intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ứng dụng công nghệ thông tin định hướng việc tự học tiếng Việt cho học viên quân sự nước ngoài tại Học viện Kỹ thuật Quân sự

Chia sẻ: ViKakashi2711 ViKakashi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

43
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này đề cập cụ thể hơn đến việc ứng dụng công nghệ thông tin một cách đơn giản nhưng khá hiệu quả đó là giảng viên tại các bản ghi âm dựa trên nội dung cụ thể từng bài học để tương tác với học viên, giao bài tập hoặc làm nguồn tư liệu định hướng cho việc tự học của học viên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ứng dụng công nghệ thông tin định hướng việc tự học tiếng Việt cho học viên quân sự nước ngoài tại Học viện Kỹ thuật Quân sự

v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN<br /> ĐỊNH HƯỚNG VIỆC TỰ HỌC TIẾNG VIỆT<br /> CHO HỌC VIÊN QUÂN SỰ NƯỚC NGOÀI<br /> TẠI HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ<br /> NGUYỄN THỊ THANH THỦY*<br /> *<br /> Học viện Kỹ thuật Quân sự,  thuytiengviet@gmail.com<br /> Ngày nhận bài: 18/9/2018; ngày sửa chữa: 17/10/2018; ngày duyệt đăng: 20/12/2018<br /> <br /> <br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy và học không chỉ mang lại niềm hứng khởi trong các<br /> giờ học trên lớp, giúp cho việc tiếp thu bài tốt hơn mà công nghệ thông tin còn có tác dụng quan<br /> trọng trong việc thúc đẩy quá trình tự học của học viên. Trên nền tảng công nghệ thông tin, giảng<br /> viên sẽ hướng dẫn học viên khai thác nguồn tài liệu có sẵn trên mạng Internet hoặc giảng viên tự<br /> tạo Block, tạo trang Facebook, tạo nhóm để tương tác với học viên hoặc thiết kế các bài tập phù<br /> hợp với trình độ của học viên để định hướng việc tự học một cách hiệu quả. Bài viết này đề cập<br /> cụ thể hơn đến việc ứng dụng công nghệ thông tin một cách đơn giản nhưng khá hiệu quả đó là<br /> giảng viên tạo các bản ghi âm dựa trên nội dung cụ thể từng bài học để tương tác với học viên,<br /> giao bài tập hoặc làm nguồn tư liệu định hướng cho việc tự học của học viên.<br /> Từ khóa: bản ghi âm, công nghệ thông tin, tự học<br /> <br /> <br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ tiếng Việt như một ngoại ngữ không ngừng đổi<br /> mới, nêu ra nhiều giải pháp, phương pháp giảng<br /> Nhiều năm qua, Học viện Kỹ thuật Quân sự dạy mới để đáp ứng nhu cầu của người học và hơn<br /> (HVKTQS) đã trở thành địa chỉ tin cậy trong việc hết là để chất lượng học tiếng Việt của học viên<br /> giúp đỡ, đào tạo học viên quân sự nước ngoài (Lào bạn ngày càng nâng cao. Một trong những giải<br /> và Campuchia) trở thành những kỹ sư quân sự đầu pháp đó là ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT)<br /> ngành của nước bạn. Hằng năm, số lượng học viên vào việc dạy và học.