Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br />
<br />
<br />
<br />
ỨNG DỤNG NỘI SOI QUA ĐƯỜNG MŨI XOANG BƯỚM MỞ RỘNG <br />
PHẪU THUẬT U SỌ HẦU <br />
Nguyễn Thanh Xuân*, Lý Ngọc Liên*, Kiều Đình Hùng*, Đồng Văn Hệ*, Trần Đình Văn*, <br />
Nguyễn Đức Anh* <br />
<br />
TÓM TẮT <br />
Đặt vấn đề: U sọ hầu là những khối u điều trị chính bằng phẫu thuật với nhiều đường mổ được áp dụng. <br />
Ngày nay với sự tiến bộ của nội soi, ứng dụng đường mổ xoang bướm mở rộng có thể mổ lấy những khối u sọ <br />
hầu trên yên, thậm chí trong não thất. <br />
Đối tượng và phương pháp: Từ tháng 7/2013 – 8/2014, 33 bệnh nhân (7 trẻ em và 26 người lớn) khối u sọ <br />
hầu đã được phẫu thuật nội soi lấy u qua đường mũi xoang bướm. <br />
Kết quả: Tỷ lệ lấy hết khối u 17/33 (51,5%), lấy gần hoàn toàn 14/33 (42,2%), lấy u một phần 2/33(6,1%). <br />
Biến chứng tử vong 1/33(3%) trường hợp do viêm màng não, rò dịch não tuỷ 3/33 (9,1%). <br />
Kết luận: Phần lớn những khối u sọ hầu vùng trên yên có thể phẫu thuật bằng đường mổ nội soi qua mũi <br />
xoang bướm cho kết quả tốt, an toàn. <br />
Từ khoá: nội soi u sọ hầu <br />
<br />
ABSTRACT <br />
EXTENDED ENDOSCOPIC ENDONASAL TRANSPHENOIDAL APPROACH TO MANAGEMENT <br />
OF CRANIOPHARYNGIOMAS <br />
Nguyen Thanh Xuan, Ly Ngoc Lien, Kieu Dinh Hung, Dong Van He, Tran Dinh Van, <br />
Nguyen Duc Anh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 122 – 127 <br />
Objective: Craniopharyngiomas have been classically removed using a <br />
variety of transcranial approaches.With the advent of the endoscope in transsphenoidal surgery, its obvious <br />
advantages combined with neurosurgeons increasing interest in extended transsphenoidal approaches made <br />
suprasellar and even intraventricular craniopharyngiomas. <br />
Patients and methods: From 7/2013 – 8/2014, 33 patients (26 adults and 7 children) underwent surgery <br />
for craniopharyngioma with nasal transsphenoidal approaches <br />
Result: Gross total tumor removal was achieved in 17/33 (51,5%) patients, subtotal removal was achieved in <br />
14/33 (42,4%), and partial removal was achieved in 2/33(6,1%). The early postoperative mortality rate was 1/33 <br />
(3,0%) cause of meningitis. Cerebrospinal fluid (CSF) leakage occurred in 3/33 (9,1%) patients. <br />
Conclutions: Most craniopharyngiomas including the supradiaphragmatic type can be removed safely by <br />
TSS with a good outcome, although endocrine function frequently worsens after surgery <br />
Keywords: craniopharyngiomas – Endoscopic endonasal transsphenoidal approach <br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ <br />
U sọ hầu (Craniopharyngiomas) là loại u <br />
biểu mô vảy lành tính ít gặp, phát triển chậm, <br />
nằm phần lớn dọc theo tuyến yên đến vùng <br />
