Mai Thị Hồng Vĩnh và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
112(12)/1: 161 - 167<br />
<br />
TỤC THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI SÁN DÌU<br />
Ở HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN<br />
Mai Thị Hồng Vĩnh*, Lương Thị Hạnh, Nguyễn Văn Tiến<br />
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Tộc người Sán Dìu là cư dân sản xuất nông nghiệp, đời sống kinh tế còn khó khăn, trong quá trình<br />
cộng cư với các dân tộc anh em, họ đã hình thành và bảo tồn những giá trị văn hóa độc đáo của tộc<br />
người mình, vừa mang nét chung vừa chứa đựng những yếu tố riêng biệt. Thờ cúng tổ tiên là thành<br />
tố văn hóa gắn bó mật thiết và tồn tại lâu đời trong đời sống đồng bào. Trải qua những biến động<br />
lịch sử, tác động của các hoàn cảnh xã hội khác nhau, tục thờ cúng tổ tiên của người Sán Dìu ở<br />
Đồng Hỷ mặc dù có sự biến đổi, song hoạt động tín ngưỡng này vẫn chiếm một vị trí quan trọng<br />
trong đời sống của người dân, được xem như bệ đỡ tinh thần, phát huy những giá trị cao đẹp trong<br />
cộng đồng tộc người.<br />
Từ khóa: Thờ cúng tổ tiên, Tín ngưỡng dân gian, Tôn giáo tín ngưỡng, Văn hóa tinh thần, Đồng Hỷ.<br />
<br />
VÀI NÉT VỀ NGƯỜI SÁN DÌU Ở HUYỆN<br />
ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN*<br />
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm<br />
2009, người Sán Dìu ở Đồng Hỷ có 16.223<br />
người chiếm 15% dân số toàn huyện (106.769<br />
triệu người). Địa bàn cư trú của họ chủ yếu ở<br />
chân núi và vùng đồi núi thấp, đông nhất là ở<br />
các xã: Nam Hòa (5.923 người), Tân Lợi<br />
(2.835 người), Linh Sơn (2.828 người), Minh<br />
Lập (1.376 người), Hóa Trung (1.021 người);<br />
ít nhất là ở Hòa Bình (19 người), Tân Long<br />
(22 người), Văn Lăng (26 người). So với các<br />
huyện trên địa bàn tỉnh, Đồng Hỷ là nơi tập<br />
trung người Sán Dìu cư trú vào loại đông<br />
nhất, trong đó có duy nhất hai xã Nam Hòa và<br />
Tân Lợi chiếm trên 40% dân số cư trú của cả<br />
tỉnh. Họ sống xen kẽ với các cư dân trong<br />
vùng, kề cạnh người Kinh nên ở họ có hiện<br />
tượng đa ngữ, đa văn hóa.<br />
Người Sán Dìu từ lâu đã có “tên tự nhận là<br />
San Déo Nhín, theo âm Hán Việt là Sơn Dao<br />
Nhân” [2,tr.15]. Nhưng các Dân tộc khác lại<br />
căn cứ vào một số đặc điểm về: canh tác, loại<br />
hình nhà ở hoặc một đặc điểm nào đó trong y<br />
phục để gọi họ theo những tên gọi khác nhau<br />
như: Trại đất, Trại ruộng, Trại cộc, Mán Quần<br />
Cộc, Mán váy Xẻ, Sán Nhiêu, Slán Dao…Tộc<br />
danh Sán Dìu được ghi trong văn bản Nhà<br />
*<br />
<br />
ĐT:0982050611; Email:Hongvinh.dhkhtn@gmail.com<br />
<br />
Nước như một tên gọi chính thức vào năm<br />
1960 khi Tổng Cục Thống Kê Trung ương<br />
ban hành quyết định “Danh mục thành phần<br />
các dân tộc Việt Nam”, đến nay tên Sán Dìu<br />
