Hội thảo Khoa học Quốc tế ...<br />
<br />
VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI NHẬN THỨC VÀ Ý ĐỊNH<br />
KHỞI NGHIỆP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾKỸ THUẬT BÌNH DƯƠNG<br />
Hà Kiên Tân1, Nguyễn Ngọc Diễm2, Nguyễn Trọng Minh3<br />
TÓM TẮT<br />
Nghiên cứu này kiểm định vai trò của yếu tố giáo dục đối với nhận thức và ý định khởi nghiệp<br />
của sinh viên trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương. Mối quan hệ này được kiểm định qua<br />
mẫu 1375 sinh viên. Kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt động đào tạo và hoạt động kiến tạo tác động<br />
dương rất lớn đến nhận thức khởi nghiệp. Trong khi đó nhận thức khởi nghiệp cũng có tác động<br />
dương khá mạnh đến ý định khởi nghiệp. Có thể nói, yếu tố giáo dục trong khởi nghiệp có vai trò<br />
quan trọng trong mối quan hệ giữa nhận thức dẫn đếný địnhkhởi nghiệp.Cuối cùng, nghiên cứu đưa<br />
ra kết luận và hàm ý chính sách cho trường Đại học Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương, cũng<br />
như làm cơ sở cho các trường đại học khác nghiên cứu tiếp theo.<br />
Từ khóa: Khởi nghiệp, ý định khởi nghiệp, nhận thức mong muốn khởi nghiệp, nhận thức<br />
khả năng khởi nghiệp, giáo dục khởi nghiệp, đào tạo khởi nghiệp, kiến tạo khởi nghiệp, sinh<br />
viên đại học.<br />
<br />
THE ROLE OF EDUCATION IN AWARENESS AND INTENTION<br />
TO START A BUSINESS OF STUDENTS OF BINH DUONG<br />
ECONOMICS – TECHNICAL UNIVERSITY<br />
ABSTRACT<br />
This study examines the roles of educational factors in entrepreneurial perceivedand<br />
entrepreneurial intention of students at Binh Duong Economics and Technology University. This<br />
relationship is tested through a sample of 1375 students. The results show that training and tectonic<br />
activity are very positive for entrepreneurial perceived. Meanwhile, entrepreneurial perceived has<br />
a strong positive effect on entrepreneurial intention. The educational factors in entrepreneurial<br />
plays an important role in the relationship between entrepreneurial perceived and entrepreneurial<br />
intention. Finally, the study draws conclusions and policy implications for Binh Duong Economics<br />
and Technology University, as well as the basis for subsequent research universities.<br />
Keyword: Entrepreneurship, Entrepreneurial intention, Entrepreneurial educational,<br />
Entrepreneurial perceived desirability, Entrepreneurial perceived feasibility, Entrepreneurialtraining,<br />
Entrepreneurialtectonic, University student.<br />
1. GIỚI THIỆU<br />
Khởi nghiệp là một lĩnh vực luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm hàng đầu vì sự phát triển<br />
kinh tế quốc gia. Việc gia tăng được số lượng các doanh nghiệp trong nền kinh tế luôn là mối bận<br />
tâm chính của chính phủ, các nhà hoạch định chính sách và các học giả vì hai lý do. Một là, làm<br />
1 Thạc sĩ, Giảng viên trường Đại học Kinh tế-Kỹ thuật Bình Dương – hktan@ktkt.edu.vn<br />
2 Sinh viên trường Đại học Kinh tế-Kỹ thuật Bình Dương - diemn3408@gmail.com<br />
3 Sinh viên trường Đại học Kinh tế-Kỹ thuật Bình Dương - trongminh07@gmail.com<br />