dưới đồi, giải phẫu bệnh gồm 2 thể là u sọ hầu <br />
* Khoa PTTK – BV Việt Đức <br />
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thanh Xuân <br />
<br />
122<br />
<br />
thể men bào và u sọ hầu thể nhú(3). U gặp chủ <br />
yếu ở hai nhóm tuổi trẻ em từ 5 ‐ 15 tuổi và <br />
người lớn 50 ‐ 70 tuổi. Tỷ lệ mới mắc được phát <br />
hiện 0,5‐2 ca / 1 triệu dân/ năm; tỷ lệ gặp ở hai <br />
giới tương đương nhau(7). U sọ hầu gây nên các <br />
<br />
ĐT: 0912423740 Email: xuancon7983@gmail.com <br />
<br />
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
<br />
biến chứng về mắt, rối loạn nội tiết, rối loạn tâm <br />
thần, tăng áp lực nội sọ. Có nhiều phương pháp <br />
điều trị: phẫu thuật lấy u, xạ trị, hoá chất hoặc <br />
phối hợp nhiều phương pháp. Điều trị phẫu <br />
thuật lấy bỏ hoàn toàn khối u được lựa chọn đầu <br />
tiên. Đây là khối u lành tính nên để việc điều trị <br />
có kết quả tốt phải lấy bỏ hết khối u mà không <br />
làm tổn thương tuyến yên, cuống tuyến yên và <br />
các cấu trúc quan trọng xung quanh. Nhưng bản <br />
chất của khối u thường dính chặt và xâm lấn vào <br />
các cấu trúc quan trọng này nên việc cắt bỏ hết <br />
khối u là điều rất khó khăn. Lựa chọn đường mổ <br />
tiếp cận khối u phụ thuộc vào vị trí, sự xâm lấn <br />
của khối u, tính chất khối u và kinh nghiệm của <br />
phẫu thuật viên. Đường mổ nội soi qua mũi <br />
xoang bướm mở rộng được nhiều tác giả ứng <br />
dụng do tỷ lệ thành công cao và biến chứng <br />
thấp(7). Nguy cơ lớn nhất là rò dịch não <br />
tuỷ(DNT) ngày nay đã được nghiên cứu điều trị, <br />
sử dụng các vật liệu chống rò trong mổ đã được <br />
áp dụng nên tỷ lệ bị rò DNT sau mổ đã được <br />
hạn chế rất nhiều. Chúng tôi thực hiện đề tài này <br />
nhằm 2 mục tiêu: <br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP <br />
Đối tượng nghiên cứu <br />
33 bệnh nhân được chẩn đoán u sọ hầu vị trí <br />
hố yên, trên yên hoặc xâm lấn một phần não thất <br />
III được phẫu thuật nội soi lấy u qua đường mũi <br />
xoang bướm trong thời gian từ 7/2013 đến <br />
8/2014 tại khoa Phẫu thuật thần kinh, bệnh viện <br />
Việt Đức. Bệnh nhân gồm 9 nữ/ 24 nam , 7 trẻ <br />
em/ 26 người lớn, độ tuổi từ 6 ‐ 65 tuổi, tuổi <br />
trung bình 33,2 tuổi. Có 11 bệnh nhân được chẩn <br />
đoán u tái phát và 22 bệnh nhân mổ lần đầu, 1 <br />
bệnh nhân u tái phát đã được xạ phẫu gamma <br />
knife. Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán u sọ <br />
hầu dựa vào khai thác triệu chứng lâm sàng, các <br />
xét nghiệm điện giải, nội tiết đầy đủ, hình ảnh <br />
cắt lớp vi tính (CTscanner), cộng hưởng từ (MRI) <br />
trước và sau mổ, giải phẫu bệnh khẳng định u sọ <br />
hầu. Bênh nhân được khám định kỳ sau mổ theo <br />
dõi tiến triển, biến chứng và điều trị nội khoa. <br />
