể thao, giải

trí bằng Anh xuất hiện thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại

chúng. Đáng chú ý là, nhiều từ tiếng Anh, cách đại theo kiểu tiếng Anh được

các biên tập viên, phát thanh viên sử dụng, chuyển tải trong các phát ngôn của

tiếng Việt.

- Công nghệ thông tin là một trong những tác nhân mạnh nhất tác động

đến việc sử dụng tiếng Anh: sử dụng máy tính, internet và các trò chơi điện

tử,... Đã bổ sung vốn từ tiếng Anh một cách tự nhiên cho mọi người.

- Trong giáo dục ngoại ngữ ở nhà trường, đối với các bậc học từ

tiểu học đến sau đại học hiện chủ yếu là tiếng Anh (chiếm tới trên 80% so

với các ngoại ngữ khác). Bên cạnh đó, các trung tâm ngoại ngữ cũng như

việc dạy ngoại ngữ không mang tính tổ chức (có khi là tự học) cũng chủ

yếu là tiếng Anh.

Những lí do trên đây đã hình thành trạng thái song ngữ Anh - Việt đối

với những người gọi là “thông tạo” tiếng Anh và trở thành cách giao tiếp trộn

mã - trộn yếu tố Anh vào trong cách nói tiếng Việt ở những người biết tiếng

Anh nói chung, thậm chí ở cả những người không biết tiếng Anh (bằng cách

bắt chước, nói theo cách nói của người khác). Giống như là “mưa dầm ướt

áo”, cách sử dụng “pha” tiếng Anh đang trở thành “mốt”, thành quen thuộc

“như không có gì phải bàn” trong giao tiếp ở số đông người, nhất là giới trẻ.

2.1.3. Nhu cầu giữ gìn bản ngữ trong sự phát triển của tiếng Hán và tiếng Việt

2.1.3.1. Đối với tiếng Hán

Sử dụng tiếng Anh trong mọi hoạt động của đời sống đang trở thành

43

phổ biến trên thế giới và điều này làm cho việc sử dụng tiếng Anh ở Trung

Quốc không thể tách khỏi cảnh huống chung này. Thế như tiếng Hán vẫn là

ngôn ngữ quốc gia không thể nào thay thế được của đất nước Trung Quốc, mà

trạng thái song ngữ Anh - Hán đang ngày một mở rộng đang có những ảnh

hưởng cả tích cực và tiêu cực đối với sự phát triển của tiếng Hán. Trên thực

tế, giữ gìn sự phát triển lành mạnh của tiếng Hán không chỉ là hoạt động bảo

tồn ngôn ngữ mà còn là bảo tồn văn hóa, giữ gìn “đặc sắc Trung Quốc” trên

lĩnh vực văn hóa, cho nên yêu cầu đặt ra đối với người Trung Quốc là phải

“Hán hóa” những từ tiếng Anh để cho nó thực sự mang bản sắc Trung Quốc.

Hơn nữa, việc làm này cũng khiến cho các từ tiếng Anh trở nên dễ tiếp

nhận hơn đối với phần đông người dân Trung Quốc (vì tiếng Hán thuộc

lại hình ngôn ngữ đơn lập, chữ viết là chữ tượng hình, tiếng Anh thuộc

loại hình ngôn ngữ tổng hợp tính, chữ viết là chữ cái Latinh, nếu không

trải qua quá trình biến đổi tiếng Anh sẽ vẫn “xa lạ” với tiếng Hán và

người Trung Quốc). Cho nêu nếu một số quốc gia như Đức, Pháp, Hà

Lan... Và cả Việt Nam có nhiều hướng sử dụng những từ tiếng Anh mang

tính quốc tế thì Trung Quốc thiên về hướng biến đổi các từ tiếng Anh này,

tiếp nhận nó bằng con đường Hán hóa.

Như vậy sự phổ biến rộng rãi của tiếng Anh trên thế giới nói chung và

tại Trung Quốc nói riêng đã khiến cho nó vừa gia nhập vào tiếng Hán, vừa có

ảnh hưởng mạnh đến tiếng Hán. Trải qua quá trình vay mượn, do nhu cầu tiếp

nhận của người Trung Quốc và nhu cầu giữ gìn “đặc sắc Trung Quốc” trong

tiếng Hán mà tiếng Anh khi gia nhập vào tiếng Hán được tiếp nhận bằng con

đường biến đổi chứ không giữ nguyên những đặc điểm ban đầu trong ngôn

44

ngữ gốc. Từ mượn tiếng Anh hình thành dựa trên những cơ sở đó.

2.1.3.2. Đối với tiếng Việt

Bảo vệ và phát triển ngôn ngữ quốc gia là quốc sự của mỗi quốc gia,

bởi, cùng với quốc kì và quốc ca, ngôn ngữ quốc gia là biểu tượng của một

quốc gia và là biểu tượng cho sự thống nhất, độc lập nội bộ quốc gia. Vì thế,

từ khi nước nhà giành được độc lập (1945) đến nay, Đảng và Chính phủ đã

dành sự quan tâm thích đáng đến việc bảo vệ và phát triển tiếng Việt.

Thay vì cụm từ “bảo vệ và phát triển”, từ lâu, cụm từ “giữ gìn sự trong

sáng của tiếng Việt” đã trở nên rất quen thuộc trong đời sống ngôn ngữ người

Việt. Cụm từ này ra đời vào năm 1996 một hoàn cảnh đặc biệt: Chính ở vào

thời điểm khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, trong bộn

bề của nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ thành quả xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và

chi viện cho miền Nam “đánh cho Mĩ cút, đánh cho Ngụy nhào”, Thủ tướng

Chính phủ Phạm Văn Đồng đã có bài nói chuyện với những người làm công

tác ngôn ngữ học, văn hóa nghệ thuật nước nhà về giữ gìn sự trong sáng của

tiếng Việt (ngày 7 tháng 10 năm 1996). Cụm từ này cũng đã được lặp lại, sử

dụng làm tiêu đề cho bài viết giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt của ông

năm 1979 và nó lại được ông đề cập đến trong bài viết trở lại vấn đề: vì sự

trong sáng và phát triển của tiếng Việt năm 1999. Tư tưởng chủ đạo giữ gìn

sự trong sáng của tiếng Việt được cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng giải thích

như sau:

- Nói đến sự trong sáng của tiếng Việt tức là nhìn thấy chất của nó, giá

trị, bản sắc, tinh hoa của nó, nhận rõ hai đức tính của nó là giàu và đẹp, nhìn

45

thấy khả năng phát triển của nó.

- “Khi chúng ta nói “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” thì chữ

“giữ gìn” ấy bao hàm một ý nghĩa quan trọng là chúng ta không thể để

mất đi một cái gì vô vùng quý báu, một cái gì khiến cho tiếng Việt là tiếng

Việt, thứ tiếng mà cha ông ta đã xây dựng và đã bảo vệ trong lịch sử rất

lâu đời của dân tộc. Nhưng nói như vậy không có ý chỉ nhìn về quá khứ;

trái lại còn phải nhìn về tương lai Cho nên, không thể nào cố chấp, bảo

thủ được. Đồng thời nếu phải chống bảo thủ và cố chấp , thì phải chống

tùy tiện, chống cái khuynh hướng dễ dàng đổi mới, dễ dàng nhập vào

tiếng Việt những cái không cần thiết, dễ dàng làm cho tiếng Việt mất đi

cái bản sắc đẹp đẽ của nó, cái bản lĩnh quý báu của nó, tóm lại cái trong

sáng cần giữ gìn nó”. [1, tr 57].

- Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt “nhằm bảo vệ và phát huy cái

bản sắc, cái tinh hoa của tiếng Việt, không để cho nó mất đi một cái gì vô

cùng quý báu khiến cho tiếng Việt là tiếng Việt”; “Nếu giữ gìn sự trong

sáng của một ngôn ngữ là một yêu cầu lâu dài, thì từng giai đoạn lại có

yêu cầu phải chuẩn hóa nó, tức là xác định cái đúng và những quy tắc về

phát âm, chính tả, dùng từ, đặt câu v.v... của ngôn ngữ đó được xã hội

chấp nhận” .

Như vậy, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt chính là bảo vệ và phát

triển tiếng Việt. Trong giữ gìn đã bao hàm cả sự phát triển, bởi muốn tồn tại

thì phải phát triển: Có giữ gìn thì tiếng Việt mới có thể phát triển trên một cơ

tầng vững chắc và phải phát triển thì mới giữ gìn được tiếng Việt. Đây là mối

quan hệ qua lại gắn bó, cái nọ làm tiền đề cho cái kia. Hay, theo cách nói

46

ngôn ngữ học, tức là, đảm bảo cho tiếng Việt hành chức trong trạng thái cân

bằng động: cân bằng, ổn định mới có thể thực hiện được chức năng giao tiếp;

nhưng phải động, phát triển, mới có đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của giao

tiếp. Vì thế, cái đích nhằm thế nào để tiếng Việt ngày càng thực hiện tốt hơn

chức năng là ngôn ngữ quốc gia, là ngôn ngữ thống nhất trên cả nước, là công

cụ giao tiếp chung giữa cộng đồng 54 dân tộc anh em.

2.1.4. Nhận xét

Tóm lại, Tiếng Anh là một ngôn ngữ được thông dụng nhất trên thế

giới, bất kì ở nơi nào trên thế giới, đều có người có biết nói tiếng Anh. Trong

tiếng trung có câu nói như vậy: 会英语走到哪儿都不怕 (nếu người biết tiếng

Anh, đi chỗ nào đều không sợ gì cả). Câu này đã tổng quát sự quan trọng của

tiếng Anh. Nên người Trung Quốc rất nhiệt tình học tiếng Anh. Ở Trung

Quốc, từ học sinh cấp một đến cấp đại học bắt buộc học tiếng Anh. Thậm chí

có những đứa trẻ từ khi biết nói đã đi học tiếng Anh ở trường mầm non. Xu

hướng tình hình học tiếng Anh ở Trung Quốc càng ngày càng mạnh. Ở Việt

Nam cũng vậy, mấy năm gần đây, ảnh hưởng của tiếng Anh ở Việt Nam càng

ngày càng lớn. Ở đa số trường đại học, yêu cầu sinh viên bắt buộc phải có

chuẩn ngoại ngữ mới đủ điều kiện được ra trường. Hầu hết các sinh viên hay

chọn tiếng Hán hoặc tiếng Anh ở các trường có yêu cầu như vậy, bởi vì tiếng

Anh có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân. Trong chính trị, kinh tế, văn

hóa, công nghệ thông tin vv… đều có nhiều từ chuyên ngành bằng tiếng Anh

hoặc từ mượn tiếng Anh. Tuy nhiên, xu hướng ảnh hưởng của tiếng Anh càng

ngày càng lớn, mọi người sử dụng tiếng Anh rất phổ biến, nhưng điều đó

cũng có tính hai mặt: có ảnh hưởng tốt đến đời sống, cũng có ảnh hưởng xấu

47

đến đời sống, vậy nhu cầu giữ gìn bản ngữ trong sự phát triển của đất nước rất

quan trọng. Trung quốc nêu ra khái niệm “đặc sắc Trung Quốc” đã thể hiện

yêu cầu giữ gìn và phát triển bản ngữ. Mà chính phủ Việt Nam cũng nêu ra

khái niệm “bảo vệ và phát triển tiếng Việt”, yêu cầu bảo vệ bản ngữ tiếng

Việt và phát triển tiếng Việt.