<br /> Lào và Campuchia đến học tập tại Học viện luôn<br /> ổn định và có chiều hướng tăng lên. Hiện tại con Ứng dụng CNTT vào tiến trình giảng dạy và<br /> số học viên bạn học tập tại Học viện đã lên đến học tập nói chung và dạy tiếng Việt cho người nước<br /> hơn 200. Uy tín của Học viện và niềm yêu mến đất ngoài nói riêng đã phát triển sâu rộng ở các nước<br /> nước, con người Việt Nam, yêu tiếng Việt của học trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay, mối quan<br /> viên bạn trở thành động lực cho giảng viên dạy tâm của các nhà nghiên cứu và các nhà giáo dục<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 90 Số 17 (01/2019)<br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br /> <br /> <br /> <br /> không còn là “có nên giới thiệu và ứng dụng CNTT 2. ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG<br /> vào quá trình đào tạo hay không” mà là “làm thế TIN, KHAI THÁC NHỮNG NGUỒN TƯ LIỆU<br /> nào để nâng cao hiệu quả học tập, tạo hứng thú cho SẴN CÓ PHỤC VỤ QUÁ TRÌNH TỰ HỌC<br /> sinh viên thông qua việc ứng dụng các thành tựu<br /> mới của CNTT” (Nguyễn Văn Long, 2015, tr.31). Học ngoại ngữ nói chung và việc học tiếng<br /> Thực tế, sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực Việt của học viên nước ngoài là một quá trình liên<br /> CNTT đã tạo ra những thay đổi lớn lao trong cách tục, không gián đoạn. Khác với các môn học khác,<br /> thức, phương pháp dạy và học ngoại ngữ, đồng ngoại ngữ là môn học rất nhanh quên nếu không<br /> thời mang lại những hiệu quả tích cực. Theo các được luyện tập thường xuyên hàng ngày. Học viên<br /> tác giả như Beauvois (1992), Peck & Domcott không chỉ học ở trên lớp mà giảng viên còn cần<br /> (1994), Murphy (1995), Kallick & Wilson (2001) phải chỉ ra cho học viên hướng tự học, tự nghiên<br /> và Warschauer & Shetzer (2003) (Walker, R.S. cứu, cách bổ sung thêm kiến thức ở bên ngoài để<br /> Hewer, and G. Davies, 2008, tr.154), việc ứng dụng củng cố thêm cho bài học trên lớp. Giảng viên cần<br /> công nghệ thông tin trong hoạt động dạy và học phải coi “người học là trung tâm” và trang bị cho<br /> mang lại nhiều ảnh hưởng tích cực bởi các lý do: họ tính “tích cực, chủ động” trong học tập. Nếu<br /> giảng viên ứng dụng CNTT vào dạy học thì học<br /> - Công nghệ có thể mang tới những trải nghiệm viên hoàn toàn có thể mở rộng không gian và thời<br /> mới mẻ và hấp dẫn, tạo hứng thú cho học viên; gian học, họ có thể học ở bất cứ ở đâu và bất cứ<br /> vào thời điểm nào khi có phương tiện hỗ trợ.<br /> - Công nghệ còn tạo điều kiện thuận lợi để học<br /> viên theo đuổi mục tiêu học tập suốt đời và chính Thực tế, học viên Lào và Campuchia tại<br /> quá trình hoạt động học tập suốt đời là chìa khóa HVKTQS có ý thức tự học cao. Sau những giờ học<br /> dẫn tới sự thành công; trên lớp, học viên thường tự làm các bài luyện ngữ<br /> pháp, viết từ mới, đọc bài đọc và tự tập phát âm.<br /> - Công nghệ giúp học viên tự tin và chủ động Đây là một điểm mạnh của học viên, tuy nhiên, khi<br /> hơn trong học tập và mở ra trước mắt các em một học viên quá “chăm” đọc từ và đọc bài nhưng lại<br /> nguồn tài nguyên khổng lồ đa phương tiện với các đọc sai, phát âm không tốt thì sẽ tạo ra những vết<br /> nội dung học tập dưới dạng văn bản, tệp âm thanh, “hằn” rất khó sửa chữa. Chính vì lẽ đó, nếu giảng<br /> hình ảnh, video; viên trang bị cho học viên những nguồn bao gồm<br /> cả phần phát âm để học viên học phát âm từ/câu<br /> - Công nghệ trao cho học viên cơ hội tiếp cận chuẩn sẽ rất tốt.