Trong số 33 bệnh nhân: 8 bệnh nhân được mổ <br />
<br />
Bệnh Lý Sọ Não <br />
<br />
nội soi qua đường xoang bướm đơn thuần là <br />
những khối u nằm ở vùng hố yên, trên yên đơn <br />
thuần, 25 bệnh nhân được mổ qua đường xoang <br />
bướm mở rộng: mở sàn hố yên và củ yên, bộc lộ <br />
để đi vào khe giao thoa thị giác tuyến yên tiếp <br />
cận khối u đối với những khối u nằm ở trên yên, <br />
sau giao thoa thị giác và não thất III. <br />
<br />
Chỉ định phẫu thuật <br />
U sọ hầu nằm trong hố yên, u sọ hầu nằm <br />
vùng trên yên, não thất III sử dụng đường mổ <br />
xoang bướm mở rộng bằng cách mở rộng <br />
xương phần củ yên, phần ngang xương bướm <br />
trước củ yên. Những trường hợp u sọ hầu nằm <br />
sang bên ngoài động mạch cảnh hoặc thần <br />
kinh thị giác trên 1 cm, u nằm trong não thất <br />
bên hoặc sừng trán không có chỉ định đi <br />
đường mũi xoang bướm(1). <br />
<br />
Dụng cụ <br />
Sử dụng hệ thống nội soi với camera và màn <br />
hình độ nét cao của hãng Karlstorz (Đức), nguồn <br />
sáng led, optic: 0 độ, 30 độ, 70 độ, hệ thống ghi <br />
video và hình ảnh trong mổ. Bộ dụng cụ phẫu <br />
thuật qua mũi xoang, dụng cụ phẫu thuật tuyến <br />
yên, sử dụng hệ thống khoan mài mũi kim <br />
cương tốc độ cao, có tay mài dài chuyên dụng <br />
qua mũi (Medtronic). Hệ thống định vị <br />
Navigation: Brainlab, Medtronic sử dụng đĩa CD <br />
phim cộng hưởng từ hoăc CT scanner. Dụng cụ <br />
cầm máu: ống hút đốt điện, Kẹp lưỡng cực, <br />
Surgicel, Floseal, vật tư đóng nền sọ: màng cứng <br />
nhân tạo, cân cơ đùi, mỡ, keo sinh học (Bioglue). <br />
<br />
Kỹ thuật mổ <br />
Sử dụng đường mổ đi vào 2 mũi, 2 phẫu <br />
thuật viên thành thạo nội soi kỹ thuật 3 hoặc 4 <br />
dụng cụ viên, gồm 4 thì chính: (1) Thì mũi xoang <br />
bướm: mở vào xoang bướm, tạo vặt vách mũi có <br />
cuống để vá nền sọ, cắt 1 phần sau mảnh xương <br />
vách mũi. (2) Thì hố yên: sử dụng khoan mài và <br />
cò súng mở sàn hố yên, rãnh giao thoa, củ yên <br />
để bộc lộ vào khe giữa giao thoa thị giác và <br />
tuyến yên lành. (3) Thì lấy u: phẫu tích tách u <br />
khỏi mạch máu, thần kinh thị giác, cuống tuyến <br />
<br />
123<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br />
<br />
<br />
yên, lấy u từng phần. (4) Thì đóng nền sọ: Sử <br />
dụng cân, mỡ đùi, vạt vách mũi có cuống, keo <br />
sinh học để vá nền sọ(5). <br />
<br />
Bảng 2 Kết quả phẫu thuật lấy u <br />
Đặc<br />
điểm<br />
<br />
Bảng 1 Đặc điểm khối u sọ hầu được phẫu thuật nội <br />
soi qua mũi xoang bướm <br />
Đặc điểm<br />
Vị trí<br />
<br />
N(33)<br />
<br />
%<br />
<br />
Hố yên<br />
<br />
2<br />
<br />
6,1<br />
<br />
Trên yên<br />
<br />
6<br />
<br />
18,2<br />
<br />
Trên yên và<br />
trong NT3<br />
<br />
25<br />
<br />
75,7<br />
<br />
< 2cm<br />