là tên gọi chính thức trong nhân dân và các<br />
dân tộc. Ở Thái Nguyên, trước năm 1960 cái<br />
tên Trại Đất được nhân dân sử dụng phổ biến<br />
để chỉ người Sán Dìu. Các dân tộc ở Đồng Hỷ<br />
vẫn quen gọi họ là “người Trại”.<br />
Dân tộc Sán Dìu di cư sang Việt Nam từ<br />
khoảng cuối đời Minh, đầu đời Thanh vào thế<br />
kỷ XVII thành từng đợt, từng nhóm và có mặt<br />
ở Việt Nam cách ngày nay khoảng 300 năm.<br />
Người Sán Dìu đến sinh sống và định cư ở<br />
Đồng Hỷ cách ngày nay khoảng 200 năm.<br />
Theo gia phả của ông Lê Hữu Nhất, người xã<br />
Dân Chủ, huyện Đồng Hỷ cho biết: “Tổ tiên<br />
của ông trước đây ở thôn Phong Lưu, xã<br />
Bách La, huyện Phương Thành, Tỉnh Quảng<br />
Đông vào Việt Nam từ đời Càn Long (1777 1782)” [2, tr.19].<br />
Dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam nói chung và<br />
huyện Đồng Hỷ nói riêng, là những cư dân<br />
làm nghề nông trồng lúa nước ở vùng nhiệt<br />
đới gió mùa. Nền kinh tế tiểu nông theo kiểu<br />
tự cung tự cấp đã tồn tại lâu dài trong xã hội.<br />
Mỗi một gia đình là một cơ sở kinh tế độc<br />
lập, sản xuất và tiêu thụ. Các thành viên trong<br />
gia đình gắn bó chặt chẽ với nhau trong lao<br />
động sản xuất và lấy gia đình là trung tâm.<br />
Ngay từ thời xa xưa, con người ở đây, cũng<br />
161<br />
<br />
Mai Thị Hồng Vĩnh và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
như nhiều tộc người khác chịu ảnh hưởng của<br />
quan niệm vũ trụ luận nguyên sơ âm – dương<br />
tương khắc tương sinh, sự giao hòa đầy bí ẩn<br />
giữa âm dương là nguồn gốc sản sinh ra con<br />
người và vạn vật của vũ trụ. Họ tin rằng vạn<br />
vật có linh hồn. Chính vì vậy, con người khi<br />
chết đi có nghĩa là chuyển sang sinh sống ở<br />
một thế giới khác, họ luôn có mối quan hệ<br />
mật thiết, phù giúp, che chở hoặc quở trách<br />
người sống nếu không thờ cúng chu đáo. Thờ<br />
cúng tổ tiên xuất hiện và tồn tại cùng với tộc<br />
người trong quá trình lịch sử.<br />
Tìm hiểu về tục thờ cúng tổ tiên của tộc người<br />
Sán Dìu ở Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, tác<br />
giả muốn góp thêm nguồn tư liệu về đời sống<br />
tín ngưỡng của người Sán Dìu ở nơi đây.<br />
TỤC THỜ CÚNG TỔ TIÊN<br />
Tục thờ cúng tổ tiên là một nét văn hóa cao<br />
đẹp của hầu hết các dân tộc cư trú trên đất<br />
nước ta như Phan kế Bính đã từng nhận xét:<br />
“Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là<br />
thành kính, ấy cũng là một lòng bất vong bản,<br />
ấy cũng là nghĩa cử của con người”[4, tr.25].<br />
Phong tục ấy không chỉ thể hiện truyền thống<br />
“uống nước nhớ nguồn” mà còn mang giá trị<br />
giáo dục sâu sắc cho các thế hệ. Việc cùng<br />
nhau bày tỏ lòng thành kính trước tổ tiên, các<br />
thành viên trong gia đình càng thắt chặt thêm<br />
sợi dây huyết thống. Thờ cúng tổ tiên là hình<br />
thức tín ngưỡng mà thông qua nghi lễ thờ<br />