<br /> môi trường học tiếng đa dạng, đầy đủ và thực tiễn<br /> với khả năng trau dồi tất cả các kỹ năng tiếng cơ Hiện nay, hầu hết học viên Lào, Campuchia<br /> bản nghe, nói, đọc, viết bên cạnh việc học từ vựng, tại Học viện Kỹ thuật Quân sự đều có điện thoại<br /> ngữ pháp, ngữ âm. thông minh và máy tính có kết nối mạng Internet.<br /> Tận dụng “tài nguyên” này, giảng viên chỉ dẫn cho<br /> Thật vậy, CNTT không chỉ hỗ trợ đắc lực giảng học viên học tập qua các trang trực tuyến. Ưu tiên<br /> viên trong các giờ dạy trên lớp, giúp cho giờ học trở hàng đầu là giảng viên sẽ giới thiệu để học viên<br /> nên sinh động, phong phú hơn mà “Công nghệ còn kết nối với trang chuyên dạy tiếng Việt cho người<br /> cho phép học viên tự học theo khả năng của riêng nước ngoài có uy tín; các trang có nguồn tài liệu<br /> mình trong một môi trường thân thiện” (Nguyễn về ngữ âm, ngữ pháp mà giảng viên thấy phù hợp.<br /> Thị Thanh Thanh, 2015, tr.109). Trong khuôn khổ Ở các trang này, các tài liệu được biên soạn khá đa<br /> của bài viết, chúng tôi tập trung giới thiệu ứng dạng, phong phú vì thế học viên sẽ cảm thấy hứng<br /> dụng CNTT nhằm định hướng việc tự học cho học thú hơn. Việc trau dồi thường xuyên sẽ giúp ghi<br /> viên quân sự nước ngoài đang học tại HVKTQS. nhớ và thực hành tốt hơn. Người học có thể lựa<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 17 (01/2019) 91<br /> v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> chọn những tài liệu cần thiết từ các trang mà giảng Dù là nguồn tài nguyên khai thác hay nguồn tự<br /> viên chia sẻ hoặc tải về trang của mình để làm tạo thì các tài liệu này phải đảm bảo các yêu cầu sau:<br /> các bài tập. Hiện nay có nhiều phần mềm luyện<br /> phát âm rất tốt, giảng viên có thể sử dụng những - Phải gắn với mục tiêu và nội dung cơ bản<br /> của bài học, phù hợp với trình độ của người học,<br /> ứng dụng CNTT đó vào việc dạy phát âm tiếng<br /> góp phần bổ trợ trong việc nâng cao kiến thức, rèn<br /> Việt như phần mềm“ Học vần Tiếng Việt”. Phần<br /> luyện kỹ năng và đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới<br /> mềm này bao gồm 173 âm vần, 519 từ khóa và<br /> phương pháp dạy học;<br /> 445 bài luyện viết chữ mẫu tiếng do Nhà xuất bản<br /> Giáo dục phát hành. Tất cả các âm vần, từ khóa, -  Phải liên quan đến nội dung bài giảng một<br /> tập đọc, tập nói trong chương trình đều được ghi cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm định hướng tư<br /> âm giọng Hà Nội chuẩn. Hoặc giảng viên cũng có duy cho người học;<br /> thể tải và hướng dẫn học viên khai thác phần mềm<br /> “Học tiếng Việt cấp tốc iVietnamese trên iOS”, - Phải có hình thức đa dạng (thông tin, hình<br /> phần mềm này được ứng dụng trên điện thoại di ảnh, âm thanh, video...) và có tính chọn lọc để đảm<br /> động cũng rất tiện lợi cho việc sử dụng. Cách tốt bảo tính tập trung.