intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vài nét về nguồn gốc người Tày ở Cao Bằng

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

237
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dân tộc Tày còn có tên gọi là “Tày Đeng” hoặc Thổ. Họ là cư dân sinh sống lâu đời ở khu vực miền núi phía Bắc nước ta, trong đó có Cao Bằng. Trải qua quá trình lịch sử, với nhiều biến động chính trị, bên cạnh những dòng họ Tày bản địa, lớp cư dân Tày mới đã xuất hiện. Trong Cao Bằng tạp chí nhật tập, Bế Huỳnh đã chia người Thổ (người Tày) thành bốn loại là Thổ ty (con cháu công thần triều Lê được phân phong thế tập cai quản ở đây), Phụ Đạo (người Tày bản địa được triều đình phong làm phụ đạo).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vài nét về nguồn gốc người Tày ở Cao Bằng

Nguyễn Thị Hải<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 84(08): 17 - 22<br /> <br /> VÀI NÉT VỀ NGUỒN GỐC NGƯỜI TÀY Ở CAO BẰNG<br /> Nguyễn Thị Hải*<br /> Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Dân tộc Tày còn có tên gọi là “Tày Đeng” hoặc Thổ. Họ là cư dân sinh sống lâu đời ở khu vực<br /> miền núi phía Bắc nước ta, trong đó có Cao Bằng. Trải qua quá trình lịch sử, với nhiều biến động<br /> chính trị, bên cạnh những dòng họ Tày bản địa, lớp cư dân Tày mới đã xuất hiện. Trong Cao Bằng<br /> tạp chí nhật tập, Bế Huỳnh đã chia người Thổ (người Tày) thành bốn loại là Thổ ty (con cháu<br /> công thần triều Lê được phân phong thế tập cai quản ở đây), Phụ Đạo (người Tày bản địa được<br /> triều đình phong làm phụ đạo), Thổ trước (dân Tày bản địa) và Biến Thổ (người ở dưới đồng bằng<br /> hoặc đi việc vua, đi dạy học mà tới, dân tứ xứ đến buôn bán cùng con cháu bề tôi nhà Mạc, những<br /> người phò giúp Tây Sơn an trí ở đây …) [5, 2].<br /> Từ khoá: Dân tộc Tày, Cao Bằng, An Dương Vương, Văn hoá, Thổ ty<br /> <br /> NGƯỜI TÀY GỐC*<br /> Ngày nay, người Tày Cao Bằng còn lưu truyền<br /> câu chuyện truyền thuyết “Pú Luông Quân” - kể<br /> về cuộc sống nguyên thuỷ của người Tày cổ ở<br /> địa phương. Cao Bằng là nơi sinh sống của cặp<br /> trai gái đầu tiên Báo Luông (trai to) và Sao Cải<br /> (gái lớn), nói cách khác, đó là nơi phát tích của<br /> người Tày cổ. Họ gặp nhau, lấy nhau và chung<br /> sống trong Ngườm Ngả (tức Ngườm Bốc) –<br /> một hang cạn gần mỏ nước ở Bản Nưa, xã<br /> Hồng Việt, huyện Hòa An ngày nay. Trải qua<br /> quá trình lao động, họ đã tìm ra lửa, phát minh<br /> ra nghề nông trồng lúa nước, thuần dưỡng và<br /> chăn nuôi gia súc. Khi nông nghiệp phát triển,<br /> họ bắt đầu chuyển xuống ở gần những cánh<br /> đồng. Quá trình ấy gắn liền với những địa danh<br /> Tày cổ của Hòa An như Nà Đuốc, Nà Loòng,<br /> Nà Niền, Nà Mỏ, Vỏ Má, Lậu Pất, Khau Ma,<br /> Nà Vài, Nà Mò, Chông Mu …[7]. Đặc biệt, qua<br /> nghiên cứu địa danh cho thấy, trừ tên huyện, xã<br /> là âm Hán - Việt được hình thành trong giai<br /> đoạn lịch sử sau, thì toàn bộ tên xóm, bản, sông,<br /> suối, núi, đồi … đều là tiếng Tày. Điều đó<br /> chứng tỏ Cao Bằng là nơi cư trú lâu đời và liên<br /> tục của các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ<br /> Tày – Thái.