cúng nhằm xác lập "mối liên hệ" giữa người<br />
sống với người chết, giữa người ở thế giới<br />
hiện tại và thế giới tâm linh; là sự thể hiện<br />
quan niệm nhân sinh của người Việt Nam:<br />
"Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn".<br />
Theo quan niệm của người Sán Dìu, thực thể<br />
của con người gồm hai bộ phận: hồn và thể<br />
xác, khi con người sống khỏe mạnh cũng có<br />
nghĩa là xác và hồn gắn với nhau, khi hồn lìa<br />
khỏi xác một thời gian con người sẽ bị ốm<br />
đau, bệnh tật; nhưng nếu hồn lìa khỏi xác<br />
vĩnh viễn tức là con người đã chết. Khi con<br />
người chết đi không còn thể xác cho hồn trú<br />
ngụ, hồn sẽ chuyển sang hồn ma. Hồn ma<br />
được phân chia ở ba nơi: phần thứ nhất gọi là<br />
linh hồn được sự dẫn dắt của thầy cúng siêu<br />
thoát lên trời; phần thứ hai gọi là thần hồn ở<br />
162<br />
<br />
112(12)/1: 161 - 167<br />
<br />
trên bàn thờ tổ tiên; phần thứ ba gọi là tâm<br />
hồn ở nghĩa địa. Người chết từ bỏ thế giới<br />
trần gian nhưng sẽ tiếp tục sống ở thế giới bên<br />
kia và họ cũng cần có cuộc sống đầy đủ như<br />
khi còn sống. Hồn người chết được quan<br />
niệm là ma “Cúi”. Tổ tiên mà họ có nghĩa vụ<br />
thờ cúng là ma lành “hén cúi” luôn che chở,<br />
phù hộ cho con cháu. Tuy nhiên, tổ tiên có thể<br />
gây ra những tai họa khi không được thờ<br />
phụng chu đáo.<br />
1. Vị trí, cách bài trí Bàn thờ và đối tượng<br />
thờ cúng<br />
Vị trí, cách bài trí Bàn thờ: Bàn thờ của<br />
người Sán Dìu được đặt ở trung tâm ngôi nhà<br />
(gian giữa), bên cạnh là chỗ ngủ của chủ nhà.<br />
Ở đây chúng tôi không đi miêu tả chi tiết thiết<br />
chế bàn thờ nói chung mà nhằm khảo tả sự<br />
khác biệt trong cách bài trí bàn thờ của từng<br />
đối tượng khác nhau.<br />
Đối với gia đình bình thường chỉ có hai bát<br />
hương: bát hương Tổ tiên và bát còn lại thờ<br />
ông Táo. Trên bàn thờ có treo thêm ảnh thờ tổ<br />
tiên (chủ yếu từ đời thứ ba hoặc thứ hai trở<br />
xuống) và trang trí câu đối, tranh bốn mùa…ở<br />
hai bên.<br />
Gia đình làm thầy cúng thường đặt ba bát<br />
hương ngoài bát hương Tổ tiên và ông Táo<br />
còn có bát hương của Tổ sư. Trên đó, không<br />
thể thiếu bộ đồ hành nghề của người thầy<br />
cúng bao gồm: tù và, ấn tín, án, thẻ xin âm<br />
dương, não bạt, sách cúng… trong dịp tết<br />
Nguyên đán người ta thường treo tranh Tam<br />
Thanh (Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Thái<br />
Thanh).<br />
Với những gia đình có người mất chưa được<br />
làm ma, người ta lập một bàn thờ đơn giản ở<br />
cạnh bàn thờ tổ tiên trên đó có đặt một bát<br />
hương và ảnh người chết. Mỗi ngày ba bữa<br />
con cháu làm cơm, thắp hương gọi hồn người<br />
mất về dùng bữa. Sau 100 ngày nếu tang chủ<br />
chưa có điều kiện làm ma bát hương đó sẽ<br />
được đặt lên bàn thờ chính nhưng thấp hơn<br />