<br /> nhất ở đây là giảng viên có thể chỉ dẫn trực tiếp<br /> Để tạo được “kho tài nguyên” như trên không<br /> cho một vài học viên cách làm, cách khai thác, rồi chỉ đòi hỏi sự tâm huyết, công sức, thời gian mà<br /> những học viên này sẽ hướng dẫn cho bạn khác còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ khoa học công<br /> trong thời gian tự học. Để việc khai thác hiệu quả, nghệ của người thầy. Chính vì lẽ đó, không phải<br /> giảng viên cần giới thiệu những nguồn tài liệu phù giảng viên nào cũng có thể triển khai được mặc dù<br /> hợp với trình độ học viên. Mặc dù đối tượng học biết cách làm trên là vô cùng hiệu quả. Tuy nhiên,<br /> viên ở đây là người nước ngoài nhưng nhìn một giảng viên hoàn toàn có thể ứng dụng CNTT bằng<br /> cách tổng thể, điều này cũng giống với chỉ đạo của cách làm đơn giản nhưng hiệu quả, đó là tạo các<br /> Thủ tướng trong đề án dạy và học ngoại ngữ: “Đẩy bản ghi âm đơn giản để trao đổi, định hướng việc<br /> mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến trong dạy và tự học có trọng điểm cho học viên.<br /> học ngoại ngữ”.<br /> 3. TẠO CÁC BẢN GHI ÂM ĐƠN GIẢN,<br /> Bên cạnh việc giới thiệu cho học viên khai thác ĐỊNH HƯỚNG, THÚC ĐẨY VIỆC TỰ HỌC<br /> những trang học tiếng Việt trực tuyến, giảng viên CỦA HỌC VIÊN<br /> cũng có thể tạo trang riêng của mình hoặc đơn giản<br /> Thông qua các bản ghi âm, giảng viên có thể<br /> hơn là tạo một tài khoản Facebook, nhóm Viber<br /> giao bài tập để học viên tự làm. Các dạng bài tập có<br /> hoặc nhóm trong Messenger, WhatsApp chuyên<br /> thể khai thác qua hình thức này là: nghe và phát âm<br /> trao đổi, chia sẻ các tài liệu học tiếng Việt nhằm<br /> lại cho đúng (bắt chước theo cách phát âm chuẩn<br /> tạo sự tương tác thầy trò ngay cả khi không ở trên<br /> của giảng viên), nghe và viết chính tả; nghe và tóm<br /> lớp. Trên trang học tập tiếng Việt của mình, giảng tắt thông tin, nghe và trả lời câu hỏi,… Như vậy,<br /> viên đăng tải các tài liệu tự biên soạn hay chữa một học viên có thể rèn kỹ năng nghe và viết cùng lúc.<br /> số bài tập cần thiết cho học viên để củng cố kiến Sau khi học viên nghe, viết xong có thể chụp ảnh<br /> thức trên lớp. Việc chữa bài rất quan trọng vì giảng gửi bản viết để giảng viên sửa chữa; hoặc học viên<br /> viên nắm được chương trình học của học viên và cũng có thể ghi âm lại chính bài đọc của mình và<br /> học viên hứng thú hơn khi được luyện tập với kiến gửi lại để giảng viên nghe, chữa lỗi. Ở những trình<br /> thức phù hợp về ngữ pháp, từ vựng… Ở đây, giảng độ khác nhau, giảng viên cần có sự điều chỉnh và<br /> viên cần biên soạn tài liệu một cách công phu, thận tạo các bản ghi âm phù hợp nhằm tăng thêm sự lôi<br /> trọng, tránh những sai sót đáng tiếc. cuốn, hào hứng.