<br /> Cốt lõi lịch sử của truyền thuyết “Pú Luông<br /> Quân” phần nào được chứng minh qua những<br /> thành tựu khảo cổ học ở Cao Bằng. Các nhà<br /> *<br /> <br /> khảo cổ đã tìm thấy ở Cao Bằng nhiều di tích<br /> thuộc thời đại đồ đá. Mặc dù chưa phát hiện<br /> được hiện vật của giai đoạn sơ kỳ đá cũ nhưng<br /> các nhà khảo cổ đã khẳng định ở Cao Bằng có<br /> trầm tích và hóa thạch thuộc giai đoạn trung kỳ<br /> Cánh tân ở Ngườm Phja Khóa (huyện Thạch<br /> An) và hang Phja Phủ (huyện Trùng Khánh).<br /> Tiếp đó là các di tích thuộc thời kỳ văn hóa Sơn<br /> Vi như Ngườm Xe, mái đá Bản Giã, mái đá<br /> Ngườm Càng, hang Ngườm Nhù (huyện Trùng<br /> Khánh), Ngườm Phà Kình, Pó Piúc (huyện Hòa<br /> An) …; rồi văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn như<br /> hang Ngườm Càng (Thông Nông), hang<br /> Ngườm Bốc (Hòa An). Tại Ngườm Bốc –<br /> tương truyền là nơi ở của hai vợ chồng Báo<br /> Luông và Sao Cải - các nhà khảo cổ học đào<br /> thám sát, thu được khối trầm tích Cácbonnat<br /> Canxi có chứa hóa thạch động vật, vỏ ốc suối<br /> khá lớn và 11 hiện vật bằng đá (4 công cụ chặt<br /> thô, 2 nạo cắt, 2 chày nghiền, 3 cuội nguyên<br /> liệu). Đây là một di tích cư trú của người<br /> nguyên thủy sống vào giai đoạn chuyển tiếp<br /> giữa thời đại đá cũ và đá mới, cách ngày nay<br /> khoảng 10.000 năm, tương đương với giai đoạn<br /> văn hóa Hòa Bình sớm [2, 79-80]. Ở hang Thần<br /> (Thông Nông), các nhà khảo cổ còn tìm thấy<br /> dấu vết của một di cốt không còn nguyên vẹn<br /> của người thời cổ. Sau khi phân tích lớp trầm<br /> tích, nội dung tầng văn hóa và nghi thức táng,<br /> nhà khảo cổ học Trình Năng Chung đã xếp<br /> hang Thần vào nền văn hóa Bắc Sơn có niên đại<br /> sơ kỳ đá mới [1, 83]. Những vết tích thời đại đá<br /> <br /> Tel: 0986938872; Email: nguyenthihai83@gmail.com<br /> <br /> 17<br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Nguyễn Thị Hải<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> ở khu vực này tuy còn rải rác nhưng cũng cho<br /> ta thấy sự phát triển liên tục của các nền văn<br /> hoá khảo cổ tại Cao Bằng… Mặc dù chưa tìm<br /> được tầng văn hóa nhưng rõ ràng, người nguyên<br /> thủy đã có mặt ở Cao Bằng và có thể xem giai<br /> đoạn “Pú Luông Quân” là giai đoạn xã hội thị<br /> tộc nguyên thủy của người Tày - Thái mà sử cũ<br /> gọi là bộ lạc Tây Âu.<br /> Vào giai đoạn hậu kỳ đá mới, sơ kỳ kim khí,<br /> công xã thị tộc dần tan rã, công xã nông thôn<br /> dần được hình thành. Truyền thuyết Cẩu chủa<br /> cheng vùa của đồng bào Tày Cao Bằng phản<br /> ánh một xã hội phụ hệ đang mạnh bước tới<br /> ngưỡng cửa văn minh, của sự hình thành nhà<br /> nước. “Nước Nam Cương” nằm ở phía Nam<br /> Trung Quốc và vùng đất Cao Bằng ngày nay,<br /> giáp với nước Văn Lang, do Thục Chế - cha của<br /> Thục Phán - làm vua, kinh đô đặt ở Nam Bình<br /> (tức Cao Bình thuộc xã Hưng Đạo, Hòa An<br /> hiện nay). Đó là một liên minh bộ lạc gồm<br /> mười mường, mỗi chúa cai quản một xứ nhưng<br /> lệ thuộc vào mường trung tâm của Thục Chế,<br /> cứ ba năm tiến cống một lần. Khi Thục Chế<br /> chết, Thục Phán còn nhỏ tuổi, các chúa mường<br /> kéo quân đến vây kinh thành đòi nhường ngôi.