<br />
2<br />
<br />
6,1<br />
<br />
2 - 4 cm<br />
<br />
28<br />
<br />
84,8<br />
<br />
> 4 cm<br />
<br />
3<br />
<br />
9,1<br />
<br />
dạng nang<br />
<br />
4<br />
<br />
12,1<br />
<br />
Dạng đặc<br />
<br />
3<br />
<br />
9,1<br />
<br />
Hỗn hợp<br />
<br />
26<br />
<br />
78,8<br />
<br />
Giãn não thất<br />
<br />
13<br />
<br />
39,4<br />
<br />
Kích thước<br />
<br />
Tính chất u<br />
<br />
Kích thước u<br />
<br />
Tổng số<br />
<br />
Lần<br />
đầu<br />
<br />
Tái<br />
phát<br />
<br />
<<br />
2cm<br />
<br />
24cm<br />
<br />
>4cm<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
Hết u<br />
<br />
14<br />
<br />
3<br />
<br />
2<br />
<br />
14<br />
<br />
1<br />
<br />
17<br />
<br />
51,5%<br />
<br />
Gần<br />
hết u<br />
<br />
8<br />
<br />
6<br />
<br />
0<br />
<br />
12<br />
<br />
2<br />
<br />
14<br />
<br />
42,4%<br />
<br />
Bán<br />
phần<br />
<br />
0<br />
<br />
2<br />
<br />
0<br />
<br />
2<br />
<br />
0<br />
<br />
2<br />
<br />
6,1%<br />
<br />
KẾT QUẢ <br />
Trong thời gian từ tháng 7/2013 đến tháng <br />
8/2014 đã có 33 bệnh nhân u sọ hầu được phẫu <br />
thuật nội soi lấy u qua đường mũi xoang bướm <br />
theo đúng chỉ định nghiên cứu đề ra với những <br />
đăc điểm theo thống kê (Bảng 1). Hầu hết bệnh <br />
nhân có khối u lớn trên 2cm tập trung ở vùng <br />
trên yên và não thất III là những vị trí rất khó <br />
tiếp cận, dù đi vào bằng đường ở sọ hay đường <br />
xoang bướm. Các khối u phần lớn dạng hỗn hợp <br />
gồm 2 phần: phần nang và phần đặc, trong đó <br />
chúng tôi lựa chọn những khối u có phần nang <br />
chiếm ưu thế, vôi hoá ít, não úng thuỷ chiếm tỷ <br />
lệ cao 39,4%. <br />
<br />
Tiền sử mổ<br />
USH<br />
<br />
MRI trước mổ <br />
<br />
MRI sau mổ 6 tháng <br />
<br />
Kết quả lấy u <br />
Tỷ lệ lấy hết hoàn toàn khối u chiếm 51,5%, <br />
lấy u gần hoàn toàn (> 80%) chiếm 42,4%, lấy u <br />
một phần chiếm 6,1%. Những khối u có kích <br />
thước nhỏ, nằm thấp, mổ lần đầu có tỷ lệ lấy <br />
hết u và gần hết u cao hơn Những khối u tái <br />
phát thường khó lấy hết u hơn. Có 2 trường <br />
hợp (6,1%) chỉ lấy được một phần u, mở thông <br />
nang đều là u sọ hầu tái phát. <br />
<br />
124<br />
<br />
Khối u lấy ra <br />
Ảnh 1: Bệnh nhân Kiều Doãn Kh 10 tuổi (Mổ <br />
26.12.2013) <br />
<br />
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
<br />
Những khối u sọ hầu nhỏ, ít chèn ép hoặc xâm <br />
lấn vào cuống tuyến yên hay sàn não thất III ít <br />
gây suy tuyến yên hơn cả trước và sau mổ, khối <br />
u càng lớn và lan rộng gây suy tuyến yên càng <br />
cao hơn .Như vậy đối với phẫu thuật u sọ hầu <br />
thường không cải thiện triệu chứng nội tiết mà <br />
kết quả thường biểu hiện suy tuyến yên nặng <br />
hơn so với trước mổ. <br />