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 92 Số 17 (01/2019)<br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br /> <br /> <br /> <br /> Một cách thiết thực và bám sát với chương Nếu trong bài đầu tiên này, ngoài các bản ghi<br /> trình học trên lớp hơn là ở mỗi đơn vị bài học (căn âm, giảng viên tạo (hoặc khai thác) được các file<br /> cứ vào giáo trình chính thống mà học viên sử dụng hình hướng dẫn cách viết hệ thống chữ thường,<br /> trên lớp), giảng viên sẽ ghi âm phần từ vựng, bài chữ hoa thì sinh viên sẽ có thể khai thác, nắm được<br /> đọc thành các bản âm ghi khác nhau sau đó gửi nguyên tắc viết đúng và nếu có quên cách viết con<br /> vào nhóm (group) chung để học viên khai thác. chữ nào thì hoàn toàn chủ động tự xem lại. Một<br /> Sở dĩ giảng viên nên ghi âm phần từ vựng và đọc trong những nguồn tư liệu dạy viết hiệu quả mà<br /> rồi ghi âm phần bài đọc để chia sẻ cho học viên giảng viên có thể tham khảo là file dạy viết chữ<br /> vì điều này sẽ giúp cho học viên trong khi học từ của Trung tâm viết chữ đẹp.<br /> mới có thể nghe lại cách phát âm của giảng viên để<br /> nhắc lại cho đúng. Khi học viên nghe lại cách đọc 3.1.2. Phần nguyên âm, phụ âm và phần vần<br /> của giảng viên trong phần bài đọc sẽ giúp giảm tối<br /> đa việc đọc phân xuất từ không đúng đồng thời Vẫn tiếp tục bằng hình thức ghi âm đơn giản,<br /> biết cách ngừng, nghỉ đúng lúc. tùy vào nội dung từng bài học, giảng viên chắt lọc<br /> nội dung chính, đọc chậm, đọc to, rõ ràng, tạo bản<br /> Việc tạo các bản ghi âm và gửi cho học viên có ghi rồi gửi vào nhóm chung. Ở phần này, giảng<br /> thể thực hiện ở tất cả các giai đoạn học tiếng Việt viên có thể tạo các bản ghi căn cứ vào các đầu<br /> của người học. Cụ thể như sau: mục, nội dung trong từng bài của giáo trình mà<br /> học viên đang học:<br /> 3.1. Phần ngữ âm<br /> Ví dụ:<br /> Như một đặc điểm của ngôn ngữ Tiếng Việt là<br /> ngôn ngữ đơn lập, có dấu thanh nên việc nắm bắt Phần I: Các kết hợp vần: Giảng viên đọc hệ thống<br /> đúng cách phát âm của học viên ngay từ những bài vần trong bài như: am, ăm, âm,… của từng bài.<br /> đầu tiên học ngữ âm là hết sức quan trọng.<br /> Phần II: Đọc từ: Giảng viên đọc phần từ vựng<br /> 3.1.1. Bài đầu tiên “Khái quát tiếng Việt” có trong giáo trình.<br /> <br /> Giảng viên đọc thật chậm, đọc to, rõ ràng rồi Phần III: Đọc câu: Giảng viên đọc các từ, cụm<br /> tạo các bản ghi âm như sau: từ, sau đó đọc lần lượt các câu có trong giáo trình.<br /> <br /> Hệ thống chữ cái tiếng Việt (gồm 29 ký tự): a, Trong phần này, giảng viên vẫn giữ cách đọc<br /> b, c, d, đ, e, ê, g, h, i, k, l, m, n, o, ô, ơ, p, q, r, s, t, chậm, to, rõ ràng thanh điệu để học viên tiện theo dõi.<br /> u, ư, v, x, y.<br /> Nếu giảng viên tạo thêm được các file hình ảnh<br /> Hệ thống nguyên âm tiếng Việt (gồm 11 đi kèm từ để học viên không chỉ biết cách phát âm<br /> nguyên âm đơn): a, ă, â, e, ê, o, ô, ơ, u, ư, i (y); chuẩn từ mà còn hiểu được nghĩa những từ ngữ<br /> 3 cặp nguyên âm đôi: iê – ia (yê – ya), ua – uô, đơn giản thì sẽ càng tạo hứng thú hơn cho học viên.<br /> ưa – ươ.