ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

---------------------------------------------------

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

PHẠM THỊ THU PHƢƠNG

TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC VỀ CON NGƢỜI

TRONG THƠ CA VIỆT NAM

TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XIX

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Triết học

HÀ NỘI - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

-----------------------------------------------------

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

PHẠM THỊ THU PHƢƠNG

TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC VỀ CON NGƢỜI

TRONG THƠ CA VIỆT NAM

TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XIX

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành : Triết học

Mã số

: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

TS. Vi Thái Lang

HÀ NỘI – 2015

LỜI CẢM ƠN!

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban chủ nhiệm khoa Triết học,

Phòng Đào tạo sau đại học, các Quý Thầy Cô giáo đã giảng dạy, trang bị

những kiến thức quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt

quá trình học tập và thực hiện luận văn này.

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin đƣợc bày tỏ lời cảm ơn tới

thầy giáo, TS. Vi Thái Lang - ngƣời đã khuyến khích và tận tình chỉ dẫn cho

tôi trong suốt thời gian thực hiện nghiên cứu này.

Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu và tập thể đồng nghiệp nơi tôi

công tác - Trƣờng THPT Sóc Sơn - đã luôn tạo điều kiện tốt cho tôi học tập

trong toàn khóa học.

Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình và bạn bè đã luôn động viên,

hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thành luận văn.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 12 tháng 11 năm 2015

Tác giả

Phạm Thị Thu Phương

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn

trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều đƣợc dẫn nguồn và có độ

chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn

toàn trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 12 tháng 11 năm 2015

Tác giả

Phạm Thị Thu Phương

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH: Chủ nghĩa xã hội

UNDP: United Nations Development Programme

HDI: Human Development Index

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề .................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 6

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 7

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................ 7

6. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 7

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .................................................. 8

8. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 8

Chƣơng 1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM THƠ CA VIỆT

NAM TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XIX ........................................ 9

1.1. Điều kiện, tiền đề cho sự ra đời tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong

thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX ..................................... 9

1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội .................................................................. 9

1.1.2. Điều kiện chính trị .......................................................................... 12

1.1.3. Tiền đề văn hóa - tƣ tƣởng .............................................................. 14

1.2. Đặc điểm thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX............ 24

1.2.1. Một số quan niệm về “thơ” và “thơ ca” ........................................ 24

1.2.2. Sự phát triển của thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế

kỷ XIX ........................................................................................................ 28

Chƣơng 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌCVỀ CON

NGƢỜI TRONG THƠ CA VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN ĐẦU THẾ

KỶ XIX ........................................................................................................... 31

2.1. Tƣ tƣởng về sự sinh thành và bản tính con ngƣời ................................ 31

2.1.1. Về sự sinh thành con ngƣời ............................................................ 31

2.1.2. Về bản tính con ngƣời ..................................................................... 36

2.2. Tƣ tƣởng về mối quan hệ giữa con ngƣời và thế giới........................... 39

2.3. Tƣ tƣởng về đối nhân xử thế ................................................................. 43

2.3.1. Tƣ tƣởng về mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời ............... 43

2.3.2. Tƣ tƣởng nhân nghĩa ...................................................................... 47

2.3.3. Tƣ tƣởng vô sự ................................................................................ 52

2.4. Một số giá trị của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca ViệtNam

từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX ............................................................... 57

2.4.1. Những giá trị tích cực của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ

ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX ......................................... 57

2.4.2. Những hạn chế của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca

Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX .............................................. 60

2.4.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy những giá trị tích cực và khắc

phục những mặt tiêu cực của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca

Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX đối với quá trình xây dựng con

ngƣời mới Việt Nam .................................................................................. 62

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 70

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Con ngƣời là vấn đề trung tâm của mọi nghiên cứu khoa học. Qua

nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát hiện ra rất nhiều điều lý thú về con

ngƣời. Trong quá khứ, hiện tại và mãi mãi về sau, con ngƣời vẫn là một đề tài

phong phú, hấp dẫn cho mọi lĩnh vực nghiên cứu, nhất là triết học và các khoa

học nhân văn.

Trung Quốc và Ấn Độ đƣợc coi là cái nôi của văn minh nhân loại. Đồng

thời, đây cũng là trung tâm ra đời những tƣ tƣởng triết học về con ngƣời.

Trong quá trình nghiên cứu, các nhà tƣ tƣởng có nghiên cứu về thế giới tự

nhiên, nghiên cứu về quỷ thần.v.v. nhƣng cũng chỉ nhằm mục đích lý giải

cuộc sống và số phận con ngƣời trong thế giới này với tất cả những hạnh

phúc, đau khổ, niềm tin, khát vọng của chính con ngƣời. Việt Nam là quốc gia

chịu ảnh hƣởng nhiều từ hai nền văn minh Trung Quốc và Ấn Độ, do đó,

cũng đã kế thừa đƣợc khá nhiều thành tựu trong lĩnh vực văn hóa, tƣ tƣởng.

Trƣớc đây, Việt Nam có truyền thống văn, sử, triết bất phân. Triết học ở

Việt Nam chƣa giữ vai trò là một môn khoa học độc lập. Các tƣ tƣởng, các

học thuyết triết học chủ yếu ẩn chứa bên trong các tác phẩm văn học, sử

học.Vì vậy, việc tìm hiểu vấn đề quan niệm triết học về con ngƣời trong thơ

ca là một trong những góc độ nghiên cứu nhằm làm nổi bật lên tƣ tƣởng của

các bậc tiền bối, giúp thiết lập đƣợc chiếc cầu nối giữa ngƣời xƣa và ngƣời

sau.

Quan niệm về con ngƣời trong thơ ca, tuy không đồng nhất với con

ngƣời trong triết học nhƣng lại có những ảnh hƣởng nhất định. Con ngƣời

trong thơ ca là hình tƣợng nghệ thuật về con ngƣời, nó khác với con ngƣời

theo quan niệm của triết học. Thế nhƣng, xét trong tính tổng thể, cả triết học

và văn học đều là những hình thái ý thức xã hội nên không thể không có

1

những nguồn gốc tƣơng đồng. Vì thế, những quan niệm về con ngƣời trong

thơ ca Việt Nam luôn chịu sự quy định của các quan niệm chính trị, xã hội và

tƣ tƣởng triết học đƣơng đại.

Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng với quốc tế, vấn đề văn

hóa, lối sống của con ngƣời Việt Nam đang bị tác động, lay chuyển nhanh

chóng cả về những mặt tích cực và những yếu tố tiêu cực. Những giá trị nhân

văn truyền thống hàng ngàn năm của con ngƣời Việt Nam đang có nguy cơ bị

biến dạng, bị mai một theo năm tháng. Một số giá trị thực dụng, chạy theo lối

sống thiên về vật chất tầm thƣờng đang đƣợc hình thành;.v.v. Vì lẽ đó, những

giá trị về đạo đức làm ngƣời, đạo lý Thánh hiền;.v.v. cần đƣợc tìm hiểu, khơi

dậy để đánh thức và đƣa con ngƣời trở lại với “con ngƣời” nhân văn phƣơng

Đông và đặc thù Việt Nam.

Từ trƣớc đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề con ngƣời ở

các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề quan niệm về con ngƣời trong thơ

ca đƣợc xem xét dựa trên cơ sở tƣ duy triết học vẫn còn khá mới mẻ và chƣa

đƣợc tập hợp quy mô, hoàn chỉnh. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Tư tưởng triết học

về con người trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX” làm

đề tài nghiên cứu nhằm đạt đƣợc những kết quả mới có ý nghĩa.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề

Con ngƣời luôn là đề tài hấp dẫn đối với mọi khoa học. Vấn đề quan niệm

về con ngƣời ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế

giới. Theo thời gian, số lƣợng các công trình nghiên cứu ngày càng tăng lên.

Giá trị ẩn chứa trong các quan niệm về con ngƣời vì thế cũng ngày càng đƣợc

khám phá dƣới nhiều góc độ. Điều này tạo cơ hội cho những ngƣời đi sau có

một nền tảng kiến thức vững chắc để kế thừa. Song, nó cũng đặt ra thách thức

là phải làm sao để không dẫm lên lối mòn khoa học của ngƣời đi trƣớc.

Xung quanh vấn đề quan niệm về con ngƣời, đã có nhiều công trình

2

khoa học trong nƣớc và cả nƣớc ngoài nghiên cứu.Trong khuôn khổ luận văn

này, tác giả chỉ chọn những công trình gần với đề tài nghiên cứu để phân tích,

xem xét và kế thừa.

- Trong cuốn“Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam”của

Trần Đình Sử ở phần “Sự vận động và phát triển của con ngƣời trong thơ Việt

Nam trung đại”, ông cho rằng, qua các giai đoạn văn học, dƣới ảnh hƣởng của

tƣ tƣởng chính thống và hoàn cảnh lịch sử xã hội mà con ngƣời trong thơ

trung đại cũng có sự thay đổi. Từ con ngƣời sử thi trong thơ Trần Quang

Khải, Phạm Ngũ Lão, Đặng Dung;.v.v. với tình cảm yêu nƣớc có sức lay

động mãnh liệt đến con ngƣời khí tiết biết giữ mình trong sạch, biết ứng xử

trƣớc thời thế dƣới sự chỉ dạy của Nho giáo. Bƣớc sang giai đoạn từ thế kỷ

XV đến thế kỷ XVII cùng với sự ra đời của thơ chữ Nôm, con ngƣời trong thơ

cũng mở rộng về giá trị riêng tƣ, trần tục, ít quan phƣơng hơn so với giai đoạn

trƣớc. Trong khi đó, theo bƣớc đi của lịch sử, cùng với sự suy thoái của xã hội

phong kiến, sự trỗi dậy của ý thức cá nhân nên con ngƣời trong thơ giai đoạn

từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX lại nghiêng về những khát khao trần tục.

- Trong cuốn “Về con ngƣời cá nhân trong văn học cổ Việt Nam” của

nhóm nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc

Vƣơng, Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân, qua chƣơng “Sáng tác thơ ca thời

cổ và sự thể hiện cái tôi tác giả”, các nhà nghiên cứu đã phân tích một cách

cụ thể những vẻ đẹp của tâm hồn con ngƣời trong mối tƣơng quan với thiên

nhiên, xem thiên nhiên nhƣ thƣớc đo nhân cách của nhà Nho. Đồng thời trong

công trình này, nhóm nghiên cứu cũng đề cập một cách khái quát về con

ngƣời cá nhân trong thơ, biểu hiện những vẻ đẹp về nhân cách.

- Giáo sƣ Lê Trí Viễn trong công trình “Đặc trƣng văn học trung đại

Việt Nam” có giới thuyết về khả năng nhận thức trƣớc tự nhiên của con ngƣời

trung đại. Tác giả vạch ra ba dạng cảm thức: con ngƣời thấy mình trong tự

3

nhiên, thấy trong con ngƣời mình có cả vũ trụ, nhìn sự vật trong thế giới để

thấy một ngụ ý hay một lời giáo huấn. Tiếp đến, tác giả đi vào giới thiệu cảm

thức về thời gian và không gian của con ngƣời thời trung đại, từ đó đi đến

khẳng định thế giới và con ngƣời là một.

- “Con ngƣời nhân văn trong thơ ca sơ kì trung đại” của Đoàn Thị Thu

Vân là công trình trực tiếp đề cập đến vấn đề con ngƣời nhân văn trong thơ

Nguyễn Trãi. Để không lặp lại những điều mà các nhà nghiên cứu đã nhận

định về con ngƣời siêu việt ấy, tác giả chỉ xoáy sâu vào khía cạnh một con

ngƣời biết tìm niềm vui sống, thể hiện trong cách sống giản dị mà tự do

phóng khoáng, gần gũi với thiên nhiên vạn vật và con ngƣời lao động.

- Luận văn thạc sĩ “Văn học thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVIII trong tiến

trình văn học trung đại Việt Nam”(2004) của tác giả Nguyễn Thanh Hoài

cũng đã có những luận bàn về vấn đề con ngƣời trong phần “Nội dung văn

chƣơng nhà Nho ẩn dật thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVIII”. Nhờ sự xuất hiện

của các nhà Nho ẩn dật này mà văn học Việt Nam đã có những bƣớc phát

triển mới về mặt nội dung, đặc biệt là những nội dung xoay quanh con ngƣời,

góp phần làm phong phú hơn cho hệ tƣ tƣởng Việt Nam thời kỳ trung đại.

- Trong cuốn luận văn tốt nghiệp “Vấn đề con ngƣời trong triết học

Trung Hoa cổ đại” (2009) của tác giả Mai Thị Cẩm Nhung đã trình bày một

cách hệ thống các quan điểm của Nho gia, Đạo gia và Pháp gia về vấn đề con

ngƣời. Hệ thống quan điểm này đã giúp tôi có thêm đƣợc cơ sở lý luận để xây

dựng nên các luận điểm về con ngƣời phƣơng Đông nói chung và con

ngƣờiởViệt Nam nói riêng.

- Luận văn thạc sĩ “Con ngƣời nhân văn trong tiến trình văn học trung

đại qua thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du” (2010)của tác

giả Nguyễn Thị Huyền Thƣơng đã có những khám phá khá mới mẻ về vấn đề

con ngƣời trong thơ ca Việt Nam thời kỳ trung đại. Luận vănđã trình bày một

4

cách có hệ thống những khía cạnh về con ngƣời nhân văn đƣợc thể hiện qua

tƣ tƣởng của ba nhà thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du.

Qua đó, ngƣời đọc có đƣợc hình dung về quá trình vận động, phát triển của

con ngƣời qua các chặng đƣờng của văn học trung đại.

- Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác -

Lênin về sự phát triển con ngƣời, lấy đó làm cơ sở lý luận, phƣơng pháp luận

cho nghiên cứu về sự nghiệp giải phóng, xây dựng và phát triển toàn diện con

ngƣời Việt Nam. Đó là các công trình: “Tƣ tƣởng về sự giải phóng con ngƣời

trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” của Trần Hữu Tiến, trích trong “Sống

mãi với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

(1998), “Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con ngƣời và sự nghiệp

giải phóng con ngƣời”, của Bùi Bá Linh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

(2003);.v.v.

- Cũng có một số ngƣời đi vào nghiên cứu các khía cạnh xã hội khác

nhau về con ngƣời nhƣ về chính sách y tế, giáo dục, chính sách xóa đói, giảm

nghèo.v.v. từ đó đề ra những giải pháp cụ thể nhằm phục vụ các yêu cầu về

phát triển con ngƣời mới. Có thể kể ra các công trình nhƣ: “Về phát triển toàn

diện con ngƣời thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Phạm Minh Hạc,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2001); “Tính tƣơng thích giữa phát triển

giáo dục và phát triển kinh tế trong phát triển con ngƣời ở Việt Nam” của

Đặng Quốc Bảo, trong tạp chí Nghiên cứu con ngƣời, số 2, (2002); “Nhà

nƣớc và sự phát triển con ngƣời trong quá trình đổi mới ở Việt Nam” của Bùi

Tất Thắng trong tạp chí Nghiên cứu con ngƣời, số 2, (2002);.v.v.

- Vấn đề phát triển con ngƣời và xác định nội hàm của khái niệm “phát

triển con ngƣời” đƣợc UNDP (United Nations Development Programme) đƣa

ra vào năm 1990 trong “Báo cáo phát triển con ngƣời” (Human Development

Report - HDR). Hàng năm “Báo cáo phát triển con ngƣời” của UNDP đƣợc

5

xuất bảnđể đánh giá những thành tựu và hạn chế của các quốc gia về phát

triển con ngƣời, nghiên cứu những cơ hội và thách thức cũng nhƣ trao đổi

những kinh nghiệm về phát triển con ngƣời trên phạm vi thế giới vì sự tiến bộ

và văn minh của nhân loại. Đây là tài liệu hữu ích phục vụ cho quá trình tác

giả của luận văn này nghiên cứu về định hƣớng phát triển con ngƣời sao cho

phù hợp với những yêu cầu của thời đại.

Cùng với sự phát triển của lịch sử nhân loại, các trào lƣu triết học, các

tôn giáo ra đời. Các nhà tƣ tƣởng, các triết gia, các tôn giáo lớn nhƣ Nho giáo,

Phật giáo, Thiên Chúa giáo;v.v. đều đem con ngƣời ra để luận giải theo những

quan niệm riêng của mình.

Nhìn chung, các công trình đều khẳng định nghiên cứu vấn đề con ngƣời

mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Vấn đề con ngƣời trong triết học và quan

niệm về con ngƣời trong thơ ca trung đại Việt Nam đã đƣợc các nhà nghiên

cứu đề cập trên nhiều bình diện khác nhau. Nhƣng để đánh giá đúng đắn, sâu

sắc vấn đề vẫn cần có những chuyên đề đi sâu vào các tác phẩm với những

nội dung cụ thể.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Lý giải những tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam giai

đoạn từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX.

Hệ thống hóa và phân tích một số nội dung cơ bản của tƣ tƣởng triết học

về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX.

Trên cơ sở đó, chỉ ra một số giá trị của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời

trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX đối với việc xây

dựng con ngƣời Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Phân tích những điều kiện, tiền đề ra đời tƣ tƣởng triết học về con ngƣời

6

trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX.

Đi sâu lý giải một số nội dung của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong

thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX.

Chỉ ra ý nghĩa của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam

từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX đối với việc xây dựng và phát triển con

ngƣời Việt Nam hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI

đến đầu thế kỷ XIX qua một số tác phẩm, tác giả tiêu biểu.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung làm sáng tỏ tƣ tƣởngtriết học về con ngƣời trong phạm

vi thơ ca Việt Nam từ thế kỉ XVI đến đầu thế kỷ XIX qua một số tác phẩm,

tác giả tiêu biểu.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Tìm hiểu vấn đề quan niệm triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam

từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, cơ sở lý luận mà tôi viện đến là chủ nghĩa

Mác - Lênin; những quan niệm, đƣờng lối của Đảng và các tƣ tƣởng truyền

thống của dân tộc Việt Nam.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng đồng bộ nhiều phƣơng pháp khoa

học khác nhau nhƣ phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, logic - lịch sử, so sánh,

điều tra;.v.v

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn đã phân tích khá sâu những điều kiện, tiền đề cho sự xuất hiện

tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu

7

thế kỷ XIX, đặc biệt là ảnh hƣởng của các học thuyết triết học, tôn giáo và tín

ngƣỡng dân gian Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn đã đƣa ra đƣợc một cách

thức truy tìm “cái triết học” trong thơ ca về con ngƣời.

Việc tìm hiểu về những giá trị tốt đẹp của con ngƣời là hết sức quan

trọng,đặc biệt là đối với môi trƣờng giáo dục trong nhà trƣờng, gia đình và xã

hội. Bởi lẽ, đây chính là điểm tựa về văn hóa, về tinh thần để giáo dục cho các

thế hệ biết tự hào, trân trọng, giữ gìn và học tập theo tấm gƣơngcủa cha ông

ta.Thông qua luận văn, tác giả muốn góp một phần nhỏ bé vào việc làm nổi

bật tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam giai đoạn từ thế kỷ

XVI đến đầu thế kỷ XIX. Từ đó, chỉ ra đƣợc một số giá trị chủ yếu của tƣ

tƣởng này đối với việc xây dựng con ngƣời Việt Nam hiện nay.Đồng thời,

luận văn cũng góp phần vào việc xây dựng hệ thống những quan điểm về vấn

đề phát triển con ngƣời trong giai đoạn mới hiện nay.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

7.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn phân tích vàlàm rõ một số nội dung của tƣ tƣởng triết học về

con ngƣời mà các nhà tƣ tƣởng Việt Nam đã đúc kết trong thơ ca giai đoạn từ

thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX. Từ đó, ngƣời đọc dễ dàng hệ thống hóa đƣợc

những nội dung này và có thêm cách nhìn nhận sâu sắc hơn về vấn đề con

ngƣời thông qua các quan niệm, các học thuyếttriết học Việt Nam.

7.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy

và học tập các môn Lý luận chính trị, các môn khoa học xã hội và nhân văn.

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn đƣợc sắp xếp thành 2

chƣơng, 6 tiết.

8

Chƣơng 1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM THƠ CA

VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XIX

1.1. Điều kiện, tiền đề cho sự ra đời tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong

thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX

1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội

Cuối thế kỷ XV, đầu thế kỉ XVI, nhà Lê sơ sau một thời kỳ thịnh trị đã

bƣớc vào giai đoạn suy thoái. Xã hội lúc này bắt đầu xuất hiện những dấu

hiệu khủng hoảng trầm trọng về mọi phƣơng diện. Dƣới sự thống trị của triều

đình chuyên chế đồi bại, đời sống của nhân dân ngày càng chìm đắm trong tối

tăm, cơ cực.Ruộng đất tập trung vào tay địa chủ, đội ngũ quan liêu bị tha hóa,

đời sống của đông đảo nhân dân ngày càng bị bần cùng. Tô thuế và lao dịch

không ngừng tăng thêm, đè nặng lên cuộc sống của ngƣời nông dân. Kinh tế

nông nghiệp không đƣợc chăm lo, đê điều và các công trình thủy lợi bị bỏ bê;

thiên tai, mất mùa xảy ra quanh năm.

Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, chiến tranh giữa các tập đoàn phong

kiến cầm quyền, gây ảnh hƣởng xấu đến sản xuất nông nghiệp. Trong hoàn

cảnh đó, những ngƣời sản xuất vẫn nỗ lực để duy trì cuộc sống, xây dựng quê

hƣơng, bản quán. Nông dân ở cả hai vùng vẫn tiếp nối truyền thống lao động

cần cùvà trong một mức độ, đã thúc đẩy nền kinh tế nông

nghiệpphát triển.Công cuộc khai hoang lập làng xóm mới, mở rộng thêm diện

tích đấtđai canh tác tiếp tục đƣợc thực hiện ở nhiều địa phƣơng trong cả nƣớc,

nhất là vùng đồng bằng, ven biển.