bát hương tổ tiên. Nếu theo cách giải thích<br />
của Toan Ánh: “Sở dĩ lập bàn thờ riêng là<br />
tiện cho việc cúng bái hàng ngày và hàng<br />
tuần từ sơ thất đến thất thất” [1, tr.82]. Đối<br />
với người Sán Dìu, nguyên nhân của việc lập<br />
bàn thờ riêng không đơn giản là để thuận tiện<br />
<br />
Mai Thị Hồng Vĩnh và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
cho thờ cúng, tục lệ này liên quan đến quan<br />
niệm của tộc người trong tang ma. Theo họ:<br />
“người chết chưa được làm ma,còn rất bẩn vì<br />
bụi trần không được về cùng với tổ tiên (Cui<br />
chông cáp chú, ken bọi chú công hị lộ sệch)”<br />
[3,tr.267] chỉ sau khi làm ma mới được nhập<br />
chung vào với bát hương của tổ tiên ở trên<br />
bàn thờ.<br />
Với trường hợp thờ họ ngoại, bàn thờ được<br />
ngăn ở giữa bằng một tấm phên một bên là họ<br />
nội và một bên là họ ngoại, khi cúng tế bao<br />
giờ cũng có hai mâm lễ vật. Ngày nay, có<br />
những nơi họ chuyển từ thờ một đời sang thờ<br />
vĩnh viễn thông qua nghi lễ làm hợp đồng và<br />
khi đó tấm phên ngăn cách giữa hai họ được<br />
dỡ bỏ.<br />
Đối tượng thờ cúng: Tùy theo từng dòng họ<br />
mà tổ tiên được thờ từ 7 đời cho tới 10 hoặc<br />
12 đời, nhưng sự linh ứng thường tính đến đời<br />
thứ ba (cụ, ông bà, cha mẹ). Chính vì vậy khi<br />
cầu khấn tổ tiên, người ta thường mời:<br />
Thượng tổ (cụ), Trung tổ (ông bà), Hạ tổ (cha<br />
mẹ). Ma từ đời thứ tư trở đi coi như ma gia<br />
trạch, họ thờ ở cửa chính mà đồng bào gọi là<br />
thần cửa “sẩn món” để trông nom nhà cửa<br />
tránh sự xâm nhập của các loại ma quỷ làm<br />
hại đồng thời có nhiệm vụ trông giữ, bảo vệ<br />
gia súc trong gia đình. Ma gia trạch chỉ cúng<br />
vào một số dịp lễ tiết trong năm, chủ yếu là<br />
dịp tết Nguyên đán...<br />
Trong hôn nhân người Sán Dìu tồn tại<br />
nguyên tắc ở rể đời, đồng thời Đồng Hỷ là<br />
nơi xuất hiện nhiều luồng di cư và nhập cư<br />
của các tộc người khác nhau, đặc biệt người<br />
Kinh ở miền xuôi lên, do vậy hiện tượng ở rể<br />
khá phổ biến. Người đàn ông đến ở rể, nếu<br />
gia đình bố mẹ vợ không có con trai hoặc<br />
con trai mất đi, anh ta phải đảm nhận trọng<br />
trách của người con trưởng trong gia đình<br />
thờ phụng tổ tiên nhà vợ.<br />
2. Các nghi lễ thờ cúng: Mối liên hệ bền chặt<br />
và tôn kính giữa con cháu đối với tổ tiên được<br />
thể hiện qua các nghi lễ thờ cúng. Người Sán<br />
Dìu không có tục cúng theo ngày giỗ của<br />
người chết mà cúng vào các dịp lễ tiết, lúc gia<br />
đình có việc đại sự hay cần đến sự phù hộ,<br />
che chở của tổ tiên.<br />
Nghi thức cúng tế tổ tiên thường do chủ gia<br />
đình hoặc con trai trưởng chủ trì. Trước đây,<br />
<br />
112(12)/1: 161 - 167<br />
<br />
đối với phụ nữ góa chồng không có con trai<br />
hoặc con trai còn nhỏ trong những dịp lễ tiết,<br />
gia đình có việc quan trọng phải nhờ thầy<br />