<br /> Một điểm chú ý ở phần này là giảng viên nên<br /> Hệ thống phụ âm tiếng Việt (gồm 16 phụ âm tạo các bản ghi âm ngắn, chia bài thành nhiều bản<br /> đơn): b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, r, s, t, v, x; 11 phụ ghi khác nhau để học viên tiện theo dõi, và quan<br /> âm ghép ch, gh, gi, kh, ng, nh, ph, qu, th, tr, ngh. trọng hơn là để học viên không bị cảm giác thấy<br /> “ngại”, “chán”.<br /> Hệ thống dấu thanh (6 thanh): thanh không,<br /> thanh huyền, thanh sắc, thanh hỏi, thanh ngã, Việc nghe các bản ghi từ giảng viên như thế<br /> thanh nặng. này cũng giúp cho học viên hình thành kỹ năng<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 17 (01/2019) 93<br /> v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> nghe tốt, hạn chế tối đa việc phát âm sai ngay từ toàn có thể tự rèn kỹ năng viết bằng cách nghe từ,<br /> lúc mới học ngữ âm, tạo tiền đề cho việc tiếp thu nghe câu rồi viết lại.<br /> tiếng Việt một cách chuẩn mực, đồng đều.<br /> 3.3. Phần tiếng Việt nâng cao và tiếng Việt<br /> 3.2. Phần “Tiếng Việt thực hành” chuyên ngành.<br /> <br /> Tương tự như phần ngữ âm, giảng viên cũng sẽ Khi đã trải qua phần tiếng Việt thực hành, nếu<br /> ghi âm, tạo bản ghi cho từng bài. Tuy nhiên, ở mỗi sinh viên tiếp tục học tiếng Việt ở trình độ nâng<br /> bài, giảng viên sẽ chỉ nên tạo các bản ghi âm của cao và tiếng Việt chuyên ngành thì giảng viên cũng<br /> phần “Từ vựng” và phần “Bài đọc”. nên tạo 2 file nghe cơ bản:<br /> <br /> 3.2.1. Phần từ vựng Phần từ vựng: Phần này sẽ bao chứa từ vựng<br /> cơ bản của bài.<br /> Phần này sẽ bao chứa từ vựng cơ bản của bài.<br /> Đặc biệt là những từ khó, giảng viên phải phát âm Phần đọc: Giảng viên đọc các bài đọc.<br /> chuẩn, rõ ràng để sinh viên nghe và luyện theo.<br /> Ví dụ: Bài 1: Khái quát chung về đạn dược<br /> 3.2.2. Phần đọc (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2018, tr.15)<br /> <br /> Giảng viên đọc các bài đọc. Bản ghi 1: Phần từ vựng<br /> <br /> Ví dụ: Bài 5: Đi xem hội, (Đoàn Thiện Thuật,<br /> đạn dược sát thương chiến - kỹ thuật<br /> 2006, tr.49) vật phẩm đối phương khai thác<br /> tạo khói phá hủy chủng loại<br /> Bản ghi âm 1: Phần từ vựng: gây cháy trang thiết bị kiểu<br /> chiếu sáng công dụng cỡ<br /> lễ hội thổi xôi áo the<br /> nam nữ thanh niên phần thưởng khăn xếp Bản ghi 2: Bài đọc Khái niệm đạn dược<br /> lân cận nét đặc sắc áo tứ thân<br /> trò chơi dân ca quan họ nón ba tầm Nếu ở phần này, giảng viên chuẩn bị được các<br /> bơi thuyền Kinh Bắc mời trầu hình ảnh và giải thích từ mới một cách trực quan<br /> dân gian<br /> thì sẽ tạo hiệu ứng tích cực đối với học viên, bởi<br /> Bản ghi âm 2: Bài đọc Hội Lim khi đã học đến phần nâng cao và chuyên ngành,<br /> học viên không chỉ cần phát âm chuẩn về ngôn<br /> (Giảng viên đọc toàn bộ nội dung bài đọc trong ngữ mà còn cần hiểu chính xác nghĩa của từ. Để<br /> trang 49 của giáo trình đã dẫn) nắm chắc nghĩa của các từ, cụm từ chuyên ngành<br /> thì việc dùng hình ảnh minh họa cụ thể cho từ<br /> Việc tạo các bản ghi từ vựng và phần bài đọc vựng đó sẽ mang lại hiệu quả tốt nhất.