Ở Đàng ngoài, hàng chục vạn mẫu đất đai đƣợc khai khẩn đƣa vào sản

xuất.Ở vùng trung du thuộc các tỉnh Phú Thọ, Bắc Giang, công cuộc khẩn

hoang cũng đƣợc tiến hành mạnh. Nền kinh tế nông nghiệp ở Đàng ngoài

trong các thế kỷ XVI, XVII và XVIII vẫn có sự phát triển mạnh mẽ. Đây

là một biểu hiện rõ nét về sự ổn định của quan hệ sản xuất phong kiến và sự

phát triển của chế độ phong kiến ở Đàng ngoài bấy giờ.

9

Ở Đàng trong, ban đầu các chúa Nguyễn dựa vào những ngƣời Việt đã

sinh sống lâu đời ở đây lập thành xóm làng và tiếp tục công cuộc khẩn

hoang. Về sau, số ngƣời lƣu tán từ Thuận Quảng vào ngày càng nhiều, do đó,

chúa Nguyễn đã cho phép và khuyến khích các quan lại, địa chủ mộ ngƣời

phiêu tán đi khẩn hoang và làm chủ tất cả ruộng đất khai phá. Với cách này,

chúa Nguyễn đã tạo nên một tầng lớp đại địa chủ giàu có, là cơ sở xã hội

vững chắc cho chính quyền mới.Những ngƣời nông dân, nhất là lực

lƣợng nông dân lƣu tán đã tích cực và chủ động đẩy mạnh công cuộc khai phá

đất đai dƣới những hình thức và quy mô khác nhau (tự động khai phá, khai

hoang do các nhà giàu, có thế lực đứng ra chiêu tập, thuê mƣớn;.v.v.). Đối với

dân lƣu tán từ Đàng ngoài vào vùng Thuận Quảng, chúa Nguyễn khuyến

khích họ khẩn hoang lập làng xóm. Ruộng đất khai khẩn trở thành công điền

chia cho ngƣời khai phá. Đối với bộ phận ruộng đất do những ngƣời giàu có

tổ chức khai khẩnthì nhà nƣớc cho phép biến thành ruộng đất tƣ. Ngoài ra,

chúa Nguyễn còn sử dụng quân đội, tù binh và những ngƣời dân bị bắt trong

chiến tranh Trịnh - Nguyễn vào việc khẩn hoang.

Nhờ có chủ trƣơng đẩy mạnh công cuộc khai phá đất đai và nhờ sức lao

động cần cù, bền bỉ của những ngƣời dân lao động, trong đó có một bộ phận

đông đảo từ Đàng ngoài vào, Đàng trong đã trở thành một vùng đất trù

phú.Giai cấp địa chủ ở Đàng trong chủ yếu thực hiện phát canh thu tô, bóc lột

theo quan hệ địa chủ - tá điền.Do có đất đai màu mỡ, đƣợc khai khẩn nhiều,

nhất là ở phƣơng nam mà nền kinh tế nông nghiệp ở Đàng trong khá phát

triển.

Thủ công nghiệp phát triển thêm một bƣớc, buôn bán phồn vinh, những

thành thị hƣng khởi, những mầm mống của quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa

có điều kiện nảy sinh.Trong nhân dân, các nghề thủ công truyền thống tiếp tục

phát triển và trở nên phổ biến rộng khắp ở nhiều làng xã. Trong những thế kỷ

10

XVII, XVIII ngành kinh tế thủ công nƣớc ta phát triển rất mạnh mẽ. Xuất

hiện nhiều làng nghề thủ công trong cả nƣớc. Về làng nghề Bát Tràng dân

gian có câu ca:

“Trên trời có đám mây xanh

Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng

Ƣớc gì anh lấy đƣợc nàng

Để anh mua gạch Bát Tràng về xây

Xây dọc rồi lại xây ngang

Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân”

Về nghề dệt tơ lụa có làng nghề Vạn Phúc:

“Hỡi cô thắt lƣng bao xanh

Có về Vạn Phúc quê anh thì về

Vạn Phúc có một cây đề

Có ao tắm mát có nghề quay tơ”

Nghề làm gốm đƣợc cải tiến, nâng cao trình độ kỹ thuật và mỹ thuật, đã

xuất hiện các lò gốm lớn nổi tiếng nhƣ Chu Đậu, Hợp Lễ (Hải Dƣơng), Bát

Tràng nay thuộc Gia Lâm - Hà Nội. Nhiều làngnghề thủ công

chuyênnghiệpnổi tiếng ra đời nhƣ làng Mỹ Thiện(Quảng Ngãi), Phú

Trạch(Thừa Thiên) làm nồi đất nung, dệt chiếu, lụa hoa; làng Thổ Hà (Bắc

Ninh), Hƣơng Canh (Vĩnh Phúc) chuyên sản xuất chum vại, vò, chĩnh; làng

Yên Thái (Hà Nội) chuyên làm giấy;v.v. Hầu nhƣ các làng xã Đàng ngoài đều

làm nghề trồng bông dệt vải, chăn tằm dệt lụa. Tơ trở thành một mặt hàng

buôn bán quan trọng bậc nhất.

Thƣơng nghiệp cũng phát triển lên một bƣớc đáng kể về cả nội thƣơng

và ngoại thƣơng. Ở các làng hình thành nhiều chợ mới họp theo phiên, xuất

hiện một số chợ có quy mô cấp huyện hay phủ nên có tên gọi là chợ huyện,

chợ phủ. Sự trao đổi buôn bán với các thƣơng nhân nƣớc ngoài đƣợc tăng

11

cƣờng và mở rộng. Bên cạnh các thƣơng nhân Trung Quốc, Xiêm, Nhật Bản

còn có thuyền buôn của các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây. Sự phát triển của công

thƣơng nghiệp đã làm xuất hiện một số thành thị mới và làm hƣng thịnh, phồn

vinh các trung tâm kinh tế hàng hoá cũ. Ví nhƣ Kẻ Chợ (hay Kinh Kỳ) là

đất Thăng Long nổi tiếng với 36 phố phƣờng.Phố Hiến cũng là một thành thị

sầm uất của Đàng ngoài thời bấy giờ.Nhiều thƣơng nhân các nƣớc Trung

Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Anh, Pháp đều có mặt và buôn bán ở Phố Hiến.

Ở Đàng trong có Hội An là thành phố cảng lớn nhất, từ thế kỷ XVI đã có

thƣơng nhân nƣớc ngoài đến buôn bán. Ngoại thƣơng ở Đàng trong cũng có

bƣớc phát triển mạnh từ thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII. Đầu thế kỷ XVII,

các thuyền buôn Trung Quốc thƣờng đến buôn bán ở sông Thu Bồn. Hội An

từ một chợ địa phƣơng đã phát triển thành thƣơng cảng nổi tiếng Đàng trong.

Mặc dù có những bƣớc phát triển mạnh mẽ nhƣng nhìn chung quan hệ ngoại

thƣơng giữa Đàng trong với các nƣớc phƣơng Tây cũng giống nhƣ ở Đàng

ngoài, chỉ phát triển khá mạnh mẽ ở thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX, sau đó

thuyền buôn các nƣớc thƣa thớt dần và chấm dứt hẳn.

1.1.2. Điều kiện chính trị

Tình hình chính trị, xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX

có nhiều biến chuyển mạnh mẽ. Lúc này, loạn lạc khắp nơi nổ ra, các phe phái

đánh giết nhau để tranh giành quyền lực. Trong suốt hai thế kỷ XVII, XVIII

chiến tranh Nam - Bắc, chống ngoại xâm, diệt Trịnh, Nguyễn, phong trào

nông dân khởi nghĩa diễn ra liên miên. Do đó, đạo lý, luân thƣờng không còn

trong khuôn thƣớc. Nỗi lòng ngƣời dân đƣợc thể hiện qua câu ca:

“Sông Gianh nƣớc chảy đôi dòng

Đèn chong đôi ngọn biết trông ngọn nào?”

Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào

tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Sự khủng hoảng này đƣợc bộc lộ trên nhiều

12

phƣơng diện nhƣng nổi bật nhất là tính chất thối nát, suy thoái trong toàn bộ

cơ cấu của chế độ phong kiến.Nó còn đƣợc biểu hiện ở sức trỗi dậy mãnh liệt

với một khí thế chƣa từng có của phong trào nông dân. Ðỉnh cao lúc này là

cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi, đánh đổ các tập

đoàn phong kiến thống trị trong nƣớc, đánh tan hơn hai mƣơi vạn quân Thanh

xâm lƣợc, lập nên một vƣơng triều phong kiến mới với nhiều chính sách tiến

bộ. Nhƣng vua Quang Trung chỉ lên ngôi trong một thời gian ngắn. Sau khi

Quang Trung mất, nhà Tây Sơn lại trở nên lục đục. Nhân cơ hội ấy, Nguyễn

Ánh trở lại tấn công nhà Tây Sơn, lập nên triều đại nhà Nguyễn. Buổi đầu, để

củng cố địa vị thống trị của mình, nhà Nguyễn đã thực hiện đƣợc một số

chính sách tiến bộ nhƣng càng về sau nhà Nguyễn càng đi vào con đƣờng

phản động. Vì thế, các cuộc khởi nghĩa của nông dân vẫn liên tiếp xảy ra. Tuy

nhiên, khởi nghĩa nông dân trong hoàn cảnh của xã hội đƣơng thời không thể

đi đến thắng lợi hoàn toàn và triệt để. Nó mới chỉ là động lực thúc đẩy xã hội

phát triển chứ chƣa thể làm thay đổi chế độ xã hội.

Tình hình chính trị bất ổn đã đẩy nhân dân vào tình cảnh khốn cùng, giai

cấp thống trị ra sức củng cố quyền lực bằng đủ mọi thủ đoạn phi nhân tính,

những ngƣời tài đều không có đất dấn thân.Tuy vậy, con ngƣời trong giai

đoạn này, đặc biệt là giới trí thức không còn là những con ngƣời chỉ biết cúi

đầu cam chịu trƣớc sự áp bức của chế độ nữa. Sự tiếp xúc ngày càng mở

rộng với văn hóa phƣơng Tây một mặt làm nứt vỡ đạo đức thánh hiền, khiến

cuộc sống xã hội đảo lộn, nhƣng mặt khác cũng tạo ra một sự khởi động về

mặt ý thức. Đã đến lúc ngƣời ta nhìn đời, nhìn ngƣời, nhìn số phận mình

không còn nhƣ cũ. Họ biết thẩm định lại những giá trị vật chất và tinh thần,

rằng giá trị nào đem lại hạnh phúc cho con ngƣời, những gì gây đau khổ,

chết chóc. Điều đáng nói là họ nhận ra nhƣng lại chƣa thể tìm đƣợc một con

đƣờng nào để giải thoát cho bản thân và cộng đồng, sự bế tắc đó chính là bi

13

kịch của giới trí thức thời kỳ này.

Nhìn một cách tổng quát, giai đoạn lịch sử của dân tộc Việt Nam từ thế

kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX đã diễn ra nhiều bƣớc chuyển mang ý nghĩa to

lớn. Đây là thời kì sụp đổ, tan rã toàn diện của kỷ cƣơng, của lễ giáo phong

kiến, của bộ máy quan liêu và nói chung là của toàn bộ cơ cấu xã hội.Đồng

thời, đây cũng là thời kỳ bão táp của các phong trào nông dân khởi

nghĩa.Phong trào đấu tranh rầm rộ của quần chúng liên tiếp nổ ra làm bùng

dậy nhiều khát vọng, làm quật cƣờng thêm tinh thần dân tộc, tinh thần đấu

tranh chống áp bức, bóc lột, bảo vệ quyền sống của con ngƣời, cổ vũ cho sự

vƣơn dậy của tài năng, của trí tuệ. Chính tiền đề đó đã tạo điều kiện cho sự

xuất hiện của các trí thức gia với hàng loạt các tác phẩm mang ý nghĩa thời

đại, đặc biệt nổi lên là những vấn đề về con ngƣời.

1.1.3. Tiền đề văn hóa- tư tưởng

1.1.3.1. Sự ảnh hƣởng của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo đến sự hình

thành quan niệm triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI

đến đầu thế kỷ XIX

Lật lại những trang sử của dân tộc, chúng ta dễ dàng nhận thấy văn hóa

Việt Nam chịu nhiều ảnh hƣởng của văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ. Trong đó,

Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo với tất cả những gì ƣu tú nhất của nó đã đƣợc

nhân dân ta tiếp nhận và sáng tạo, trở thành một phần của bản sắc văn hóa Đại

Việt. Bởi vậy, tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong văn học nói chung,trong

thơ ca nói riêng cũng mang đậm dấu ấn của tam giáo.

 Ảnh hƣởng của Nho giáo

Hiện diện trong nhiều thế kỷ nhƣ một mô hình tổ chức và quản lý xã hội

mang tính chất chính thống, một phƣơng thức hoạt động và pháttriểnvăn hóa

đóng vai trò chủ đạo,Nho giáo từ lúc thâm nhập vào Việt Nam cho đến lúc

bấy giờ có ảnh hƣởng sâu sắc tới các tƣ tƣởng chính trị, đạo đức và nhân sinh.

14

Ngay từ khi ra đời, nó đã có điểm khác căn bản với tƣ tƣởng của các tôn giáo,

đặc biệt là về vấn đề con ngƣời, quan tâm đến con ngƣời, đến cuộc đời và tìm

thú vui trong cuộc sống.

Nho giáo quan niệm“thiên nhân hợp nhất”và cho rằng con ngƣời là một

yếu tố của tam tài(thiên - địa - nhân). Con ngƣời đó thông với trời, hợp với

trời, chứ không hợp với xã hội, ý thức xã hội kém phát triển.Về luân lý, đạo

hiếu, luân thƣờng đƣợc đặc biệt coi trọng.Giáo lý của Nho giáo có nhiều

phƣơng châm xử thế giúp con ngƣời giữ đƣợc tâm hồn cao thƣợng, nhân cách

trong sáng.Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm ngƣời, hƣớng vào rèn luyện

đạo đức, đề cao giáo dục và cải tạo con ngƣời.Song, đạo ở đây là cái đạo của

xã hội phong kiến, là hệ tƣ tƣởng phục vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến.

Mô hình xã hội là mô hình gia đình. Quan đối với dân là cha mẹ, còn vua là

con trời. Các quan hệ xã hội đƣợc coi trọng, bản thân mỗi cá nhân nói chung

chƣa đƣợc phát triển.Con ngƣời Nho giáochỉ coi trọng lý tính siêu nghiệm mà

coi nhẹ tri thức, trọng trực giác mà coi nhẹ lý trí. Họ thích tự do ý chí, một

thứtự do nội tại, vứt bỏ nhu cầu ngoại tại càng nhiều thì lƣợng tự do nội tại

càng lớn. Vì không có ý niệm tự do ngoại tại nhƣ tự do ngôn luận, xuất bản,

biểu tình, tín ngƣỡng;.v.v. cho nên con ngƣời này không có khái niệm về

quyền lợi, về đấu tranh, chỉ thích nghĩa vụ, thích nhƣờng nhịn, thích tỏ ra

thanh cao.Nho giáo đặt rõ vấn đề ngƣời quân tử, tức là ngƣời lãnh đạo chính

trị phải có đạo đức cao cả. Trong thực tế, nguyên tắc đó là điểm tựa, là chỗ

dựa cho những sĩ phu đấu tranh. Điều đó đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần

trách nhiệm cao cả với xã hội, là yếu tố tạo nên truyền thống khí tiết của kẻ sĩ.

Từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, Nho giáo vẫn đƣợc nhà nƣớc phong

kiến bảo vệ, duy trì để làm nền tảng cho các tổ chức chính trị, kinh tế của chính

quyền, làm kỷ cƣơng củaxã hội. Tuy vậy, Nho giáo thời kỳ này đã bƣớc vào

suy đốn dần, không còn đƣợc độc tôn nhƣ trƣớc. Điều đó đƣợc biểu hiện ở lĩnh

15

vực giáo dục, thi cử. Các chính quyền phong kiến vẫn duy trì và mở rộng giáo

dục, thi cử làm phƣơng tiện đào tạo quan lại, đáp ứng nhu cầu tổ chức bộ máy

ngày một đông đảo, nhƣng không còn đƣợc nghiêm túc nhƣ trƣớc. Những

nguyên tắc đạo đức và lễ giáo phong kiến chỉ còn là hình thức.

Sống trong thời đại Nho giáo bị sụp đổ nhƣ vậy, một tầng lớp nhà Nho

chân chính bị khủng hoảng về mặt lý tƣởng. Họ không tìm ra con đƣờng đi và

hoang mang trƣớc thời cuộc. Họ mất hết niềm tin vào chính quyền, vào minh

chúa. Số đông đã lui về ở ẩn để giữ gìn khí tiết, nhân cách của mình. Trong

hoàn cảnh đó, một khuynh hƣớng tƣ tƣởng mới đã xuất hiện. Đó là những tƣ

tƣởng bảo vệ, khẳng định quyền sống và giá trị, phẩm chất của con

ngƣời.Khuynh hƣớng này lên án, tố cáo hiện thực cuộc sống đƣơng thời đã

chà đạp con ngƣời, đấu tranh đòi cuộc sống cơm áo, giải phóng tình cảm, bản

năng. Nócòn ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con ngƣời, đồng tình, xót

thƣơng, thông cảm với các nạn nhân của xã hội.

Tóm lại, Nho giáo đã đem lại một bƣớc tiến khá căn bản trong lĩnh vực

văn hoá tinh thần.Trƣớc hết, nó làm cho nền giáo dục phát triển hết sức mạnh

mẽ. Nền giáo dục ấy cùng với chế độ thi cử đã đào tạo ra một đội ngũ trí thức

đông đảo cho dân tộc Việt Nam nhƣ: Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn

Du;.v.v. Bên cạnh những ảnh hƣởng tích cực, Nho giáo cũng đem lại không ít

tác động tiêu cực.Nó đã không giải đáp đƣợc vấn đề số phận và yêu cầu giải

phóng con ngƣời, làm cho chủ nghĩa giáo điều và bệnh khuôn sáo phát triển

mạnh trong lĩnh vực tƣ tƣởng và trong giáo dục khoa học. Cho đến nay,trong

một chừng mực nhất định, những tƣ tƣởng Nho giáo vẫn là nhân tố kìm hãm

sự phát triển con ngƣời, nhất là tại các vùng nông thôn Việt Nam.Không thể

phủ nhận đƣợc rằng, Nho giáo đã tham gia một phần đáng kểvào sự hình thành

văn hoá dân tộc, tạo nên diện mạo tinh thần dân tộc.

 Ảnh hƣởng của Phật giáo

Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ rất lâu và tồn tại, phát triển cùng với

16

dân tộc ta cho đến tận hôm nay. Trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội,đặc biệt là

xét trên khía cạnh tƣ tƣởng, Đạo Phật đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần hình

thành một hệ thống quan niệm nhân sinh cho con ngƣời. Các nhà tƣ tƣởng Việt

Nam đã tiếp cận vấn đề nhân sinh quan từ giác độ suy tƣ về con ngƣời và đời

ngƣời ở tầm chiều sâu triết lý. Phật giáo là ngôn ngữ để biểu đạt niềm ƣớc

vọng đƣợc cứu khổ cứu nạn. Đối với tầng lớp quý tộc, đó là con đƣờng để đạt

tới sự thanh thản cho tâm hồn trƣớc mọi biến động đột ngột.

Ngƣời Việt Nam tiếp xúc Nho, Phật, Lão từ đầu Công nguyên, nhƣng

Nho giáo là công cụ thống trị của ngoại bang. Đồng thời, từ đời Hán, Nho gia

kết hợp vớiPháp gia nên khá tàn bạo. Phật giáo, ngƣợc lại, là công cụ chống

lại sát sinh, bạo tàn, đề xƣớng từ bi hỉ xả, cứu khổ cứu nạn, vạch rõ quy luật

“ác giả ác báo”, đòi hỏi chăm lo thiện căn. Đó là con đƣờng giải thoát cho

những ngƣời đang bị chìm đắm trong đau khổ.

Phật giáo coi cuộc đời là bể khổ. Con ngƣời vì vô minh nên cứ chấp

trƣớc về cái “ngã”, tham muốn nên tạo ra duyên nghiệp, không thoát khỏi

vòng luẩn quẩn luân hồi.“Ngã” là sinh mệnh, dựa vào thực thể sinh vật, biểu

hiện thành đời sống sinh vật (thân).Có thân thì có dục, vô cầu, vô dục là con

đƣờng đạt đến vô ngã, cũng tức là vô khổ. Coi vạn pháp đều không thì thế

giới trở nên trong suốt, thanh tĩnh, không có khác biệt giữa tâm, vật, đạt tới

chỗ cao siêu của tồn tại. Đó cũng là con đƣờng tiêu diệt cái tôi vật chất để

đƣợc giải phóng cái tôi tinh thần, là giải quyết vấn đề của bản thân bằng con

đƣờng hƣớng nội, tự cải tạo thế giới ý thức của chính mình để sống với một

thế giới chủ quan mới khác về chất so với cái chủ quan tự nhiên.Phật giáo đề

xƣớng chủ trƣơng giải thoát khỏi vô minh, thoát khỏi duyên nghiệp để đƣợc

đến cõi Niết Bàn. Để đạt đƣợc mục đích giải thoát, con ngƣời cần phải trải

qua một quá trình tu hành lâu dài, vừa hƣớng nội tu tâm dƣỡng tính, vừa

hƣớng ngoại bố thí cầu thiện nghiệp. Tƣ tƣởng hay đạo lý căn bản của Phật

giáo là giáo lý từ bi. Tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh đã ảnh hƣởng và thấm

17

nhuần sâu sắc trong tâm hồn của ngƣời Việt Nam.