cúng hoặc người đàn ông trong họ thực hiện.<br />
Dân tộc Sán Dìu thờ cúng tổ tiên vào những<br />
dịp sau đây:<br />
Ngày mồng 1và 15 rằm hàng tháng: Trong<br />
những ngày này tục lệ của người Sán Dìu ở<br />
Đồng Hỷ cũng giống với một số tộc người<br />
khác, lễ vật chủ yếu là: hương, trà và bánh<br />
trái, hoa quả… tùy vào điều kiện và hoàn<br />
cảnh của mỗi gia đình mà có sự khác nhau.<br />
Vào các dịp lễ tiết trong năm: Tết Nguyên<br />
đán, Tết Thanh minh, Tết Mồng tám tháng tư,<br />
Tết Đoan ngọ, Tết Vu Lan, Tết mừng cơm<br />
mới, Tết Trung thu, Tết mồng 10 tháng 10,<br />
Tết Đông chí… người Sán Dìu đều làm mâm<br />
cỗ, các loại bánh rất thịnh soạn để cúng tổ<br />
tiên, đặc biệt là dịp tết cổ truyền (tết Nguyên<br />
đán). Gần đến ngày tết, người ta tiến hành lau<br />
dọn bàn thờ gia tiên sạch sẽ và trang trí lại<br />
cho tươm tất. Ngày 30 tết, hầu hết đồng bào<br />
đều gác lại các công việc để chuẩn bị mâm<br />
cơm cúng tổ tiên. Lễ vật được bày lên bàn<br />
thờ, chủ nhà thắp hương và thỉnh các vị tổ<br />
tiên: “Chú công chú phô, song chú công song<br />
chú phô, hạ chú công hạ chú phô; song ốc hạ<br />
ốc; song vọng hạ vọng, ết cạ sọi thong, nghi<br />
cạ sọi thong…” (Thượng tổ ông thượng tổ bà,<br />
trung tổ ông trung tổ bà, hạ tổ ông hạ tổ bà;<br />
nhà trên nhà dưới; vòng trên vòng dưới; một<br />
ở trong bát hương hai ở ngoài bát hương…)<br />
về ăn tết cùng con cháu [8]. Sau khi hoàn tất<br />
các nghi thức, mâm lễ được hạ xuống đông đủ<br />
con cháu cùng quây quần bên mâm cơm tất<br />
niên trước sự chứng kiến của tổ tiên. Trong ba<br />
ngày tết, trong gia đình lúc nào cũng phải có<br />
người túc trực đèn nhang, điều đó thể hiện<br />
lòng thành kính sâu sắc của con cháu đối với<br />
gia tiên.<br />
Khi gia đình có việc đại sự như: cưới xin, ma<br />
chay, làm nhà mới, lễ Kỳ yên, giải hạn… hay<br />
có thành viên mới chào đời người ta đều bày<br />
cỗ mời tổ tiên về chứng dám và phù hộ.<br />
Đám cưới của người Sán Dìu xưa kia diễn ra<br />
trong nhiều ngày với các nghi lễ khác nhau tất<br />
cả những nghi lễ đó hầu hết họ đều thắp<br />
hương, cúng tổ tiên: từ nghi lễ xin cưới, ăn<br />
163<br />
<br />
Mai Thị Hồng Vĩnh và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
hỏi, gánh gà, cho đến lễ cưới. Chẳng hạn: Sau<br />
khi xem lá số xong nhà trai nhờ ông mối<br />
mang sang nhà gái thông báo, khi đến nơi ông<br />
mối đặt lễ vật lên bàn thờ để báo cáo với tổ<br />
tiên việc xem lá số đã thành công; khi rước<br />
dâu về, việc đầu tiên cô dâu chú rể phải vào<br />
thắp hương trình báo với ông bà tổ tiên…<br />
Ngày vui của người sống đồng thời cùng là<br />
ngày vui của người đã khuất, trong đám cưới<br />
ngoài những câu hát chúc mừng cô dâu chú rể<br />
và gia chủ, trong làn điệu Soọng cô của<br />
người Sán Dìu còn thể hiện lời chúc mừng<br />
đối với tổ tiên:<br />