<br /> giúp sinh viên nâng cao kỹ năng nghe, “gỡ rối”<br /> khi học viên đọc bài nhưng bị “mắc” ở một từ nào Mục đích của việc tạo các bản ghi này là<br /> đó, học viên hoàn toàn có thể mở bản ghi nghe lại đảm bảo “người thầy” có mặt ở mọi nơi, mọi lúc,<br /> cách đọc của giảng viên. Quan trọng hơn nữa, qua ngay cả khi học viên không ở trên lớp thì thầy<br /> bài đọc mẫu của thầy cô, học viên sẽ nắm chắc hơn vẫn “ở bên cạnh” hướng dẫn. Việc này cũng tạo<br /> cách phân xuất từ, đảm bảo hiểu đúng nội dung của điều kiện để những học viên vì một lý do nào<br /> bài, tránh tối đa việc phân xuất từ không chính xác đó không đến lớp được thì hoàn toàn có thể khai<br /> dẫn đến hiểu sai nghĩa của từ và nội dung bài. Bên thác, nắm bắt được cách phát âm của bài dưới sự<br /> cạnh việc rèn kỹ năng nghe, học viên còn hoàn hướng dẫn của giảng viên một cách chính thống.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 94 Số 17 (01/2019)<br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br /> <br /> <br /> <br /> Điểm đáng chú ý ở đây là các bản ghi (file hình Nếu giảng viên có trình độ công nghệ thông<br /> ảnh) cần cắt ngắn, đơn giản, không gộp chung nội tin tốt và tạo được riêng một Block, trên đó không<br /> dung toàn bài trong một bản ghi. Cách làm này tạo chỉ có các bài nghe mà còn có hình ảnh, nguồn<br /> cho học viên cảm giác dễ hiểu, dễ tiếp thu. Khi tài nguyên lớn hơn để có thể hoàn thiện cả 4 kỹ<br /> học viên nghe và viết lại các từ (đã học trên lớp) năng ngoại ngữ chia thành các cấp độ thì đây sẽ là<br /> thì một lần nữa kiến thức được tái hiện và ghi nhớ một môi trường tự học tiếng Việt lý tưởng cho học<br /> sâu sắc.<br /> viên quân sự nước ngoài. Tuy nhiên, trước khi có<br /> Cũng phải nói thêm rằng, giảng viên không chỉ các Block này thì việc giảng viên ghi âm, trao đổi<br /> phát các bản ghi âm để học viên nghe một chiều bài với học viên sẽ vẫn là cách tương tác dạy-học<br /> mà song song với việc giao bài, giảng viên cũng mang lại hiệu quả tích cực.<br /> cần có các hình thức kiểm tra để nắm bắt được<br /> thái độ học tập, khả năng tiếp thu bài của học viên. Chúng tôi cũng cho rằng, phương pháp luyện<br /> Việc kiểm tra này không chỉ tiến hành ở trên lớp này không chỉ áp dụng trong việc dạy-học tiếng<br /> mà sinh viên hoàn toàn có thể trao đổi với giảng Việt như một ngoại ngữ mà còn có thể áp dụng<br /> viên trong nhóm. Qua Inbox, giảng viên có thể giải cho việc dạy các môn ngoại ngữ nói chung cho<br /> đáp mọi thắc mắc cho học viên. sinh viên Việt Nam. Hy vọng những giải pháp này<br /> sẽ góp một phần tích cực định hướng việc tự học<br /> Việc tạo được các bản ghi âm và các bài giảng cho học viên, giúp việc học tiếng Việt cho học viên<br /> dưới dạng đoạn clip ngắn đã đòi hỏi giảng viên quân sự nước ngoài tại Học viện Kỹ thuật Quân sự<br /> cần có sự đầu tư công phu về mặt thời gian, công hiệu quả hơn./.