2.2. Đặc điểm Hán hóa và Việt hóa các từ mượn tiếng Anh

2.2.1. Nhận xét chung

Tiếng Anh thuộc loại hình ngôn ngữ tổng hợp tính còn tiếng Hán thuộc

loại hình ngôn ngữ đơn lập. Sự khác nhau giữa hai ngôn ngữ này khiến cho từ

mượn tiếng Anh khi gia nhập vào kho từ vựng của tiếng Hán phải trải qua sự

biến đổi.

Tiếng Hán thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, nghĩa là xét về mặt cấu

tạo trong cấu trúc của từ không có sự phân chia hai bộ phận: thực (căn tố) và

hư (phụ tố). Đặc điểm này khác với tiếng Anh, từ được cấu tạo bởi hai bộ

phận: một bộ phận mang ý nghĩa từ vựng (căn tố) và một bộ phận mang ý

nghĩa ngữ pháp (phụ tố). Từ trong ngôn ngữ đơn lập do căn tố hoặc sự kết

hợp giữa các căn tố tạo thành.

Mặt khác, trong ngôn ngữ đơn lập tồn tại mối quan hệ rõ ràng giữa hình

vị (đơn vị nhỏ nhất mang ý nghĩa trong ngôn ngữ) và âm tiết. Ranh giới giữa

hình vị trùng với ranh giới âm tiết tạo nên hình tiết. Hình tiết là một đơn vị có

vỏ ngữ âm là âm tiết, có khi được dùng với tư cách một từ, có khi được dùng

với từ các là yếu tố cấu tạo từ. Âm tiết trong ngôn ngữ đơn lập có cấu trúc

chặt chẽ. Mỗi âm vị nằm ở vị trí nhất định, có chức năng nhất định. Trong khi

đó, âm tiết trong tiếng Anh - ngôn ngữ hòa kết lại là tổ hợp tự do của các âm

vị (đơn vị âm thanh nhỏ nhất của một ngôn ngữ), không có mối quan hệ thứ

48

bậc trong các âm vị trong âm tiết.

Chữ viết của tiếng Hán là chữ tượng hình, có đặc điểm là mỗi một ký

hiệu tương ứng với một từ hay một hình vị. Ngược lại, chữ viết tiếng Anh là

chữ Latinh - một loại chữ tượng thanh, trong đó mỗi một ký hiệu (chữ cái)

tương ứng với một âm vị hay một âm tiết.

Từ sự so sánh trên có thể thấy, một từ tiếng Anh trong quá trình biến

đổi trở thành từ tiếng Hán hầu hết đều phải trải qua quá trình biến đổi về mặt

vỏ ngữ âm và chữ viết. Tất nhiên, khi tiếng Hán tiếp nhận các từ mượn tiếng

Anh, không chỉ có vỏ ngữ âm và chữ viết của từ tiếng Anh đó được biến đổi

nhưng sự biến đổi vỏ ngữ âm và chữ viết vẫn là yếu tố quan trọng nhất. Và

cũng có trường hợp mà vỏ ngữ âm hay chữ viết không bị biến đổi (trường hợp

các từ viết tắt tiếng Anh) nhưng số lượng không nhiều. Vì vậy trên thực tế

bước tiếp nhận quan trọng nhất đối với một từ mượn tiếng Anh chính là thay

đổi lớp vỏ âm thanh và chữ viết của nó. Hầu hết các từ mượn tiếng Anh đều

trải qua bước tiếp nhận này. Mặt khác, đặc điểm đơn âm tiết, sử dụng văn tự

tượng hình của tiếng Hán làm cho việc tiếp nhận các từ mượn tiếng Anh trong

tiếng Hán trở nên phức tạp hơn nhiều so với phương thức tiếp nhận từ mượn

của ngôn ngữ các nước phương Tây.

2.2.2. Hán hóa từ ngữ tiếng Anh đối chiếu với Việt hóa từ ngữ tiếng Anh

2.2.2.1. Nhận xét chung

Một từ mượn, nếu không bị thay thế, thì còn trải qua một quá trình

chịu những tác động của người bản ngữ mới có vị trí vững vàng. Quá trình

ấy là sự đồng hoá từ mượn. Nói chung, nó biểu thị mặt tích cực, sáng tạo,

của người bản ngữ đối với từ mượn để nhằm tạo nên tính chất thuần nhất

49

trong bản ngữ. Cho nên, trong sự chuẩn mực hoá ngôn ngữ, đồng hoá từ

mượn là một yêu cầu rất được chú ý. Nếu nói đến sự Hán hoá từ mượn

trong tiếng Trung thì chẳng hạn, người Việt cũng nói đến sự Việt hoá

những từ mượn trong tiếng Việt.

Nhưng như thế nào là đồng hoá thì hình như không phải không có lúng

túng trong quan niệm, và do đó, trong các quy định chuẩn mực hoá, thí dụ, ở

tiếng Hán có từ mượn 俱乐部(câu lạc bộ), tiếng Anh nghĩa là club; về ngữ

âm, lại bảo phát âm theo tiếng Anh. Nếu dẫn những thí dụ về sự Việt hoá từ

mượn gốc Anh, cũng có thể nhận thấy tình hình như thế. Chẳng hạn, trong

tiếng Việt có từ bia, tiếng Anh là beer, mà về phát âm không có gì khác

nhau, nhưng khác nhau về chính tả. Từ mượn có thể được coi là đồng hoá.

Nếu phân tích kĩ thì có thể thấy, nói chung, sự đồng hoá như vừa nói là có

quy luật ngữ âm. Tuy vậy, cần chú ý rằng hiện tượng thú vị ấy mà có khi, ở

ta, một số người đề lên thành cái mẫu mực lí tưởng của sự Việt hoá từ

mượn, đã sinh ra qua cái tai của người bản ngữ, thường là người lao động,

tức là qua trạng thái tiếp xúc có tính chất tự nhiên. Bây giờ, trong sự tiếp

xúc giữa tiếng Việt với tiếng Anh, hoặc giữa tiếng Hán với tiếng Anh, hiện

tượng đồng hoá về ngữ âm như thế không có điều kiện để phát triển, bởi vì

sự tiếp xúc ngôn ngữ như vừa nói đã chuyển sang trạng thái tiếp xúc có

tính chất văn hoá, tức là chủ yếu qua ngôn ngữ viết. Tình hình đó rõ ràng là

tế nhị và trong sự chuẩn mực hoá, cách xử lí ắt phải linh hoạt. Tuy vậy,

thiết nghĩ trong hướng chuẩn mực hoá đối với hiện tượng đó phải coi trọng

hướng phát triển của sự tiếp xúc ngôn ngữ ở đất nước gốc, Anh trong tiếng

Việt. Về từ mượn gốc Hán, tức từ Hán-Việt, cũng có những vấn đề của nó

50

về sự đồng hoá ngữ âm.

Ngoài các hiện tượng đồng hoá về ngữ âm và đồng hoá về ngữ pháp,

còn có hiện tượng đồng hoá về ngữ nghĩa. Một từ mượn khi mới được chấp

nhận thì chỉ có một nghĩa và có thể giữ mãi cái nghĩa đó, thường là trong

trường hợp thuật ngữ. Nhưng, ngoài trường hợp ấy, nó có thể biến đổi nghĩa,

sự biến đổi nghĩa cũng là một hình thái đồng hoá của từ mượn, mà lại ở mức

độ sâu sắc, tế nhị.

2.2.2.2. Các cách tiếp nhận và việc Hán hóa từ mượn tiếng Anh trong

tiêng Hán

Về sách lược tiếp nhận từ mượn, có hai loại ý kiến đối nghịch đồng

thời cũng là hai loại sách lược đối lập: Di hóa (foreginization) và quy hóa

(domesticatio). Ý kiến thứ nhất chủ trương nên lấy nguyên ngữ hoặc nguyên

văn tác giả làm nơi quy tụ, điều này không thỏa hiệp đối với người đọc, yêu

cầu người đọc phải tiếp thu sự khác biệt đặc thù của văn hóa nước ngoài; ý

kiến thứ hai chủ trương nên lấy mục đích hoặc dịch theo văn ngôn của người

đọc làm điểm quy tụ, văn dịch quy hóa cho nên khiến cho văn ngôn của người

đọc nghe xong thuận mắt. Quá trình tiếp nhận từ mượn tiếng Anh cũng chủ

yếu là áp dụng hai loại sách lược này.

Về phương pháp tiếp nhận từ vay mượn, trong chương I đã nói có bốn

cách tiếp nhận chung ở các ngôn ngữ: dịch nghĩa, phiên âm, chuyển tự và

mượn nguyên dạng của nguyên chữ. Nhưng không phải ngôn ngữ nào cũng

được dùng phương pháp chung, cách tiếp nhận nên kết hợp đặc điểm ngôn

ngữ chọn phương pháp phù hợp nhất. Về cách tiếp nhận từ mượn tiếng Anh,

các nhà ngôn ngữ có ý kiến khác, hiện nay tổng quát ý kiến các nhà ngôn ngữ

51

về vấn đề này được phân ra những loại dưới đây:

- Dịch âm (phiên âm)

Đây là phương pháp dựa vào âm đọc ban đầu của từ cho vay ghi lại

bằng chữ Hán để tạo thành từ mới. Việc phiên âm các từ tiếng Anh vẫn phải

tuân theo các quy tắc của âm hệ tiếng Hán cho nên từ mượn tiếng Anh sẽ có

sự khác biệt so với cách đọc ban đầu. Âm hệ tiếng Hán sẽ biến đổi những từ

mượn này ở một mức độ nào đó, như thay đổi âm tiết, gia tăng số lượng âm

tiết hay viết tắt. Những chữ Hán được dùng để dịch âm trong trường hợp này

không còn mang ý nghĩa ban đầu của nó nữa mà chỉ giữ lại lớp vỏ ngữ âm và

cách viết. Cách này có hai đặc điểm: 1. Các từ ngoại lai thông qua quá trình

này dựa vào tiếng Hán, bất kỳ từ nguyên có mấy hình vị, khi dựa vào tiếng

Hán đều coi là từ đơn, chỉ có một hình vị. 2. Từ ngoại lai của loại này dành

cho từ đơn trong tiếng hán không những chỉ có một âm tiết và hai âm tiết, mà

khiến từ đơn tiếng Hán thêm vào nhiều âm tiết. Ví dụ:

沙发 (sofa)、咖啡 (coffee)、克隆 (clone)、吉普 (jeep)、拷贝

(copy)、巴士 (buss)、苏打 (soda)、巧克力 (chocolate)、奥林匹克

(Olympic)、麦当劳 (Mcdonald)、华尔兹 (waltz)、柔巴依

(rubay)、迪斯科 (disco)、酷 (cool)、派 (pie)、布丁 (pudding)、曲奇

(cookie)、披萨 (pizza)、扑克 (poker)、模特 (moddel)、色拉

(salad)、奥斯卡 (Oscar)、吉他 (guitar)、伦敦 (London)、布什

(Bush)、马赛克 (Mosaic)、马拉松 (marathon)、三明治 (sandwich)、柠檬

(lemon)、沙龙 (salon)、芭蕾 (ballet)、法西斯 (Fascist)、雷达

(radar)、坦克 (tank)、白兰地 (brandy)、威士忌 (whisky)、阿司匹林

52

(aspirin)、歇斯底里 (hysteria)、尼龙 (nylon)、木乃伊 (mummy)、卡通

(cartoon)、探戈 (tango)、克拉 (carat)、桑拿 (sauna)、摩登

(modern)、菲洛苏菲 (philosophy)、汉堡包 (hamburg)、基因

(gene)、阿莫西林 (amoxicillin)、波音 (Boeing) ...