Ngoài đạo lý từ bi, ngƣời Việt còn chịu ảnh hƣởng sâu sắc một đạo lý

khác của Phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sƣ trƣờng, ân quốc gia và

ân chúng sanh. Đạo lý này đƣợc xây dựng theo một trình tự phù hợp với bƣớc

phát triển tâm lý tình cảm của dân tộc Việt Nam. Tình thƣơng ở mọi ngƣời

bắt đầu từ thân đến xa, từ tình thƣơng cha mẹ, họ hàng lan dần đến các mối

quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào, quê hƣơng đất nƣớc và mở rộng đến

cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này. Đặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta thấy ân

cha mẹ là nổi bật và ảnh hƣởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý của

ngƣời Việt.Nhìn chung, đạo lý hiếu ân có cùng một đối tƣợng thực hiện là

nhắm vào ngƣời thân, cha mẹ, đất nƣớc, nhân dân, chúng sanh, vũ trụ. Đó là

môi trƣờng sống của chúng sanh gồm cả mặt tâm linh.

Phật giáo quan niệm cuộc đời là vô thƣờng kể cả cái tâm của con ngƣời.

Vì thế, theo thời gian cùng với những biến động của lịch sử, con ngƣời biểu

hiện trong thơ ca cũng có những thay đổi. Đó là sự vận động và phát triển từ

vẻ đẹp của con ngƣời hành động sang con ngƣời tƣ tƣởng, từ con ngƣời cộng

đồng sang con ngƣời tự ý thức về thân phận cá nhân của mình và những

ngƣời xung quanh. Tuy nhiên, dù vẻ đẹp của con ngƣời trong tiến trình thơ ca

có những thay đổi, song trên cái nhìn tổng quan, đó chỉ là những biểu hiện

khác nhau của một nhân cách cố định - nhân cách con ngƣời Việt Nam.

Những cơ sở tƣ tƣởng triết học trên đã giúp cho Phật giáo hình thành

đƣợc một bản sắc đặc thù riêng biệt tại Việt Nam, góp phần làm phong phú và

đa dạng nền văn hóa tinh thần của dân tộc.

 Ảnh hƣởng của Đạo giáo

Suốt ngàn năm Bắc thuộc, đất nƣớc ta không thể không tránh khỏi ảnh

hƣởng của Đạo giáo. Đạo giáo ở Việt Nam không có tính hệ thống thuần nhất

với giới tăng lữ, đạo sĩ, đạo trƣởng chuyên luyện đan, làm bùa chú và những

danh gia nghiên cứu học thuật thánh điển nhƣ ở Trung Quốc. Tuy vậy, nó vẫn

18

luôn sinh động trong sự thờ phụng của dân gian.

Đạo giáo không coi đời là bể khổ mà cũng không coi con ngƣời là ngu

xuẩn. Họ quan niệm có một thế giới tốt đẹp hơn thế giới trƣớc mắt. Và trong

con ngƣời tiềm ẩn khả năng tìm đến đƣợc thế giới đó ngay trong hiện thế,

không thoát li cuộc đời mà cũng không phải chờ đến sau khi chết. Hƣớng tu

luyện của Đạo giáo là rèn luyện, phát huy những khả năng đó của con ngƣời

để đến tiên cảnh. Cách tu dƣỡng là tập trung “tinh”, “khí”, “thần” làm cho

nó không hƣ hao mà tăng trƣởng, tạo thành sức mạnh có thể sai khiến đƣợc

thần linh, có thể làm cho xƣơng thịt không già, sống hàng trăm tuổi vẫn nhƣ

trẻ thơ. Ƣu thế của Đạo giáo là hiểu biết con ngƣời tự nhiên, thân thể và

những khả năng vật chất và tinh thần của nó dựa vào sự tích lũy của y học

và võ thuật.

Trong triết học Lão - Trang, với các quan niệm “tề vạn vật”, “đẳng thị

phi”, “vật ngã đồng nhất”, Trang Tử kịch liệt phản đối xem con ngƣời là

trung tâm của vũ trụ. Ông cho rằng con ngƣời là một giới hạn trong không

gian, thời gian, chỉ có quên tôi, quên vật (vong ngã, vong kỷ, vong vật), đạt tới

cõi “vật ngã lƣỡng vong”, “vô kim cổ” thì con ngƣời mới có thể hòa đồng với

vũ trụ, sống một cuộc đời vô tận, vô cùng. Điều này không có nghĩa là phủ

định con ngƣời mà lại là một sự khẳng định. Trang Tử khẳng định con ngƣời

tự nhiên, tự do, thoát khỏi luân lý và chính trị kiểu Nho giáo đầy trói buộc và

nặng về công danh. Theo ông, vô ngã là không chấp cái “Ta” và cái “Của ta”,

tức không còn phân biệt cái này, cái kia thuộc về ta; không còn lo lợi ích cho

riêng mình, khƣ khƣ bám víu vào lòng ham muốn của mình. Vị tha là vì

chúng sinh, vì mọi ngƣời. Một phần biểu hiện cụ thể là những con ngƣời vừa

có tấm lòng khoan dung độ lƣợng; vừa yêu thiên nhiên, yêu quê hƣơng đất

nƣớc; đem hết năng lực, trí tuệ của mình để phục vụ nhân dân, đất nƣớc.

Những tƣ tƣởng này của Đạo giáo đã đƣợc con ngƣời Việt Nam tiếp

19

nhận một cách sâu sắc và sáng tạo.Cuộc đời của một nho sĩ thƣờng chia làm

ba giai đoạn: hành nho, hiển nho, ẩn nho. Ngoài thời kỳ làm quan lập danh

còn lại họ lui về ẩn dật, lấy thú vui là cầm kỳ thi tửu. Triết lý sống của họ là

an bần lạc đạo, vui thỏa trong cảnh tiêu dao, thanh nhàn, rời xa công danh phú

quý.Đó là những con ngƣời tự chọn thú vui nhàn tản, không ƣa hành động,

không màng danh lợi. Nhƣng cũng có những nhà trí thức buộc phải lựa chọn

con đƣờng ẩn dật vì bất mãn và bất lực. Khi không thể thích ứng với cục diện

xã hội, họ phản ứng lại với trật tự xã hội ấy bằng những hành vi khác nhau:

hoặc tự đặt mình ra khỏi vòng xã hội ấy hoặc sống nhƣ những “ẩn quân

tử”.Họ đã tìm thấy ở học thuyết Lão Trang niềm an ủi cho tâm trạng bất đắc

chí trƣớc thời cuộc của mình. Không hành thì tàng, họ rời bỏ chính trƣờng và

thế tục để giữ thân cao quý, di dƣỡng tính tình, giữ trọn khí tiết chốn lâm

tuyền điền viên. Tƣ tƣởng phủ nhận danh lợi và lối sống ẩn dật thanh nhàn,

gần gũi với thiên nhiên đã trở thành nguồn cảm hứng ngợi ca trong thơ của

các nhà trí thức sau khi lui triều.

Trên phƣơng diện triết học, tƣ tƣởng Lão Trang đã tạo cảm hứng tiêu

dao cho giới trí thức Việt Nam.Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm là những

nhà nho tiêu biểu cho tầng lớp trí thức lựa chọn con đƣờng ẩn dật sau những

năm tháng tận tâm cống hiến tài lực cho triều đình phong kiến. “Quốc âm thi

tập” và “Bạch Vân quốc ngữ thi” đã bày tỏ tƣ tƣởng tự do, khát vọng nhàn tản

và lối sống thanh sạch, rũ bỏ công danh phú quý trong văn học Việt Nam.Họ

vẫn luôn mong ƣớc đƣợc sống thong thả tiêu dao, kết bạn với thiên nhiên,

xem đó là hạnh phúc để nghỉ ngơi thân xác, thanh thản tâm hồn.Phùng Khắc

Khoan cũng từng là nho sĩ quan liêu nhƣng rồi cũng lựa chọn con đƣờng ẩn

dật giữa thời cuộc hỗn loạn. Trong những ngày ẩn chí đợi thời, những khi bị

biếm trích, ông đã say sƣa với thú lâm tuyền trong tâm trạng của một ẩn sĩ.

Đặc biệt, phải kể tới cái tôi phóng túng, ngất ngƣởng trên thi đàn văn học

20

trung đại Việt Nam: Nguyễn Công Trứ. Ông là nhà thơ lớn, hiện thân của con

ngƣời tự do trong cõi tục, có đƣợc phong thái tiêu dao nội tại của kẻđứng trên

tình thế, đứng ngoài trần ai, không vƣớng tục. Ông nhàn ngay cả khi đang làm

quan, ung dung tự tại ngay cả khi bị biếm trích. Cái ngông của Nguyễn Công

Trứ kế tục cái ngông của Trang Tử.

Tiếp nhận học thuyết Lão Trang ở những khía cạnh tích cực nhất của nó,

các tác gia Việt Nam tiêu biểu trong thời kỳ trung đại nói chung đã tạo ra một

truyền thống hƣởng nhàn với cuộc sống thanh bạch nơi làng quê. Đồng thời,

đối với nền văn học dân tộc, họ đã tạo ra một không gian thanh thoát trong

một xã hội kỷ cƣơng chặt chẽ, xô bồ và nhiều ngang trái.

Ở Việt Nam từ thế kỷ XVI, do nhiều nguyên nhân kinh tế, chính trị tác

động mạnh vào xã hội, sự tự ý thức về cá nhân lớn dần lên, đòi quyền sống và

quyền tựthể hiện mình. Điều đó làm cơ sở cho hệ tƣ tƣởng Việt Nam phát

triển lên một bƣớc mới. Biểu hiện cụ thể đó là sự phê phán gắt gao những thói

xấu xa, sự xa hoa, phung phí tiền của, mồ hôi của nhân dân hoặc phê phán

thẳng thừng, lên án quyết liệt từ vua quan, không trừ thần thánh, bộc lộ hết

nỗi khổ của nhân dân. Đặc biệt, từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, tình

hình chính trị xã hội có nhiều biến động, kéo theo là sự đòi hỏi gắt gao, bức

thiết về quyền sống thì con ngƣời “vô ngã” dần chuyển sang con ngƣời “hữu

ngã”, là con ngƣời xƣơng thịt trong cuộc đời.

Nói chung, triết học con ngƣời phải giải quyết ba vấn đề lớn: ngƣời đối

với vật, ngƣời đối với ngƣời khác và ngƣời đối với bản thân. Nho giáo chủ

yếu quan tâm quan hệ giữa ngƣời với ngƣời khác, do đó cái tôi của nó thể

hiện trong quan hệ đó. Phật giáo nghiên cứu thái độ con ngƣời đối với chính

mình, còn Đạo giáo đứng giữa hai vấn đề thứ hai và thứ ba. Tính chất bổ sung

này có thể đƣợc giải thích khác hơn một chút: Đạo Nho nói tới đạo đức, chính

trị, nghĩa vụ. Đạo Lão - Trang chỉ đề cao tính chất tự do, tự tại của con ngƣời.

21

Đạo Phật chỉ chú ý con đƣờng giải thoát khỏi vòng luân hồi khổ ải. Do vậy,

khi gặp thời thì dựa vào Nho, khi thất thế thì theo Đạo, lúc cùng quẫn thì theo

Phật. Và trong mỗi quan hệ bộc lộ một khía cạnh củacon ngƣời.

1.1.3.2.Ảnh hƣởng của tín ngƣỡng dân gian Việt Nam

Tín ngƣỡng có thể hiểu là niềm tin, sự ngƣỡng mộ đối với một đối tƣợng

siêu nhiên nào đó có ảnh hƣởng, chi phối đến đời sống sinh hoạt của con

ngƣời.Nhƣ vậy, tín ngƣỡng là một sản phẩm văn hoá do con ngƣời quan hệ

với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mà hình thành;là niềm tin về những

điều linh thiêng, những sức mạnh huyền bí, vĩ đại mà con ngƣời chỉ cảm nhận

đƣợc mà khó có thể nhận thức đƣợc.

Tín ngƣỡng dân gian Việt Nam chủ yếu dựa trên lòng biết ơn và ngƣỡng

mộ của các thế hệ sau đối với tiền thần, tiền nhân. Mỗi loại tín ngƣỡng này

đều có nguồn gốc sâu xa từ quan hệ giữa con ngƣời với các đối tƣợng siêu

nhiên. Chẳng hạn, tại sao con ngƣời lại sùng bái tự nhiên? Là bởi trong sinh

hoạt và lao động, hằng ngày hằng giờ tự nhiên gắn bó mật thiết và chi phối sự

thành bại, tốt xấu, hay dở trong hoạt động của con ngƣời. Nó làm nảy sinh sự

sợ hãi hay e ngại, tâm lí ngƣỡng mộ hay sùng bái, cũng từ đó con ngƣời nhìn

nhận tự nhiên nhƣ những đấng thần thánh linh thiêng. Tự nhiên thành biểu

tƣợng trong tín ngƣỡng thờ cúng, trong văn hóa mỗi dân tộc, trong văn học và

nghệ thuật nhiều thời đại. Đó cũng là con đƣờng chung để các tín ngƣỡng

thẩm thấu vào văn hóa hay sinh hoạt cộng đồng nhiều dân tộc trên thế giới mà

không phải chỉ ở Việt Nam.

Sự thể hiện tín ngƣỡng đó trong đời sống sinh hoạt văn học dân gian có

mối liên quan với nhau và đƣợc thể hiện ra ở nhiều khía cạnh mang tính quan

niệm khá rõ.Trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt Nam có sự trọng mẫu,

đề cao, suy tôn nữ tính và ngƣời mẹ. Tín ngƣỡng đó bắt nguồn từ chế độ

nguyên thuỷ với những thị tộc mà ngƣời đứng đầu là phụ nữ, ngƣời chia thức

22

ăn, ngƣời sinh sản và nuôi lớn cộng đồng trong cả nghĩa đen và nghĩa bóng

cũng đều là nữ. Từ tín ngƣỡng đó, các thần trên trời đƣợc sáng tạo dƣới ánh

sáng của trí tƣởng tƣợng và niềm tin ngây thơ vào siêu nhiên bất diệt cũng

phần lớn là nữ. Từ đó mà hình thành hệ thống tín ngƣỡng thờ Mẫu, ngƣời

Việt Nam gọi các nữ thần tự nhiên là Mẫu - mẹ với niềm tôn kính và tin

tƣởng rằng các Mẫu sẽ che chở cho những đứa con mình khỏi mọi tai hoạ do

thiên nhiên gây ra. Hệ thống tín ngƣỡng thờ nữ thần vì vậy càng ngày càng

trở nên phong phú.

Tín ngƣỡng chính là cơ sở, là khí trời, hơi thở của văn học nói chung.

Phải có tín ngƣỡng với những lễhội đã làm sống lại, thể hiện rõ những điều

truyền tụng trong văn học, ngƣợc lại, văn học chính là nơi lƣu giữ lâu dài,

làm cho tín ngƣỡng đƣợc lí giải.Mối quan hệ đó giữa tín ngƣỡng và thơ ca

song song tồn tại, xoắn bện chặt chẽ, thẩm thấu qua nhau trong sinh hoạt cộng

đồng ngƣời Việt Nam nhƣ một chỉnh thể không thể tách rời.

Trong thời đại xây dựng quốc gia Đại Việt, sự suy sụp của nhà nƣớc

trung ƣơng tập quyền, đất nƣớc bị chia cắt, chiến tranh phong kiến, thiên

tai;.v.v. đã ảnh hƣởng lớn đến tâm linh của ngƣời dân ở các xóm làng. Ngƣời

ta không chỉ đến chùa cầu Phật, vào nhà thờ xin Chúa mà còn phát triển các

tục lệ tín ngƣỡng cổ truyền. Sự xuất hiện của con ngƣời sử thi trong thơ tiếp

nối những con ngƣời thần thoại và thần linh đã trở thành những khuôn mẫu

của hình tƣợng ngƣời yêu nƣớc có sức vang dội lâu dài.Những con ngƣời này

không chỉ mang đầy chiến công mà còn mang lƣơng tâm của dân tộc. Họ biết

hận, biết thẹn, biết day dứt khi nghĩa vụ chƣa thành. Đây là tƣ tƣởng, là ý thức

dân tộc con ngƣời Việt Nam. Bên cạnh sự thỏa mãn một nhu cầu của tâm

linh, bên cạnh một số yếu tố tích cực ít nhiều có ý nghĩa cộng đồng, sự phát

triển của tín ngƣỡng dân gian cổ truyền đã thể hiện sự khủng hoảng tinh thần

của nhân dân Đại Việt đƣơng thời. Sự khủng hoảng này tăng lên ở những thập

23

niên của chiến tranh nông dân vào nửa cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX.

Tóm lại, từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, đời sống văn hoá, tƣ tƣởng

ở nƣớc ta có nhiều chuyển biến. Nho giáo tuy vẫn giữ vị trí thống trị trong xã

hội nhƣng không còn độc tôn, Phật giáo và Đạo giáo có phần đƣợc phục hồi.

Chữ Quốc ngữ xuất hiện, các tín ngƣỡng dân gian, văn hoá, văn học, nghệ

thuật dân gian phát triển mạnh. Trên cơ sở đó, các quan niệm về con ngƣời ở

Việt Nam là sự kết tinh của những truyền thống đạo đức dân tộc cùng với

những nhân tố ngoại lai phù hợp với thuần phong mỹ tục của nhân dân. Và

đây trở thành nền tảng, chuẩn mực để giáo dục con cái ở gia đình, cũng nhƣ

giáo dục cho thanh niên trong xã hội.

1.2. Đặc điểm thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX

1.2.1. Một số quan niệm về “thơ” và “thơ ca”

Thơ là một dạng thức cổ đƣợc lƣu truyền xuyên qua nhiều thời đại và tác

động lâu dài lên thời gian. Mặc dù đã có từ lâu đời, đã trải qua nhiều thăng

trầm và thay đổi từng bƣớc theo đà tiến hóa của nhân loại nhƣng con ngƣời

vẫn chƣa tìm đƣợc một định nghĩa cụ thể cho “thơ”. Tùy vào những cách tiếp

cận khác nhau mà đã có nhiều quan niệm khác nhau về thơ.

1.2.1.1. Thơ theo quan niệm phƣơng Tây

Ở phƣơng Tây, các quan niệm về thơ thƣờng nghiêng về lý trí nhiều

hơn.Từ thế kỉ XVII, Boileau - nhà thơ, nhà phê bình văn học Pháp -đã nói đến

cái “chí” mà theo ông, đó là “thiên hƣớng” dƣới sự hƣớng dẫn của “lý

trí”: “Nhà thơ trƣớc hết phải thiên hƣớng thơ ca, cần đƣợc lý trí hƣớng dẫn...

thơ phải sáng sủa, rõ ràng, nghiêm ngặt tuân theo các quy tắc nhịp, vần,

quãng ngắt, nghỉ, bố cục”[27, tr.192]. Ông nhấn mạnh yếu tố lý trí trong

thơ:“Lý trí tạo nên cái đẹp và giá trị tác phẩm” [27, tr.193].

Trong thơ ca lãng mạn Pháp thế kỷ XIX, Lamartine dù có nhấn mạnh

yếu tố “lời ca” nhƣng cũng là lời ca của lý trí, của triết học, tôn giáo, chính

24

trị: “Thơ ca sẽ là lý trí biến thành lời ca, đó là định mệnh lâu dài của

nó.Nó phải có tính triết học, tôn giáo, chính trị, xã hội nhƣ những thời đại

mà nhân loại sắp trải qua” [27, tr.102].Đồng thời, ông còn bổ sung thêm

cái phần tâm hồn, mà theo ông là yếu tố quyết định của thơ: “Thơ ca phải

thầm kín, có cá tính, suy tƣ và nghiêm trang” [27, tr.103], “là sự hiện thân

cho những gì thầm kín nhất của con tim và thiêng liêng nhất của tâm hồn

con ngƣời và cho những hình ảnh tƣơi đẹp nhất, âm thanh huyền diệu nhất

trong thiên nhiên” [27, tr.7 - 8].

Stephan Malácmê thì quan niệm thơ có vẻ lý tính hơn và triết học hơn:

thơ là “một sự tái tạo lý tính của vũ trụ... là sự biểu hiện ý nghĩa bí ẩn của

sinh tồn, nhờ ngôn ngữ của con ngƣời đƣợc cô đọng vào tiết tấu thiết yếu của

nó” [27, tr. 327].

Vigny thì cho rằng: “mọi thơ ca đều khẳng định một chân lý, còn mọi

xã hội đều dựa trên việc thừa nhận một điều giả dối: xung đột nhất thiết

phải xảy ra giữa việc sáng tạo thơ ca và sự tồn tại của xã hội. Chỉ có một

cách giải quyết, nhà thơ phải bảo vệ lấy tƣ tƣởng của mình chống lại đám

đông” [27, tr.109].

1.2.1.2. Thơ theo quan niệm phƣơng Đông

Thời trung đại, ở phƣơng Đông thƣờng có quan niệm: văn dĩ tải đạo,thi

dĩ ngôn chí. Tức là văn chở đạo, thơ nói chí, nhƣng thực ra, chí ở đây cũng

không đơn thuần là chí hƣớng của con ngƣời mà chứa đựng nhiều nội hàm

khác nhau. Có thể đó là chí lập thân của ngƣời quân tử, cũng có thể chứa

đựng ở đó lòng yêu nƣớc, thƣơng dân;.v.v. thậm chí có những giai đoạn các

nhà Nho còn xem chí chính là việc “xuất thế” để giữ lòng mình trong sạch,

không a dua theo triều đình làm phƣơng hại đến nhân dân và phẩm chất kẻ sĩ

của mình. Đây là quan niệm của Nho học đời Tống với nghĩa văn chƣơng

phải chuyên chở đạo lý, mà đạo ởđây làđạo của Thánh hiền. Do vậy, vănchở

25

đạo ở đây là chuyên chở cái đạo yêu nƣớc thƣơng dân.