“Xin hát bài ca chúc tổ tiên<br />
Tổ tiên tọa trên bát hương<br />
Đêm nay nhà ta có đám cưới<br />
Con cháu hôm nay do tổ tiên truyền”<br />
[3,tr.225].<br />
Trong trường hợp gia đình có người mất, con<br />
cháu phải thắp hương thông báo với tổ tiên<br />
sau đó mới thực hiện các nghi thức đám tang.<br />
Với những gia đình làm nhà mới, Sau khi<br />
chọn được ngày đẹp người ta khiêng bàn thờ<br />
vào trong nhà và từ đó thắp hương liên tục,<br />
không được để tắt, cứ hết một tuần hương lại<br />
rót thêm tuần trà, rượu. Gia chủ chuẩn bị<br />
mâm cơm khấn báo tổ tiên đã hoàn tất ngôi<br />
nhà mời các vị: thần, tổ tiên về an tọa. Mỗi<br />
khi con cháu ra ở riêng, tổ tiên cũng được<br />
phân chia, thờ tại mỗi gia đình. Họ thường lấy<br />
cát ở sông đãi thật sạch cho vào bát hương,<br />
ngày nay do ở các dòng sông bị ô nhiễm nên<br />
thay bằng vỏ đỗ xanh hoặc trấu đốt thành gio<br />
để dùng.<br />
Gia đình có thành viên mới chào đời, trong ba<br />
buổi sáng đầu tiên cúng mụ đồng thời người<br />
ta cũng thắp hương, bày mâm cỗ cúng nhằm<br />
cầu mong tổ tiên phù hộ cho đứa trẻ được<br />
ngoan ngoãn, khỏe mạnh.<br />
Ngoài ra, cũng giống như các tộc người khác<br />
với các trường hợp ốm đau bất thường; có<br />
người đi xa, thi cử… người Sán Dìu cũng<br />
thắp nén nhang cầu khấn sự phù hộ của gia<br />
tiên. Đặc biệt trước cách mạng tháng tám, ở<br />
một số nơi khi nhà có con trâu cái đẻ, người<br />
ta cũng làm mâm cơm cúng tổ tiên để cầu<br />
mong sự che chở phù hộ [9].<br />
164<br />
<br />
112(12)/1: 161 - 167<br />
<br />
Như vậy, trong gia đình bất cứ sự việc gì hầu<br />
hết người ta đều báo cáo, cầu cứu đến sự phù<br />
hộ của ông bà tổ tiên, gia tộc. Như thế mới<br />
thấy được mối liên kết bền chặt giữa người<br />
sống và người chết, khi nén nhang được thắp<br />
lên cũng là lúc quá khứ và hiện tại như hòa<br />
quyện vào nhau, không có sự phân biệt về<br />
khoảng cách.<br />
3. Chăm sóc mồ mả tổ tiên: Một trong những<br />
biểu hiện của việc chăm sóc mồ mả tổ tiên đó<br />
chính là lễ tảo mộ trong tết thanh minh. Tảo<br />
mộ theo cách lý giải của Toan Ánh: “Tảo mộ<br />
chính là sửa sang ngôi mộ cho được sạch sẽ”<br />
[4, tr.345]. Ngày tết Thanh minh không phải<br />
là ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch, theo cách<br />
tính của người Sán Dìu ở Đồng Hỷ tính từ<br />
ngày Đông Chí của năm trước đến ngày thứ<br />
106 năm sau, rơi vào ngày nào thì đó chính là<br />
ngày tết Thanh Minh [8]. Do đó, lễ tảo mộ có<br />
thể tiến hành vào cuối tháng 2 hoặc tháng 3<br />
âm lịch hàng năm và trước hoặc sau ngày tết<br />
Thanh minh phụ thuộc vào từng dòng họ.<br />
Các công việc chuẩn bị cho lễ tảo mộ: Trước<br />
ngày tảo mộ, đại diện các gia đình trong dòng<br />
họ thường tập trung tại nhà tộc trưởng để<br />
thống nhất kế hoạch, cắt cử các công việc: gia<br />
đình lo lễ vật đi tảo mộ và chủ trì bữa cơm<br />