Cách tiếp nhận này áp dụng sách lược dị hóa. Căn cứ vào nguyên tắc

đối đẳng, khi phiên âm cố gắng để từ phiên âm thật quen thuộc, gần gũi để dễ

dàng truyền tải thông tin của từ gốc, nhưng do không phải lúc nào cũng tìm

được đối đẳng Hán ngữ để dịch, hoặc là có tìm được nhưng quá dài dòng nên

đã đi ngược lại nguyên tắc kinh tế hoặc nguyên tắc chuẩn xác, cho nên người

Hán đã sử dụng sách lược dị hóa một cách dứt khoát: dịch thuần âm.

Cách tiếp nhận này được gọi là “Tây” nhất, giữ lại “cảm giác ngoại lai

nhiều nhất. Tuy nhiên, do ngôn ngữ của mỗi dân tộc đều có những khác biệt

nhất định về ngữ âm, sự khác biệt ngữ âm giữa tiếng Anh và tiếng Hán lại rất

lớn cho nên cách phiên âm này không những không thể hoàn toàn chuẩn xác

mà còn dễ sinh ra nhiều biến thể khác nhau. Như từ cement lúc mới được tiếp

nhận vào tiếng Hán đã trải qua rất nhiều cách phiên âm như sau:

水门泞,四门泞,塞门脱,士敏土... Do vậy, công việc phiên âm này cũng

cần phải được quy phạm hóa một cách chính xác. Nếu dựa theo cách phiên

âm chữ Hán như hiện nay thì có thể rút ra vài quy tắc trong cách phiên âm từ

mượn tiếng Anh như sau:

(1) [ r ] - l

VD:remifon - léi mǐ fēng, 雷米峰radar - léi dá 雷达

(2) [m] - ng、n

53

VD: muslim - mù sī lín , to tem - tú téng图腾

(3) [v] - f、w

VD: vasaline - fán shì lín 凡士林,volt - fú tè 伏特,wéi tā mìng

维他命,venus - wéi nà sī维纳斯

(4) [θ] - s、t

VD: gothic - gē tè tǐ 哥特体、marathon - mǎ lā sōng 马拉松

(5) [t] [d ] - sh、zh、j、q

VD: chocolate - qiǎo kè lì 巧克力,chess - jì shì 忌士,engine - yǐn

qíng 引擎

(6) [z] - z、c、s、zh、ch、x

VD: 柴门霍夫 zine - xin 锌

Tất nhiên đây mới chỉ là một vài quy tắc thường gặp, không có tính

chính xác tuyện đối và không phải trong trường hợp nào cũng được áp dụng.

Bởi vậy từ tiếng Anh vaselin mới có hai cách phiên âm khác nhau là 凡士林

(fán shì lín) và 华摄林 (huá shè lín).

- Dịch nghĩa

Dịch nghĩa tức là các từ mượn được dịch trực tiếp bằng nghĩa.

Trong nhiều trường hợp việc dịch trực tiếp tiến hành đồng thời với việc

bào kết cấu của từ được vay mượn để dịch nghĩa. Từ mượn này được coi

là đặc sắc nhất của tiếng Hán trong các loại từ mượn. Tuy từ mượn loại

này mượn nguyên nghĩa nó, nhưng cấu thành từ bằng quy luật kết cấu

tiếng Hán, nên kết cấu giống như bản ngữ, từ nghĩa từ mượn xuất phát, có

54

thể phân loại như sau:

1. Dịch thuần nghĩa. Áp dụng phương pháp cấu thành từ của tiếng Hán,

căn cứ nội dung của từ vay mượn, tạo thành một từ tiếng Hán mới. Từ loại này

được mượn nguyên nghĩa của nó, đồng thời hình thức ngữ âm của nó được lược

bỏ. Như vậy hình thức này phù hợp thói quen diễn đạt tiếng Hán hơn. Ví dụ: 点击

(click)、附件 (attachment)、收藏夹 (favorite)、链接 (link)、备忘录

(memorandum). 快餐(fast food)、超市 (supermarket)、多媒体

(multimedia)、软件 (spftware)... Trong tiếng Hán, có một số từ mượn trước

được dịch thuần âm, sau đó được coi là dịch thuần nghĩa. Biến hóa hình thức

này phản ánh hình thức dịch thuần âm mạnh hơn. Ví dụ:

check→乞克→支票、grammar→葛朗瑪→语法、violin→梵雅铃→小提琴

、dictator→狄克推多→独裁者、vitamin→维他命→维生素、tip→贴士→

小费、telephone→德律风→电话、economy→爱康诺米→经济、democra

cy→德漠克拉西→民主、science→塞因斯→科学...

2. Phỏng dịch. Kết cấu hình thái và hình thức nội dung không thay đổi, áp

dụng thói quen bản ngữ để dịch từ, hình vi. Từ loại này gọi là từ phỏng dịch.

Cách dịch này không coi trọng phát âm, mà coi trọng ngữ nghĩa, diễn đạt ngữ

nghĩa bằng tiếng Hán, thường con người không phân biệt ra từ đấy là bản ngữ

hay từ mượn. Từ loại này phù hợp thói quen diễn đạt tiếng Hán, con người tiếp

nhận nhanh hơn, sử dụng cũng nhiều hơn, nên từ loại này ổn định hơn. Vậy việc

dịch nghĩa khiến người ta liên tưởng đến những nguyên lý chung đó, dễ dàng

nhớ từ hơn. Thí dụ từ 蓝牙 (bluetooth) 、蜜月 (honeymoon)、足球

(football)、白领 (white collar)、热狗 (hot dog)、软件 (software)、试管婴儿

55

(tube baby)、马力 (horsepower)、篮球(basketball)、代沟(generation gap) ...

Cách dịch này, không coi trọng phát âm của từ mượn, áp dụng kết cấu

tiếng Hán, diễn đạt bằng thói quen kết cấu tiếng Hán. Dịch thuần nghĩa và

phỏng dịch đều là cách dịch nghĩa, dịch thuần nghĩa coi trọng ý nghĩa của từ

toàn bộ, mà phỏng dịch coi trọng dịch chữ, chú trọng kết hợp kết cấu và phiên

dịch hơn… Hai phương pháp khiến người Trung Quốc dễ dàng nắm bắt và sử

dụng nhờ đó mà rút ngắn quá trình giao tiếp văn hóa và giảm thiểu, khắc phục

những xung đột văn hóa.

- Kết hợp dịch âm và dịch nghĩa

Phương pháp này tức là từ mượn có kết hợp âm và nghĩa. Thông qua

việc thêm vào từ đồng loại hoặc lựa chọn những từ tố gốc Hán có thể biểu thị

thông tin cùng loại để bổ sung thêm những thông tin bị mất đi cho từ mượn

trong quá trình được tiếp nhận vào tiếng Hán. Cũng có thể phiên âm từ mượn

mà dùng tiếng gốc Hán liên quan nguyên nghĩa từ mượn. Phương pháp này

liên quan với âm và nghĩa, có thể phân loại như sau:

3. Dịch âm thêm yếu tố chỉ loại. Sau dịch âm từ mượn, lại thêm một từ

gốc Hán để chỉ loại. Hình thức cấu tạo này rất phổ biến trong tiếng Hán hiện

nay. Ngữ tố dịch âm có thể đứng trước hoặc sau ngữ tố gốc Hán tùy thuộc vào

vai trò của nó trong cấu tạo từ, nhưng đa số từ vẫn là ngữ tố dịch âm đứng trước.

Ví dụ: 啤酒 (beer+酒)、酒吧 (bar+吧)、卡宾枪

(carbine+枪)、艾滋病(AIDS+病)、保龄球(bowling+球)、沙丁鱼(sardinhe

+鱼)、胡姬花 orchid+花)、芭蕾舞(ballet+舞)、拉力赛(rally+赛)、牛仔裤

(jeans+裤)、披萨饼(pizza+饼)、卡片(card+片)、雪茄烟(cigar+烟)、坦克

56

车 (tank+车)... Trong từ loại này, có những từ gốc Hán ở đằng sau cũng có

thể kết hợp âm tiết khác tạo thành nhiều từ mới. Ví dụ: từ 吧 có từ vựng

茶吧(quán trà)、网吧 (bar nét)、书吧 (cửa hàng sách)、水吧 (quán nước) ...

4. Nửa dịch âm nửa dịch nghĩa. Phương pháp này tiếp nhận mà một

nửa bộ phận của từ được phiên âm, nửa bộ phận còn lại được dịch nghĩa. Kết

cấu này được dùng trong từ mượn phức hợp nhiều hơn. Từ mượn tiếng Anh

trong tiếng Hán, từ mượn loại này cũng rất nhiều, ví dụ từ 金利来(goidlion),

gold được dịch ra từ 金,lion được dịch ra từ 利来. Từ 金 trong tiếng Hán có

nghĩa là vàng/kim, cũng là tượng trưng tôn quý, sang trọng. Từ 利来 trong

tiếng Hán biểu thị may mắn. Từ loại này còn nhiều hơn, ví dụ: 蹦极跳 (bunge

jumping)、冰淇淋 (ice-cream)、沙文主义 (chauvism)、呼啦圈 (hula-

hoop)、剑桥 (Cambridge)、苹果派 (apple pie)、色拉油 (salad

oil)、霹雳舞 (break dance)、摩托车 (motorbike)、迪士尼乐园 (Disneyland

park)、华尔街 (Wall street)、新西兰 (New Zealand)、爵士乐 (jazz

music)、信用卡 (credit card) ...