1.2.1.3. Thơ theo quan niệm truyền thống trong văn học Việt Nam

thờikỳtrung đại

Ở Việt Nam, thơ có thể bắt nguồn từ tục ngữ, ca dao mà ra. Các nhà thơ

cũng đã đƣa ra nhiều quan niệm khác nhau:

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói: “Ôi, nói tâm là nói về cái chỗ mà chí đạt tới

vậy, mà thơ lại là để nói chí. Có kẻ chí để ở đạo đức, có kẻ chí để ở công

danh, có kẻ chí để ở sựnhàn dật” [43, tr.36].

Phùng Khắc Khoan đã cắt nghĩa cái chí rất rõ để tìm ra nguồn cội của

thơ:“Cái gọi là thơ thì không phải láu lƣỡi trong tiếng sáo, chơi chữ dƣới

ngòi bút thôi đâu, mà là để ngâm vịnh tính tình, cảm động mà phát ra chí

nữa. Thế cho nên nếu chí mà ở đạo đức thì tất là phát ra lời lẽ hồn hậu, chí

mà ở sự nghiệp thì tất là nhả ra khí phách hào hùng, chí ở rừng suối gò hang

thì thích giọng thơ liêu tịch, chí ở gió mây trăng tuyết thì thích vẻ thơ thanh

cao, chí ở nỗi uất ức thì làm ra lời thơ ƣu tƣ, chí ở niềm cảm thƣơng thì làm

ra điệu thơ ai oán” [43, tr.41].

Nguyễn Cƣ Trinh lại cụ thể hóa quan niệm thơ cả về nội dung và hình

thức. Về nội dung đó là “cái gốc trung hậu” , về hình thức là “phải giản

dị”: “Để trong lòng là chí, ngụ ra ý là thơ… Ngƣời làm thơ không ngoài lấy

trung hậu làm gốc, ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải giản dị” [43, tr.49].

Ngô Thì Nhậm thì khẳng định về bản chất của thơ: “Thơ mà quá cầu kỳ

thì sa vào giả dối, quá trau chuốt thì sa vào xảo trá, hoang lƣơng hiu hắt thì

phần nhiều sa vào buồn bã. Chỉ có thuần hậu, giản dị, thẳng thắng, không giả

dối, không xảo trá, không buồn bã mà rốt cuộc chú trọng đến sự ngăn chặn

điều xấu, bảo tồn điều hay, mới là những đặc sắc chính của thơ”. [43, tr.77].

Phan Huy Ích cũng quan niệm: “Thơ để nói chí hƣớng” nhƣng phải là

của “bậc quân tử” làm ra để lƣu lại đƣợc thành “kho báu” cho đời sau: “Bậc

26

sĩ quân tử lúc nhàn rỗi miêu tả tâm tình, ghi lại hành trạng, thƣờng thƣờng

biểu hiện ra thiên chƣơng truyền lại cho ngƣời sau, dùng làm niên phả để lại

lâu dài. Đó thực là kho báu trong nhà đâu chỉ để phô bày ý tứ văn vẻ, phẩm

bình phong vật mà thôi” [43, tr.7].

Lê Hữu Trác chú tâm về ý thơ hơn là chú trọng lời: “Thơ cốt ở ý, ý có

sâu xa thơ mới hay. Không phải bất cứ điều gì cũng phải nói ra bằng thơ.

Nhƣ thế mới là thơ có giá trị” [43, tr.36].

Lê Quý Đôn phát biểu về thơ một cách vừa khái quát lại vừa rất cụ

thể: “làm thơ có ba điểm chính: một là tình, hai là cảnh, ba là sự. Trong lòng

có cảm xúc thực sự, rung cảm nên lời. Thực tế bên ngoài gây thành ý, rồi

dùng điển tích để nói việc ngày nay, chép việc xƣa hay thuật chuyện hiện tại,

đều tự nhiên có tinh thần (…) Trong ba điều ấy, lại lấy ôn nhu, đôn hậu làm

gốc, còn nhƣ thể loại, âm tiết, cách điệu, đều là bàn thêm thôi. Tình là ngƣời,

cảnh là tự nhiên, sự là hợp nhất cả trời và đất. Lấy tình tham cảnh, lấy cảnh

hội việc, gặp việc thì nói ra lời, thành tiếng. Nhƣ vậy, cảnh không hẹn đến mà

tự đến, nói không mong hay mà tự hay, cứ nhƣ thế có thể trở thành ngƣời làm

đƣợc thơ tao nhã” [43, tr. 99].

Nguyễn Văn Siêu thì phân biệt thơ thành hai loại: “Có loại đáng thờ. Có

loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn

chƣơng. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con ngƣời” [43, tr. 135].

Tóm lại, dù ở phƣơng Đông hay phƣơng Tây thì quan niệm về thơ đều

chƣa đƣợc thống nhất thật sự, vẫn chƣa có một định nghĩa nhất quán về

thơ.Khái quát lại có thể hiểu: Thơ là một hình thức nghệ thuật dùng từ, dùng

chữ trong ngôn ngữlàm chất liệu, và sự chọn lọc từ cũng nhƣ tổ hợp của

chúng đƣợc sắp xếp dƣới một hình thức logic nhất định, tạo nên hình ảnh hay

gợi cảm âm thanh có tính thẩm mỹcho ngƣời đọc, ngƣời nghe.

Thơ, thơca hay thica,là một khái niệm chỉ các loại sáng tác

27

vănhọc có vần điệu, có đặc điểm ngắn gọn, súc tích, nhiều ý cô đọng. Một bài

văn cũng có thể là một bài thơ nếu sự chọn lọc các từ trong đó súc tích và gây

cảm xúc cho ngƣời đọc một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, một bài thơ

thƣờng còn mang tính vần giữa câu nọ với câu kia và tổ hợp của các câu gây

ra âm hƣởng nhạc tính trong bài. Thơ thƣờng dùng nhƣ một hình thức biểu tả

cảm xúc trữ tình, hoặc tình cảm xúc động trƣớc một hiện tƣợng xảy ra trong

cuộc sống, nhƣ khi ngƣời ta đứng trƣớc một phong cảnh ngoạn mục, hoặc

đứng trƣớc một thảm cảnh. Sự tƣơng tác giữa tình cảm con ngƣời và hoàn

cảnh tạo nên những cảm nghĩ mà ngƣời ta muốn bày tỏ với một phong độ chắt

lọc, tinh khiết, không rƣờm rà, song có mức thông tin cao, đột phát, nhƣng cô

đọng và khúc chiết. Muốn làm đƣợc nhƣ vậy, ngƣời làm thơ phải có một con

mắt quan sát chi tiết, tổng quát hóa, và nhanh chóng liên tƣởng giữa những

hình ảnh quan sát đƣợc với những gì vốn có trƣớc đây.

1.2.2. Sự phát triển của thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế

kỷ XIX

Thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX tồn tại và phát triển

mạnh mẽ trong lòng xã hội và văn hoá phong kiến. Về mặt lịch sử, đây là giai

đoạn nhà nƣớc phong kiến Việt Nam phát triển đến mức toàn thịnh và bắt đầu

suy thoái từ thế kỷ XVI cho đến khủng hoảng trầm trọng vào thế kỷ XVIII.

Song giai đoạn này là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của văn học trung đại

Việt Nam. Thơ văn có thay đổi lớn: Thành phần văn học Nôm đã xuất hiện lẻ

tẻ trong đời Trần nay đã tạo thành tác phẩm, tác giả. Số lƣợng các sáng tác

thơ bằng chữ Nôm tăng lên đáng kể theo thể Đƣờng luật. Hình thức lục bát và

song thất lục bát xuất hiện ở thế kỷ XVI đã phát triển thành thể loại diễn ca

phồn thịnh vào thế kỷ XVII, tạo đà cho sự ra đời thể ngâm và truyện Nôm ở

những thế kỷ sau.

Lực lƣợng sáng tác thời kì này đại đa số là những trí thức Nho sĩ.Nội

28

dung thơ ca biểu hiện cảm hứng nhân đạo. Đó là tiếng nói cảm thƣơng với số

phận con ngƣời, đặc biệt là số phận của ngƣời phụ nữ; là tiếng nói ngợi ca

trân trọng họ, đồng thời cũng lên án xã hội phong kiến, đấu tranh đòi quyền

sống, quyền hạnh phúc cho con ngƣời.

Đối với thơ ca giai đoạn thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XIX, đặc trƣng cơ bản

có tính lịch sử của nó là khám phá ra con ngƣời, khẳng định những giá trị

chân chính của con ngƣời. Nội dung đó đã đƣợc thể hiện rõ nét trong các tác

phẩm, đặc biệt là ở trong các tác phẩm thơ nửa sau thế kỉ XVIII và nửa đầu

thế kỉ XIX.Có thể nói, chỉ đến giai đoạn này, vấn đề con ngƣời mới đƣợc đƣa

lên hàng đầu và sự khám phá ra con ngƣời mới xuất hiện nhƣ một tất yếu lịch

sử. Điều đó tạo ra một bƣớc ngoặt lớn cho lịch sử tƣ tƣởng dân tộc. Đó là sự

ra đời của một trào lƣu nhân đạo chủ nghĩa. Thơ ca giai đoạn này là tiếng nói

đòi quyền sống, quyền hạnh phúc, đấu tranh để giải phóng con ngƣời. Các tác

phẩm tiêu biểu: Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn), Cung oán ngâm khúc

(Nguyễn Gia Thiều), Thơ Hồ Xuân Hƣơng, Truyện Kiều (Nguyễn Du);.v.v.

Mặt khác, thơ ca giai đoạn này bƣớc đầu đã phản ánh đƣợc quan niệm về

con ngƣời trong xã hội. Nhiều nhân vật nữ đã thể hiện sự phản kháng, sự tố

cáo xã hội cũ, nêu lên nhiều suy nghĩ và quan điểm chống đối lại tƣ tƣởng của

xã hội phong kiến, tiêu biểu hơn cả là thơ Hồ Xuân Hƣơng. Nét đặc trƣng về

quan niệm con ngƣời trong thơ ca giai đoạn này là nhu cầu tự nhiên của con

ngƣời đƣợc khẳng định.

Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, thơ ca phát triển rực rỡvới sự chín

muồi, điêu luyện của thơ Nôm trong các thể loại thơ Đƣờng luật, ngâm khúc,

truyện Nôm, hát nói. Thơ chữ Hán cũng đạt đƣợc đỉnh cao. Số lƣợng sáng tác

rất lớn. Số nhà thơ tiêu biểu của thời đại cũng nhiều: Nguyễn Gia Thiều, Hồ

Xuân Hƣơng, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ;.v.v.

Các thể thơ chữ Hán đƣợc sử dụng rất đa dạng: thất luật, tuyệt cú, ngũ

29

ngôn;.v.v.

* Tiểu kết

Nghiên cứu tƣ tƣởng triết học về con ngƣời không giống với việc tìm

hiểu quan niệm con ngƣời trong văn học. Mỗi khoa học tiếp cận vấn đề con

ngƣời theo một phƣơng pháp riêng, phù hợp với đối tƣợng đặc điểm của

mình. Giai đoạn này, xã hội phong kiến mục ruỗng, nội bộ phân tranh, nông

dân khởi nghĩa khắp nơi, đạo đức băng hoại, không còn đủ sức kiềm tỏa con

ngƣời. Mặt khác, đô thị phát triển gắn với các trung tâm chính trị và đời sống

kinh tế nông nghiệp, thì cũng tạo một môi trƣờng cho ý thức thị dân phát

triển, làm nảy sinh tƣ tƣởng muốn giải phóng của con ngƣời. Chính tiền đề đó

đã tạo điều kiện cho sự ra đời các tƣ tƣởng triết học về con ngƣời.

30

Chƣơng 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC

VỀ CON NGƢỜI TRONG THƠ CA VIỆT NAMTỪ THẾ KỶ XVI

ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XIX

2.1. Tƣ tƣởng về sự sinh thành và bản tính con ngƣời

Các quan niệm về con ngƣời giai đoạn này chịu nhiều ảnh hƣởng của

nhân sinh quan Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Mặc dù tiếp thu truyền

thống tƣ tƣởng phƣơng Đông, nhƣng tƣ tƣởng thời kỳ này đã có những kiến

giải mới mẻ, độc đáo, thể hiện trí tuệ củacáctrí thức gia.

2.1.1. Về sự sinh thành con người

Thời kỳ này đã cótriết lý khá sâu sắc về con ngƣời. Một số tác giảdựa

trên những tƣ tƣởng triết học của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và cho rằng

con ngƣời là trung tâm của vũ trụ, đƣợc lòng ngƣời là cơ sở của sự hoà hợp và

phát triển, là điều kiện để có đƣợc sự cân bằng cả trong xã hội và tự nhiên. Họ

luôn tin vào sự chi phối của“trời” đối với cuộc sống con ngƣời, kể cả sự

hƣng thịnh hay suy vong của một thời đại. Dƣới góc độ triết lý Phật giáo, cótƣ

tƣởng cho rằng con ngƣời là sự tồn tại theo duyên cảnh, là tất nhiên, mang tính

tiền định và phải hứng chịu mọi kiếp nạn đã bị quy định từ kiếp trƣớc.Trong

những lời ca, câu hát đƣợc nhân dân truyền miệngđãthể hiện rõ tinh thần của

thuyết luân hồi, duyên nghiệp:

“Ai ơi ăn ở cho lành,

Tu nhân tích đức để dành kiếp sau”

Hay:

“Đời cha tích đức làm giàu,

Đời mẹ tích đức mai sau con nhờ”

Mỗi con ngƣời bƣớc vào cuộc đời với một nghiệp riêng: là sung sƣớng,

là khổ đau, là bất hạnh;.v.v. Và cho đến khi chết đi cũng không ai giống ai.

Đại thi hào Nguyễn Du từng viết:

31

“Gặp phải lúc đi đƣờng lỡ bƣớc,

Cầu Nại Hà kẻ trƣớc ngƣời sau

Mỗi ngƣời mỗi nghiệp khác nhau

Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ” [20]

Bên cạnh những tƣ tƣởng của đạo Phật,thời kỳ này còn có những tƣ

tƣởng của Nho gia khi coi số phận con ngƣời là do “mệnh trời” quyết định.Từ

quan điểm: “Trời và ngƣời cùng chung một lý” (“Lý” ở đây đƣợc hiểu nhƣ là

quy luật vận hành tự nhiên của trời đất và muôn vật), một số tác giả coi sự

xuất hiện của con ngƣời là do trời sinh ra và chi phối. Ví nhƣ Nguyễn Du viết:

“Ngẫm hay muôn sự tại trời

Trời kia đã bắt nhầm ngƣời có thân

Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao đƣợc mới phần thanh cao” [20]

Theo thuyết “Thiên mệnh” của Nho giáo, ngƣời ta ở đời giàu, nghèo,

sƣớng, khổ là do số phận định trƣớc bởi “Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại

thiên”. Con ngƣời bằng kinh nghiệm ở đời mà suy ra huyền bí của càn khôn

và từ ấy,cho rằng tài mệnh không hợp nhau: “Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét

nhau”. Hay nhƣ Lý Thƣơng Ẩn nói : “Cổ lai tài mệnh lƣỡng tƣơng phƣơng”.

Ngƣời ta không chịu tìm nguyên nhân trong xã hội mà lại theo khuynh hƣớng

duy tâm thần bí để suy ra rằng, sở dĩ có điều bất bình là bởi đạo trời vốn ghét

cái trọn vẹn: “Tạo vật đố toàn, tạo hóa kị doanh”. Cho nên, cái lẽ “bỉ sắc tƣ

phong” ngƣời ta gọi là luật thừa trừ trong kiếp ngƣời. Không những Thúy

Kiều, Đạm Tiên mà cả Tây Thi, Điêu Thuyền, Chiêu quân;.v.v. đều nhƣ vậy:

“Hồng nhan tự thƣở xƣa - Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”. Nguyễn Du

từng so sánh:

“Trăm năm trong cõi ngƣời ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” [20]

32

Tƣ tƣởng thời kỳ này cũng đã mang màu sắc duy tâm khi cho rằng cuộc

sống con ngƣời là phụ thuộc vào ý trời. Về sự phát triển của xã hội và cuộc

đời con ngƣời. Một số tác giả đã lý giải đạo ngƣời trên cơ sở đạo trời, không

thừa nhận vai trò hoạt động của con ngƣời trong sự phát triển xã hội mà

dƣờng nhƣ con ngƣời vẫn phải nƣơng nhờ vào số mệnh, trời định:

“Chữ rằng phú quý giai do mệnh,

Gặp đƣợc bao nhiêu hay bấy nhiêu”[54]

Hầu hết các nhà tƣ tƣởng Việt Nam thời kì này đều đã từng bƣớc vào

cửa Nho nên việc tiếp nhận có sáng tạo học thuyết Nho giáo là một điều tự

nhiên. Xét về bản thể luận, tƣ tƣởng của Khổng Tửvề triết lý thiênmệnhđều

nhằm mục đích giải thích các vấn đề xoay quanh con ngƣời. Khổng Tử đã

từng nói: “Ngƣời quân tử có ba điều sợ: sợ mệnh trời, sợ vƣơng công đại

nhân, sợ lời nói của thánh nhân”. Cái sợ đầu tiên khi con ngƣời sống trên cõi

đời là “mệnh trời”. Mọi việc đều do ý trời. Họa hay phúc, may hay rủi, vui

hay buồn, giàu hay nghèo;.v.v. tất cả đều do thiên mệnh tiền định từ khicon

ngƣời mới chào đời cho đến lúc rời bỏ cõi thế và không ai có thể thay đổi

đƣợc nó dù là ngƣời tài giỏi hay kẻ tầm thƣờng:

“Biết thân chạy chẳng khỏi trời,

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”[20]

Mặc dù chịu ảnh hƣởng sâu đậm của Nho giáo nhƣng khi nhìn nhận về

sự sinh, diệt theo lẽ tự nhiên của con ngƣời thì trong tƣ tƣởng của số đông các

nhà thơ thời kỳ này lại chịu ảnh hƣởng của Phật giáo. Họthấm thía triết lý của

đạo Phật, coi cuộc đời là vô thƣờng và cho rằng, sự nhận thức về lẽ sinh diệt

của con ngƣời tất thảy đều từ cái “Tâm” tạo ra.Ngô Thì Nhậm từng cho rằng:

“ngƣời nào không có ý, không có xúc thì không thấy cái đó”, tức là không thể

nhận thức đƣợc “Tâm” - cái tạo ra sự sinh, diệt trong con ngƣời. Con ngƣời

dù có cố gắng đến nhƣờng nào, nhƣng nếu chƣa giác ngộ đƣợc lẽ vô thƣờng,

33

chƣa ngộ đƣợc chân tâm thì vẫn không thoát khỏi số phận trớ trêu mà trời đã

định. Bởi thế, Nguyễn Du đã đặc biệt coi trọng mà đem đặt chữ “Tâm” lên

cán cân cùng với chữ “Tài”:

“Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” [20]

Ngoài những tƣ tƣởng về sự sinh thành của con ngƣời, khảo sát thơ ca

Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, chúng ta còn thấy triết lý về quy

luật cuộc đời chịu ảnh hƣởng sâu sắc của tƣ tƣởng Chu Dịch. Các tác giả cho

rằng vạn vật sinh ra và mất đi đều có cái lẽ vãng phục tuần hoàn của nó.

Ngày, tháng, năm, thời tiết, hoa cỏ bốn mùa sinh sinh diệt diệt đều theo

nguyên lý phủ định. Hiện tƣợng mâu thuẫn biến hóa này là tƣ tƣởng chủ đạo

xuyên suốt trong hầu hết các sáng tác thơ ca. Ví nhƣ Nguyễn Công Trứ vẫn

tin tƣởng vào vận hanh thông của con ngƣời khi rơi vào cảnh cùng quẫn:

“Số khá bĩ rồi thời lại thái

cơ thƣờng đông hết lại sang xuân”[3]

Trƣớc đó, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã nghiệm ra một điều

vừa có tính quy luật vừa có tính triết lý:

“Mai kia chƣa dễ thu nên muộn

Xuân nọ tin hoa cũng mấy phen”[54]

Tức là, khi mai nở thì ngƣời đời biết rằng mùa đông sẽ qua, mùa xuân

sắp tới, cũng nhƣ triều đại này suy vong báo hiệu có một triều đại hƣng thịnh

khác sẽ đến. Vì lẽ thừa trừ của tạo hóa nên con ngƣời cần giữ cái tâm trong

sáng không lay chuyển. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có khuynh hƣớng duy tâm

khi cho rằng vạn vật có nguồn gốc từ khí:

“Thái cực sơ triệu phân

Tam tài định quyết vị

Khinh thanh thƣợng vi thiên

34

Trọng trọc hạ vi địa

Trung tập nhi vi nhân

Bẩm thụ thi nhất khí”[54]

Nghĩa là:

(“Thái cực từ lúc mới tạo lập đã phân chia

Tam tài đã ổn định vị trí của nó

Nhẹ và trong bốc lên là trời

Nặng và đục lắng xuống là đất

Ở giữa tập kết lại thành ngƣời

Bẩm thụ cùng một khí chất”)

Một số nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ tập trung vào

khí mà không đề cập đến mối quan hệ giữa lý và khí, từ đó cho rằng: “chính

đây mới là chìa khóa then chốt để có thể đánh giá đóng góp đích thực của

ông đối với triết học tự nhiên”. [2, tr.116]

Mặc dù những luận điểm trên thể hiện rõ tính duy tâm, thần bí, nhƣng

khi kiến giải về mối quan hệ giữa ý (thuộc ý thức, tinh thần) với xúc (thuộc về

cơ thể, vật chất) trong con ngƣời, các nhà tƣ tƣởng đã đƣa ra những nhận định

khá tinh tế. Nho giáo cho rằng “Tinh khí cấu tạo ra vật” do đótinh thần là yếu

tố đầu tiên có trƣớc thân thể, thân thể là cái có giới hạn vàtinh thần thì không

tiêu tan. Ngô Thì Nhậm từng nói: “Tinh thần cất giấu ở trong thân thể, thân

thể là đồng một chất với trời đất”, có nhƣ thế, con ngƣời“mới giữ đƣợc cái

chân tƣớng của mình”. Từ đó, ông khuyên con ngƣời hãy giữ gìn và coi trọng

tinh thần: “Sống thì giữ trang trọng chết thì giữ rất nghiêm túc”. Ông nói:

“Thân thể ngƣời ta đồng chất với trời đất, có tinh thần mới có cái thân thể

này. Nếu biết giữ gìn trang nghiêm thì đƣợc cùng trời đất lâu dài vậy”.