<br /> nghệ, kiến thức nhưng nếu giảng viên chủ động<br /> xây dựng được hệ thống câu hỏi trắc nghiệm và Tài liệu tham khảo:<br /> phần mềm đánh giá kết quả tự học của học viên thì<br /> chắc chắc việc tự học sẽ trở nên hiệu quả và mang Nguyễn Văn Long (2015), “Giảng dạy tiếng Anh trong<br /> nhiều tác dụng tích cực hơn. thời đại truyền thông số từ góc nhìn của ngôn ngữ<br /> học xã hội”, Tạp chí Ngôn ngữ & Ðời sống, số 1,<br /> 4. KẾT LUẬN tr.30-34.<br /> <br /> Có thể nói, mục đích của giảng dạy ngoại ngữ Nguyễn Thị Thanh Thanh (2015), “Mạng xã hội<br /> nói chung và việc giảng dạy tiếng Việt cho học Facebook và những ứng dụng của Facebook trong<br /> viên nước ngoài nói riêng là biến quá trình giáo môi trường học tập linh hoạt tăng tính cộng tác”,<br /> dục thành quá trình tự giáo dục để người học có Tạp chí Seameo Retrac, số 6, tr.106-121.<br /> thể tự học. Do đó, hiệu quả của giáo dục phụ thuộc GS. Đoàn Thiện Thuật (2006), Thực hành Tiếng Việt<br /> rất nhiều vào việc làm thế nào để người học tham trình độ B, NXB Thế giới, Hà Nội.<br /> gia một cách chủ động và tích cực vào quá trình<br /> Nguyễn Thị Thanh Thủy (2018), Giáo trình Tiếng Việt<br /> đó. Nhờ ứng dụng công nghệ thông tin, ngoài giờ<br /> chuyên ngành Đạn, Học viện Kỹ thuật Quân sự,<br /> học trên lớp, giữa người dạy và người học có thể<br /> Hà Nội.<br /> tăng cường thêm sự tương tác, làm tăng hiệu quả<br /> của việc tự học. Tuy nhiên, việc ứng dụng công Walker, R.S. Hewer, and G. Davies (2008), Information<br /> nghệ thông tin vào việc định hướng việc tự học and Computer Technology for Language Teaching,<br /> cho học viên còn tùy thuộc vào trình độ, mức độ (ICT4LT), cited 2008 June 15, .<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 17 (01/2019) 95<br /> v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> <br /> APPLICATIONS OF INFORMATION TECHNOLOGY TO ORIENT<br /> THE SELF - STUDY FOR FOREIGN STUDENTS OF VIETNAMESE<br /> AT MILITARY TECHNOLOGY ACADEMY<br /> NGUYEN THI THANH THUY<br /> Abstract: Applying IT in teaching and learning not only brings excitement in the classroom, helping<br /> students absorb better but also has an important effect in promoting their self-study process. On the<br /> basis of information technology, teachers will guide students to explore the resources available on the<br /> Internet, create their own blogs, Facebook pages or groups to interact with students or design exercises<br /> in line with their levels to orient the self study effectively. This article refers more specifically to how<br /> to apply IT simply but quite effectively in creating simple sound recordings based on specific content<br /> of each lesson to interact with students, give assignments or for students to use as a source of data to<br /> self-study.<br /> Keywords: sound recordings, Information technology, self - study<br /> Received: 18/9/2018; Revised: 17/10/2018; Accepted: 20/12/2018<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 96 Số 17 (01/2019)<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
31=>1