5. Dịch âm kiêm dịch nghĩa. Phương pháp này gọi là dịch âm kiêm dịch

nghĩa, tức phiên âm từ mượn, nhưng các chữ được chọn để phiên âm không

chỉ phải có âm đọc giống với từ gốc mà còn phải có mối liên hệ nào đó với

ngữ nghĩa của từ mượn. Đây là khác nhau với phương pháp trên đã nêu ra.

Người ta dùng từ mượn loại này có thể tìm hiểu nghĩa từ nguyên thông qua

nghĩa từ mượn nào đó. Tuy đa số từ mượn loại này con người có thể thông

qua nghĩa gốc Hán tìm hiểu mối liên hệ đối tượng của nó, nhưng mối liên hệ

của nghĩa nguyên không chặt chẽ với nghĩa gốc. Nhưng nếu tiến hành phương

57

pháp dịch âm kiêm dịch nghĩa thì không thể bỏ qua bình ngữ âm và ngữ

nghĩa. Ví dụ, từ 黑客 (hacker) nghĩa gốc là chỉ người chuyên gia trong nghề

máy tính và kỹ thuật mạng lạc, bây giờ còn chỉ những người hay xâm nhập

trái phép mạng, máy tính hoặc tài khoản của người khác với mục đích xấu. Từ

mượn này không những không thoát ly ngữ âm từ nguyên, mà còn giúp người

ta liên tưởng tới ý nghĩa của từ đó (hacker) còn được gọi là tin tặc mũ đen. Từ

mượn蹦带 (bandage) ngữ âm của tiếng Hán gần giống như ngữ âm từ

nguyên, mà còn từ 带 trong tiếng Hán chỉ vải xô dùng để băng bó vết thương.

Nên dịch như vậy có thể giúp người ta hiểu luôn nghĩa là gì. Từ mượn kiểu

như vậy có rất nhiều, ví dụ:基因 ( gene)、可口可乐 (coca-cola)、俱乐部

(club)、维他命 (vitamin)、乐透 (lottery)、迷你 (mini)、香波 (shampoo)、幽默

(humor)、苦力 (cooly)、托福 (TOELF)、奔驰 (Benz)、席梦思 ( simmous) ...

- Viết tắt các chữ trong tiếng Anh

Đây là phương pháp tiêu biểu cho sách lược quy hóa. Trong tiếng

Hán, có một số từ được hình thành bởi cách viết các chữ trong tiếng Anh. Đa

số từ mượn bộ phận này đều là từ chuyên ngành, lúc đầu chỉ người của ngành

học nào đó thích dùng từ viết tắt hơn, bởi vì chữ viết tắt vừa đơn giản vừa dễ

nhớ. Nhưng hiện nay hầu hết người Trung Quốc thích dùng chữ viết tắt tiếng

Anh, đặc biệt chữ trong văn kiện, tài liệu, hợp đồng vv… thường thấy nhiều

chữ viết tắt tiếng Anh. Theo các nhà nghiên cứu viết tắt tiếng Anh trong tiếng

Hán được phân hai loại như sau:

6. Thuần chữ viết tắt (纯字母词). Tức là chữ viết tắt đều bằng tiếng

Anh hết. Bộ phận này có thể chia ba loại:

A. Viết tắt các chữ cái đầu. Ví dụ: CEO (chief executive officer), UFO

58

(unidentified flying object), CPU(central processig unit), IQ (intelligence

quotient), EQ (emotinal quotient), CIA(Central intellgience Agency), CVD

(compact video disk), WTO (World Trade Organization) ...

B. Viết tắt chữ cái đầu tiên và chữ thứ hai trong từ tiếng Anh

(由英文单词前两个字母缩略而成. Ví dụ:ID (identification), Hi-Fi

(high fidenlity)...

C. Chữ viết tắt lựa chọn trong từ tiếng Anh

(从各英文单词中抽出某些字母组成的词. Ví dụ: DNA (deoxyribonucleic

acid), MTV (music television), CATV (Cable Television ),TV (television)...

6. Chữ cái đầu viết tắt + chữ Hán. Từ này được hình thành bằng chữ

viết tắt của từ tiếng Anh cộng với chữ Hán. Hình thức này vừa kết hợp chữ

tiếng Anh vừa dùng từ gốc Hán, cấu trúc này khiến người ta dễ hiểu hơn, nên

loại từ này được sử dụng rất nhiều, số lượng từ cũng rất nhiều, có thể nói là sử

dụng nhiều nhất trong các từ mượn của tiếng Hán. Ví dụ: X光 (bức xạ sóng

điện từ)、BB机 (máy tiếp nhận bằng vô tuyến điện)、e时代 (thời kì của

internet)、SOHO族 ( người làm việc ở nhà)

Hiện nay, việc phân loại từ mượn tiếng Anh theo phương thức tiếp

nhận vẫn đang được tranh luận. Nhưng cách tiếp nhận từ mượn tiếng Anh

trong tiếng Hán như trên đã nói, cách phân loại trên đều là theo ý kiến của đa

số nhà ngôn ngữ học.

2.2.2.3. Các cách tiếp nhận và việc Việt hóa từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Việt

Phần trước đã nêu ra các cách tiếp nhận và việc hóa hóa từ ngữ tiếng

Anh trong tiếng Hán. Trong tiếng Việt, các từ mượn tiếng Anh được sử dụng

và việt hóa có những đặc điểm giống và khác với Hán hóa về các từ mượn

59

tiếng Anh trong tiếng Hán. Tại vì có nhiều loại từ vay mượn trong tiếng Việt,

có từ mượn Hán, từ mượn Pháp, từ mượn Nga..., mà nguyên nhân là do lịch

sử chính trị, từ mượn tiếng Anh trong tiếng Việt có liên quan với từ mượn

tiếng Pháp trong tiếng Việt. Trướt hết tìm hiểu các cách hình thức xuất hiện

của từ tiếng Anh trong tiếng Việt. Các hình thức phố biến như sau:

- Một số từ được dịch ra tiếng Việt. Ví dụ: cổ điển (classic), đồng quê

(country; nhạc), xanh (blues; nhạc), chuột (mouse; máy tính), nút cổ chai

(bottle neck), thị trường hối đoái (exchange market), hạn ngạch nhập khẩu

(important quotas) ...

- Một số từ được sử dụng theo cách phỏng âm và viết bằng chính tả

tiếng Việt. Ví dụ: cao bồi/cao - bồi (cowboy) , sô (show), ca - ta - lô

(catalogue), an - bum ( album), công- te - nơ (container)...

- Dùng nguyên dạng cách viết tiếng Anh. Loại này có thể phân chia

làm hai:

1. Một số từ tuy là nguyên dạng nhưng đã quen thuộc với đại đa số

người Việt. Ví dụ: chat, computer, cup, dollar, e-mail, fair play, fan, fast food,

fax, gallery, gold, internet, scandal,...

2. Đa số các từ viết nguyên dạng bằng tiếng Anh chỉ được người Việt

nhận biết theo cách nói, bắt chước. Ví dụ: cốc-tai (cocktail), đai-rếch (direct),

đi-dai (designer), hát-trích (hattrick), hét-phôn (headphone), lai-sâu (live show),

năm- bờ- oăn (number one), o-vờ-nai (over night), pát-thai (patr time),...

Về ngữ âm, khi các từ ngữ tiếng Anh dựa vào tiếng Việt, có đa số từ

ngữ tiếng Anh được sử dụng bằng biến thể cách đọc. Có năm lí do như sau:

1. Bởi vì các từ ngữ tiếng Anh có cách viết ổn định là rất không đáng kể.

60

2. Nguyên cách Viết tiếng Anh khác với cách viết tiếng Việt. 3. Vì âm tiết hóa

các từ nước ngoài nói chung và các từ tiếng Anh nói riêng là một tất yếu khi

chúng xuất hiện trong tiếng Việt. 4. Sự song song tồn tại giữa từ tiếng Anh và

từ tiếng Pháp tương đương đã tạo nên các biến thể. 5.Một nguyên nhân nữa

tạo nên biến thể cách đọc, cách viết các từ tiếng Anh trong tiếng Việt là do tác

động của phương ngữ tiếng Việt. Sau đây là một số miểu tả cụ thể về cách

đọc và cách viết phiêm âm các từ tiếng Anh trong tiếng Việt.

1. Thanh điệu. Tại vì từ tiếng Anh không có thanh điệu, nhưng từ tiếng

Việt có sáu thanh, nên các từ ngữ tiếng Anh được đọc theo cách Việt hóa.

Nhưng không phải tất cả sáu thanh đều được tham gia mà tập trung chỉ có hai

thanh tham gia đó là thanh không dấu và thanh sắc, một số ít là thanh huyền

và cá biệt là thanh nặng. Ví dụ: are (a), ball (bôn/bon) , bank (băng), beer

(bia), add (ét/át), address (ất/rét), back (bách), book (búc), alcohol (gồm), two

(tù), once (oẳn/oản),...

2. Có những phụ âm được viết bằng con chữ. Ví dụ: baby (bây-bi/bê-

bi), back(bách,grod), lab(láp), live(lai), macro(ma-crô), name(nêm),

paste(pết), radar(ra-da), taboo(ta-bu), thanks(thank), video(vi-dê-ô)

kilogram(ki-lô-gram/ki-lô-gam), facts(phách), sabot(sa-pô/sa-bô), watt(oát),

web(oép), gallery(ga-lơ-ri)…

3. Có những nguyên âm được thể hiện bằng con chữ. Ví dụ: back

(bách), fact(phách), mart(mác), league(lích), headphone(hétphôn), beauty(biu-

ti), meeting(mít-tinh), weekend(uých cần/ uých cừn/uít-cần), fiction(phích-

sừn/phích- sần),...

Về nghĩa, các từ ngữ tiếng Anh được sử dụng trong tiếng Việt, cách

61

sử dụng về nghĩa có đặc điểm như sau:

1. Giữ nguyên nghĩa. Một số từ tiếng Anh khi được sử dụng trong tiếng

Việt vẫn giữ nguyên nghĩa. Ví dụ: bye, post, small, shop, shoping, stop,

check, style, party,delete...