cúng tổ tiên sau khi hoàn thành công việc tảo<br />
mộ. Gia đình chủ trì thường thay phiên nhau<br />
hàng năm theo nguyên tắc già làm trước, trẻ<br />
làm sau, tuy nhiên các gia đình trong họ phải<br />
có sự đóng góp lễ vật, đối với những cặp vợ<br />
chồng trẻ mới ra ở riêng năm đầu tiên chưa<br />
phải góp lễ. Trước đây, khi dân số còn ít mỗi<br />
một dòng họ chỉ có khoảng 2-3 nóc nhà chủ<br />
yếu là anh em ruột với nhau; số ngôi mộ<br />
không nhiều, việc phân chia gia đình chủ trì<br />
họ tự thỏa thuận theo nguyên tắc anh làm<br />
trước em làm sau cứ lần lượt theo từng năm.<br />
Nhưng khi số lượng thành viên dòng họ tăng<br />
lên với nhiều chi khác nhau thêm vào đó mộ<br />
của người Sán Dìu không mang tính quy tập,<br />
họ chôn theo hướng thuận với mệnh của người<br />
chết và phần đất của mình có. Vì những lý do<br />
đó, có những dòng họ người ta phân chia các<br />
thành viên theo từng đội để đi tảo mộ. Chẳng<br />
hạn dòng họTrương ở xóm Thanh Chữ, xã<br />
Linh Sơn có: 26 ngôi mộ với 50 hộ sẽ chia 5<br />
người thành một cặp tiến hành tảo mộ [8].<br />
<br />
Mai Thị Hồng Vĩnh và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Qua đó cho thấy, cách thức tổ chức trong mỗi<br />
một dòng họ khá chặt chẽ, đồng thời khẳng<br />
định được mối đoàn kết giữa các thành viên<br />
trong cùng dòng họ.<br />
Lễ vật tảo mộ bao gồm lễ vật cúng ở mộ và<br />
tại gia đình.<br />
Lễ vật cúng ở mộ gồm có: Xôi đen, với những<br />
gia đình chưa mạn tang người ta làm xôi<br />
trắng, cá, thịt lợn, rượu, đối với những dòng<br />
họ có điều kiện người ta cúng gà. Xôi đen<br />
được chế biến từ nguyên liệu là xôi và lá cây<br />
sau sau là loại cây thân gỗ có mùi thơm<br />
hương nhu. Trước ngày tảo mộ, họ lên rừng<br />
kiếm lá sau sau, đem về băm nhỏ ngâm với<br />
nước, bỏ bã, vo gạo nếp để khô rồi ngâm gạo<br />
với nước lá sau sau đã sôi, sau đó mang gạo<br />
đó ra đồ xôi, xôi sẽ có màu đen, dẻo thơm.<br />
Điều đặc biệt, loại xôi này để được trong thời<br />
gian dài nên dù có đi tảo mộ xa trong nhiều<br />
ngày cũng không bị hỏng.<br />
Lễ vật cúng tổ tiên tại nhà (gia đình chủ trì và<br />
gia đình mỗi nhà), tại gia đình không quy<br />
định mà tùy từng dòng họ, gia đình thường<br />
bao gồm: xôi (xôi tùy loại), gà, thịt lợn, các<br />
loại bánh…<br />
Nghi lễ tảo mộ: Để chuẩn bị cho việc cúng tế<br />
tiến hành phát quang, dọn sạch cây cỏ, đắp<br />
đất hoặc quyét lại vôi đối với những mộ xây.<br />
Thông thường công đoạn này sẽ được tiến<br />
hành vào buổi sáng, tuy nhiên với những ngôi<br />
mộ xa người ta có thể kết hợp giữa việc dọn<br />
dẹp mồ với nghi thức cúng tế. Sau khi các<br />
ngôi mộ đã được tu chỉnh lại, họ mới tiến<br />
hành nghi thức cúng, việc đầu tiên là sắp<br />
mâm cúng, khác với người kinh thường để<br />
mâm lễ ngay phần đầu ngôi mộ, người Sán<br />