<br /> Thục Phán tổ chức cuộc thi tài giữa các chúa, ai<br /> thắng cuộc sẽ nhường ngôi cho. Bằng tài trí<br /> thông minh của mình, Thục Phán đã khéo tìm<br /> cách làm cho các chúa phải thua cuộc, giữ vững<br /> ngôi vị. “Nước Nam Cương” ngày càng cường<br /> thịnh, nhân lúc Văn Lang suy yếu đã đánh<br /> chiếm, lập lên nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa<br /> [7]. Nhiều học giả còn hoài nghi về nguồn gốc<br /> của An Dương Vương Thục Phán nhưng đa số<br /> nghiêng về giả thuyết Thục Phán quê ở Cao<br /> Bằng và cho rằng ông là thủ lĩnh một liên minh<br /> bộ lạc người Tây Âu (người Tày cổ) ở vùng núi<br /> phía Bắc Việt Nam và Nam Quảng Tây (Trung<br /> Quốc), trong đó Cao Bằng là trung tâm. Nhân<br /> dân vùng Cổ Loa đến nay vẫn tương truyền<br /> rằng An Dương Vương là “một tù trưởng miền<br /> núi” và trong lễ hội đền Cổ Loa, lễ vật không<br /> thể thiếu ở Đền Thượng là bánh chưng tròn và<br /> dài, thường gọi là bánh chưng Tày [8, 508].<br /> Tuy vậy, chứng tích vật chất, tư liệu khảo cổ<br /> học ở Cao Bằng chưa ủng hộ cho quan điểm<br /> này. Hiện nay, các nhà khảo cổ mới phát hiện<br /> <br /> 84(08): 17 - 22<br /> <br /> một số hiện vật bằng đồng như mũi lao đồng tại<br /> Pò Tường (Hoàng Tung, Hòa An), trống đồng<br /> Bản Hóa (xã Dân Chủ, Hòa An) và những chiếc<br /> trống đồng Đông Sơn loại muộn phát hiện ngẫu<br /> nhiên ở khu vực Bảo Lạc, Trùng Khánh. Dù di<br /> vật đồng thau còn ít ỏi, song nó đã bước đầu<br /> khẳng định sự tồn tại của nền văn hóa này ở<br /> Cao Bằng.<br /> Sau khi nước Âu Lạc của An Dương Vương<br /> thất bại (năm 179 Trcn), nước ta rơi vào tay<br /> Triệu Đà, mở đầu thời kỳ Bắc thuộc trong lịch<br /> sử Việt Nam. Nhưng đối với miền đất trung tâm<br /> của “nước” Nam Cương cũ, phong kiến Trung<br /> Quốc không kiểm soát được trực tiếp, mà duy<br /> trì những châu “ki mi” (ràng buộc) do tù trưởng<br /> tự lập ở khu vực Cao Bằng. Từ thời Hán đến<br /> Lục triều, thư tịch Trung Quốc đều chép vùng<br /> này là của người Lý, Lão. Đến thời Đường (thế<br /> kỷ VI -IX), nhân dân vùng Tả Giang, Hữu<br /> Giang (tức là vùng Quảng Tây, Quảng Đông),<br /> vùng biên giới phía Bắc và Đông Bắc của Cao<br /> Bằng được gọi là Tây Nguyên Man, và cũng<br /> được gọi là người Lão. Các dòng họ có thế lực<br /> lớn cai quản vùng Cao Bằng lúc bấy giờ là họ<br /> Hoàng, Nùng, Chu, Vi ..., đều là họ của người<br /> Tày - Nùng. Theo Tân Đường thư, Tây Nguyên<br /> Man truyện, miền Hữu Giang thuộc phạm vi cai<br /> quản của họ Nùng. Theo đó, từ đầu thế kỷ IX,<br /> thế lực của họ Nùng ở Cao Bằng và miền Tả<br /> Giang rất mạnh, có các thủ lĩnh như Nùng Kim<br /> Ý, Nùng Kim Lặc, Nùng Kim Trừng, Nùng<br /> Trọng Vũ [11, 80]. Cao Bằng thực lục cho biết<br /> dòng họ Nùng là “người châu Quảng Uyên (nay<br /> là phủ Cao Bằng), nhà nối đời làm thủ lĩnh, có<br /> nhiều binh quyền, ở nước Việt từ đời Đường trở<br /> về