2. Biến động nghĩa. Các từ tiếng Anh khi nhập vào tiếng Việt không

phải mang toàn bộ nội dung ngữ nghĩa mà chỉ mang một bộ phận nghĩa vào

trong tiếng Việt. Ví dụ từ Repeat, trong tiếng Anh có từ loại là động từ và

danh từ, nhưng trong tiếng Việt từ repeat chỉ được dùng với từ loại động từ,

nghĩa là “lặp lại”, thường đọc là “ri- pít”. Thay đổi nghĩa là cách sử dụng biến

động nghĩa của từ tiếng Anh trong tiếng Việt. Sự thay đổi có thể diễn ra từ sự

mở rộng nét nghĩa cho một nghĩa đến sự phát triển thêm nghĩa mới. Ví dụ từ

Forward, trong tiếng Anh có từ loại là tính từ, trợ động từ và động từ, nghĩa

của từ đó rất đa dạng, nhưng khi sử dụng trong tiếng Việt, từ forward chỉ sử

dụng nghĩa “gửi chuyển tiếp”.

Về ngữ pháp, có đơn vị tiếng Anh được nâng cấp về chức năng ngữ

pháp khi sử dụng trong tiếng Việt. Ví dụ từ super. Super là tiền tố trong tiếng

Anh đã được sử dụng như một từ trong tiếng Việt. Câu “Nó thì thuộc loại

super, ai mà theo kịp”.

2.3. Tiểu kết chương 2

Tiếng Anh là ngôn ngữ phố biến sử dụng trên thế giới, sự ảnh hưởng

của tiếng Anh tại Trung quốc và Việt Nam rất lớn. Trung Quốc và Việt Nam

không những có nhiều người đam mê tiếng Anh, mà hai nước đang không

ngừng tiếp thu những từ mượn tiếng Anh, từ mượn từ ngữ tiếng Anh chiếm

nhiều lĩnh vực. Như vậy để làm phong phú, hoàn thiện thêm cho chính nó.

62

Các từ mượn tiếng Anh đã đem đến cho tiếng Hán và tiếng Việt những khái

niệm mới, phương thức diễn đạt và sắc thái biểu hiện mới. Không chỉ làm

phong phú thêm kho từ vựng của hai ngôn ngữ, mà hàm chứa những ý nghĩa

tâm lý văn hóa xã hội sâu sắc, trở thành một phần không thể thiếu trong xã

hội Trung Quốc và Việt Nam hiện đại. Khi các từ ngữ tiếng Anh được nhập

vào tiếng Hán và tiếng Việt, đa số từ có thay đổi nghĩa hoặc sử dụng bằng con

đường Hán hóa và Việt hóa. Nhưng Trung Quốc và Việt Nam vẫn phát triển

bản ngữ, hai nước đều có chính sách tương đối để phát triển bản ngữ. Nội

dung chương này có thể giúp nhà ngôn ngữ hoặc đất nước tìm hiểu hơn sự

ảnh hưởng từ ngữ tiếng Anh trong hai ngôn ngữ, mà giúp họ phát hiện những

63

vấn đề tương đối để phát triển hai ngôn ngữ tốt hơn.

Chương 3

ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG TỪ NGỮ TIẾNG ANH

TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT

3.1. Hiện trạng sử dụng từ mượn tiếng anh trong tiếng Hán và tiếng Việt

hiện đại

Từ vựng của mọi ngôn ngữ được phong phú hóa, đa dạng hóa không

phải chỉ ở chỗ có những từ ngữ mới xuất hiện mà còn thể hiện ở việc tạo

dựng nghĩa mới cho những từ hiện có hoặc tìm tòi những cách dùng mới

cho đúng. Nói cách khác từ vựng chẳng những có cái mới ở bề mặt mà còn

có những cái mới ở chiều sâu của nó. Tìm hiểu từ mượn tiếng Anh trong

tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt hiện đại nghĩa là không chỉ tách riêng tìm

hiểu bản thân những từ mượn ấy mà còn đặt nó vào trong chỉnh thể hệ

thống ngôn ngữ và chỉnh thể xã hội để xem nó đã gia nhập vào xã hội

Trung Quốc và xã hội Việt Nam ở mức độ nào và vai trò, chức năng của nó

đã phát huy ra sao trong xã hội ấy. Dưới đây tôi chủ yếu phân tích hiện

trạng sử dụng và những xu hướng phát triển của từ mượn tiếng Anh trong

tiếng Hán và tiếng Việt để thông qua đó tìm ra những đặc điểm phát triển

của xã hội Trung Quốc và Việt Nam hiện đại.

3.1.1. Các lĩnh vực xuất hiện từ tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt

Một đặc điểm dễ nhận thấy là các từ tiếng Anh xuất hiện trong tiếng

Hán và tiếng Việt hầu hết đều mang những khái niệm mới mà trong tiếng Hán

và tiếng Việt chưa có. Những khái niệm này thường mang tính chuyên sâu về

64

một lĩnh vực nào đó. Việc xuất hiện các từ mang khái niệm mới gắn các

trường từ vựng - ngữ nghĩa mới đã kéo theo việc “làm mới” một số khái niệm

bằng các từ tiếng Anh. Nói các khác, “làm mới” ở đây được hiểu là sự xuất

hiện các từ tiếng Anh đã có từ Hán và từ Việt biểu thị (bao gồm cả các từ

mượn khác ). Chẳng hạn, trong đời sống thường nhật của con người, các từ

tiếng Anh xuất hiện trong các lĩnh vực dưới đây:

- Ẩm thực: từ tiếng Hán绿色食品 (green food ),自助餐 (buffet ),

奶昔 (milk shake),沙拉 (salad), 热狗 (hot dog ), 奶酪 (cheese),土司

(toast),三文鱼(salmon) , 培根 (bacon),咖啡 (coffee),速溶咖啡 (instant

coffee). Từ tiếng Việt beer, bar, pub (bia), buffet (ăn tự chọn, cử hàng ăn tự

chọn), chewing gum (kẹo cao su), coca-cola, hot dog, pizza, menu (thực đơn)

- Trang phục: từ tiếng Hán 隐形眼镜 (contact lenses),香波

(shampoo),马赛克 (mosaic),牛仔裤 (jeans),迷你裙 (miniskirt),

比基尼 (bikini),运动夹克衫 (bi-swing),T 恤衫 (T- shirt) từ tiếng Việt

beauty salon, boot, fashion, T - shirt (áo phông), shop, underwear (áo lót nội

y), jeans (quần bò), lipice (son môi), fresh (tươi mát)

- Phương tiện giao thông vận tải: từ tiếng Hán巴士 (bus),空中客车

(airbus),汽轮机动车 (turbotrain), ATV (air-terrain vehicle) từ tiếng Việt

bicycle (xe đạp),...

- Tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống: từ tiếng Hán 丁克族 (Double

Income No kids),代沟 (generation gap),文化差异 (culture gap

),单身母亲 (bachelor mother ),朋克 (punk),裸跑 (streaking) từ tiếng

Việt baby (trẻ em, bé, gương mặt trẻ thơ), card (danh thiếp, thẻ), boyfriend

(bạn trai), bye bye (tạm biệt), shock (sốc), boy (chàng trai), happy (vui vẻ),

65

teen (teenage: tuổi)

- Dịch vụ và hàng hóa: từ tiếng Hán 拷机 (call),CD (compact disc

碟片,DVD (digital video disc; digiatal versatile disc), VCD (video-compact

recorder,日光浴 (suntan),士多店 (store),移动电话 (cellular

phone),超市(supermarket) từ tiếng Việt chat (tán gẫu qua mạng, nói chuyện

trên mạng), code (mã), copy (sao chép), delete (xóa), enter (nhập vào), online,

mobile phone (điện thoại di động), laptop (máy tính xách tay)

- Các lĩnh vực giải trí: 爵士乐 (jazz music),肥皂剧 (soap opera),

摇滚音乐 (big beat),爵士摇滚 (jazz rock),迪斯科 (disco),霹雳舞

(break dance,派对 (party),NBA (美国职业篮球联赛,保龄球

(bowling),水上芭蕾 (water ballet),高尔夫球 (golf) từ tiếng Việt

breakdance (nhảy nhào lộn trên đường, nhảy hip hop), C-pop (âm nhạc Đài

Loan), single (độc thân), V-pop (nhạc Việt Nam), album (đĩa nhạc), J-pop

(âm nhạc Nhật Bản), showbiz (nghề biểu diễn, giới biểu diễn ca nhạc), solo

(độc tấu, độc diễn), crazy (cuồng nhiệt), soloist (nghệ sĩ độc tấu)

- Khoa học kỹ thuật: từ tiếng Hán 硅谷 (silicon valley),视频电话

(videophone),试管婴儿 (test- tube baby),克隆羊(clone sheep),传真

(fax),激光打印机 (laser printertừ tiếng Việt computer, ...

- Công nghệ thông tin: 硬件 (hardware),软件 (soft ware),数据库 (data

bank),电子邮件 (E- mail),因特网 (Internet),鼠标 (mouse),超文本

(hypertext,博客 (blog),网络红人 (cybenaut),远程连接 (Telnet),文件输送

(FTP) từ tiếng Việt account (tài khoản), apply, phone book (danh bạ điện

thoại), internet, news (tin tức), mouse (chuột), back (trở lại) , mod (quản trị

66

mạng), restart (khởi động lại)

- Các lĩnh vực khác: từ tiếng Hán AD (Anno Domini), ATM (automatic

teller machine), BEC (Business English), 艾滋病 (AIDS),白领阶层 (white

coller) từ tiếng Việt bonus (tiền thưởng), deadline (hạn cuối), falsh (lóe lên),

go on (tiếp tục), OK (đồng ý), fake (hàng giả), on sale (khuyến mại), set up

(tạo, dựng)

Người ta đã thống kê trên báo “Thanh niên” của Trung Quốc số ra

tháng 1 năm 2000 xuất hiện khoảng hơn một trăm từ vay mượn tiếng Anh, tần

suất xuất hiện là hơn 1000 lần. Cụ thể như sau:

Khoa học Kinh tế Văn hóa Sinh hoạt Lĩnh vực kỹ thuật chính trị thể thao và giải trí

615 243 87 404 Số lượng

45.38% 17.93% 6.42% 29.81% Tỷ lệ

Ở Việt Nam, hiện trạng cũng giống như Trung Quốc, các từ tiếng

Anh mang các khái niệm mới trong nhiều lĩnh vực, chủ yếu là các từ gắn

với công nghệ cao, bao gồm cả công nghệ giải trí và tiếp đó là các từ liên

quan đến kinh tế thị trường. Theo thống kê của Đỗ Hồng Dương, trong

tổng số 554 từ tiếng Anh đời sống, từ công nghệ thông tin chiếm 14,2%,

từ ngữ âm nhạc chiếm 11,6%, từ ngữ thể thao, trò chơi chiếm 5,6%, từ

ngữ thời trang thiết kế chiếm 5,6%, từ ngữ dùng trong nghi thức giao tiếp

chiếm 3,1%,.. .