<br />
Kết quả biến đổi nội tiết trước và sau mổ <br />
Hầu hết các bệnh nhân đều biểu hiện suy <br />
tuyến yên nặng hơn, do đặc điểm bệnh học của <br />
u sọ hầu là suy tuyến yên. Tỷ lệ suy tuyến yên <br />
một phần hoặc toàn bộ trước mổ chiếm tỷ lệ cao <br />
87,9%. Tình trạng suy tuyến yên nặng hơn sau <br />
mổ chiếm 72,7% số bệnh nhân và tỷ lệ đái nhạt <br />
mới mắc chiếm 51,2%, chỉ có 2/33 (6,1%) trường <br />
hợp có cải thiện triệu chứng nội tiết sau mổ. <br />
Bảng 3 Kết quả biến đổi nội tiết trước và sau mổ <br />
<br />
u trên yên<br />
<br />
u trên yên và<br />
NT3<br />
<br />
N<br />
<br />
%<br />
<br />
Bình thường<br />
<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
1<br />
<br />
4<br />
<br />
12,1<br />
<br />
Suy tuyến yên<br />
<br />
1<br />
<br />
4<br />
<br />
24<br />
<br />
29<br />
<br />
87,9<br />
<br />
Đái nhạt<br />
<br />
0<br />
<br />
1<br />
<br />
6<br />
<br />
7<br />
<br />
21,2<br />
<br />
Cải thiện<br />
<br />
0<br />
<br />
2<br />
<br />
0<br />
<br />
2<br />
<br />
6,1<br />
<br />
Không thay đổi<br />
<br />
2<br />
<br />
3<br />
<br />
2<br />
<br />
7<br />
<br />
21,2<br />
<br />
Suy tuyến yên nặng thêm<br />
<br />
0<br />
<br />
1<br />
<br />
23<br />
<br />
24<br />
<br />
72,7<br />
<br />
Đái nhạt mới mắc<br />
<br />
0<br />
<br />
2<br />
<br />
15<br />
<br />
17<br />
<br />
51,5<br />
<br />
Trước<br />
mổ<br />
<br />
Sau mổ<br />
<br />
Tổng số<br />
<br />
u trong hố yên<br />
<br />
Đặc điểm nội tiết<br />
<br />
Kết quả thay đổi thị lực <br />
Có 21/33 trường hợp có rối loạn do tổn <br />
thương thần kinh thị giác trước mổ: như giảm <br />
thị lực hẹp thị trường, trong số đó có tất cả 11 <br />
bệnh nhân u tái phát và 10 bệnh nhân u nguyên <br />
phát.Sau mổ có 12/21(57,1%) bệnh nhân có cải <br />
thiện triệu chứng thị giác,7 bệnh nhân không cải <br />
thiện,2 bệnh nhân kém hơn trước mổ, trong đó <br />
có 1 bệnh nhân mù 1 mắt sau mổ do tổn thương <br />
thần kinh thị giác trong mổ. Triệu chứng cải <br />
thiện thị giác rõ rệt nhất ở những bệnh nhân mổ <br />
lần đầu, diễn biến giảm thị lực nhanh. <br />
<br />
Biến chứng <br />
Biến chứng gặp nhiều nhất là rò dịch não tuỷ <br />
3/33 (9,1%) và viêm màng não sau mổ 4/33 (12,1), <br />
có 2 trường hợp cấy vi khuẩn dương tính là trực <br />
khuẩn mủ xanh và phế cầu.Trong 3 trường hợp <br />
rò dịch não tuỷ: 1 trường hợp phải mổ lại vá rò <br />
qua đường mũi, 1 trường hợp chọc dịch não tuỷ <br />
dẫn lưu thắt lưng hết rò sau 5 ngày. Có 1 trường <br />
hợp tử vong do rò dịch não tuỷ gây viêm màng <br />
não, cấy dịch não tuỷ dương tính với trực khuẩn <br />
mủ xanh là bệnh nhân nam 19 tuổi, u sọ hầu <br />
<br />
Bệnh Lý Sọ Não <br />
<br />
vùng trên yên mổ lấy toàn bộ u, sau mổ ổn định, <br />