5<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế (Audretsch, 2007); hai là, giảm thất nghiệp (Santarelli, Carree, &<br />
Verheul, 2009), đặc biệt với sinh viên mới ra trường (Fayolle & cộng sự, 2006) tại các nước đang<br />
phát triển. Lứa tuổi thanh niên từ 18 đến 36 thường mạo hiểm, ít sợ rủi ro, mong muốn làm giàu,<br />
nhạy bén với các cơ hội kinh doanh, có ý định khởi nghiệp và thực hiện khởi nghiệp ở mức cao<br />
(GEM, 2016).<br />
Tuy nhiên, nhận thức khởi nghiệp của sinh viên Việt Nam có một số khác biệt nhất định. Tại<br />
nhiều quốc gia phát triển, khởi nghiệp dựa trên nền tảng của sự sáng tạo. Trong khi đó, nhận thức<br />
tại Việt Nam lại có phần nghiêng về tạo việc làm, tăng thu nhập và xem như là một lựa chọn nghề<br />
nghiệp (GEM, 2016). Vì không đặt nền tảng là một ngành kinh tế dựa trên sự sáng tạo, nên chỉ số<br />
sáng tạo đổi mới của khởi nghiệp tại Việt Nam là khá thấp so với quốc tế. Theo đó, chỉ số sáng<br />
tạo đổi mới của doanh nghiệp khởi nghiệp trong năm 2015 chỉ đạt 11,4%, xếp hạng 50 trong số 60<br />
nước tham gia khảo sát. Trong đó, đổi mới về sản phẩm chỉ đạt mức 4,8%, đổi mới về thị trường<br />
là 2,2%, đổi mới về công nghệ là 4,4%. Đa phần khởi nghiệp ở Việt Nam là vì nhu cầu thiết yếu<br />
và mưu sinh hàng ngày hơn là sử dụng khả năng sáng tạo. Mặc dù nhận thức về khởi nghiệp ở độ<br />
tuổi 18-36 là khá cao, nhưng ý định khởi nghiệp lại không tương xứng (GEM, 2016). Vậy, nhận<br />
thức khởi nghiệp của sinh viên có ảnh hưởng như thế nào đến ý định khởi nghiệp? Trong khi đó,<br />
một nghiên cứu của Souitaris & cộng sự (2007) đã chỉ ra chưa có đủ thông tin về tác động của các<br />
chương trình giáo dục khởi nghiệp đối với hành vi khởi nghiệp của sinh viên, nhưng có thể làm tăng<br />
ý định khởi nghiệp của họ. Một nghiên cứu khác của Frank & Luthje (2004) cho thấy rằng sự hỗ trợ<br />
của môi trường đại học có một ảnh hưởng tích cực đến ý định khởi nghiệp và nó có liên quan đến<br />
nhận thức cá nhân về giáo dục khởi nghiệp. Một số nghiên cứu khác như Smith (2008) về giáo dục<br />
khởi nghiệp trong các trường Đại học cho thấy có tương quan tuyến tính giữa giáo dục khởi nghiệp<br />
và ý định khởi nghiệp. Điều này cho thấy, mối quan hệ giữa giáo dục khởi nghiệp và ý định khởi<br />
nghiệp là chưa thống nhất. Sự gia tăng về giáo dục khởi nghiệp như là một cách thức để hội nhập<br />
với kinh tế thế giới (Zeithaml & Rice 1987). Giáo dục khởi nghiệp đã trải qua một chặng đường dài<br />
và tập trung vào giới trẻ và thanh thiếu niên. Tuy nhiên lại thiếu những mô hình nghiên cứu hoặc lí<br />
thuyết trong giáo dục khởi nghiệp, ngoài ra các nghiên cứu trước đây đều xem khái niệm giáo dục<br />
là khái niệm đơn hướng (Adam & Fayolle, 2015). Chính vì lý do này nghiên cứu vai trò của giáo<br />
dục đối với nhận thức và ý định khởi nghiệp tại Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương<br />
với 2 đóng góp mới:<br />
- Kiểm định lại khái niệm giáo dục trên cở sở là một khái niệm đa hướng (khái niệm bậc 3)<br />
- Kiểm định tác động của yếu tố giáo dục đối với nhận thức và từ nhận thức đến ý định khởi nghiệp.<br />
Các phần tiếp theo của bài viết này sau phần giới thiệu gồm: (1) Cơ sở lý thuyết và lược khảo<br />