đây, hùng cứ đất Quảng Nguyên, cùng với<br /> họ Hoàng, họ Chu thống lĩnh đến tám phần<br /> mười, mà họ Nùng lại hùng mạnh, cứ như tằm<br /> ăn rỗi, thôn tính dần dần hết”[3, 2]. Đến thế kỷ<br /> X, nhà Nam Hán phong Nùng Dân Phú làm thủ<br /> lĩnh mười châu ở Quảng Nguyên, sau đó nhà<br /> Tống phong chức Kiểm hiệu Tư không[10,<br /> 179]. Năm 1038, một nhà nước của tộc Nùng<br /> mang tên Trường Sinh đã ra đời do Nùng Tồn<br /> Phúc đứng đầu, đóng đô ở thành Nà Lữ (nay<br /> thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An, Cao Bằng).<br /> Nhưng ngay sau đó, nhà nước này đã bị nhà Lý<br /> <br /> 18<br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Nguyễn Thị Hải<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> tiêu diệt. Năm 1041, con của Tồn Phúc là Nùng<br /> Trí Cao lập lại nước Đại Lịch ở châu Thảng Do<br /> và sau đó lại liên kết với những người đồng tộc<br /> vùng Tả Giang (Quảng Tây) lập ra nhà nước<br /> Thiên Nam, lấy hiệu là Cảnh Thụy, cai quản<br /> vùng Cao Bằng và một bộ phận miền Tây của<br /> Quảng Tây. Nùng Trí Cao đã tiến hành một<br /> cuộc chiến tranh chống lại nhà Tống, làm chủ<br /> một khu vực rộng lớn từ Ung Châu (nay là<br /> vùng Nam Ninh, Quảng Tây) đến Quảng Châu<br /> (Quảng Đông). Nhưng cuối cùng, vì lực lượng<br /> chênh lệch, lại bị kẹp giữa hai vương triều<br /> phong kiến lớn Tống và Lý nên cuộc trỗi dậy<br /> của tộc Nùng bị thất bại. Song cho đến nay, các<br /> tộc Tày Nùng ở Việt Bắc và Choang (Quảng<br /> Tây – Trung Quốc) đều coi Nùng Trí Cao là<br /> anh hùng dân tộc. Người Tày vùng Cao Bằng<br /> vẫn còn lưu truyền rộng rãi những truyền thuyết<br /> về ông. Họ lập đền thờ ông ở Quảng Uyên, Hà<br /> Quảng và lớn nhất là đền Kỳ Sầm (Hòa An).<br /> Những sự kiện lịch sử nêu trên, xét về mặt cộng<br /> đồng tộc người, đã đánh dấu bước phát triển<br /> mới của các bộ tộc ngôn ngữ Tày Thái xưa, ý<br /> thức tộc người được củng cố ngày càng vững<br /> chắc. Sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao, triều<br /> đình Lý (Việt Nam) và Tống (Trung Quốc) đều<br /> tăng cường kiểm soát chặt chẽ vùng biên giới.<br /> Từ đây, biên giới chính trị đã từng bước chia<br /> cắt và phân hóa tộc người, hình thành bộ phận<br /> Choang ở Trung Quốc và bộ phận Tày ở Việt<br /> Nam.<br /> “BIẾN THỔ” - MỘT HÀNH TRÌNH LỊCH SỬ<br /> Hiện tượng “biến thổ” là một ví dụ điển hình<br /> cho quá trình hòa hợp tộc người. Hiện tượng<br /> này gắn liền với quá trình phát triển của tộc<br /> người Tày cũng như quá trình lịch sử dân tộc.<br /> Một số nhóm người của các tộc người khác như<br /> người Kinh, người Nùng, người Hoa… vì một<br /> lý do nào đó đã tự nhận mình là tộc người Tày<br /> (tức Thổ). Họ ăn mặc và sinh hoạt văn hóa như<br /> người Tày nhưng vẫn giữ lại một số nét văn hóa<br /> của tộc người gốc.<br /> Người Tày Cao Bằng hiện nay có một lực<br /> lượng không nhỏ có nguồn gốc từ người Kinh.