ra viện sau 10 ngày, 2 tuần sau bệnh nhân được <br />
chuyển đến trong tình trạng sốc nhiễm khuẩn, rò <br />
dịch não tuỷ, viêm màng não, bệnh nhân tử <br />
vong sau 2 ngày nhập viện. Một trường hợp <br />
máu tụ ngoài màng cứng sau mổ do chảy máu <br />
từ chân đinh cố định đầu ở bệnh nhân 7 tuổi, <br />
bệnh nhân ổn định ra viện sau khi mổ lấy máu <br />
tụ. Biến chứng nặng hay gặp là rối loạn điện giải, <br />
chúng tôi gặp 2 trường hợp rối loạn điện giải <br />
nặng sau mổ do bệnh nhân đái nhạt. Một trường <br />
hợp sụp mi sau mổ do liệt dây III và một trường <br />
hợp tràn khí nội sọ nhiều sau mổ. <br />
Bảng 3: Biến chứng sau phẫu thuật <br />
Biến chứng<br />
Rò DNT<br />
VMN<br />
Máu tụ NMC<br />
Tràn khí trong não<br />
Tổn thươngng mạch máu lớn<br />
Tổn thương TK thị giác<br />
Liệt thần kinh sọ<br />
RL điện giải nặng<br />
Tử vong<br />
<br />
n<br />
3<br />
4<br />
1<br />
1<br />
0<br />
1<br />
1<br />
2<br />
1<br />
<br />
%<br />
9,1<br />
12,1<br />
3,0<br />
3,0<br />
0<br />
3,0<br />
3,0<br />
6,1<br />
3,0<br />
<br />
125<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br />
<br />
<br />
BÀN LUẬN <br />
Ứng dụng đường mổ: U sọ hầu là những tổn <br />
thương đa hình thái và đa vị trí nên việc lựa <br />
chọn đường mổ lấy u phụ thuộc vào tuỳ từng <br />
tổn thương. Trước đây, việc lấy bỏ khối u chủ <br />
yếu thực hiện bằng đường mở sọ với đường mổ <br />
trán thái dương, dưới trán hay đường mổ vào <br />
não thất 3 nhưng đều có những nhược điểm <br />
nhất định. Đường mổ qua xoang bướm chủ yếu <br />
đối với những khối u nằm ở hố yên và trên yên <br />
trong bể dịch não tuỷ nền sọ trước hay u độ 1 và <br />
độ 2 theo phân loại của Samii(7). Ngày nay, với <br />
sự tiến bộ của công nghệ hình ảnh, dụng cụ <br />
phẫu thuật và những nghiên cứu sâu áp dụng <br />
nội soi trong phẫu thuật nền sọ, đặc biệt là ứng <br />
dụng đường mổ xoang bướm mở rộng đã có thể <br />
lấy những khối u ở vị trí cao hơn, xa hơn vùng <br />
trên yên, sau dốc nền, thậm chí trong não thất(4). <br />
Phương pháp phẫu thuật nội soi lấy u sọ hầu <br />
qua đường mũi cho thấy những ưu điểm rõ rệt <br />
so với những phương pháp khác như: đường <br />
mổ nhỏ, qua lỗ tự nhiên, không cần phải mở sọ; <br />
tiếp cận trực tiếp khối u mà không cần vén não, <br />
thấy rõ được các mốc giải phẫu khó tiếp cận <br />
vùng nền sọ trước nếu, tỷ lệ lấy bỏ hoàn toàn <br />
khối u cao, thời gian nằm viện ngắn. Nhược <br />
điểm lớn nhất của phương pháp này là tỷ lệ rò <br />
dịch não tuỷ sau mổ cao hơn các phương pháp <br />
khác(8). Hiện nay đã có rất nhiều báo cáo về các <br />
phương pháp vá nền sọ chống rò dịch não tuỷ <br />
như: sử dụng mảnh ghép bằng các vạt có cuống <br />
mạch nuôi, cân đùi, mỡ bụng, mảnh xương ghép <br />
đỡ nền sọ, các vật liệu tạo dính, màng cứng nhân <br />