các công trình nghiên cứu liên quan; (2) Phương pháp nghiên cứu; (3) Kết quả và thảo luận; (4)<br />
Kết luận và hàm ý chính sách.<br />
2. KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN<br />
2.1. Cơ sở lý thuyết<br />
Mô hình sự kiện khởi nghiệp - EEM (Krueger & cộng sự, 2000)<br />
Mô hình sự kiện khởi nghiệp (Event Entrepreneur model - EEM) là lý thuyết về sự kiện khởi<br />
nghiệp mà Krueger & cộng sự (2000) đã phát triển dựa vào mô hình EEM của Shapero & Sokol<br />
(1982), được điều chỉnh lại bằng việc đưa ra ba yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp, đó là:<br />
mong muốn khởi nghiệp, cảm nhận về tính khả thi và khuynh hướng hành động (đề cập đến xu<br />
hướng hành động của một cá nhân đối với quyết định của họ bằng cách thực hiện các hành động<br />
thích hợp).Ý định là một yếu tố dự báo trước và có ý nghĩa về hành vi khởi nghiệp của một người.<br />
6<br />
<br />
Hội thảo Khoa học Quốc tế ...<br />
Về cơ bản, mô hình không có sự thay đổi nhiều so với mô hình cũ, xu hướng hành động được thay<br />
thế cho biến thay đổi trong cuộc sống trong mô hình của Shapero & Sokol (1982).<br />
Mô hình về giáo dục khởi nghiệp của Wu S.& Wu L ( 2008)<br />
Ý định khởi nghiệp được xem như một chỉ báo về hiệu quả của các chương trình giáo dục khởi<br />
nghiệp. Wu S.& Wu L( 2008) cho rằng, trình độ học vấn, chuyên ngành đào tạo, thành tích học tập<br />
và giáo dục khởi nghiệp sẽ ảnh hưởng đến thái độ, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi<br />
khởi nghiệp. Từ đó sẽ tác động đến ý định khởi nghiệp.<br />
Mô hình về giáo dục khởi nghiệp của Schwarz & cộng sự (2009)<br />
Theo nghiên cứu của Schwarz & cộng sự (2009), ý định khởi nghiệp chịu ảnh hưởng bởi thái<br />
độ đối với sự thay đổi, sự hấp dẫn của lợi nhuận, tính cạnh tranh và tinh thần khởi nghiệp. Ý định<br />
khởi nghiệp cũng bị ảnh hưởng bởi các rào cản về môi trường, các yếu tố hỗ trợ và môi trường học<br />
tập. Các hoạt động hỗ trợ cho doanh nhân được thấy là mạnh hơn là tự khởi nghiệp ở sinh viên ở<br />
một vài nghiên cứu. Sự hỗ trợ tài chính tốt đã làm tăng ý định khởi nghiệp của cá nhân đối trước<br />
việc tự làm chủ.<br />
Mô hình về vai trò của giáo dục đối với khởi nghiệp của sinh viên Malaysia (Rengiah, 2013)<br />
Rengiah (2013) đã đưa ra mô hình vai trò của giáo dục đối với ý định khởi nghiệp của sinh viên.<br />
Theo đó, nội dung chương trình đào tạo khởi nghiệp, phương pháp đào tạo và vai trò kiến tạo của<br />
các trường ĐH có ảnh hưởng đến thái độ và sự hỗ trợ của các đối tượng hữu quan đối với ý định<br />
khởi nghiệp.<br />
Mô hình nghiên cứu về tiềm năng khởi nghiệp của sinh viên Việt Nam (Nguyễn Thu Thủy, 2015)<br />
Nguyễn Thu Thủy (2015), các yếu tố sau đây ảnh hưởng đến tiềm năng khởi nghiệp của sinh<br />
viên Việt Nam bao gồm 2 yếu tố chính: 1-Môi trường (Ý kiến người xunh quanh, Vị trí xã hội chủ<br />
doanh nghiệp, Hình mẫu chủ doanh nghiệp, kinh nghiệp kinh doanh, kinh nghiệm lãnh đạo); 2- Trải<br />
nghiệm qua quá trình đào tạo đại học cá nhân (hoạt động truyển cảm hứng, học môn khởi nghiệp,<br />
phương thức học qua thực tế, tham gia hoạt động ngoại khóa, ngành học).<br />
2.2. Lược khảo các công trình nghiên cứu thực nghiệm liên quan<br />