<br /> Quá trình “biến Thổ” diễn ra theo quá trình<br /> “Kinh già hoá Thổ”. Cao Bằng đã tiếp nhận<br /> <br /> 84(08): 17 - 22<br /> <br /> dòng người Kinh từ dưới xuôi lên từ rất sớm, có<br /> thể bắt đầu từ thế kỷ XI, với sự kiện vua quan<br /> nhà Lý đem quân lên dẹp “loạn” Nùng Tồn<br /> Phúc và Nùng Trí Cao. Sau khi vua Lý Thái<br /> Tông lên đánh dẹp Nùng Tồn Phúc có lẽ đã để<br /> lại một vài người thân tín ở đây để “chiêu an vỗ<br /> về dân chúng”. Hiện nay, chưa có tài liệu thư<br /> tịch nào nói đến sự xuất hiện của người Kinh ở<br /> Cao Bằng thời Lý, nhưng theo tư liệu dân gian<br /> thì Nàng Cầm - vợ của Nùng Trí Cao là người<br /> Kinh, con một vị quan họ Trần trong triều Lý<br /> [10, 18-19]. Sau này, anh ruột của bà tham gia<br /> trong cuộc tiến công của Nùng Trí Cao sang đất<br /> Tống, ông đã hi sinh trong trận đánh ở Tổng<br /> Quỷ, nay vẫn còn đền thờ ở xã Cách Linh,<br /> huyện Phục Hoà. Sau đó là sự xuất hiện của<br /> ngôi chùa Viên Minh (chùa Đà Quận) gắn liền<br /> với sự kiện vua Lý gả công chúa cho Hộ quốc<br /> tướng quân Dương Tự Minh đã chứng tỏ dấu<br /> vết của người Việt ở vùng đất này. Tuy nhiên,<br /> dấu ấn của người Việt ghi lại ở Cao Bằng thời<br /> Lý không nhiều, nhưng sự giao thoa văn hoá<br /> Tày - Việt đã bắt đầu diễn ra. Phải từ thế kỷ<br /> XV- XVI, dòng người Kinh từ dưới xuôi lên, ở<br /> lại sinh sống ngày càng đông. Một môtip chung<br /> là chàng trai người Việt, lấy cô gái Tày, con<br /> cháu lớn dần chịu ảnh hưởng của văn hóa,<br /> phong tục tập quán người Tày do mẹ truyền<br /> dạy. Lâu dần, họ tự nhận mình là người Tày.<br /> Hiện nay, gia phả của các dòng họ đều phản<br /> ánh hiện tượng này, nhất là 10 họ phiên thần<br /> (vốn là con cháu các công thần triều Lê, được<br /> điều lên trấn ải biên cương sau đó được phân<br /> phong thế tập cai quản địa phương và nối đời<br /> giữ đất Cao Bằng, vốn từ miền xuôi lên về sau<br /> đó Tày hóa). Đó là họ: Bế Nguyễn (tức dòng<br /> dõi công tộc của bản triều), Bế Kim, Hoàng Ích,<br /> Nông Công, Nông Trí, Nông Hữu, Nguyễn,<br /> Tống Đình, Lương Đình, Đàm Vũ. Sau này,<br /> nhà Nguyễn đã đổi làm thổ ty, bãi bỏ lệ thế tập<br /> cai quản, nhưng cho hưởng chế độ miễn trừ lao<br /> dịch. Con cháu đến tuổi có đơn xin làm việc thì<br /> chuẩn cho, cấp học bổng cho họ học tập nghề<br /> văn võ rồi tuỳ tài mà bổ dụng. Lệ này được áp<br /> dụng từ thời Lê Sơ đến nhà Nguyễn. Trong số<br /> các dòng họ Tày kể trên, có "ba họ phiên thần":<br /> Bế Nguyễn, Bế Kim, Hoàng Ích gốc tích là<br /> người tỉnh Thanh Hoá, từ đời Lê di cư đến đó<br /> <br /> 19<br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Nguyễn Thị Hải<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> [5, 2-4]. Ngoài những dòng họ phiên thần trên,<br /> còn nhiều người có nguồn gốc ở miền xuôi<br /> được vua cử lên Cao Bằng làm việc, hoặc đi<br /> dạy học, hoặc tìm đất sinh nhai, sau ở lại địa<br /> phương làm ăn với người Tày. Đặc biệt là con<br /> cháu của bề tôi nhà Mạc và những người phò<br /> giúp Tây Sơn hoặc dân tứ xứ tới buôn bán...<br /> Qua nhiều năm sinh sống tại địa phương trải<br /> mấy đời đều gọi là người biến thổ.