Có thể thấy trên ấn phẩm này từ mượn tiếng Anh trong lĩnh Vực khoa

học kỹ thuật chiếm số lượng rất lớn. Thực tế, từ mượn tiếng Anh trong lĩnh

vực khoa học kỹ thuật cũng chiếm một phần rất lớn trong số lượng từ mượn

67

nói chung. Bởi Trung Quốc đang trong quá trình hội nhập, tích cực giao lưu

học hỏi các thành tựu kkhoa học kỹ thuật của các nước phương Tây. Nền văn

minh phương Tây với trình độ khoa học kỹ thuật cao tràn vào Trung Quốc

đem đến rất nhiều những khái niệm mới mẻ. Từ mượn tiếng Anh đã ghi lại

những khái niệm mới mẻ này đồng thời làm mới các khái niệm đó trong bối

cảnh xã hội Trung Quốc.

Đặc biệt trong ngành công nghệ thông tin, từ mượn tiếng Anh

chiếm hầu hết số lượng thuật ngữ của ngành này. Bởi đây là một ngành

còn khá mới mẻ với ngôn ngữ sử dụng chính là tiếng Anh, do tốc độ phổ

biến vô cùng nhanh chóng của nó tại Trung Quốc mà số lượng thuật ngữ

chuyên ngành tiếng Anh liên quan cũng ồ ạt tràn vào Trung Quốc. Đặc

trưng của ngành này lại yêu cầu phải sử dụng những thuật ngữ tiếng Anh

ấy một cách chính xác, quy phạm và hạn chế biến đổi. Tuy rằng phần lớn

những từ mượn tiếng Anh thuộc lĩnh vực này được cấu tạo trên cơ sở

những chất liệu có sẵn trong tiếng Hán để người sử dụng dễ dàng tiếp

nhận, nhưng hầu hết vẫn còn thói quen dùng tiếng Anh quốc tế thay cho

từ mượn trong khi sử dụng thuật ngữ thông tin. Đây là hiện trạng chung

không chỉ ở Trung Quốc mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới,

trong đó có Việt Nam.

Hiện nay các từ mượn tiếng Anh thuộc lĩnh vực sinh hoạt và giải trí

tăng lên nhiều hơn so với các lĩnh vực khác. Các từ này xuất hiện không chỉ

cho thấy ảnh hưởng của làn sóng văn hóa phương Tây cùng với tiếng Anh tại

Trung Quốc và Việt Nam mà còn thể hiện tâm lý hiếu kỳ, ham thích cái mới

lạ sùng bái văn hóa phương Tây của một bộ phận người trong hai nước, chủ

68

yếu là giới trẻ.

Từ mượn tiếng Anh cũng đặc biệt được sử dụng nhiều trong các lĩnh

vực quảng cáo và các phương tiện thông tin đại chúng. Trong ngôn ngữ quảng

cáo của rất nhiều sản phẩm, từ mượn tiếng Anh chiếm số lượng rất lớn vì như

vậy sẽ làm cho quảng cáo thể hiện rõ hơn tính hấp dẫn, tính thời thượng, làm

cho khách hàng có ấn tượng sâu sắc về sản phẩm. Như từ 黑客 (hacker) nghĩa

là người phá hoại mạng trên máy tính. Trong tiếng Hán cũng có từ như

黑心眼 (người xấu bụng). Từ 黑 có nghĩa là đen, màu đen, trong tiếng Hán,

đen và màu đen là từ biểu thị không may mắn, hoặc biểu thị không tốt. Cho

nên từ tiếng Anh hacker được dịch là từ tiếng Hán 黑客. Cách dùng từ này

cũng đem đến cho tác phẩm văn học mới, các chương trình giải trí, các bản

tin, bài báo sức hấp dẫn lớn hơn.

3.1.2. Đối tượng sử dụng chính của từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán

hiện đại và tiếng Việt hiện đại

Hiện nay ở Trung Quốc và Việt Nam,hầu như không có ngành nghề

nào lại không phải sử dụng đến từ mượn tiếng Anh. Tuy nhiên trong khuôn

khổ của khóa luận tôi chỉ tập trung vào hai đối tượng sử dụng từ mượn tiếng

Anh nhiều nhất, đó là người dân ở các đô thị lớn và giới trẻ của hai nước.

Theo đà của quá trình hội nhập đang ngày càng đi vào chiều sâu, những

từ mượn tiếng Anh có xu hướng được lưu hành rộng rãi trong đông đảo các

tầng lớp dân cư, nhất là giới trẻ Trung Quốc và người dân ở các đô thị lớn. Số

lượng sử dụng từ mượn tiếng Anh của giới trẻ Việt Nam cũng nhiều, nhưng

dân số vẫn ít hơn nhiều giới trẻ Trung Quốc. Khi văn hóa phương Tây cùng

69

với tiếng Anh tràn vào Trung Quốc và Việt Nam, người dân thành thị chính là

những người đầu tiên đón nhận thành quả của cuộc tiếp xúc này. Bản thân

Trung Quốc và Việt Nam cũng chính là những người đầu tiên sáng tạo nên từ

mượn và sử dụng chúng. Sự phổ biến của tiếng Anh càng tạo nên một ảnh

hưởng không thể cưỡng lại được và vì thế người dân ở các đô thị cũng quen

với việc sử dụng từ mượn tiếng Anh một cách thường xuyên.

Thống kê cho thấy hầu hết những từ mượn tiếng Anh mới du nhập

vào tiếng Hán trong thời gian gần đầy đều do giới trẻ tiếp thu và sử dụng.

Giới trẻ là luôn là những người nhanh nhạy nhất trong việc tiếp thu cái

mới. Giới trẻ Trung Quốc và Việt Nam cũng vậy, họ muốn bắt kịp tốc độ

phát triển của thời đại thì không thể nào không làm quen với những từ

mượn tiếng Anh vốn là vật truyền tải của văn hóa phương Tây. Hơn nữa,

giới trẻ không chỉ sử dụng từ mượn tiếng Anh để thuận tiện trong giao

tiếp, mà những con người rất thích khẳng định cá tính riêng biệt này còn

dùng những từ mượn đầy tính mới lạ, thời thượng này để thu hút sự chú ý

và để khẳng định cá tính của mình.

3.2. Vai trò của từ mượn tiếng Anh trong tiếng hán và tiếng việt với việc

chuẩn hóa tiếng hán và tiếng việt

3.2.1. Vai trò của từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt

Trong thực tế, bắt cứ ngôn ngữ nào đều không chỉ sự hình thành của

nó, xây dựng bằng con đường “từ nó”. Trong các ngôn ngữ được sử dụng

khá rộng rãi trên thế giới như tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Hàn..., Tiếng

Anh là một ngôn ngữ được thông dụng phố biến nhất trên thế giới. Cho nên

cũng có thể nói từ mượn tiếng Anh là từ vay mượn nhiều nhất trong các

70

ngôn ngữ trên thế giới. Đó là kết quả của quá trình tiếp xúc lâu dài về ngôn

ngữ và văn hóa trong những điều kiện lịch sử phát triển nhất định, đặc biệt

trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, giao lưu văn hóa và hội nhập

kinh tế quốc tế như hiện nay, vốn từ vựng dân tộc càng chịu nhiều ảnh

hưởng từ các ngôn ngữ khác trên thế giới. Có hàng loạt những khái niệm

mới mà con người cần phải tiếp thu để có thể bắt kịp với sự phát triển của

thời đại. Tiếng Hán và tiếng Việt đều là hệ thống bao gồm những âm tiết

nhất định được kết hợp lại tạo thành từ để biểu thị những khái niệm mới.

Những từ vay mượn và những từ có nguồn gốc từ ngôn ngữ khác không chỉ

góp phần làm giàu thêm vốn từ vựng tiếng Hán và tiếng Việt, mà còn là

một bộ phận quan trọng trong ngôn ngữ dân tộc phục vụ cho nhu cầu trong

giao tiếp của con người.

Việc từ mượn tiếng Anh và sử dụng những từ có nguồn gốc từ ngôn

ngữ khác là một thực tế tất yếu khách quan. Sự phát triển nhanh chóng của

kinh tế, văn hóa, xã hội và khoa học kĩ thuật..., đặt con người vào tình thế

phải luôn trang bị đầy đủ tri thức, kịp thời tiếp thu cái mới nếu không muốn bị

bỏ lại phía sau. Khối lượng tri thức và khái niệm mới mà con người cần phải

tiếp nhận là vô hạn, trong khi đó khả năng biểu đạt ngôn ngữ lại có hạn, tiếng

Hán và tiếng Việt đều không có đủ vốn từ vựng để biểu thị số lượng khái

niệm không lồ như vậy, hoặc phải mất một thời gian nhất định để nghĩ và đưa

ra một từ tương ứng. Nhưng tốc độ phát triển của công nghệ thông tin của

Trung Quốc và Việt Nam không cho phép nhiều thời gian để làm quen, cho

nên có từ mượn tiếng Anh du nhập vào từ tiếng Hán và tiếng Việt và trở thành

một bộ phận của tiếng Hán và tiếng Việt. Ví dự trong từ tiếng Hán có từ 博客

(blog), 因特网 (internet), 克隆 (clone)..., trong từ tiếng Việt thì có nhiều từ

được sử dụng trực tiếp bằng tiếng Anh như từ download (tải về) , chat (nói

71

chuyện), website (địa chỉ mạng), online (đang trên mạng)...

Nhu cầu sử dụng từ mượn càng thể hiện trong hệ thống thuật ngữ. Tiếng

Hán và tiếng việt đều không có đủ công cụ để diễn đạt, biểu thị hết những khái

niệm mới, đặc biệt là trong lĩnh vực thuật ngữ khoa học, hơn nữa trong các

ngành khoa học, các thuật ngữ không chỉ đòi hỏi phải diễn đạt một cách chính

xác các khái niệm mà còn yêu cầu có sự thống nhất với hệ thống thuật ngữ

quốc tế để tránh gây nhầm lẫn và tạo nhiều kiện thuận lợi cho việc nguyên cứu.

Trong bối cảnh của từ mượn tiếng Anh được sử dụng phổ biến, được quy ước

là ngôn ngữ quốc tế, không những thế hệ thống thuật ngữ quốc tế cũng chủ yếu

dựa trên tiếng Anh nên việc vay mượn tiếng Anh trong thuật ngữ là điều không

thể tránh khỏi. Ví dụ trong thuật ngữ khoa học có từ kilobyte (KB), megabyte

(MB), gigabyte (GB)... Ngay cả đối với các hệ thống đơn vị do lượng cũng vậy

như từ tiếng Việt ki-lô-gam (kilogram), lít (litre), mét (metre), xen-ti-mét

(centimetre), mi-li-mét (millimetre)... Một số từ mượn vốn được dùng để định

danh, gọi tên những sự vật, hiện tượng, địa điểm...,cũng có nhiều từ mượn vốn

được sử dùng trong đồ ăn, hàng hóa, đời sống vv...