[7, tr. 47 - 52].

Nhƣ vậy, trong quan niệm về sự sinh thành con ngƣời, các nhà thơ Việt

Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX đã thể hiện những tƣ tƣởng mang tính

35

triết học. Mặc dù vẫn chƣa thể vƣợt khỏi khuôn mẫu truyền thống cũ, nhƣng

họ cũng đã có những kiến giải rất sâu sắc về con ngƣời.

2.1.2. Về bản tính con người

Ở Việt Nam,hầu hết các nhà tƣ tƣởng ít nhiều đều chịu ảnh hƣởng của

các học thuyết triết học phƣơng Đông truyền thống. Xuất phát từ quan điểm

Nho giáo về“thiên tính”, “nhân tính”, họ quan niệm “mệnh” - “thiên tính” là

cái toàn thể, rộng lớn nhƣ biển cả, bao quát nhƣ đất trời, còn “tính ngƣời” chỉ

là cái bộ phận. Tính ngƣời đƣợc chứa đựng trong cái toàn thể - mệnh.

Khi nghiên cứu đến con ngƣời, ta không thể không đề cập đến bản chất

của con ngƣời. Khổng Tử cho rằng, bản tính của mỗi con ngƣời là hoàn toàn

khác nhau. Sự khác nhau đó một phần là do thiên phú bẩm sinh nhƣng phần

lớn là do điều kiện hoàn cảnh, lối sống tập quán khác nhau mà đi đến khác

nhau.Bên cạnh những học thuyết của Khổng Tử, thuyết tính thiện của Mạnh

Tử cũng có ảnh hƣởng sâu sắc tới các nhà tƣ tƣởng Việt Nam thời kì này.

Mạnh Tử cho rằng con ngƣời ai cũng có tính thiện, tính thiện nằm sẵn ở trong

con ngƣời. Tuy nhiên, do hoàn cảnh bên ngoài tác động vào mà con ngƣời bị

cuốn vào con đƣờng ác.

Tƣ tƣởng Việt Nam quan niệm sống phải đặt chữ “Tâm” hàng đầu và cái

tâm là biểu hiện của tính thiện:

“Ở có đức lành hơn ở dữ

Yêu nhau chăng đã một luân thƣờng”[54]

Do thế giới quan này nên quan niệm vềbản chất con ngƣời của các nhà

tƣ tƣởng Việt Nam mang nhiều nội dung đạo đức mà cơ bản là “trung chính”

có nghĩa là thiện, là nhân, là yêu thƣơng và cứu giúp con ngƣời:

“Chớ có hại ngƣời mà ích kỉ

Giấu ngƣời khôn giấu đƣợc linh thần” [54]

36

Theo Ngô Thì Nhậm, con ngƣời vốn thiện, nhƣng do hoàn cảnh mà

thành ra bạc ác. Ông nói: “Ôi! Phàm đã làm ngƣời, ai chẳng muốn làm điều

tốt, chỉ vì hoàn cảnh bắt buộc mới làm việc ác, để cho lƣơng tâm mòn

mỏi”.[7, tr. 47 - 52]. Điều đó theo ôngcó nguyên nhân từ những điều kiện

kinh tế và xã hội. Việc “tụ lập bè đảng, lấy việc cƣỡng bức để sinh nhai cũng

là chỗ bất đắc dĩ, hoặc vì đói rét mà bức bách, hoặc vì bạo ngƣợc xua đuổi,

mới đến nƣơng thân nơi sóng gió, không có lối thoát ra”[7, tr. 47 - 52]. Từ

quan niệm coi hoàn cảnh xã hội tạo nên con ngƣời, ông cho rằng, cần phải tạo

ra đƣợc hoàn cảnh và những quan hệ xã hội tốt đẹp để hoàn thiện con ngƣời.

Với quan niệm này, ông chủ trƣơng dùng đạo lý, lẽ phải để chế ngự và thu

phục lòng ngƣời, khiến cho “những đứa giặc nƣớc đều có thể thành những

bầy tôi lƣơng đống” [7, tr. 47 - 52]. Điều đặc biệt là, Ngô Thì Nhậm đã đề

cập đến việc cần chú trọng giáo dục con ngƣời ngay từ khi còn là bào thai.

Ngoài ra, ông còn chỉ rõ sự tác động của môi trƣờng, điều kiện, hoàn cảnh gia

đình đến việc hình thành tƣ chất, diện mạo của con ngƣời. Ông viết: “Con trai

con gái mà giống cha, mẹ là do sớm chiều ăn ở cùng nhau và cách thức bồi

bổ dinh dƣỡng thích hợp với nhau” [7, tr. 47 - 52].Tuy nhiên, cũng ở đây,

ông đã không thể vƣợt qua đƣợc hạn chế của Nho giáo về sự phân chia thứ

hạng ngƣời trong xã hội. Khi tuyệt đối hóa yếu tố trí tuệ bẩm sinh trong hai

hạng ngƣời (thƣợng trí và hạ ngu) và phủ nhận cả những tƣ tƣởng tiến bộ mà

mình vừa khẳng định, ông cho rằng, “bậc thƣợng trí và kẻ hạ ngu là không

thay đổi theo ngoại cảnh” [7, tr. 47 - 52].

Khi bàn về bản tính con ngƣời,các nhà thơ, nhà tƣ tƣởng thời kỳ này đã

tiếp cận trên cơ sở tự nhiên củanó. Họ gọi đó là “Thiên tính tự nhiên”. Từ

quan điểm triết học “vạn vật đồng nhất thể”, các tác giả cho rằng, con ngƣời

cũng nhƣ vạn vật đều có thiên tính tự nhiên của nó:

37

“Trời phú tính ở mình ta,

Đạo cả cƣơng thƣờng năm mấy ba” [54]

Hay:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”[20]

Quan niệm về thiên tính tự nhiên trong tƣ tƣởng Việt Nam thời kỳ này

đƣợc thể hiệnở phạm trù“Dục”. Ngô Thì Nhậm đã trích dẫn Kinh Thƣ: “Trời

sinh con ngƣời có Dục”và theo ông “Dục” là tính tự nhiên, nó ở trong nhật

dụng thƣờng hành, nhƣ đói thì muốn ăn, khát thì muốn uống, không có không

đƣợc.Theo đó, ngay từ khi sinh ra, con ngƣời đã có tính tự nhiên, mà dục

đƣợc hiểu theo nghĩa là những nhu cầu tự nhiên của con ngƣời. Do vậy, việc

đáp ứng những nhu cầu ấy là tất yếu trong quá trình tồn tại và phát triển.

Theo quan điểm “Tồn thiên lý, diệt nhân dục” của Tống Nho, một số nhà

tƣ tƣởng Việt Namthời kỳ này chủ trƣơng xóa tất cả mọi dục vọng để “Tâm”

đƣợc tuyệt đối trong sáng, phải diệt bỏ mọi dục vọng ngay cả trong ý nghĩ của

mình. Chỉ khi con ngƣời diệt đƣợc “nhân dục” thì mới có thể nhận thức đƣợc

“thiên lý” và noi theo nó.

Ngoài thiên tính tự nhiên do trời phú, trong con ngƣời còn có “Thiên

lƣơng” - cái đạo, tính nết mà trời phú cho ngƣời. Theo Ngô Thì Nhậm,

ngƣời nào mà không có đạo ngƣời, tức là mất hết thiên lƣơng, thì tính ngƣời

bị tiêu diệt. Xuất phát từ tƣ tƣởng triết học về sự vận động của vũ trụ: “trên

đời chẳng cái gì mà chẳng lƣu hành, chẳng cái gì mà chẳng vận động”, Ngô

Thì Nhậm cho rằng, bản tính của con ngƣời vừa động, vừa tĩnh, tùy theo

hoàn cảnh, hành động và sự hiểu biết của mỗi ngƣời. Nhƣ vậy, ông đã tiếp

cận con ngƣời trong mối quan hệ xã hội phức tạp, thấy rõ đƣợc sự tác động

của những nhân tố bên ngoài đến sự thay đổi bản tính con ngƣời.

38

Ngô Thì Nhậm đi từ sự khác nhau về thể chất bên ngoài để nhận ra sự

khác nhau về bản chất bên trong của mỗi ngƣời. Theo ông, cần phải dùng giáo

dục, mà chủ yếu là thông qua giáo dục đạo làm ngƣời để cho bản chất con

ngƣời trở nên gần nhau, giống nhau, làm cho quan hệ xã hội trở nên hài hòa

để từ đó, xây dựng một xã hội có nền văn hóa, giáo dục hƣng thịnh. Ông viết:

“Ngƣời ta, mặt không giống nhau thì lòng cũng không giống nhau (...). Vậy

thì ở chỗ không giống nhau đó, đem đạo lý bàn bạc với nhau để làm cho

giống nhau, ở chỗ không thƣờng tụ họp đó, ta lấy đức tính tất khuyên bảo

nhau để thƣờng tụ họp,thờ thần minh không lỗi đạo thành kính, thờ vua cha

không lỗi đạo trung hiếu, ở gia đình thì làm ngƣời lƣơng thiện, ở làng xóm

thì làm ngƣời nết na, thẳng thắn nhƣng không tranh giành nhau, hòa nhã để

cƣ xử với nhau khiến cho vạn vật đời đời sáng láng, khoa mục ngày càng

hƣng thịnh” [7, tr. 47 - 52].

Nhƣ vậy, quan niệm về bản tính con ngƣời trong tƣ tƣởng Việt Nam thời

kỳ này có nhiều điểm hợp lý, kế thừa đƣợc những giá trị trong lịch sử tƣ

tƣởng dân tộc. Nhà tƣ tƣởng đãthấy đƣợc vai trò to lớn của tác động bên trong

và bên ngoài trong việc hình thành và thay đổi tính ngƣời. Đặc biệt, những

quan niệm tích cực đó đƣợc thể hiện rõ nét khi họ bàn đến vai trò của giáo

dục trong việc xây dựng con ngƣời, vai trò của hiền tài đối với quốc gia.

2.2. Tƣ tƣởng về mối quan hệ giữa con ngƣời và thế giới

Nếu nhƣ ngƣời phƣơng Tây sớm nhận thức vũ trụ là khách thể, con

ngƣời sớm có chiều hƣớng tách mình ra khỏi nó để khám phá, chinh phục thì

ở phƣơng Đông ngƣợc lại, có xu hƣớng hoà hợp với vũ trụ, khám phá và biểu

hiện mình trong những mối tƣơng quan huyền nhiệm với tạo vật. Từ lâu,

ngƣời phƣơng Đông đã xem vũ trụ là một thể thống nhất và con ngƣời là tiểu

vũ trụ trong cái vũ trụ ấy. Bởi vậy, vạn vật và con ngƣời có mối tƣơng giao

thầm kín. Ngƣời xƣa tin rằng nhờ sự liên hệ mật thiết đó mà Trời và Ngƣời có

39

khả năng tƣơng cảm, tƣơng ứng.Tƣ tƣởng thiên nhân hợp nhất đó là cốt lõi

của triết học Trung Hoa xƣa và có ảnh hƣởng tới các quốc gia nông nghiệp

lúa nƣớc phƣơng Đông nhƣ Việt Nam một cách mạnh mẽ.

Thế kỷ XVII - XVIII, văn hóa dân tộc tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Đạo

Phật không bị sự hạn chế của chính quyền nữa nên tiếp tục phát triển, ăn sâu,

bám rễ vào đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Trời - Phật trở thành chỗ

dựa tinh thần cho con ngƣời, nơi con ngƣời gửi gắm những ƣớc nguyện khi

cuộc sống gặp những điều éo le, ngang trái. Điều này đƣợc thể hiện qua một

số câu ca, lời thơ:

“Nghiêng vai ngửa vái Phật - Trời

Đƣơng cơn hoạn nạn độ ngƣời trầm luân”

Thời kỳ này, con ngƣời chủ yếu sống bằng nông nghiệp nên thƣờng

dựa vào tự nhiên, do đó họ tin ở sự thống nhất với thế giới. Thiên nhiên là bạn

tri ân tri kỷ. Ngƣời phƣơng Đông xƣa có quan niệm thiên nhiên có mối giao

hòa, giao cảm với con ngƣời bởi con ngƣời là một “tiểu vũ trụ” có quan hệ

tƣơng thông tƣơng cảm với “đại vũ trụ”. Con ngƣời là một yếu tố trong mô

hình vũ trụ: Thiên - Địa - Nhân hợp thành “Tam tài”. Quan niệm này đã chi

phối nhiều đến sự biểu hiện trong các sáng tác thơ ca.

Vấn đề mối quan hệ giữa Trời và Ngƣời là đề tài đƣợc khá nhiều nhà

thơ Việt Nam quan tâm và lấy đó làm cảm hứng sáng tác. Theo họ, con ngƣời

là một bộ phận của tự nhiên, giữa ngƣời và trời có sự thống nhất: “Thiên nhân

tƣơng dữ hựu tƣơng phù”, tức là trời và ngƣời có quan hệ với nhau và phù

hợp với nhau.Nữ sĩ Hồ Xuân Hƣơng cũng đã từng bộc bạch:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nƣớc non” [41]

Trong thơ ca Việt Nam, vũ trụ không thể là khách thể mà nó vẫn thƣờng

đƣợc biểu hiện trong mối liên hệ khăng khít với tâm cảnh. Nguyễn Dutừng

khẳng định:

40

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Ngƣời buồn cảnh có vui đâu bao giờ”[20]

Câu thơ tuy có vẻ giản dị nhƣng đó chính là sự cảm nhận có màu sắc

triết học của ngƣời xƣa về quan hệ huyền nhiệm giữa con ngƣời và thế giới. Ở

đây cósự liên quan giữa quan niệm nhất thể cảm giác của thơ tƣợng trƣng và

quan niệm triết học căn bản của Trung Hoa xƣa về tính nhất thể của vũ trụ.

Trình Minh Hạo có nói trong Ngữ lục: “Trời và Ngƣời gốc không phải là hai,

bất tất phải nói thiên nhân hợp nhất. Tâm của ta chính là Trời đây, phát huy

đến cùng cực cái tâm của ta thì biết đƣợc tính, biết đƣợc tính tức là biết Trời”

(Thiên nhân bản vô nhị, bất tất ngôn hợp. Tâm tiện thị thiên, tận chi tiện tri

tính, tri tính tiện tri thiên).

Đó là “con ngƣời vũ trụ” sống trong quy tắc “hô, ứng”. Vui buồn của

mỗi con ngƣời buộc cả vũ trụ chuyển động. Con ngƣời không đƣợc miêu tả

nhƣ một hiện tƣợng xã hội mà nhƣ là một bộ phận của thiên nhiên, của vũ trụ.

Chẳng hạn nhƣ khi nói về Kiều, Nguyễn Du viết:

“Vừa tuần nguyệt sáng, gƣơng trong” [20]

Ngoài ra, do quan niệm vũ trụ trong văn học Việt Nam bắt nguồn từ rất

xa xƣa, gắn liền với những quan niệm thần bí, tƣớng số. Cho nên, với các

nhân vật, đặc biệt là những nhân vật xuất chúng, tác giả thƣờng miêu tả thành

những con ngƣời dị tƣớng, mang sức mạnh phi thƣờng. Đó là những con

ngƣời “chịu mệnh trời”. Từ Hải chính là nhân vật đƣợc Nguyễn Du xây dựng

dựa trên quan niệm này:

“Râu hùm hàm én mày ngài

Vai năm tấc rộng, thân mƣời thƣớc cao” [20]

Ngô Thì Nhậm cũng đã gắn kết“mệnh trời” với lòng ngƣời, đặt lòng

ngƣời trƣớc “ý trời” trong cách thuyết phục con ngƣời trƣớc những chủ

trƣơng, quyết sách chính trị. Việc thuận theo ý trời sẽ đem lại lợi ích tốt lành

41

cho muôn ngƣời. Ông cảm thông với những gì con ngƣời phải nếm trải và cho

rằng điều đó một mặt, là do cách sống của họ, mặt khác, là do trời định. Vì

vậy, trong hành động của mình, Ngô Thì Nhậm khuyên con ngƣời cần phải

khéo léo và tỉnh táo.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà tƣ tƣởng tiêu biểu có nhiều triết lý về thế

giới và nhân sinh mang tính triết học. Triết lý nhân sinh của ông gắn liền với

những quan niệm về con ngƣời và mối quan hệ giữa con ngƣời và tự nhiên:

“Ơn trời còn bấy nhiêu nữa

Che chở chăng đành kẻ khó khăn”[54]

Theo Giáo sƣ Nguyễn Tài Thƣ, trong thế kỷ XVIII có hai luồng tƣ tƣởng

chủ đạo về các vấn đề mối quan hệ giữa Trời và Ngƣời (dân):

Một là, quan điểm coi trọng và lấy dân làm gốc. Lê Quý Đôn trích dẫn

kinh sách và khẳng định thêm về triết lý: Dân là gốc nƣớc, gốc vững thì nƣớc

mới yên. Cứu dân tức là vì nƣớc; hay Nguyễn Thiếp cũng có quan điểm tƣơng

tự: Dân là gốc, gốc vững nƣớc mới yên.

Hai là, quan điểm cho ý trời thể hiện ở lòng dân: “Trời trông và nghe là

do ở dân. Cho nên điềm lành điềm dữ trời ứng nghiệm ra, đều có liên quan

tới lòng ngƣời vui hay buồn...; Điềm lành, điềm dữ của trời ăn khớp với việc

của ngƣời, chính sự của nƣớc thông suốt đến trời”[7, tr.47 - 52].

Quan điểm thứ nhất chƣa đạt đến mức là duy vật, nhƣng đã biểu lộ một

triết lý: coi con ngƣời là động lực, nếu đƣợc lòng dân thì vận tốt sẽ tới. Quan

điểm thứ hai lại ngả theo triết lý có tính chất duy tâm tôn giáo truyền thống

của phƣơng Đông, đó là thiên nhân cảm ứng.

Tóm lại, con ngƣời theo quan niệm của các nhà thơ thời kỳ này luôn

ứng xử theo quy luật tuần hoàn của vũ trụ, âm dƣơng. Thấm nhuần tƣ tƣởng

trên, nên con ngƣời trong thơ cathƣờng “xuất xử”, “hành tàng” một cách ung

dung thanh thản: gặp tai biến không lo sợ sầu não, gặp vận may không vui

42

mừng đắc chí. Họ luôn sống theo khái niệm “Thời”, theo qui luật: “bĩ tắc thái,

cùng tắc thông”.

2.3. Tƣ tƣởng về đối nhân xử thế

Từ thế kỷ XVI, nhất là cuối thế kỷ XVII, chiến tranhgiữa các tập đoàn

phong kiến xảy ra liên miên và các hệ luỵ do nó gây ra cho xã hội đã buộc các

nhà tƣ tƣởng phải có những suy nghĩ, những triết lý về vị trí, vai trò của con

ngƣời trong cuộc đời. Triết lý cuộc sống là một trong những vấn đề quan

trọng đƣợc đề cập tới nhiều trongsáng tác thơ ca suốt thời kỳ từ thế kỷ XVI

đến đầu thế kỷ XIX. Trong ý niệm của mình, các nhà thơ coi việc giáo dục,

hƣớng con ngƣời tới triết lý sống là điều kiện cần thiết để con ngƣời lĩnh hội

những giá trị đích thực của cuộc sống và sống xứng đáng hơn. Điều đó sẽ

giúp con ngƣời không tham lam, xa lìa đƣợc hƣ vọng, mài dũa chí hƣớng, giữ

đƣợc tấm lòng trong sạch.

Trongsáng tác thơ ca của mình, các tác giả thời kỳ này thƣờngthể hiện

khuynh hƣớng dung hoà “tam giáo”, nên những vấn đề trong nhận thức luận

của họ luôn chứa đựng những yếu tố mới mẻ.Họ đã kế thừa tƣ tƣởng của cả

Nho, Phật và Lão trong cách giải quyết vấn đề của mình.

2.3.1. Tư tưởng về mối quan hệ giữa con người với con người

Thời kỳ này, phần lớn các nhà thơ đã tiếp thu tƣ tƣởng của các triết gia

thời trƣớc, nhƣng không phải là sự sao chép, rập khuôn, mà trong đó có sự kế

thừa, chọn lọc theo một tinh thần mới, phù hợp với tƣ tƣởng của thời đại lúc

bấy giờ.