<br /> Một ví dụ điển hình cho hiện tượng “Kinh già<br /> hóa thổ” là khu vực thành Nà Lữ (nay thuộc xã<br /> Hoàng Tung, huyện Hòa An, Cao Bằng), vốn là<br /> trung tâm kinh tế, văn hóa và chính trị của Cao<br /> Bằng trong thời gian dài (trước thế kỷ XVII).<br /> Sau 85 năm đóng đô ở Cao Bình - Nà Lữ, năm<br /> 1677, nhà Mạc bị quân Lê - Trịnh đánh bại.<br /> Con cháu nhà Mạc phải đổi họ và phần lớn<br /> chạy đi nơi khác sinh sống như dòng họ Ma,<br /> Mạc ở Minh Tâm (Nguyên Bình), họ Mông ở<br /> Đức Hồng, Phong Châu (huyện Trùng Khánh),<br /> họ Ma ở Chí Thảo (Quảng Uyên) ... Một bộ<br /> phận nhỏ con cháu nhà Mạc lấy họ mẹ là họ<br /> Phạm ở lại sinh sống tại Nà Lữ. Lớp cư dân<br /> mới được hình thành chủ yếu quan quân nhà Lê<br /> - Trịnh. Gia phả dòng họ Hoàng ở Lam Sơn<br /> (Hồng Việt) và Nà Lữ (Hoàng Tung) ghi rõ:<br /> “Nguồn gốc ông tổ nguyên là trí thức ở Gia<br /> Miêu trang, thuộc huyện Tống Sơn, phủ Hà<br /> Trung, trấn Thanh Hoa. Vào thời Lê triều, ông<br /> tổ đầu tiên của ta nhậm chức Quan trấn Vũ<br /> Định, được truyền đời thế tập mà cai quản. Về<br /> sau, nhân vì nhà Mạc, nhà Trịnh tranh giành<br /> nhau gây loạn, tổ tiên ta cụ Hoàng Triều Hoa,<br /> Hoàng Triều Ninh, phụng mệnh vua Lê lên Cao<br /> Bằng đánh dẹp nhà Mạc; đánh thắng được vua<br /> Lê phong đất ở Phúc Tăng làm Thái ấp, cho lấy<br /> dân 7 xã xung quanh vùng thái ấp làm binh<br /> đinh canh điền và phục dịch, vinh thăng tước<br /> Phúc Quận Công, chức Tổng trấn Cao Bằng. Cụ<br /> Hoa sáng nghiệp ở Phúc Tăng, cụ Ninh sáng<br /> nghiệp ở Nà Lữ”[4]. Cụ Hoàng Triều Ninh đã<br /> quản lĩnh đội quân ở lại Nà Lữ. Là những người<br /> lính, từng chiến đấu vào sinh ra tử nên tính cách<br /> của người dân Nà Lữ mạnh mẽ. Trong vùng<br /> Hòa An vẫn lưu truyền câu:<br /> <br /> 84(08): 17 - 22<br /> <br /> “Anh hùng Na Lữ, hay chữ Phúc Tăng”. Những<br /> người lính ấy đã dựng nhà, lấy vợ người Tày và<br /> sinh con đẻ cái. Từ đó hình thành những dòng<br /> họ Tày gốc Kinh như họ Nguyễn Trọng gốc ở<br /> Thanh Hóa; họ Bùi, Đàm, Nguyễn Khánh ở<br /> Nam Định … Vì “Kinh già hoá Thổ” nên họ<br /> thường dùng song ngữ Tày – Việt và dân quanh<br /> vùng vẫn gọi là “Keo pha Nà Lữ”.<br /> Ngày nay, khi nghiên cứu về hiện tượng, chúng<br /> tôi nhận thấy ba con đường chính hay gọi là ba<br /> nhóm người Việt đến Cao Bằng và trở thành<br /> người Tày (Thổ) là:<br /> Một là những quan chức người Việt được cử<br /> lên cai trị miền núi hoặc quân lính lên chinh<br /> chiến, đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở miền núi<br /> sau phải lưu lại lâu dài. Họ mang theo vợ con,<br /> thân thuộc đi theo, chiêu dân lập ấp… sau đã<br /> Tày hóa. Một bộ phận có chức có quyền, được<br /> phong là Phiên thần (Thổ ty), cha truyền con<br /> nối cai trị địa phương.<br /> Hai là do nguyên nhân tranh chấp giữa các thế<br /> lực phong kiến, một số thế lực người Việt đã<br /> dựa vào miền núi để xây dựng lực lượng cát cứ,<br /> về sau suy vi, dư đảng phải đổi tên họ, sống hòa<br /> hợp với cư dân địa phương, tiêu biểu là thế lực<br /> nhà Mạc thế kỷ XVII. Đây là giai đoạn mà hiện<br /> tượng “Kinh già hóa Thổ” diễn ra mạnh mẽ<br /> nhất.