Ngày nay một lượng lớn từ mượn tiếng Anh đã và đang du nhập vào

tiếng Hán và tiếng Việt và được sử dụng rộng rãi, phố biến trong mọi lĩnh vực

của đời sống. Những từ mượn tiếng Anh góp phần làm phong phú thêm vốn

từ vựng tiếng Hán và tiếng Việt để góp phần làm giàu và đẹp cho hai thứ

tiếng. Không những thế, chúng còn đóng một vai trò khá quan trọng, đáp ứng

nhu cầu biểu hiện đa dạng, phục vục cho hoạt động giao tiếp của hai nước.

Trong bất kì ngôn ngữ nào trên thế giới, vốn từ vựng đều được coi là cơ sở

cho mọi hoạt động giao tiếp của con người, vốn từ vựng đa dạng, phong phú,

72

có khả năng diễn đạt những suy nghĩ, tình cảm của con người một cách linh

hoạt chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn nhân loại. Và từ mượn

tiếng Anh cũng chính là một phần trong vốn từ vựng dân tộc góp phần thực

hiện nhiệm vụ quan trọng này.

3.2.2. Từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt với việc chuẩn hóa

tiếng Hán và tiếng Việt

3.2.2.1. Việc chuẩn hóa từ mượn Anh trong tiếng Hán

Khi nói đến việc chuẩn hóa từ mượn Anh trong tiếng Hán, nên kết

hợp những vấn đề đặt ra trong việc tiếp nhận từ mượn tiếng Anh trong tiếng

Hán. Những từ mượn tiếng Anh đã và đang ngày càng đi sâu vào mọi mặt đời

sống của Người Trung Quốc. Nó phản ánh sự phát triển song hành cùng với

bước đi kinh tế, chính trị, văn hóa đất nước của tiếng Hán, phản ánh kết quả

của quá trình hội nhập quốc tế đang ngày càng đi vào chiều sâu của Trung

Quốc. Tuy nhiên, sự phát triển nào cũng có mặt trái của nó. Sự gia nhập của

những từ mượn tiếng Anh vào tiếng Hán tuy mang nhiều yếu tố tích cực song

cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề mà ảnh hưởng không lành mạnh của nó còn

chưa được nhìn nhận hết. Việc tiếp nhận từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán

vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Ở đây chủ yếu nói đến hai vấn đề chính:

tình trạng sử dụng không nhất quán và mức độ lạm dụng từ mượn đang ngày

càng đáng ngại.

a. Tình trạng sử dụng không nhất quán

Do xuất hiện nhiều biến thể của từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán

cho nên việc sử dụng các từ vay mượn này thường không nhất quán, hình

thức vay mượn hỗn tạp. Nhiều cách tiếp nhận của cùng một từ vay mượn đều

73

được sử dụng tùy theo sở thích và thói quen của người sử dụng mà không cần

tuân theo một quy định nào. Ví dụ: laser lúc đầu được dịch là 菜塞,cũng có

người dịch là 光受激发射,sau này Trung Quốc đại lục dịch lại thành 激光.

Vài năm sau, do ảnh hưởng của Đài Loan, Hồng Kông và các phương ngữ

khác nên người dân đại lục không chỉ dùng 菜塞 mà còn sử dụng cả từ mới

镭射 và 菜塞光. Ngày nay, khi mỗi quốc gia đều mong muốn đưa ngôn ngữ

quốc gia của mình tiến dần tới sự quy chuẩn vì tình trạng sử dụng từ mượn

khá hỗn loạn và phức tạp này.

b. Mức độ lạm dụng từ mượn đang ngày càng đáng ngại.

Người Trung Quốc nói riêng và những người sử dụng tiếng Hán nói

chung đang ngày càng lạm dụng từ mượn. Nhiều trường hợp mà từ tiếng Hán

bản ngữ có thể thay thế nhưng người dân vẫn “sính” dùng từ mượn. Thậm chí

có trường hợp không hiểu đúng, không hiểu hết nghĩa của từ mượn mà vẫn sử

dụng một cách bừa bãi. Các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các báo

điện tử lại càng cổ vũ cho trào lưu sử dụng từ mượn mà không hướng người

sử dụng đến việc vận dụng nó một cách khéo léo, đúng chỗ. Giới trẻ hiện nay

còn sáng tạo thêm nhiều từ lóng, tuy chưa được quy phạm hóa song vẫn được

rất nhiều người đón nhận. Các từ lóng này đi vào trong cả ngôn ngữ văn học,

ngôn ngữ học đường làm ảnh hưởng rất nhiều đến tính “trong sáng, truyền

cảm và cô đọng” của tiếng Hán. Giáo sư Trương Thụy Lệ (Đại học Quảng

châu) trong bài viết “phân tích hiện tượng từ mượn tiếng Anh trong tiếng

Hán” đã đưa ra nhận xét: Gần đây tình trạng tiếng Hán của học sinh Trung

Quốc có phần giảm xuống, dùng từ sai nhiều, ngôn ngữ vận dụng không quy

74

phạm, không chính xác, tiếng Anh thì được sử dụng nhiều nhưng khi vận

dụng thì không phù hợp với tiếng Hán. Các biên tập viên báo chí sử dụng rất

nhiều các từ viết tắt tiếng Anh, không chỉ các từ thường gặp như GDP, CEO

mà cả những từ khá mới mẻ như NLP (trình thức học thần kinh ngôn ngữ),

HDI (chỉ số phát triển con người) cũng được sử dụng tràn lan. Thực thạng này

nếu không được giải quyết sẽ làm cho tiếng Hán bị “ô nhiễm dần”. Bởi Trung

Quốc là một quốc gia đa dân tộc, sự phát triển của ngôn ngữ quốc gia luôn

song hàng cùng sự phát triển của nhiều ngôn ngữ khác, vừa hỗ trợ vừa cạnh

tranh với nhau, nay lại thêm sự xuất hiện của từ mượn, nếu không tiếp nhận

một cách hợp lý tiếng Hán càng dễ “bị lai tạp” và mất dần bản sắc. Nguyên

nhân của tình trạng trên là do chưa có một quy định chính thức và đầy đủ về

việc quy phạm hóa các từ ngoại lai, dẫn đến tình trạng tiếp nhận các từ này

một cách bừa bãi; hơn nữa do tâm lý sùng ngoại dẫn đến việc sử dụng từ vay

mượn một cách tràn lan mà không có chọn lọc. Để giải quyết tình trạng “ô

nhiễm ngôn ngữ” do sự xuất hiện của từ vay mượn, cần phải nghiêm túc xử lý

cả hai vấn đề trên.

Đối với các vấn đề trên, Các cơ quan của Trung Quốc đã đặt ra biện

pháp tướng ứng để Hán hóa từ tiếng Anh trong tiếng Hán. Các cách được

tổng hợp như sau:

1. Đặt ra chế độ pháp luận tương đối để ràng buộc những cơ quan, như

báo chí, tạp chí, chương trình, phát thanh vv…, thúc đẩy các cơ quan sử dụng

từ mượn tiếng Anh cẩn thận, nghiêm túc hơn.

2. Viện ngôn ngữ nhà nước nên lập nhóm tương ứng để đi xem xét,

phân tích, nghiên cứu những từ mượn tiếng Anh được sử dụng, thu thập

75

những từ mượn tiếng Anh, sau đó căn cứ quy luật ngôn ngữ quy phạm sự

phiên dịch và cách sử dụng. Mà biên soạn vào từ điển từ ngoại lai, quy phạm

chữ viết và phiên âm.

3. Chỉ dẫn nhân dân sử dụng từ mượn tiếng Anh. Sự phát triển của

ngôn ngữ nào đều cần nhờ nhân dân cả nước, ngôn ngữ dân tộc được phát

triển không phải nhờ bảo vệ của một số người, mà nhờ nhân dân cả nước. Có

thể nâng cao trình độ tiếng Anh, hướng dẫn cách sử dụng từ mượn tiếng Anh

để nhân dân cả nước hiểu biết cách sử dụng các từ mượn tiếng Anh trong

tiếng Hán. `

3.2.2.2. Việc chuẩn hóa từ mượn Anh trong tiếng Việt

Giống như Trung Quốc, bức tranh của từ mượn trong tiếng Việt cũng

rất đa dạng. Sự tiếp nhận từ vay mượn cũng giống như Trung Quốc, các lĩnh

vực trong đời sống của Việt Nam đều có nhiều từ mượn tiếng Anh. Trong quá

khứ hầu hết những cuộc tiếp xúc đều diễn ra trong thời gian rất dài và cho nên

hệ quả của nó cũng vô cùng sâu sắc. Quá trình vay mượn từ ngữ của các thứ

tiếng khác trong tiếng Việt đã diễn ra ngay từ thời kỳ xa xưa, trong giai đoạn

nó đang hình thành, rồi về sau nó phát triển bản ngữ để cho tiếng Việt đa dạng

hơn, phong phú hơn.

Tiếng Việt bị ảnh hưởng của một loạt ngôn ngữ như: tiếng Hán, tiếng

Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Thái... Vậy thì trong tiếng Việt dễ thấy các

từ mượn của các ngôn ngữ thuộc những loại hình khác với tiếng Việt.

Tuy nhiên trong tiếng Việt, các từ vay mượn mang những nét đặc trưng

của các ngôn ngữ gốc mà chủ yếu mang những nét đặc trưng (ngữ âm, ngữ

nghĩa và ngữ pháp) của tiếng Việt. Các từ vay mượn làm góp phần vào sự

76

việc phát triển của tiếng Việt mà khiến cho người Việt trong nhiều trường hợp

nhận ra tính chất ngoại lai của chúng. Sự Việt hóa cũng giống như Hán hóa,

chủ yếu về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, chữ viết. Sự Việt hóa đã tạo

cho sự tồn tại của tiếng Việt không phá vỡ tính hệ thống của nó, tức là làm

cho người Việt bình thường khi nghe từ ngoại lai không cảm thấy không hiểu

và có thể nói hay đọc được các từ ngữ đó mà không cảm thấy kỳ lạ.

Tuy nhiên từ mượn Anh bổ sung từ ngữ cho tiếng Việt bằng cách vay

mượn từ ngữ tiếng nước ngoài diễn ra như mọi ngôn ngữ khác, có một loạt

mâu thuẫn cần giải quyết. Chẳng hạn: vừa phải tiếp nhận những lượng thông

tin mới nên không thể không vay mượn từ vựng, vừa phải giữ gìn sự trong

sáng của tiếng Việt nên không thể để nó “bị ô nhiễm” bởi các vay mượn. Tình

trạng lạm dụng từ mượn ở Việt Nam đang ngày càng nghiêm trọng hơn,

chẳng hạn, trong giới trẻ, có những người dùng từ mượn Anh nhiều hơn tiếng

Việt, có lúc không biết bản ngữ tiếng Việt là gì. Việc sử dụng các từ mượn

một cách bừa bãi đang ảnh hưởng nguy hại đến tiếng Việt không chỉ trên

phương diện từ vựng mà cả trên phương diện ngữ Pháp. Cho nên đất nước

Việt Nam cũng cần phải có cách chuẩn hóa các từ vay mượn trong tiếng Việt,

có một quy định thống nhất về cách tiếp nhận và sử dụng từ mượn theo hướng

Việt hóa.