Những tƣ tƣởng đối nhân xử thế thời kỳ này chịu ảnh hƣởng sâu sắc của

các học thuyết Nho giáo. Khổng Tử quan niệm có năm mối quan hệ xã hội cơ

bản của con ngƣời đƣợc gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân: vua - tôi,

cha - con, chồng- vợ, anh- em, bạn bè. Trong đó, vua - tôi, cha- con, chồng-

vợ là ba mối quan hệ cơ bản đƣợc gọi là “Tam cƣơng” và “Đức” là phẩm chất

43

quan trọng nhất mà con ngƣời cần phải có để thực hiện tốt các mối quan hệ

đó. Khổng Tử nhấn mạnh “tam đức” (nhân, trí, dũng); ở Mạnh Tử là “tứ đức”

(nhân, nghĩa, lễ, trí); Đổng Trọng Thƣ là “ngũ thƣờng” (nhân, nghĩa, lễ, trí,

tín). “Tam cƣơng” và “Ngũ thƣờng” đƣợc kết hợp và gọi tắt là đạo “Cƣơng -

Thƣờng”.

Triết lí Khổng Tử với “Tam cƣơng, ngũ thƣờng” đã buộc chặt con ngƣời

vào gia đình và xã hội. Theo ông, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa chồng

và vợ, giữa anh em với nhau (quan hệ gia đình) thuộc về mối quan hệ tự

nhiên, vốn có, là thứ tình cảm thuộc về bản tính con ngƣời. Từ cách hiểu này,

các nhà tƣ tƣởng Việt Nam đã tiếp thu có sáng tạo và cho rằng, trong gia đình

nếu ngƣời cha đứng đầuthì mở rộng ra trong nƣớc có vua đứng đầu. Họ hình

dung quốc gia là một gia đình lớn, vua là ngƣời cha của gia đình ấy. Vì vậy,

con ngƣời phải tận hiếu với cha mẹ, tận trung với vua.

Đạo Nho xem gia đình là một trong các khâu không thể thiếu của hoạt

động con ngƣời: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Đạo quân thần, phụ

tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu là gốc của đạo đức Nho gia. Nhân, nghĩa, lễ,

trí, tín là cách ứng xử đẹp của những bậc quân tử. Trong đó, “Nhân” và “Lễ”

là một quy định về mặt đạo đức trong quan hệ ứng xử giữa ngƣời với ngƣời.

Con cái phải có hiếu với cha mẹ, bề tôi phải trung với vua, chồng vợ có nghĩa

với nhau, anh em phải trên kính dƣới nhƣờng, bạn bè phải giữ đƣợc lòng tin.

Những quy tắc này là bất di bất dịch mà ai cũng phải tuân theo.

Đức “Lễ” với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp con ngƣời có thái

độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép. Cùng với đức

“Nhân, Nghĩa”, các nhà thơ, nhà tƣ tƣởng Việt Nam khuyên con ngƣời phải

có sự đối xử đúng mực với nhau:

“Trời sinh, trời ắt đã dành phần,

Tuy hãy cho hiền, dạ có nhân

44

Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ

Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần…

Chớ có hại ngƣời mà ích kỷ,

Giấu ngƣời khôn giấu đƣợc linh thần” [54]

Đạo làm con, đạo vợ chồng, tình anh em, nghĩa bằng hữu chẳng những là

đạo đức Nho gia mà còn là truyền thống văn hóa tốt đẹp của con ngƣời Việt

Nam.Con trai phải học hành, trung với vua, kính trọng thầy và giúp đỡ cha

mẹ trong việc tế tự tổ tiên, con gái phải theo đạo “tam tòng” và “tứ đức”. Chữ

“Hiếu” luôn đƣợc đặt lên hàng đầu. Bởi vậy, Nguyễn Du từng so sánh:

“Duyên hội ngộ, đức cù lao

Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn” [20]

Và đôi khi, vì hiếu nghĩa mà con ngƣời phải hy sinh những quyền lợi của

cá nhân mình:

“Để lời thệ hải minh sơn

Làm con trƣớc phải đền ơn sinh thành

Quyết tình nàng mới hạ tình

Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha” [20]

Cùng với những tƣ tƣởng của Nho gia, trong dân gian thời kỳ này, các

quan niệm về chữ đức, chữ hiếu cũng mang đậm màu sắc từ bi, hỉ xả của

Phật giáo:

“Lên chùa thấy Phật muốn tu

Về nhà thấy mẹ công phu chƣa đền”

Hay:

“Tu đâu cho chí tu nhà,

Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu”

Các tác giả thời kỳ này coi trọng “Lễ” trong cách giáo dục, giúp con

ngƣời bỏ đƣợc danh lợi, xa lìa tham, sân, si. Việc con ngƣời tuân theo “Lễ”

45

chính là con đƣờng ngăn ngừa những thói hƣ, tật xấu, giữ đƣợc lẽ phải. Nhờ

đó, con ngƣời mới kìm chế đƣợc dục vọng, không bất chấp quy tắc mà vƣợt

đạo, giữ đúng đạo. Vì vậy, “Lễ” nhƣ là khuôn phép để con ngƣời nhìn vào đó

mà không dám làm điều xằng bậy, là tiêu chuẩn cao nhất của đạo đức. Nếu

không có “Lễ” thì nhẫn tâm. Không chỉ thế, các tác giả còn đề cao cƣơng

thƣờng, lễ nghĩatrong việc giúp con ngƣời giữ mình.Ngô Thì Nhậm từng cho

rằng, một ngƣời thông minh phải biết tuân theo đạo trời thì mới mong không

vƣớng vào mê loạn. Do vậy, ông rất coi trọng việc con ngƣời biết tôn trọng và

giữ đúng đạo nhằm làm tốt bản thân, xa lìa đƣợc danh lợi, đồng thời còn giúp

ích cho kẻ khác.Nhìn chung, các nhà tƣ tƣởng đặc biệt coitrọng việc giữ đạo,

nhấtlà đạo “Trung hiếu”. Tuy nhiên, việc vận dụng đạo không phải là tuỳ tiện,

mà cần có phép tắccủa nó. Phép tắc, theo họ, chính là cái để làm khuôn khổ

cho sự vận dụng của“tâm”.

Trong tƣ tƣởng Nho giáo, con ngƣời không có gì là của riêng mình, từ

thân thế, tài sản cho đến danh phận, bổng lộc đều là của cha mẹ hay vua ban.

Thông qua thi ca, các tác giả khuyên con ngƣời hãy giữ lấy đạo cƣơng

thƣờng, giữ lấy những luân thƣờng đạo lý. Con ngƣời phải hành xử đúng

đạo trong tất cả các mối quan hệ. Đó là tôi phải trung với vua, con cái phải

thờ kính cha mẹ, anh em phải hòa thuận, đùm bọc lẫn nhau không đƣợc

tranh giành, bạn bè phải đối xử với nhau bằng lòng trung thực, vợ chồng

phải lấy nghĩa làm trọng;.v.v. Đó chính là giữ nếp nhà, phép nƣớc. Bài

“Cƣơng thƣờng tổng quát”của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một bài thơ độc đáo

và đầy ý nghĩa. Bài thơ vừa là một sự tổng kết về thuyết “Tam cƣơng, ngũ

thƣờng” của đạo Nho, vừa bộc lộ những suy ngẫm của các tác giả đối với

con ngƣời và cuộc đời:

“Trời phú tính ở mình ta,

Đạo cả cƣơng thƣờng năm mấy ba

46

Tôi hết ngay chầu chức chúa,

Con hằng thảo kính thờ cha

Anh em mựa nỡ điều hơn thiệt,

Bầu bạn cho hay nết thực thà,

Nghĩa vợ chồng xem rất trọng,

Ở đầu phong hóa phép chƣng nhà” [54]

Trung hiếu, nhân nghĩa là những đức tính cần thiết của con ngƣời. Đức

tính đó đã đƣợc các nhà tƣ tƣởng đề cập tới trong nhiều tác phẩm thơ ca từ thế

kỉ XVI đến đầu thế kỷ XIX. Họ khẳng định:

“Bui có một lòng trung mấy hiếu,

Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen”[54]

Tựu chung lại, con ngƣời tồn tại trong vô vàn các mối quan hệ xã hội

đan xen, ở mỗi mối quan hệ đó con ngƣời có những nghĩa vụ nhất định phải

thực hiện. Điều này là cần thiết ở mọi chế độ xã hội và mọi thời đại.

2.3.2. Tư tưởng nhân nghĩa

Từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, nƣớc ta có nhiều biến cố lịch sử.

Vì vậy, các nhà tƣ tƣởng đã dùng thơ ca của mình với mong muốn gióng

lên hồi chuông cảnh tỉnh ngƣời đời quay về với đạo.Tƣ tƣởng nhân sinh xã

hội thời kỳ này không xa rời lý tƣởng nhân sinh của Phật giáo và Nho giáo:

“Dù xây chín bậc phù đồ,

Chẳng bằng làm phúc cứu cho một ngƣời”

Chịu ảnh hƣởng của Nho giáo, mặc dù sống ở những thời đại khác

nhaunhƣng tƣ tƣởng về đối nhân xử thế của các nhà thơ có nhiều nét tƣơng

đồng,đặc biệt khi suy ngẫm về thuyết “Tam cƣơng, ngũ thƣờng” với phạm trù

đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất là “Nhân”. Các nhà tƣ tƣởng giai đoạn từ thế kỷ

XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX hầu hết là những ngƣời sống gần gũi với nhân

dân nên đồng cảm với họ, luôn mơ ƣớc về một xã hội thái bình, thịnh trị, nhân

47

dân đƣợc sinh sống yên ổn, no đủ, không có chiến tranh. Triết lý chủ yếu theo

quan điểm của họ ở vấn đề này mang nội dung nhân nghĩa: “Cổ lai nhân giả

tri vô địch, Hà tất khu khu sự chiến tranh”. Có nghĩa là từ xƣa đến nay,

điều “Nhân” là vô địch, cần gì phải theo đuổi chiến tranh.

Triết lý nhân nghĩa thời kỳ này đƣợc các tác giả giải thích dựa trên tƣ

tƣởng của Khổng Tử. Nhân có nghĩa là “yêu ngƣời”: Phàn Trì hỏi về ngƣời

nhân, Khổng Tử nói:yêu ngƣời (Phàn Trì vấn nhân, Tử viết: “ái nhân”) [37,

tr.493].Trong mối quan hệ vua tôi, triết lý nhân nghĩa biểu hiện ở tƣ tƣởng

chăm lo đời sống của nhân dân, nhất là dân nghèo.Vua Tự Đức cũng thể hiện

một quan niệm trong triết lý về dân ở phƣơng châm “ái dân” khi ông cho

rằng: “muốn chuyển tai biến thành điềm lành duy chỉ có biết cách dùng ngƣời

và biết cách an dân là việc cần kíp hơn hết”.

Phần nhiều các vua nhà Nguyễn đều đề cao triết lý: “ý trời khó biết, lòng

dân khó lƣờng”.Mặc dù vua quan luôn tự hào là kẻ chăm dân, tự cho mình là

cha mẹ dân, nhƣng dân không phải là đối tƣợng phục vụ của họ mà chỉ là đối

tƣợng bóc lột. Thƣơng dân là cốt để củng cố quyền vua, an dân là cốt để triều

đình đƣợc vĩnh cửu trƣờng tồn. Đất nƣớc phải đƣợc hoà bình, triều đình phải

có chính sách đối với những ngƣời nghèo khổ, nhà vua phải chăm lo, soi xét

đến đời sống của muôn dân:

“Quân vƣơng nhƣ hữu quang minh chúc,

Ủng chiếu cùng lƣ bộ ốc dân”

(“Cảm hứng” - Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Tức là nếu nhà vua có bó đuốc sáng thì nên soi đến dân nghèo. Triết lý

này không phải là sự thƣơng xót, thông cảm của bề trên đối với kẻ dƣới mà là

xuất phát từ những nhận thức sâu sắc về đời sống và vai trò của quần chúng

nhân dân trong xã hội: “Trời sinh ra dân chúng, sự ấm no, ai cũng có lòng

mong muốn cả”; “Xƣa nay nƣớc phải lấy dân làm gốc, nên biết rằng muốn

giữ đƣợc nƣớc, cốt phải đƣợc lòng dân”.

48

Nhân còn có nghĩa là “Trung” và “Thứ”. Bàn về chữ “Trung”, Khổng Tử

từng giải thích:“Ngƣời nhân là ngƣời mình muốn lập thân thì cũng giúp ngƣời

lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp ngƣời thành đạt”(Phù nhân giả,

kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân)[37, tr. 340]. Về chữ “Thứ”,

ông viết: “Điều gì mình không muốn, chớ thi hành cho ngƣời khác”(Kỉ sở bất

dục vật thi ƣ nhân)[37, tr. 473]. Nhƣ vậy, Trung, thứ” tức là từ lòng mình suy

ra lòng ngƣời, phải giúp ngƣời. Khổng Tử khuyên rằng nên làm cho ngƣời

những cái mà mình muốn và đừng làm cho ngƣời những cái mình không

muốn.Đối với bản thân mình, ngƣời có đức nhân là phải thực hiện đúng lễ:

“Dẹp bỏ tƣ dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân” (Khắc kỉ phục lễ vi

nhân)[37, tr. 471]. Lễ là hình thức thể hiện nhân và cũng là một chuẩn mực

của Ngũ thƣờng. Đồng thời, Nhân còn gắn liền với Nghĩa. Khổng Tử cho

rằng, ngƣời quân tử cần chú ý đến nghĩa và coi thƣờng lợi. Muốn thực hiện

nhân, nghĩa thì cần có lòng dũng cảm và có trí tuệ. Có thể nói, triết lý nhân

nghĩa là đạo lý làm ngƣời cao cả, vừa thƣơng ngƣời (ái nhân), vừa phải giúp

ngƣời (cứu nhân). Đó là đạo lý của trời đất.

Khi du nhập vào Việt Nam, tƣ tƣởng này chủ yếu hƣớng đến vấn đề

nhân sinh, đạo lý làm ngƣời mà tƣ tƣởng trung tâm là yêu nƣớc. Họ khuyên

con ngƣời phải sống đúng với bổn phận, trách nhiệm của mình, chớ vì lòng

tham mà tranh giành quyền lợi chém giết nhau bừa bãi. Trời không thiên lệch

một ai và rõ ràngluôn che chở cho ngƣời có đức, có nhân, luôn bênh vực cho

những con ngƣời hành động thuận theo ý trời, hợp với lòng dân, đúng với đạo

nghĩa. Biết dừng lại đúng giới hạn cho phép trong hành động là phép tắc quan

trọng cần có của mỗi ngƣời:

“Đạo ở mình ta lấy đạo trung,

Chớ cho đục, chớ cho trong” [54]

49

Cùng với Nho giáo, chịu ảnh hƣởng bởi tƣ tƣởng “đời là bể khổ” của

Phật giáo, phần lớn các nhà tƣ tƣởng Việt Nam trong giai đoạn từ thế kỷ XVI

đến đầu thế kỷ XIX đều đi đến những nhận định về nhân sinh trên nền tảng tƣ

tƣởng truyền thống Việt Nam.Nƣớc ta trong thời kỳ từ thế kỷ XVI đến đầu

thế kỷ XIX đang chìm trong những ràng buộc, lễ giáo khắc nghiệt tối tăm. Và

vì thế, số phận của con ngƣời cũng không thể nào vƣợt ra khỏi ranh giới của

hoàn cảnh xã hội, đặc biệt là ngƣời phụ nữ. Các tác giả thƣờng thể hiện quan

điểm thƣơng xót, cảm thông, là tiếng nói nhân đạo của con ngƣời dành cho

con ngƣời. Thông qua vận mệnh của ngƣời phụ nữ, các nhà tƣ tƣởng Việt

Nam đã nói lên vận mệnh của con ngƣời nói chung trong một xã hội bất công

tàn bạo. Những quan niệm này đã góp một sắc thái đặc biệt cho nền triết lý

nhân sinh Việt Nam:

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” [20]

Hoặc bộc lộ những phản ứng:

“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”[41]

Những nhà thơ tiêu biểu thời kì này có thể kể tới nhƣ Nguyễn Bỉnh

Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng, Đoàn Thị Điểm;.v.v. Các tác phẩm của

họ hàm chứa rất nhiều triết lý xã hội nhân văn đặc sắc và tiêu biểu cho lối tƣ

duy của ngƣời Việt. Xuất phát từ quan niệm “đời là bể khổ”, họ cho rằngkhổ

là do trong lòng con ngƣời luôn chứa đầy dục vọng. Con ngƣời khổ phần lớn

và chủ yếu là do chính hoàn cảnh sống đã dẫn dắt họ vào con đƣờng lợi

dục.Họ coi bản thân con ngƣời vốn không bao giờ đƣợc bình lặng và yên ổn

do vô minhche lấp, luôn phải đối mặt với khó khăn và khổ ải trong cuộc

sống của mình.

Nhƣ đã trình bày ở phần trƣớc, “dục” là tính tự nhiêncủa con ngƣời.

Ngay từ lúc sinh ra, con ngƣời cũng đã có dục trong lòng vì vậy luôn phải đáp

50

ứng những nhu cầu để thoả mãn chính bản thân. Nhân dục càng lớn thì con

ngƣời càng bị nhấn chìm vào vô minh, làm cho họ không phân biệt đƣợc phải

trái, đúng sai, đạo lý bị đảo lộn. Ngoài những nhu cầu tự nhiên về ăn, uống,

vui chơi.v.v. thìdanh lợi cũng là một dục vọng thƣờng hành trong con ngƣời.

Nó là hình thức để con ngƣời tự khẳng định bản thân mình. Do đó, con ngƣời

ai cũng có mong muốn đƣợc lập danh, ghi danh với trời đất. Nguyễn Công

Trứ đã ý thức rõ rệt:

“Không công danh thì nát với cỏ cây” [3]

Hay:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông”[3]

Thích công danh là đặc tính của con ngƣời, hoạ may chỉ có hoá công

mới không có ý thức công danh. Nguyễn Du trƣớc đó cũng đã nói:

“Công danh ai dứt lối này cho qua” [20]

Công danh là một phạm trù lƣỡng tính, vừa mang nội dung quốc gia xã

hội, vừa mang nội dung cá nhân. Từ xƣa, nhiều trang anh hùng hào kiệt đã sát

thân để thành danh. Lƣu danh, in dấu của mình vào lịch sử, vào nơi bất tử:

“Nhân sinh thế thƣợng thuỳ vô nghệ

Lƣu đắc đan tâm chiếu hãn thanh”

(“Ngƣời ở trên đời ai là không chết

Để lại tấm lòng son soi vào sách sử”)[3]

Tuy nhiên, điều đặc biệt là tƣ tƣởng các tác giả không chỉ có chí công

danh. Họ biết rõ công danh là đƣờng vinh nhục. Nguyễn Trãi xƣa đã nói:

“Dƣới công danh đeo khổ nhục”, đó là điều không ai tránh khỏi. Thời kỳ này,

Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định: “Làm tài trai chỉ sợ áng công danh”.

Chính sự quyến rũ của danh lợilàm cho con ngƣời không giữ đƣợc đúng đạo

của mình, làm cho con ngƣời với con ngƣời gây hại cho nhau.Đó là con

51

đƣờng gần nhất dẫn họ đến vô minh và làm những điều trái với luân thƣờng,

đạo lý. Vì vậy, để tránh gặp tai họa, con ngƣời không nên chỉ thấy cái lợi

trƣớc mắt mà quên mất rằng, cái lợi luôn đi đôi với cái hại.Xa lìa danh lợi

chính là một trong những cách tốt nhất để con ngƣời trở về với điều nhân, với

cái tâm trong sáng của mình.

Xuất phát từ quan điểm nhân nghĩa, các nhà tƣ tƣởng chủ trƣơng xóa bỏ

mọi dục vọng để trở về đúng đạo. Vì coi dục là tính tự nhiên, nên việc xoá bỏ

dục không phải là một điều dễ dàng. Theo quan điểm đã đƣa ra trong các sáng

tác, con ngƣời muốn từ bỏ đƣợc dục thì trƣớc hết, phải dứt bỏ đƣợc tham, sân,

si. Đó là một yêu cầu quan trọng trong cách giải thoát của con ngƣời:

“Bó thân về với triều đình

Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu

Áo xiêm ràng buộc lấy nhau

Vào luồn ra cúi công hầu mà chi

Sao bằng riêng một biên thuỳ

Sức này đã dễ làm gì đƣợc nhau

Chọc trời khuấy nƣớc mặc dầu

Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!” [20]

Nhìn chung, tƣ tƣởng nhân sinh xã hội thời kỳ này thắm đƣợm màu sắc

của Phật giáo và Nho giáo. Đây chính là tƣ tƣởng điển hình cho xu hƣớng

dung hoà Nho giáo - Phật giáo.Chữ “Nhân” có ý nghĩa trong việc hoàn thiện

giá trị con ngƣời và là nguyên tắc quy định bản tính, quan hệ giữa ngƣời với

ngƣời, ở mọi tầng lớp trong xã hội.

2.3.3. Tư tưởng vô sự

Các nhà thơ thời kỳ này chủtrƣơng sống vô vi và cho rằng sống vô sự

“ấy là tiên”. Bởi lẽ, con ngƣời sống trên đời, dẫu có tài, có khôn ngoan đến

mấy cũng chẳng tránh khỏi những lúc gặp khó khăn. Cho nên, để giữ gìn cuộc

52

sống yên ổn, ngƣời đời nên lánh xa những chốn xấu, những nơi lầu vàng gác

ngọc; nên xử sự theo đúng đạo lý Thánh hiền, theo lẽ kinh quyền:

“Gần son thì đỏ mực thì đen,

Sáng biết nhờ ơn thuở bóng đèn.