Các nghiên cứu về ý định và hành vi khởi nghiệp trên thế giới cũng đã có khá nhiều. Nghiên<br />
cứu của Ajzen (1991), kiểm định ý định khởi nghiệp thông qua lý thuyết dự định hành vi (TPB).<br />
Hay nghiên cứu của Marco van & cộng sự (2008), với mô hình sự kiện khởi nghiệp (EEM). Nghiên<br />
cứu của Schlaegel & Koenig (2014) lại tích hợp cả hai mô hình trên đồng thời bổ sung thêm một số<br />
yếu tố mới vào mô hình ý định truyền thống. Một số nghiên cứu đã đề xuất bổ sung các biến vào<br />
mô hình truyền thống (Hayton và Cholakova, 2012). Ví dụ như, Hmieleski & Corbett (2006) đưa ra<br />
yếu tố sự thích ứng (proclivity for improvisation), của De Clercq & cộng sự (2013) nghiên cứu mối<br />
quan hệ giữa khả năng nhận thức và sự hấp dẫn đối với ý định được được điều tiết bởi định hướng<br />
học tập và niềm đam mê làm việc. Nghiên cứu của Fitzsimmons & Douglas (2011) lại tập trung vào<br />
sự tương tác nhận thức cơ hội khởi nghiệp và tính khả thi hay ảnh hưởng của cá tính, trạng thái tâm<br />
lý và nhân khẩu học đến ý định (Nabi & Liñán, 2013). Nghiên cứu của Walker & cộng sự (2013)<br />
đưa vào kiểm định các yếu tố môi trường, văn hóa, thể chế và các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp ảnh<br />
hưởng đến ý định khởi nghiệp.<br />
Các nghiên cứu về khởi nghiệp tại Việt Nam cũng đã có nhưng chỉ dừng ở mức ý định khởi<br />
nghiệp như nghiên cứu của Hoàng Thị Phương Thảo, Bùi Thị Thanh Chi (2013); Bùi Thị Thanh và<br />
Nguyễn Xuân Hiệp (2016); Cao Quốc Việt & cộng sự (2016). Một số nghiên cứu về môi trường<br />
kinh doanh Việt Nam và tìm hiểu các rào cản trong môi trường khởi nghiệp như nghiên cứu của<br />
VCCI (2009); Lê Quân (2007); Nguyễn Hữu Thọ và Nguyễn Văn Hóa (2016). Nghiên cứu của Lê<br />
7<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
Ngọc Thông (2013) về tinh thần khởi nghiệp của sinh viên chương trình tiên tiến chất lượng cao<br />
của Đại học Kinh tế Quốc dân. Một số nghiên cứu khác tiếp cận ở dạng động cơ khởi nghiệp như<br />
Nguyễn Hoàng Kiệt (2016), năng lực khởi nghiệp như Nguyễn Hùng Phong và Nguyễn Hữu Nhuận<br />
(2016) sử dụng lý thuyết nhận thức xã hội.<br />
Như vậy, theo tìm hiểu của nhóm tác giả, các nghiên cứu trước đây xem khái niệm giáo dục<br />
là khái niệm đơn hướng khi xem xét vai trò của chúng đối với ý định khởi nghiệp. Tuy nhiên theo<br />
Fayolle & Liñán (2014), thang đo khái niệm đơn hướng này khá sơ xài và chưa phản ảnh đầy đủ<br />
nội hàm của chúng. Do đó, bài báo sẽ tiếp cận khái niệm giáo dục là khái niệm đa hướng (bậc 3).<br />
2.3. Các khái niệm trong mô hình nghiên cứu và các giả thuyết<br />
Ý định khởi nghiệp<br />
Các định nghĩa về ý định khởi nghiệp được tổng hợp và trình bày trong bảng 1.<br />
Định nghĩa về ý định khởi nghiệp<br />
<br />
Bảng 1<br />
<br />
Tác giả<br />
Bird (1988)<br />
Tubbs & Ekeberg (1991)<br />
Shane & Venkataraman (2000)<br />
Souitaris & cộng sự (2007)<br />
<br />
Định nghĩa<br />
Ý định khởi nghiệp là một trạng thái của tâm trí nhấn mạnh<br />
đến sự quan tâm cá nhân và kinh nghiệm để thực hiện việc<br />
tạo ra doanh nghiệp mới.<br />
Ý định khởi nghiệp là một đại diện các hành động có kế<br />