Ở Việt Nam công việc chuẩn hóa tiếng Việt đã được chú ý từ những

năm đầu thế kỷ XX, bởi các nhà khoa học, các nhà báo nhà văn và các nhà

chính trị. Nội dung chủ yếu trong quan niệm về chuẩn mực hóa ở thời kỳ này

là: cần phải bảo vệ bản sắc của tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng của tiếng

Việt, không lạm dụng các từ vay mượn Anh mà không khiến bản ngữ tiếng

77

Việt lộn xộn.

Nhìn lại sơ lược về lịch sử phát triển của tiếng Việt có thể thấy rằng:

trong sự tiếp xúc với tiếng Hán và tiếng Pháp, tiếng Việt đã vay mượn nhiều

yếu tố của hai ngôn ngữ này, đặc biệt là tiếng Hán, tiếng Anh, tiếng Pháp.

Trong từ vay mượn của tiếng Việt, có rất nhiều từ vay mượn từ phát âm theo

từ nước ngoài. Thay đổi cách tiếp cận như vậy do tác động của yếu tố tâm lý -

ngôn ngữ.

Trong bối cảnh có những sự lựa chọn khi thì thiên về mặt âm khi thì thiên

về mặt nghĩa như vừa nêu, trong tiếng Việt hiện nay đang có những trường hợp

được gọi là “lưỡng khả” (two possibilities), nghĩa là song song tồn tại hai cách

nói, cách viết chứ chưa có một cái nào trong số đó được coi là chuẩn. Ví dụ:

tennis, ten-nít (phiên âm ấn - Âu) / Lễ hội (dùng yếu tố Hán - Việt).

Tìm hiểu những giải pháp cụ thể trong công việc chuẩn hóa tiếng Việt,

có thể phát hiện ra, ẩn dưới bề sâu của chúng, những quan điểm khoa học

khác nhau về sự bảo vệ và phát triển một ngôn ngữ, về các phong cách chức

năng của ngôn ngữ, về sự kế hoạch hóa ngôn ngữ... Trong bối cảnh hiện nay

của sự khu vực hóa, toàn cầu hóa. Trong sự phát triển của xã hội, ngôn ngữ

luôn là một nhân tố đóng vai trò quan trọng. Vị trí và vai trò ấy đặt ra yêu cầu

chuẩn hóa nó về mặt chữ viết, từ vựng, ngữ pháp, và ngữ âm. Chuẩn hóa tiếng

Việt là xác định tính chất đúng đắn và thống nhất của các quy tắc trong ý thức

“giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, tức là giữ gìn cái bản sắc đẹp đẽ, cái

bản lĩnh độc đáo của tiếng Việt, đồng thời xác nhận những hiện tượng mới

nảy sinh trong quá trình phát triển mạng mẽ của tiếng Việt, nhằm mục đích

nâng cao hiệu lực của nó đối với “tư duy chính trị, tư duy kinh tế, tư duy khoa

học” của người Việt Nam trong giai đoạn mới của sự nghiệp cách mạng, như

78

cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu.

3.3. Tiểu kết chương 3

Như vậy, xu hướng chung của tiếng Hán và tiếng Việt trong giai đoạn

hiện nay là tiếp nhận thêm một số lượng lớn các từ vay mượn, đặc biệt là từ

vay mượn tiếng Anh được sử dụng trong hai nước rất nhiều, từ mượn tiếng

Anh được sử dụng chiếm các lĩnh vực xã hội, thúc đẩy phát triển các lĩnh vực

xã hội. Các từ mượn tiếng Anh không những có thể mang các khái niệm mới

cho nó, mà còn làm phong phú thêm cho chính nó. Nhưng cũng có rất nhiều

vấn đề cần chú ý khi sử dụng từ mượn tiếng Anh. Vừa sử dụng từ ngoại lai

vừa chú ý phát triển bảo vệ bản ngữ. Tình hình Việt Nam hiện tại trong mức

độ nhất định cũng giống như Trung Quốc, điều cần thiết là không nên có thái

độ cực đoan, quá nghiêng về sùng bái hay bài trừ từ vay mượn bởi như vậy

79

đều đi ngược lại với quy luật phát triển khách quan của ngôn ngữ.

KẾT LUẬN

1) Ngôn ngữ phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Sự phát

triển của ngôn ngữ nào cũng phải hấp thu những yếu tố đặc sắc của ngôn

ngữ khác để bổ sung và hoàn thiện cho chính nó. Nghiên cứu những từ

mượn nước ngoài của một ngôn ngữ, chúng ta sẽ hiểu sâu sắc thêm về

lịch sử ngoại giao và hợp tác giao lưu của quốc gia ấy. Vì thế, ở một

phương diện nào đó, sự phát triển của từ vay mượn sẽ cho thấy mức độ

mở cửa hội nhập của một quốc gia.

2) Bất cứ là tiếng Hán hay tiếng Việt, đều nhập nhiều từ mượn tiếng

Anh vào bản ngữ, từ mượn tiếng Anh đã mang nhiều khái niệm mới cho nó,

mà làm phong phú cho nó, thúc đẩy hai ngôn ngữ phát triển hơn. Việc sử

dụng từ mượn tiếng Anh một cách tràn lan ở Trung Quốc như hiện nay cũng

đem đến những vấn đề bất cập cần được điều chỉnh và khắc phục một cách

nghiêm túc. Nên các cơ quan tương ứng cần đặt ra nhưng cách xử lí để thúc

đẩy ngôn ngữ phát triển bằng con đường hợp lý. Sự phát triển từ ngoại lai là

một bộ phận nội dung chính của sự phát triển ngôn ngữ nhà nước. Vì thế

trong tiếng Hán và tiếng Việt, hai ngôn ngữ vừa tiếp nhận từ ngoại lai vừa chú

ý phát triển ngôn ngữ dân tộc bản ngữ, chỉ sự kết hợp từ ngoại lai và bản ngữ

mới ứng thích con đường phát triển của ngôn ngữ xã hội.

3) Hiện nay, từ vay mượn với hình thức hiện đại và khả năng biểu đạt

phong phú đang ngày càng thể hiện rõ nét những ưu việt của nó đồng thời nó

cũng đòi hỏi một cách tiếp nhận, sử dụng hợp lý. Thông qua khóa luận, tôi

80

mong muốn phần nào tiếp cận với bộ phận từ vựng độc đáo này, tìm hiểu

nguồn gốc, phương thức cấu thành và tác động của nó tới sự phát triển văn

hóa xã hội. Thông qua việc tìm hiểu từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán và

tiếng Việt hiện đại, phát hiện một số vần đề còn tồn tại và đặt ra những cách

xử lý cho nó. Tôi mong muốn góp một cái nhìn tích cực về tình hình phát

triển của tiếng Hán và tiếng Việt. Mong muốn khóa luận này sẽ góp phần nhất

định cho việc nghiên cứu từ ngoại lai trong hai ngôn ngữ, thúc đẩy sự phát

81

triển của tiếng Hán và tiếng Việt hiện đại trong thời gian tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt

1. Phan Văn Các (1981), Từ ngữ gốc Hán với việc giữ gìn tính trong sáng

của tiếng Việt, trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ,

tập 2, Nxb Khoa học xã hội.

2. Nguyên Tài Cẩn (1979), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc

Hán - Việt, Nxb Khoa học xã hội.

3. Trần Trí Dõi (2005, Giáo trình lịch sử tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

4. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình Ngôn ngữ học, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

5. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb giáo dục.

6. Nguyễn Văn Khang (1998), Về cách xử lí từ ngữ nước ngoài trong tiếng

Hán hiện đại, trong Xây dựng và phát triển các ngôn ngữ quốc gia trong

khu vực, Viện Thông tin Khoa học xã hội.

7. Nguyễn Văn Khang (2001), Âu hóa-Âu mà không hóa: vấn đề của ngữ

pháp tiếng Hán, Ngôn ngữ & Đời sống 10/2001.

8. Phan Ngọc (1983), Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, tr. 46.

9. Hoàng Phê (chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt.

10. Lý Toàn Thắng (2002), Mấy vấn đề Việt ngữ học và ngôn ngữ học đại

cương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

11. Hoàng Tuệ (2001), Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia TP.

82

Hồ Chí Minh.

II. Tiếng Hán

12. 史有为(Sử Hữu Vi ), 2000. 汉语外来词,商务印书馆.

13. 李乐毅(Lý Nhạc Nghị)《现代汉语外来词的统一问题》,《语文

建设》1990年第二期.

14. 杨华,蒋可心(Dương Hoa, Thường Khả Tâm)《浅议新外来词

及其规范问题》,《语言文字应用》1995年第一期.

15. 王铁昆(Vương Thiết Côn)《汉语新外来词的文化心里透视》,

《汉语学习》1993年第一期.

16. 赵立乐(Triệu Lập Lạc)《现代汉语外来词浅析》,《河北师范

大学学报》1994 年第四期.

17. 王浩(Vương Hạo)《现代汉语中的英源外来词研究》2008, 新疆

师范大学.

18. 胡明扬(Hồ Minh Dương)《关于外文字母词和外文缩略语问题》

2002,中国人民大学中文系.

19. 高明凯(Cao Minh Khải)《现代汉语外来词研究》1958,北京文字

改革出版社.

20. 潘文园(Phan Văn Viên)《汉英语对比纲要》2008,中国劳动关

系院外语教学部

21. 温锦(Ôn Cẩm)《汉语英源外来词研究及其在汉语国际教育中的

意义》2012,辽宁师范大学.

22. 杨振兰 (Dương Chấn Lan) 《外来词的汉化及其外来色彩》 1989,

83

山东师范大学报.

23. 殷娇智 (Yên Kiều Trí) 《汉语外来词研究与对外汉语教学》 2012,

江苏师范大学文学院.

24. 刘正琰(Lưu Chính Diễm)、高名凯(Cao Minh Khải)、麦永乾

(Mạch Vĩnh Kiền)、史有为(Sử Hữu Vi) 《汉语外来词词典》

1984,上海辞书出版社.

25. 李立东(Lí Lập Đông)《浅说现代汉语中的外来词》 2006,语文学刊.

26. 李春琳(Lí Xuân Lâm)《现代汉语外来词的构词理据》 2003,新

84

疆师范大学学报.