Ăn uống miễn theo nơi phép tắc,

Tới lui cho biết lẽ kinh quyền…

Ở thế có khôn thì có khó,

Chữ rằng: Vô sự tiểu thần tiên” [54]

Triết lý vô sự chẳng những bày tỏ một quan niệm sống mà còn là lời

khuyên về cách xử thế. Triết lý đó bắt nguồn từ việc chứng kiến cảnh ngƣời

đời đua tranh quyền lực và cảnh con ngƣời tự phụ, kiêu căng tranh khôn,

tranh tiếng. Chính vì vậy, các nhà tƣ tƣởng khuyên mọi ngƣời hãy luôn cảnh

tỉnh để tránh bất cập, và muốn tránh đƣợc bất cập thì tốt nhất là tuân thủ đạo

“trung thƣờng”, tức là giữ nguyên tắc không thiên lệch, thái quá:

“Đạo ở mình ta lấy đạo trung

Chớ cho đục, chớ cho trong” [54]

Đạo “trung thƣờng” tức là trung dung, không thái quá và cũng không bất

cập. Con ngƣời muốn biết đạo trời và giữ đƣợc đạo ngƣời thì phải chú trọng,

không đƣợc phép bỏ qua đạo trung dung, phải tâm niệm đạo đó thƣờng hằng

và bất biến. Mối quan hệ giữa đạo trời và đạo ngƣời ở thời kỳ này thực chất là

phản ánh thực trạng xã hội đƣơng thời vô cùng rối ren, phức tạp. Để tìm đến

đƣợc đạo trung thƣờng, con ngƣời không chỉ cần có khôn ngoan mà phải có

sự tham dự của “tâm”.

Vô sự không phải là sự thờ ơ của con ngƣời trƣớc các hiện tƣợng của thế

giới đang vận động, biến đổi vô thƣờng, mà nhằm làm cho tâm tĩnh để suy xét

chúng đƣợc chính xác hơn:

53

“Đƣợc mất, dƣơng dƣơng ngƣời thái thƣợng,

Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,

Không Phật, không tiên, không vƣớng tục” [3]

Tâm tĩnh là mệnh lệnh tuyệt đối, đồng thời là điều kiện tất yếu để nhận

thức thế giới xung quanh. Đó cũng là điểm gặp gỡ của tam giáo mà các tác

giả đã lĩnh hội đƣợc trong nhận thức luận của mình. Nguyễn Bỉnh Khiêm

không giải thích tâm là gì, ông chỉ nói: “Ôi! nói về tâm là nói về chỗ mà chí

đạt tới vậy, mà thơ lại là để nói chí”. Thiết nghĩ, một câu triết lý ngắn gọn này

bao hàm cả một vấn đề lớn về “tâm” nhƣ là phạm trù dùng để chỉ ý thức con

ngƣời. Chí đƣợc Nguyễn Bỉnh Khiêm hƣớng tới cuộc sống nhàn dật, tự tại,

bởi theo ông, trong trạng thái nhàn dật tâm mới tĩnh, mới đủ điều kiện để suy

ngẫm “lẽ xƣa nay”.Ông nói:

“Kiền khôn tĩnh lý suy,

Kim cổ nhàn trung đắc.

Hiểm mạc hiểm thế đồ,

Bất tiễn tiện kinh cức.

Nguy mạc nguy nhân tâm,

Nhất phóng tiện quí quắc.

Quân tử cầu sở chỉ,

Chí thiện tƣ vi cực”

Nghĩa là:

(Tâm tĩnh biết lẽ càn khôn,

Trong nhàn, ngẫm lẽ xƣa nay.

Không gì hiểm bằng đƣờng đời,

Không cắt đi thì toàn gai góc.

54

Không gì nguy bằng lòng ngƣời,

Buông lỏng ra thì đều là quỉ quái.

Quân tử tìm chỗ đứng lại,

Chí thiện ấy là chỗ cùng tột) [54]

Bởi vậy, trong cách ứng xử với ngƣời khác, tốt nhất là “vô sự”, tức là

làm tâm không bị dao động:

“Chữ rằng nhân dĩ hòa vi quý

Vô sự thì hơn, kẻo phải lo”[54]

Hoặc:

“Có thuở đƣợc thời mèo đuổi chuột

Đến khi thất thế kiến tha bò

Đƣợc thua sau mới ăn năn lại

Vô sự chẳng hơn có sự ru”[54]

Có thể nói, việc không tranh giành, dĩ hòa vi quý chính là tƣ tƣởng bất

tranh của Lão Trang và cũng là triết lý sống của con ngƣời trong giai đoạn

lịch sử thời kỳ này.Triết lý này cũng là một điểm nổi bật trong hệ thống lý

luận của họ. Trong một giới hạn nhất định thì “hoà” là một triết lý sống tốt

đẹp, là biện pháp để hành động có hiệu quả và còn là động lực của sự phát

triển. Thế nhƣng, triết lý này lại coi “hoà” là nguyên tắc tuyệt đối, vô điều

kiện thì đó lại là một sự đồng nhất, tuyệt đối hóa sai lầm.Chính do tính chất

duy tâm của thế giới quan đó nên thời kỳ này cũng có nhiều triết lý mang tính

chất tiêu cực khi khuyên con ngƣời an phận, thủ tiêu đấu tranh:

“Già đã khỏi áng công danh

Tự tại nào âu lụy đến mình

Nhàn đƣợc thú vui hay nấn ná

Nghĩ xem sự thế biếng đua tranh” [54]

55

Khi bàn đến vòng tròn sinh - lão - bệnh - tử, triết lý vô sự thời kỳ này

cũng có nhiều kiến giải mang cả ý nghĩa tích cực và ý nghĩa tiêu cực. Sự sống

chết luôn làm con ngƣời phân tâm, lo sợ và không giữ đƣợc mình. Các nhà

thơ thời kỳ này đã đem đến một cách nhìn mới trong vấn đề sinh tử. Với họ,

sinh tử ở con ngƣời là điều tất yếu phải diễn ra trong vòng sống của một đời

ngƣời, đã đƣợc sinh ra ở trên đời thì tất có lúc phải diệt. Con ngƣời không thể

thoát khỏi cái vòng sinh tử luân hồi, nên tốt nhất là phải biết tu dƣỡng bản

thân để tránh gây ra tai vạ, còn bằng không thì sẽ tự đƣa mình vào khổ ải.

Việc con ngƣời sống hay chết đều phụ thuộc phần lớn vào cách sống của họ,

biết tu dƣỡng, chăm lo cho bản thân thì sống chết không là mối lo. Vì vậy,

con ngƣời không nên vƣớng bận trƣớc vấn đề sinh tử, mà quan trọng là phải

biết giữ mình để tạo sự tin tƣởng với mọi ngƣời. Thái độ thờ ơ trƣớc vấn đề

sinh tử đã cho chúng ta thấy một quan điểm sống điềm nhiên, tự tại, không vì

danh lợi mà tham sống, sợ chết.Từ đó, họ có quan niệm tiêu cực khi khuyên

con ngƣời cần phải biết đợi mệnh, tuân theo mệnh.

Nhìn chung, những tƣ tƣởng nêu ra trong các tác phẩm thơ ca thời kỳ

này đều có ý nghĩa quan trọng trong việc giải thoát con ngƣời, hƣớng con

ngƣời đến những cách nhận thức đúng đắn.Các nhà tƣ tƣởngcố gắng tìm mọi

cách để hƣớng con ngƣời tới sự giải thoát, tới một chân lý cao đẹp hơn. Bí

quyết của sự giải thoát là phải biết “ngăn tà khí, giữ lòng thành, xa rời cái gì

hão huyền, để phục hồi cái tia sáng (trí tuệ), không đến nỗi chìm đắm trong

bể khổ, mà đƣợc mọi điều giải thoát” [5; tr.144] (nhàn tà, tồn thành, xa lìa hƣ

vọng dĩ phục kỳ quang minh). Ở đây, ngăn tà, giữ thành là “giới”, xa lìa hƣ

vọng là “định” và phục hồi sự sáng là “tuệ”. Họ đã theo quan điểm nhà Phật

khi đƣa ra phƣơng pháp tam họcđể giúp con ngƣời tu tập, thực hiện sự giải

thoát với chính bản thân mình. “Giới - định - tuệ” chính là con đƣờng giải

thoát, là phƣơng tiện giải thoát tốt nhất để đƣa con ngƣời tới sự giác ngộ.

56

2.4.Một số giá trị của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca

ViệtNam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX

Con ngƣời dù có hiện đại đến đâu chăng nữa, cũng đều từ truyền thống

đi lên. Bản thân họ tất yếu đã có nhiều mối liên hệ hữu hình và vô hình ràng

buộc với truyền thống. Để lƣu giữ và phát huy đƣợc những giá trịtƣ tƣởng tốt

đẹp của dân tộc, trƣớc hết đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn nhận và đánh

giá đúng đắn về vấn đề này.

2.4.1. Những giá trị tích cực của tư tưởng triết học về con người trong

thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX

Nhìn lại các triều đại phong kiến Việt Nam thấy rằng, phần lớn các triều

đại khi mới lên đƣợc nhân dân ủng hộ, lập đƣợc nhiều công tích lớn, có ý

nghĩa lịch sử, nhƣng sau đó không lâu thì suy thoái về văn hóa, đạo đức trong

đội ngũ quan chức và trong triều đình, dẫn đến sụp đổ. Tiếp theo, triều đại

khác lên thay rồi cũng lặp lại nhƣ vậy. Mỗi khi thoái hóa đạo đức trong đội

ngũ quan lại thì dẫn đến đạo đức xã hội suy đồi, trật tự xã hội rối ren. Một nửa

số triều đại phong kiến tồn tại đƣợc lâu dài là nhờ biết chăm lo xây dựng đời

sống nhân dân, xây dựng văn hóa trong chính trị “dân là gốc”. Quan niệm

triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam có ảnh hƣởng mạnh mẽ đến con

ngƣời và cá nhân qua nhiều thời đại.Các nhà thơ đã giúp con ngƣời hƣớng về

cái thiện và cái đức để cƣ xử tốt hơn trong tập thể, trong gia đình, trong cộng

đồng. Việc vận dụng những tƣ tƣởng này vào quá trình xây dựng con ngƣời

mới có nhân cách, có văn hóa trong giai đoạn hiện nay là một nội dung đặc

biệt quan trọng.

Thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX là tiếng nói chân

thực về hiện thực xã hội. Nhìn chung, các quan niệm triết học xoay quanh vấn

đề con ngƣờitrong các tác phẩm thơ ca thời kỳ này là sự phản ánh lại hiện

thực xã hội, tố cáo chiến tranh phong kiến, phê phán bá đạo cƣờng quyền, lên

57

án một xã hội suy đồi đạo đức và cảnh tỉnh, khuyên răn ngƣời đời hãy quay

về đƣờng ngay nẻo chính. Các tƣ tƣởng thời kỳ này có đóng góp to lớn cho sự

nghiệp giáo dục con ngƣời.

Các nhà thơ, nhà tƣ tƣởngthời kỳ này hầu hết đều tin vào sự chi phối của

mệnh trờiđối với con ngƣời. Điều đó cho thấy tƣ tƣởng triết học về con ngƣời

của họ đã thể hiện rõ sự linh hoạt và sáng tạo trong cách kế thừa, chọn lọc

những tinh hoa của nhân loại để lại, đặc biệt là sự kế thừa tƣ tƣởng của các

bậc tiền bối.

Những quan niệm phụ tử, phu phụ với các đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín

của đạo Nho pha lẫn với tính thiện, bác ái của đạo Phật và kết hợp nhẹ nhàng

với tƣ tƣởng vô vi, vô sự, vô tranh của Lão Trang mang một ý nghĩa tích cực.

Những tƣ tƣởng này phần nào đó đã hƣớng con ngƣời tới cái chân, thiện, mỹ.

Quan niệm triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam giai đoạn từ thế

kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX còn biểu hiện truyền thống văn hóa ngàn đời của

dân tộc Việt. Trong các tác phẩm, ta thấy đƣợc những đạo lý cao đẹp, những

cách ứng xử tinh tế, năng động, linh hoạt trong tƣ duy đã ảnh hƣởng sâu sắc

đến quan niệm nhân sinh của con ngƣời Việt.Là những ngƣời sống và tham

gia vào chính sự, nên những tƣ tƣởng của các nhà thơ thời kỳ này không nằm

ngoài mục đích vì dân, vì nƣớc. Tƣ tƣởng của họ mang tinh thần hành động

và nhập thế tích cực, đáp ứng đƣợc đòi hỏi của xã hội đƣơng thời.

Ngày nay, tuy đất nƣớc và con ngƣời Việt Nam đang sống trong thời

hiện đại, đang phát triển về mọi mặt nhƣng những quan niệm nhân sinh vẫn là

hành trang cần thiết cho mọi thế hệ và cũng chính là truyền thống văn hóa

ngàn đời của dân tộc Việt. Con ngƣời Việt Nam vẫn giữ gìn đƣợc những điểm

mạnh của bản thân mình. Đó là:

Thứ nhất, trong công cuộc đổi mới đất nƣớc, trong điều kiện mới của

khu vực và thế giới, con ngƣời Việt Nam vẫn luôn gắn bó mật thiết với những

58

giá trị văn hóa truyền thống, những quan niệm truyền thống với những phẩm

giá của dân tộc mà điểm nổi bật là tinh thần yêu nƣớc, ý thức độc lập dân tộc,

tự lực, tự cƣờng, đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Biểu hiện của điểm mạnh này

là thái độ tích cực của mỗi công dân trƣớc vận mệnh của Tổ quốc, trƣớc các

chuyển đổi về kinh tế, xã hội hiện nay.

Thứ hai, con ngƣời Việt Nam vẫn luôn thể hiện đức tính cần cù, sáng tạo

trong mọi hoạt động. Đức tính này là một giá trị đặc trƣng, chiếm vị trí xứng

đáng trong hệ thống giá trị về nhân cách của con ngƣời Việt Nam. Thái độ

tích cực của con ngƣời Việt Nam trong định hƣớng và lựa chọn giá trị này là

điều kiện hết sức thuận lợi cho công tác giáo dục, từ giáo dục truyền thống,

lối sống đến giáo dục đạo đức, nhân cách con ngƣời hiện đại;.v.v. nhằm phục

vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

Thứ ba, nét đặc trƣng của đời sống tinh thần, của phẩm giá con ngƣời

Việt Nam là truyền thống cộng đồng, lòng nhân ái, những tình cảm vị tha và

lòng khoan dung;.v.v. vẫn đƣợc giữ vững, phát huy trong điều kiện mới của

đất nƣớc. Những giá trị nền tảng cốt lõi ấy là cơ sở để phát triển tính nhân văn

và xây dựng văn hóa Việt Nam hiện đại, tiên tiến, mang bản sắc dân tộc. Có

thể khẳng định rằng, đây là một thuận lợi căn bản để chúng ta thực hiện

chƣơng trình văn hóa trong toàn xã hội đối với các thế hệ con ngƣời Việt

Nam hiện nay và mai sau.

Thứ tƣ, con ngƣời Việt Nam vẫn giữ đƣợc truyền thống hiếu học, tôn sƣ

trọng đạo và sự hình thành, phát triển các giá trị mới của văn hóa và con

ngƣời đã chứng minh sự kết hợp giữa truyền thống với hiện đại trong thời kỳ

đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

Thứ năm, trong công cuộc đổi mới, mô hình gia đình truyền thống đang

có những biến đổi lớn, phức tạp do sự tác động của kinh tế hàng hóa, cơ chế

thị trƣờng, do những biến đổi của xã hội đang quá độ lên CNXH;.v.v. Tuy

59

vậy, những giá trị tinh thần, đạo lý của gia đình truyền thống vẫn đƣợc giữ

vững, có ảnh hƣởng tích cực trong đời sống gia đình Việt Nam, vẫn là nhân tố

quan trọng đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội.

2.4.2. Những hạn chế của tư tưởng triết học về con người trong thơ ca

Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX

Bên cạnh những mặt tích cực đem đến lợi ích cho dân, cho nƣớc, tƣ

tƣởng về con ngƣời thời kỳ này còn một số mặt hạn chế cần suy nghĩ.

Trƣớc hết, các tƣ tƣởng về con ngƣời vẫn còn nặng về duy tâm, vẫn còn

có những mâu thuẫn chƣa dứt khoát: không lý giải đƣợc các vấn đề sống -

chết, may - rủi, phúc - họa;.v.v. Vì vậy, họ lấy tƣ tƣởng Phật giáo làm chỗ dựa

tinh thần. Mặt khác, họ cho rằng sự tồn tại hay không tồn tại của mọi sự vật,

hiện tƣợng đều do “Trời” quyết định. Vấn đề giải thoát con ngƣời chủ yếu

hƣớng về tâm linh, tinh thần, chứ chƣa phải là sự giải phóng con ngƣời cả về

tinh thần lẫn thể xác. Nhà tƣ tƣởng kêu gọi con ngƣời sống đúng đạo, đặc biệt

là đạo trung hiếu, đạo cƣơng thƣờng, cần thiết thì nên tìm đến cuộc sống ẩn

dật để giữ đúng đạo của mình.

Các quan niệm về sự phát triển và cuộc đời con ngƣời còn nằm trong

khung tròn khép kín, đó là sự phát triển tuần hoàn. Rõ ràng trong quan niệm

của các nhà tƣ tƣởng thì con ngƣời phát triển trong một cái thể tuần hoàn bế

tắc, xã hội vận động trong vòng tròn luẩn quẩn của chế độ phong kiến. Họ

không nhận thức đƣợc tác dụng mạnh mẽ của hoạt động con ngƣời, không

nhận ra vai trò to lớn của con ngƣời, nét đẹp lao động chân chính của con

ngƣời có thể tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn thế giới hiện hữu. Họ không nhận

thấy tác dụng ngƣợc lại của hành động con ngƣời trong việc cải tạo thiên

nhiên và cải tạo xã hội.

Vì đồng nhất quy luật tự nhiên với quy luật xã hội nên các nhà tƣ tƣởng

không thấy đƣợc sự phát triển ngày càng cao của xã hội loài ngƣời, không

60

nhận thấy yêu cầu của lịch sử và thời đại, không quan niệm một trật tự khác

thay cho trật tự xã hội phong kiến đƣơng thời. Chính vì vậy, họ không tán

thành thậm chí còn phê phán đƣờng lối đấu tranh của các cuộc khởi nghĩa

nông dân, không chấp nhận sự trỗi dậy của một thế lực mới đang cần thay thế

cho một thế lực cũ đã hết vai trò lịch sử.

Vì đƣợc đào tạo trong môi trƣờng cửa Khổng, sân Trình nên khi truyền

bá tƣ tƣởng cho đời, các nhà tƣ tƣởng không muốn thay đổi nguyên lý chính

trị và đạo đức Nho giáo với lý thuyết Tam cƣơng, ngũ thƣờng. Bằng chứng là

tuy không câu nệ, cố chấp trong quan niệm xuất xử nhƣng họ vẫn chịu sự

ràng buộc bởi chữ “Trung”, tức là không thoát khỏi cái vòng kềm tỏa của ý

thức hệ phong kiến.

Bên cạnh đó, quan niệm sống nhàn, lánh xa thế sự cũng ít nhiều mang ý

nghĩa tiêu cực. Thái độ thờ ơ trƣớc thế sự đã thủ tiêu tƣ tƣởng đấu tranh giành

quyền sống của nhân dân. Trƣớc những sự việc sai trái, con ngƣời không thể

hiện tinh thần đấu tranh cho lẽ phải, cho công lý; không thể hiện trách nhiệm

đối với cộng đồng xã hội. Đồng thời, đẩy họ rơi vào cách nghĩ “an phận thủ

thƣờng”, không có tinh thần cầu tiến, cúi đầu chấp nhận sự an bài của số phận

mà không đấu tranh để thay đổi số phận.

Ngoài ra, một số bài thơ có tính chất triết lý về thói đời, về thế thái nhân

tình ít nhiều khiến ngƣời đọc rơi vào trạng thái hoang mang, dao động, có khi

mất cả niềm tin về một xã hội tốt đẹp, văn minh; về bản chất “chân, thiện,

mỹ” trong mỗi con ngƣời.

Những hạn chế về mặt tƣ tƣởng vẫn gây ảnh hƣởng lớn ở một số khía

cạnh đối với con ngƣời Việt Nam hiện nay. Qua gần một thế kỷ chịu ách đô

hộ của Trung Quốc, đất nƣớc ta đã hình thành con ngƣời Việt Nam mang tính

gia trƣởng nặng nề. Chính điều này làm cho sự phát triển về giới chƣa đƣợc

toàn diện, vẫn còn tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ trong gia đình và xã hội. Điều

61

này đã bóp chết sự giải phóng phụ nữ khỏi những công việc nội trợ gia đình,

thoát khỏi tƣ tƣởng nề hà phong kiến để đóng góp vào sự phát triển kinh tế và

xã hội ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.

Cùng với những ảnh hƣởng của hệ tƣ tƣởng cũ, những mặt trái của kinh

tế thị trƣờng cũng đang tác động tiêu cực tới sự phát triển con ngƣời Việt

Nam. Một trong những biểu hiện rõ nét của xu hƣớng này là sự suy giảm về

mặt đạo đức của không ít ngƣời, nhất là lớp trẻ, thậm chí của cả một số cán

bộ, đảng viên suy thoái, biến chất. Cùng với đó là sự xuất hiện các yếu tố tiêu

cực khác nhƣ chủ nghĩa cục bộ, địa phƣơng, lối sống thực dụng chạy theo

đồng tiền, đề cao quá mức tiện nghi vật chất, xa hoa, lãng phí, sự phát triển

chủ nghĩa cá nhân vị kỷ biểu hiện trong lối sống, trong cách ứng xử giữa

ngƣời với ngƣời. Những tiêu cực này đang ảnh hƣởng đến ý thức tƣ tƣởng,

đạo đức, lối sống của nhân dân ta. Vấn đề đặt ra ở đây chính là vấn đề quan

hệ con ngƣời trong nền kinh tế thị trƣờng, là ý thức về trách nhiệm, bổn phận,

nghĩa vụ của cá nhân đối với những ngƣời thân trong gia đình, đối với cộng

đồng và toàn xã hội. Nếu không đặt vấn đề giáo dục truyền thống, nếu không

chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống;.v.v. một cách đúng mức cả trong gia

đình, nhà trƣờng lẫn xã hội thì tình trạng suy thoái đạo đức chẳng những

không sớm đƣợc ngăn chặn mà còn đứng trƣớc nguy cơ tiếp tục gia tăng.