Dìu đặt ở phần chân. Theo quan niệm của<br />
đồng bào, đặt ở phần chân là thuận với tư thế<br />
ngồi của người chết, khi họ ngồi dậy không<br />
phải quay ngược người lại. Sau đó, người ta<br />
cắm 5 cái cờ ở bốn góc mộ, ở giữa và trong<br />
mỗi ngôi mộ các lễ vật cũng được bày theo<br />
con số 5: 5 nắm xôi, 5 con cá, 5 chén rượu.<br />
Theo cách giải thích của các cụ cao niên số 5<br />
tượng trưng cho 5 phương trời: đông, tây,<br />
nam, bắc, trung [8], [9],[10]. Tất cả đã được<br />
chuẩn bị xong, người thầy cúng (hoặc người<br />
<br />
112(12)/1: 161 - 167<br />
<br />
có tuổi trong họ biết cúng) trực tiếp thực hiện<br />
việc cúng khấn. Nội dung cơ bản của bài khấn<br />
là: hôm nay…, ở tại xã… xóm….con cháu<br />
dòng họ… có lễ vật gồm… dâng lên các vị<br />
long thần và (tên người chết nằm ở dưới mộ<br />
ngôi mộ đó) thỉnh tổ tiên, các thần về hưởng<br />
lễ giữ bình yên cho phần mộ và phù hộ cho<br />
con cháu khỏe mạnh, tránh được mọi tai<br />
họa…[9] sau đó xin âm dương đánh dấu sự<br />
hoàn tất nghi lễ. Lễ vật sau khi cúng xong, họ<br />
thường ít khi mang về nhà mà chia cho những<br />
gia đình ở quanh mộ, trẻ chăn trâu, những<br />
người làm ruộng quanh đấy cùng hưởng lộc.<br />
Việc tảo mộ cho tổ tiên đã hoàn thành, các<br />
thành viên tập trung ở gia đình chủ trì để cùng<br />
dùng bữa cơm chung. Sau khi mâm lễ được<br />
đặt lên, người đại diện dòng họ thắp hương<br />
báo cáo tổ tiên việc con cháu đã hoàn thành<br />
nghi thức tảo mộ, nhân dịp tết thanh minh<br />
mời tổ tiên về hưởng lễ chung vui trong ngày<br />
tết. Đây là dịp để thắt chặt mối đoàn kết gắn<br />
bó anh em họ hàng với nhau, giữa người sống<br />
với người chết, giữa con cháu với tổ tiên. Tại<br />
mỗi gia đình con cháu cùng làm mâm cơm,<br />
các loại bánh: bánh ngải, bánh trứng kiến…<br />
đặt lên bàn thờ để thắp hương cúng tổ tiên tại<br />
nhà mình.<br />
Lòng thành kính của con cháu đối với ông bà<br />
tổ tiên không chỉ là các nghi lễ thờ cúng ngay<br />
trên bàn thờ tổ tiên mà còn là sự chăm sóc<br />
phần mộ - nơi an nghỉ của người đã khuất.<br />
Tục tảo mộ thể hiện khá sâu sắc tâm đức của<br />
người sống đối với người chết.<br />
4. Những kiêng kỵ liên quan đến thờ cúng tổ<br />
tiên: Bàn thờ là nơi linh thiêng nhất trong<br />
ngôi nhà, họ có những kiêng kỵ bắt buộc đối<br />
với các thành viên trong gia đình như: không<br />
được phơi quần áo trước bàn thờ tổ tiên; phụ<br />
nữ trong thời gian ở cữ không được đi lại khu<br />
vực thờ tổ tiên. Ngay cạnh bàn thờ thường có<br />
giường ngủ của chủ nhà, khi ngủ tránh quay<br />
chân về phía bàn thờ. Đặc biệt người phụ nữ<br />
bất kỳ là khách hay chủ cũng không được ngủ<br />
ở đó. Tranh ảnh con cháu phải treo thấp hơn<br />
ảnh của ông bà ở trên bàn thờ. Khi vác cuốc<br />
xẻng đi qua nơi thờ tự phải hạ xuống nếu<br />
không sẽ bị động đến tổ tiên.<br />
165<br />
<br />