tạo(1)…Trong 33 bệnh nhân, chúng tôi đã sử <br />
dụng đường mổ xoang bướm mở rộng cho <br />
25/33(75,7%) khối u sọ hầu trên yên xâm lấn một <br />
phần vào não thất ba bằng cách mở sàn hố yên, <br />
củ yên và 1 phần mảnh ngang xương bướm để <br />
vào khe giao thoa thị giác và tuyến yên lành tiếp <br />
cận khối u, đường mổ này có thể bọc tách khối u <br />
khỏi giao thoa, mạch máu xung quanh, cuống <br />
tuyến yên rất thuận lợi và rõ ràng. Điều cần chú <br />
ý khi phẫu thuật qua đường mổ xoang bướm <br />
<br />
126<br />
<br />
mở rộng: thứ nhất là cầm máu xoang tĩnh mạch <br />
liên xoang hang, chúng tôi sử dụng kẹp đốt <br />
lưỡng cực trước khi cắt, hoặc kẹp clip bạc tạm <br />
thời nếu không đốt được; thứ hai khi phẫu tích <br />
chú ý bảo tồn tối đa các nhánh mạch xiên vào <br />
giao thoa thị giác, cuống tuyến yên để giảm tối <br />
đa giảm thị lực và suy tuyến yên sau mổ. Khi <br />
đóng nền sọ chúng tôi dùng kỹ thuật nhiều lớp <br />
sử dụng cân và mỡ đùi, mảnh xương vách mũi <br />
là miếng đỡ và mảnh ghép bằng vạt vách mũi <br />
bên phải có cuống mạch từ động mạch bướm <br />
khẩu cái. Chúng tôi có 8 bệnh nhân sử dụng <br />
đường mổ xoang bướm kinh điển đơn thuần đối <br />
với những khối u nhỏ, nằm thấp đều cho kết quả <br />
tốt, cuộc mổ diễn biến thuận lợi. <br />
Tỷ lệ thành công ở nhóm bệnh nhân mổ <br />
lần đầu và với những khối u có phần nang <br />
nhiều hơn phần đặc là do những khối u này dễ <br />
bóc tách khỏi các cấu trúc xung quanh nhờ còn <br />
lớp màng nhện ngăn cách. Những khối u tái <br />
phát hoặc u có vôi hoá nhiều thường dích <br />
chắc, khó bóc tách nên tỷ lệ lấy hết u thấp hơn. <br />
Đối với sự biến đổi nội tiết sau mổ, hầu hết có <br />
tình trạng suy tuyến yên, đái nhạt nặng hơn là <br />
do bản chất của khối u đã gây biến loạn nội <br />
tiết trước mổ, khi lấy khối u thường làm tổn <br />
thương cuống tuyến yên, tuyến yến lành, cách <br />
mạch máu xiên của tuyến yên và vùng dưới <br />
đồi. Biến chứng đáng ngại nhất sau mổ là rò <br />
dịch não tuỷ, viêm màng não và rối loại nước <br />
điện giải. Để giảm được biến chứng này thì <br />
trong mổ phải đảm bảo đóng nền sọ thật cẩn <br />
thận, theo nhiều lớp, điều trị kháng sinh tốt <br />
sau mổ, sớm phát hiện các biểu hiện nhiễm <br />
khuẩn, dự phòng và điều chỉnh sớm các thay <br />
đổi về nước điện giải ngay trong và sau mổ. <br />
<br />
KẾT LUẬN <br />
Sử dụng đường mổ nội soi qua mũi xoang <br />
bướm để phẫu thuật lấy u sọ hầu là đường mổ <br />
thuận lợi để lấy những khối u ở vùng hố yên, <br />
trên yên và khối u trên yên xâm lấn vào não thất <br />
ba. Đây là đường mổ cho kết quả tốt, an toàn <br />
mặc dù tỷ lệ suy tuyến yên sau mổ cao. Điều cần <br />
<br />
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh <br />
<br />