<br /> Ba là lực lượng nhân dân miền xuôi do loạn lạc,<br /> tránh sự áp bức bóc lột nặng nề của phong kiến,<br /> hoặc đi sơ tán… lên miền núi kiếm ăn, buôn<br /> bán, dạy học… lâu dần đã trở thành một bộ<br /> phận cũng địa phương hóa. Đây là lực lượng<br /> không lớn nhưng diễn ra thường xuyên.<br /> Hiện nay, nhiều vùng ở Cao Bằng hiện tượng<br /> “Kinh Tày hóa Thổ” diễn ra khá đậm nét, tiêu<br /> biểu nhất là vùng thung lũng Hòa An. Theo Tài<br /> liệu điều tra thành lập Khu tự trị Việt Bắc của<br /> Ủy ban Dân tộc Trung ương năm 1955 thì thôn<br /> Phương Tiên, xã Dân Chủ (huyện Hòa An) có<br /> 40 gia đình trong số 149 gia đình đã Tày hóa 89 đời.<br /> Ngoài lực lượng người Kinh, người Tày ở Cao<br /> Bằng hiện nay còn có một bộ phận có nguồn<br /> gốc từ người Nùng, Ngạn, Hoa… Quá trình<br /> biến Thổ của các tộc người này diễn ra rải rác,<br /> <br /> 20<br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Nguyễn Thị Hải<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> không mạnh mẽ như tộc người Kinh. Trên thực<br /> tế, sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao (vào thế<br /> kỷ XI), nhiều người thuộc dòng họ Nùng đã<br /> chạy theo Nùng Trí Cao vào vùng Đặc Ma (Vân<br /> Nam, Trung Quốc) hoặc chạy trốn vào rừng<br /> hoặc đổi thành họ Nông để tránh sự truy sát của<br /> vương triều Tống. Có thể, từ tên gọi tộc họ đã<br /> chuyển hoá thành tộc danh để chỉ tộc người<br /> sinh sống trên địa bàn lãnh thổ họ Nùng trước<br /> kia (tức là Cao Bằng và một vài tỉnh Đông Bắc<br /> của nước ta). Sau sự biến Nùng Trí Cao, người<br /> Nùng đã hoà nhập vào cộng đồng Tày địa<br /> phương, trở thành những người Tày bản địa.<br /> Bởi hai tộc người Tày và Nùng có chung nguồn<br /> gốc lịch sử, chung hệ ngôn ngữ và có văn hoá<br /> về cơ bản giống nhau, nên rất dễ diễn ra quá<br /> trình cố kết tộc người. Tộc danh Nùng hiện nay<br /> là chỉ bộ phận người Choang ở các khu vực Tây<br /> và Tây Nam Quảng Tây, Trung Quốc như Bình<br /> Quả, Đô An, Mục Biên, Đức Bảo... và các vùng<br /> Đông Nam Vân Nam như Văn Sơn cùng một số<br /> vùng thuộc vùng biên giới Trung- Việt thuộc<br /> tỉnh Quảng Tây và Vân Nam. Tộc người này<br /> mới di cư vào nước ta khoảng 300 năm nay.<br /> Theo Cao Bằng tạp chí “ngoài người Nùng<br /> Mấn và Nùng Vảng là người bản địa vốn có,<br /> còn lại đều là loại hai ba trăm năm hoặc năm<br /> sáu mươi năm trước mới từ phương Bắc di cư<br /> xuống đây, ở lẫn lộn với người Thổ, người<br /> Nùng bản địa. Họ khai khẩn đất đai mà canh tác<br /> nộp thuế nên đều trở thành người Nùng bản<br /> địa”[5, 3]. Quá trình hòa hợp tộc người đó có<br /> thể diễn ra một cách tự nhiên, nhưng cũng có<br /> khi xuất phát từ những chính sách của nhà<br /> nước. Ví dụ, năm 1832, vua Minh Mệnh ra lệnh<br /> “đổi người Nùng Cao Bằng làm người Thổ.<br /> Trong dân 4 châu thuộc hạt Cao Bằng trước kia<br /> có chức được gọi là phụ đạo. Vua đã chuẩn cho<br /> các quan trong bộ bàn đổi gọi là người Nùng.