2.4.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy những giá trị tích cực và khắc

phụcnhững mặt tiêu cựccủa tư tưởng triết học về con người trong thơ ca

Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX đối với quá trình xây dựng con

người mới Việt Nam

Trong thời kỳ hiện nay, khi vận mệnh đất nƣớc đã đổi mới, thời kỳ đất

nƣớc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thì con ngƣời Việt Nam cũng phải có

những phẩm chất nhất định để bắt kịp thời cuộc, theo kịp sự phát triển của thế

giới và khu vực. Điều này làm cho con ngƣời Việt Nam phải thay đổi để có

62

thể đáp ứng đƣợc các yêu cầu hội nhập thế giới và thời đại. Để đảm bảo cho

sự phát triển này cần phải có mô hình xây dựng con ngƣời Việt Nam phù hợp

với thời đại, đáp ứng đƣợc nhu cầu của nền văn hóa mới, khoa học mới trên

cơ sở xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta.Con ngƣời mới phải mang đủ

những phẩm chất cơ bản sau:

Một là, trung với nƣớc, hiếu với dân. Trung - Hiếu là những khái niệm

đã có trong đạo đức truyền thống Việt Nam và phƣơng Đông. Khái niệm này

ăn sâu bám rễ trong tâm hồn ngƣời Việt. Trong lịch sử Việt Nam, tƣ tƣởng

trung quân cũng đã tồn tại nhƣ ở những nƣớc phƣơng Đông chịu ảnh hƣởng

của Nho giáo, song tƣ tƣởng trung quân ở Việt Nam gắn bó rất chặt chẽ với tƣ

tƣởng ái quốc. Trung với nƣớc đƣợc coi là phẩm chất cao quý nhất của con

ngƣời Việt Nam trong giai đoạn lịch sử mới. Còn “Hiếu” là một phẩm chất

đạo đức quan trọng đƣợc hình thành trong gia đình ở mối quan hệ giữa cha

mẹ - con cái, nêu lên nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ. Hiếu là điều kiện

để duy trì mối quan hệ gia đình. Cha mẹ nào ở bất kỳ thời đại nào cũng cần

những ngƣời con có hiếu. Trung với nƣớc là trung với sự nghiệp xây dựng đất

nƣớc. Hiếu với dân là phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân chủ. Cán bộ

Đảng viên phải là ngƣời đầy tớ trung thành với nhân dân. Phẩm chất “trung

với nƣớc, hiếu với dân” là phẩm chất bao trùm và quan trọng nhất chi phối

các phẩm chất khác.

Hai là, yêu thƣơng con ngƣời, sống có tình nghĩa. Đây là phẩm chất cao

đẹp đòi hỏi phải có trong đạo đức cách mạng. Nếu không có tình yêu thƣơng

con ngƣời thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến CNXH.

Yêu thƣơng con ngƣời xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết

hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại. Nó thể hiện mối quan hệ giữa cá

nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội. Tình yêu thƣơng con ngƣời thể hiện

trƣớc hết là tình yêu thƣơng với đại đa số nhân dân, những ngƣời lao động

63

bình thƣờng, ngƣời nghèo khổ;.v.v. Nó hiện diện trong đời sống hàng ngày,

chẳng những đòi hỏi mọi ngƣời theo tinh thần “kỷ sở bất dục, vật thi ƣ nhân”

mà còn đòi hỏi mọi ngƣời phải nghiêm khắc chặt chẽ với mình, rộng lƣợng

với ngƣời khác, đòi hỏi phải nâng phẩm giá con ngƣời lên. Phát huy cái tốt để

đi đến hạn chế cái xấu. Không đƣợc kìm hãm khả năng vƣơn lên chân thiện

mỹ của con ngƣời. Sự yêu thƣơng con ngƣời trong đạo đức cách mạng có một

sức hút mạnh mẽ.

Trong giai đoạn hiện nay, mỗi ngƣời dân Việt Nam cần phải thấm nhuần

đạo đức cách mạng đã nêu trên. Để làm đƣợc điều đó, có thể nêu ra một số

biện pháp sau:

Thứ nhất, tăng cƣờng tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về các

giá trị truyền thống của con ngƣời Việt Nam.

Vấn đề văn hóa nói chung, giá trị truyền thống của con ngƣời Việt Nam

nói riêng đã và đang đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm sâu sắc. Điều này thể

hiện ở công tác tuyên truyền, giáo dục của Đảng và Nhà nƣớc về văn hóa

trong suốt thời gian qua. Sự ra đời của Nghị quyết lần thứ năm của Ban chấp

hành Trung ƣơng Đảng khóa VIII là một sự chuyển biến sâu sắc trong toàn

Đảng, toàn dân nhận thức về văn hóa, về bản sắc văn hóa dân tộc, khẳng định

vị trí chiến lƣợc quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng ở giai

đoạn mới.

Song song với việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của bản sắc

văn hóa dân tộc, phải tăng cƣờng hơn nữa việc nâng cao nhận thức của toàn

xã hội về vai trò, tầm quan trọng của các giá trị truyền thống của con ngƣời

Việt Nam. Quan trọng hơn là làm thế nào trong toàn Đảng, toàn dân có một

tình cảm thật sự, một thái độ, một niềm tin đúng đắn vào các giá trị truyền

thống, để họ lấy đó làm cơ sở cho sự phấn đấu, rèn luyện về tƣ tƣởng, đạo

đức, lối sống. Bởi lẽ, chính các giá trị truyền thống này luôn là động lực quan

64

trọng tạo nên sức mạnh và bản sắc của nền văn hóa dân tộc, tạo nên tâm hồn,

cốt cách của con ngƣời Việt Nam qua suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm.

Thứ hai, thƣờng xuyên quan tâm, tạo lập môi trƣờng xã hội lành

mạnh, đấu tranh chống nguy cơ xói mòn các giá trị truyền thống của con

ngƣời Việt Nam.

Ngƣời Việt Nam có khá nhiều giá trị truyền thống nhƣ tính cố kết trong

cộng đồng, yêu thƣơng đùm bọc lẫn nhau trong đời sống, nhất là những lúc

khó khăn, hoạn nạn;.v.v. Đó là những đặc trƣng tạo nên khối đại đoàn kết dân

tộc. Vì vậy, chúng ta cần phải thƣờng xuyên quan tâm, lƣu giữ nhất là khi nền

kinh tế thị trƣờng đang ngày càng nêu cao lợi ích cá nhân. Đây là mối đe dọa

trực tiếp đến những phẩm hạnh truyền thống.

Các giá trị truyền thống của con ngƣời Việt Nam đƣợc hình thành từ rất

sớm trong lịch sử. Cũng vì vậy mà tính đến nay, nó phải trải qua nhiều cuộc

thăng trầm. Trong đó, có lúc phải đối mặt với những thử thách rất ác liệt bởi

nguy cơ bị đồng hóa, bị đánh mất bởi các yếu tố văn hóa ngoại xâm. Vƣợt qua

tất cả những khúc quanh của lịch sử, các giá trị truyền thống của con ngƣời

Việt Nam đã khẳng định sự tồn tại và phát triển, khẳng định đƣợc bản lĩnh và

bản sắc của mình trong giao lƣu và hợp tác quốc tế.

Ngày nay, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang đƣợc tiến hành

trong bối cảnh toàn cầu hóa một cách mạnh mẽ, nó cuốn tất cả các dân tộc

khác nhau trên thế giới vào vòng xoáy chung. Ai cũng biết toàn cầu hóa mang

đến cho các quốc gia nhiều cơ hội mới mà từ trƣớc đến nay chƣa từng có,

nhƣng nó cũng đặt ra không ít những nguy cơ, thử thách mới. Trong đó, có

nguy cơ các giá trị truyền thống của con ngƣời Việt Nam rất dễ bị xói mòn.

Trƣớc thực trạng đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng

sản Việt Nam đã rút kinh nghiệm: trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào,

65

đặc biêt là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc,

phải: “Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” [19, tr.315] nhƣng phải:

“Giữ vững truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc”.[19, tr.315]

Thứ ba, tích cực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm đổi mới và

nâng cao giá trị truyền thống của con ngƣời Việt Nam trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đối với một dân tộc, các giá trị truyền thống của con ngƣời là một trong

những yếu tố quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc đó. Hơn nữa,

trong quá trình vận động và phát triển của nền văn hóa, các giá trị truyền

thống của con ngƣời còn là yếu tố nội sinh, có tác dụng thúc đẩy quá trình vận

động và phát triển của nền văn hóa. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức rõ,

trong quá trình vận động và phát triển của nền văn hóa không phải chỉ có sự

tác động từ yếu tố nội sinh, mà còn có cả yếu tố ngoại sinh. Vì vậy, phải biết

lựa chọn những yếu tố phù hợp với điều kiện cụ thể nhằm tạo động lực phát

triển con ngƣời và thúc đẩy đất nƣớc đi lên. Song, cần tránh hai khuynh

hƣớng đổi mới quá mức để đánh mất hoặc bảo thủ không chịu đổi mới, tiếp

thu cái mới.

Trong điều kiện hiện nay, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, các dân

tộc khác nhau trên thế giới không thể khép mình, đóng kín cửa. Cho nên, để

đƣa một nền văn hóa phát triển, các giá trị truyền thống trong nền văn hóa

phải đƣợc cọ xát, giao lƣu tiếp biến, hội nhập với các giá trị của nhiều dân tộc

khác trên thế giới. Chính trong quá trình này, các giá trị nội sinh - giá trị

truyền thống - mới có cơ hội khẳng định chính mình và đƣợc thẩm định lại,

đồng thời các giá trị ngoại sinh sẽ đƣợc tiếp thu để bổ sung và nâng cao giá trị

truyền thống. Điều đó là một tất yếu khách quan.

66

* Tiểu kết

Nghiên cứu quan niệm triết học về con ngƣời không giống với việc tìm

hiểu quan niệm con ngƣời trong văn học. Tuy nhiên, giữa các khoa học vẫn

có mối quan hệ nhất định. Lý tƣởng chính trị xã hội; đạo đức, lối sống; kỹ

năng lao động sáng tạo, ý thức công dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc;.v.v. là những nội dung cơ bản cần đƣợc coi trọng đúng mức trong quá

trình xây dựng và phát triển con ngƣời. Đây là con đƣờng cơ bản để đảm bảo

sự phát triển bền vững hay nói cách khác chính là đảm bảo chất lƣợng của

quá trình phát triển đất nƣớc.Nền kinh tế mà chúng ta hƣớng tới xây dựng là

nền kinh tế nhân văn, nền kinh tế đề cao giá trị con ngƣời, phục vụ con

ngƣời. Vì vậy, con ngƣời vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát

triển bền vững. Sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nƣớc phải hƣớng tới

phục vụ con ngƣời, giải phóng các tiềm năng sáng tạo của con ngƣời, phấn

đấu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo cơ hội và điều

kiện để nhân dân tham gia vào làm chủ quá trình sáng tạo, sản xuất, truyền

bá và thụ hƣởng các thành quả chung của xã hội. Do đó, hƣớng tới các giá

trị nhân văn, vì con ngƣời, cho con ngƣời, chăm lo vun đắp cho sự nghiệp

“trồng ngƣời” là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và

phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nƣớc ta hiện nay.

67

KẾT LUẬN

Con ngƣời là sản phẩm của lịch sử, là chủ thể của lịch sử và là yếu tố

quan trọng nhất để xây dựng một xã hộiổn định, một nhà nƣớc cƣờng thịnh.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu, chăm lo phát triển nhân tốcon ngƣời dù ở bất

cứ hoàn cảnh nào cũng là điều quan trọng bậc nhất. Từ thế kỷ XVI, đặc biệt là

từ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX con ngƣời luôn sống trong tâm trạng lo

âu, sầu buồn. Họ chìm trong triền miên đau khổ bởi nhiềunguyên nhân. Trong

đó, nguyên nhân cơ bản nhất là các thế lực thống trị suy tàn ngày càng tăng

cƣờng áp bức bóc lột nhân dân một cách nặng nề. Do đó, chƣa bao giờ quan

niệm về con ngƣời xuất hiện trong thơ ca cũng nhƣ trong hệ tƣ tƣởng của

ngƣời Việt Nam nhiều nhƣ thế.

Bản chất của con ngƣời Việt Nam là bất biến, chỉ biểu hiện của nó là

thƣờng biến.Vì thế, trong xã hội hiện đại của chúng ta, bản chất tốt đẹp của

truyền thống vẫn còn, song có lẽ vì hoàn cảnh xã hội thay đổi, con ngƣời phải

đối mặt với vô vàn những lo toan vật chất và vô số những áp lực trƣớc cuộc

sống nên đã làm cho những giá trị truyền thống trong con ngƣời có ít nhiều

thay đổi. Tìm hiểu vấn đề quan niệm triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt

Nam giai đoạn từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX là một vấn đề đặc biệt có ý

nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng con ngƣời mới ở nƣớc ta hiện nay.

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay đang diễn

ra trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ phát triển

mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội, thông tin và kinh tế tri thức.

Sự phát triển xã hội diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhƣ kinh tế,

chính trị, văn hóa;.v.v. Điều đó đòi hỏi Việt Nam phải ra sức phát huy tối đa

nội lực, nhất là nhân tố con ngƣời cùng những giá trị truyền thống tốt đẹp. Vì

vậy, việc phát huy giá trị truyền thống của con ngƣời Việt Nam là vấn đề đặc

biệt quan trọng. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, biết bao giá trị

68

truyền thống tốt đẹp của con ngƣời Việt Nam đã đƣợc hình thành, đƣợc dƣ

luận xã hội cổ vũ, trở thành lƣơng tâm và danh dự của mỗi con ngƣời. Có thể

nêu ra một số giá trị truyền thống cơ bản, nhƣ tinh thần yêu nƣớc, tinh thần

nhân ái, khoan dung, tinh thần đoàn kết;.v.v. Đó là những giá trị truyền thống

cơ bản, vô cùng quý báu, đã tạo nên cốt cách riêng biệt của con ngƣời Việt

Nam. Có những giá trị đi qua mọi thời đại nhƣ đạo đức, nhân cách. Con ngƣời

không chỉ biết lo cho bản thân, gia đình mà còn lo cho dân tộc, quốc gia và xã

hội. Những giá trị truyền thống này không chỉ có ý nghĩa trong quá khứ mà cả

trong hiện tại và tƣơng lai, nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa trƣớc bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

Có thể nhận thấy, để xây dựng con ngƣời Việt Nam hiện nay thì có rất

nhiều biện pháp nhƣng muốn đạt đƣợc hiệu quả, thành công thì phải biết vận

dụng hợp lý, sáng tạo. Sẽ không thể có con ngƣời mới đủ phẩm chất, năng

lực đáp ứng yêu cầu của đất nƣớc nếu không xuất phát từ con ngƣời cũ và cải

biến, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Sẽ là sai lầm nếu chúng ta xây

dựng con ngƣời mới mà không dựa trên con ngƣời truyền thống, phủ định

sạch trơn con ngƣời truyền thống.Thực tế cho thấy rằng, ngày nay, việc xây

dựng thành công con ngƣời Việt Nam mang bản sắc XHCN là một vấn đề

hết sức khó khăn, trở ngại cả về khách quan lẫn chủ quan. Song, chúng ta tin

rằng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chính sách ƣu việt của nhà nƣớc,

sự đoàn kết, đồng lòng, cống hiến hết mình của mỗi ngƣời công dân thì sự

nghiệp xây dựng con ngƣời mới nói riêng và sự nghiệp cách mạng XHCN

nói chung sẽ thành công trên đất nƣớc ta.

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Kiến Cầu (2008), Triết lý nhân sinh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Nguyễn Huệ Chi (2001), Phác họa diện mạo tƣ tƣởng Nguyễn Bình Khiêm,

về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

3. Trƣơng Chính (1983),Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Nxb Văn học, Hà Nội.3.

Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Một số vấn đề triết học - con ngƣời - xã hội,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), Đạo đức xã hội ở nƣớc ta hiện nay - Vấn đề

và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), Lịch sử tƣ tƣởng triết học Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

7. Nguyễn Bá Cƣờng (2006), Tƣ tƣởng của Ngô Thì Nhậm về con ngƣời và

giáo dục con ngƣời, Tạp chí Triết học, (số 4), tr. 47-52.

8. Nguyễn Bá Cƣờng (2009), Tiếp cận triết lý về con ngƣời trong lịch sử tƣ

tƣởng Việt Nam, Tạp chí Khoa học, (số 2), tr. 45 - 54.

9. Nguyễn Bá Cƣờng (2010),Tiếp cận những đặc điểm cơ bản của con ngƣời

Việt Nam truyền thống, Tạp chí Khoa học, (số 2), tr.135-142.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ III, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

70

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận -

thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 51, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20. Nguyễn Thạch Giang (2001), Nguyễn Du, Niên phổ và tác phẩm, Nxb

Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

21. Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con ngƣời thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Phạm Minh Hạc (2002), Nghiên cứu con ngƣời, đối tƣợng và những

phƣơng hƣớng chủ yếu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

23. Phạm Minh Hạc (2003),Về phát triển văn hóa và xây dựng con ngƣời

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

24. Phạm Minh Hạc (2005), Vấn đề tiềm năng con ngƣời, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

25. Phạm Minh Hạc (2007), Con ngƣời, dân tộc và các nền văn hóa: chung

sống trong thời đại toàn cầu hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

26. Phạm Minh Hạc (2011),Định hƣớng giá trị con ngƣời Việt Nam thời kỳ

đổi mới và hội nhập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Đặng Thị Hạnh (1996), Lịch sử văn học Pháp thế kỉ XIX, Nxb Thế giới,

Hà Nội.

71

28. Hoàng Ngọc Hiến (1966), Triết lý Truyện Kiều, Tạp chí Văn học, (số 2),

tr.5.

29. Dƣơng Phú Hiệp (2010), Tác động của toàn cầu hoá đối với phát triển

văn hoá và con ngƣời Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Đỗ Đức Hiểu (1990), Lịch sử Văn học Pháp thế kỉ XVII, tập II, Nxb Ngoại

văn, Hà Nội.

31. Cao Xuân Huy (1978), Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển II, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

32. Trần Đình Hƣợu (1999), Nho giáo và Văn học Việt Nam trung cận đại,

NxbGiáo dục, Hà Nội.

33. Đinh Gia Khánh (1983), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn học,

Hà Nội.

34. Nguyễn Đức Khiển (2003), Con ngƣời và vấn đề phát triển bền vững ở

Việt Nam, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

35. Đặng Thị Lan (2006), Đạo đức Phật giáo với đạo đức con ngƣời Việt

Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

36. Mã Giang Lân (2004), Thơ, hình thành và tiếp nhận, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

37. Nguyễn Đức Lân (Dịch và chú giải) (1998), Tứ thƣ tập chú, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

38. Mai Quốc Liên (2001), Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập III, Nxb Văn học, Hà

Nội.

39. Bùi Bá Linh (2003), Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con ngƣời

và sự nghiệp giải phóng con ngƣời, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

40. Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam (Nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ

XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

41. Nguyễn Lộc (1987), Thơ Hồ Xuân Hƣơng, Nxb Văn học, Hà Nội.

72

42. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong “Truyện

Kiều”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

43. Nhiều tác giả (1981), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

44. Hồ Sỹ Quý (2003), Con ngƣời và phát triển con ngƣời trong quan niệm

của C.Mác và Ph.Ăngghen, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Hồ Sỹ Quý (2007), Con ngƣời và phát triển con ngƣời, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

46. Lê Hồng Sâm (1990), Lịch sử văn học Phápthế kỉ XIX, tập 4, Nxb Ngoại

văn, Hà Nội.

47. Nguyễn Hữu Sơn (1990), Khảo sát cái nhìn đạo lý trong văn học cổ điển

dân tộc, Tạp chí Văn học, (số 6), tr.60 - 65.

48. Nguyễn Hữu Sơn (2003), Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lý thế sự, Nxb

Trẻ, Tp. HCM.

49. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam - quan niệm con

ngƣời và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

50. Nguyễn Hữu Sơn (2010), Về con ngƣời cá nhân trong văn học cổ Việt

Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

51. Trần Đình Sử (1983), Cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du trong

“TruyệnKiều”, Tạp chí Văn học, (số 6), tr. 9 - 12.

52. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

53. Vũ Minh Tâm (1996), Tƣ tƣởng triết học về con ngƣời, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

54. Bùi Duy Tân (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 6, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

55. Nguyễn Thanh (1996), Mục tiêu con ngƣời trong sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở nƣớc ta hiện nay, Tạp chí Triết học, (số 5), tr. 7 - 10.

73

56. Nguyễn Thanh (2007), Vấn đề con ngƣời và giáo dục con ngƣời, nhìn từ

góc độ triết học xã hội, Nxb Tổng hợp, TP HCM.

57. Trần Thị Băng Thanh (2001), Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác phẩm,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

58. Nguyễn Tài Thƣ (1993), Lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam, tập I, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

59. Nguyễn Tài Thƣ(1997), Ảnh hƣởng của các hệ tƣ tƣởng và tôn giáo đối

với con ngƣời Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

60. Nguyễn Tài Thƣ (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam - một số vấn đề

lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

61. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con ngƣời nhân văn trong thơ ca sơ kì trung

đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

62. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện văn học (2005), Văn học trung đại

Việt Nam quan niệm con ngƣời và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

63. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trƣng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

74