<br /> Nhưng dân ấy cho rằng Nùng là người Trung<br /> Quốc xiêu giạt sang. Vậy xin cho tên khác để<br /> phân biệt. Quan tỉnh đem việc tâu lên. Vua bảo<br /> rằng: “Đấy cũng là một cơ hội biến người Di<br /> làm người Kinh, liền cho đổi gọi là người Thổ,<br /> vẫn phải nộp thuế bạc như cũ”[9, 448].<br /> Tộc người Tày là cư dân bản địa, đã sinh sống<br /> lâu đời ở vùng đất Cao Bằng cũng như một số<br /> tỉnh miền núi phía Bắc. Song do điều kiện<br /> khách quan và chủ quan, ở Cao Bằng đã xuất<br /> hiện lớp cư dân Tày hóa từ các tộc người khác<br /> <br /> 84(08): 17 - 22<br /> <br /> như Kinh, Nùng, Hoa … bên cạnh bộ phận Tày<br /> gốc. Trên thực tế cũng phải thừa nhận rằng sức<br /> mạnh của nền văn hóa bản địa, của tộc người có<br /> dân số đông nhất ở Cao Bằng đã tạo ra sức<br /> đồng hóa mạnh mẽ các tộc người khác trong<br /> vùng. “Kinh già hóa Thổ” đã trở thành một hiện<br /> tượng độc đáo và diễn ra trong nhiều thế kỷ,<br /> mạnh mẽ nhất là thế kỷ XVII –XVIII. Quá trình<br /> này đã tác động không nhỏ tới đời sống kinh tế,<br /> văn hóa của tộc người cũng như của địa<br /> phương. Bên cạnh những nét văn hóa đặc trưng<br /> của tộc người đã xuất hiện những nét văn hóa<br /> mới. Đó là sản phẩm của quá trình giao thoa<br /> văn hóa Tày – Việt như sự xuất hiện của các<br /> ngôi chùa ở Cao Bằng, sự ra đời của chữ Nôm<br /> Tày, điệu hát Then.... Cộng đồng Tày Cao Bằng<br /> ngày nay, không có sự phân chia thành người<br /> bản địa hay đồng hóa, cùng nhau xây dựng văn<br /> hóa bản địa của tộc người và quê hương.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> [1]. Trình Năng Chung, Hà Thị Quyết, Lý Thị Tiêu<br /> (2001), Phát hiện di tích thời đại đá ở Cao Bằng, trong<br /> Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2000, Viện<br /> Khảo cổ học, HN.<br /> [2]. Trình Năng Chung, Đào Quý Cảnh, Đàm Thị<br /> Ninh,(2004) Hang Ngườm Bốc (Cao Bằng), trong Những<br /> phát hiện mới về khảo cổ học năm 2003, Viện Khảo cổ<br /> học, HN.<br /> [3]. Nguyễn Hữu Cung (1810), Cao Bằng thực lục, bản dịch tại<br /> Thư viện tỉnh Cao Bằng, tr.2<br /> [4]. Hoàng đường tộc phả, do ông Hoàng Triều Ân ở Lam<br /> Sơn, xã Hồng Việt, huyện Hòa An cung cấp<br /> [5]. Bế Huỳnh, Cao Bằng tạp chí nhất tập, Tư liệu Viện dân<br /> tộc học, KH: TLD.271.<br /> [6]. Lã Văn Lô (1963), “Xung quanh vấn đề Thục Phán An<br /> Dương Vương hay là truyền thuyết "Cẩu chúa cheng vùa" của<br /> đồng bào Tày”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 50.<br /> [7]. Lã Văn Lô, Lê Bình Sự, Lịch sử xã hội nguyên thủy<br /> của người Tày qua truyền thuyết “Pú Luông quân”, Tạp<br /> chí NCLS, số 65, năm 1964.<br /> [8]. Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Văn Quân (Cb-2007), Địa<br /> chí Cổ Loa, Nxb Hà Nội.<br /> [9]. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục,<br /> tập III, Nxb GD, HN.<br /> [10]. Tỉnh uỷ Cao Bằng,Viện Sử học (1995), Nùng Trí Cao,<br /> Hội thảo khoa học, Nxb Hà Nội, HN.<br /> [11]. Trần Quốc Vượng, Đặng Nghiêm (1966), Vấn đề An<br /> Dương Vương và lịch sử dân tộc Tày ở Việt Nam, Thông báo<br /> khoa học Sử học, trường Đại học Tổng hợp, tập II.<br /> <br /> 21<br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2