hoạch để thực hiện một hành vi kinh doanh.<br />
Ý định khởi nghiệp là quá trình nhận dạng, đánh giá, và khai<br />
thác cơ hội kinh doanh<br />
Ý định khởi nghiệp là sự liên quan về ý định của một cá<br />
nhân để bắt đầu một doanh nghiệp<br />
<br />
Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu<br />
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả sẽ sử dụng định nghĩa của Shane & Venkataraman (2000),<br />
với hai lý do: một là, nghiên cứu Shane & Venkataraman (2000) tiếp cận theo dạng quá trình bắt<br />
đầu từ nhận dạng cơ hội, đánh giá khả năng thực hiện, lên kế hoạch thực hiện (dự định bao nhiêu<br />
thời gian và công sức người đó sẵn sàng đầu tư thực hiện khởi nghiệp) và khai khác. Hai là, nghiên<br />
cứu hành vi thông qua ý định được chứng minh là có ưu thế hơn so với các cách tiếp cận khác.<br />
Giáo dục khởi nghiệp<br />
Theo Linan (2004a, tr.163), giáo dục khởi nghiệp là toàn bộ những hoạt động đào tạo và kiến<br />
tạo trong hệ thống giáo dục nhằm thúc đẩy phát triển của những người đang có ý định thực hiện<br />
hành vi khởi nghiệp hoặc một số yếu tố ảnh hưởng tới ý định, chẳng hạn như nội dung kiến thức<br />
khởi nghiệp, phương pháp giảng dạy, các hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm và truyền<br />
cảm hứng cho sinh viên.<br />
Hoạt động đào tạo<br />
Theo Souitaris (2007), đào tạo khởi nghiệp là quá trình học tập nắm bắt nội dung kiến thức<br />
về tinh thần khởi nghiệp mà sinh viên thu được thông qua các phương pháp giảng dạy phù hợp.<br />
Johannisson (1991) đề xuất một sự phân loại khái niệm với năm mức độ học hỏi từ giáo dục doanh<br />
nhân: Tại sao doanh nhân hành động (giá trị, động cơ), những gì cần phải làm (kiến thức), làm thế<br />
nào để thực hiện nó (khả năng, kỹ năng), ai nên biết kỹ năng xã hội, mạng lưới) và cuối cùng là<br />
hành động (kinh nghiệm và trực giác).<br />
Theo Rengiah (2015), nội dung chương trình đào tạo khởi nghiệp bao gồm: Thứ nhất, phân<br />
8<br />
<br />
Hội thảo Khoa học Quốc tế ...<br />
tích các chiến lược kinh doanh thông qua việc thu thập kiến thức cụ thể về khái niệm ban đầu, như<br />
là công cụ phân tích cho các tình huống kinh doanh. Thứ hai, thu thập và hiểu các hoạt động của<br />
các môi trường kinh doanh khác nhau. Thứ ba, thực hiện hoạt động bằng cách thu nhận các kỹ năng<br />
và kiến thức thông qua học tập, và thích nghi với việc phân tích, lập kế hoạch và truyền thông. Thứ<br />
tư, các kỹ năng có thể được áp dụng cho các tình huống kinh doanh phức tạp khác nhau.<br />
Hoạt động kiến tạo<br />
Rengiah (2015), hoạt động kiến tạo khởi nghiệp của các trường đại học là việc tạo ra môi<br />
trường khích lệ, truyền cảm hứng khởi nghiệp trong sinh viên thông qua kết nối với giới doanh<br />
nghiệp và giới làm chính sách và tham gia vào những dự án cùng với sinh viên nhằm cải thiện môi<br />
trường khởi nghiệp. Theo Nguyễn Thu Thủy (2015), vai trò kiến tạo của các trường đại học thể hiện<br />
qua: (1) truyền cảm hứng khởi nghiệp (truyền tải ý tưởng hoặc mục đích nào đó vào suy nghĩ của<br />
cá nhân và đánh thức, tạo ra một cảm xúc mới cho cá nhân về khởi nghiệp), (2) các hoạt động ngoại<br />
khóa (tham gia câu lạc bộ kinh doanh, vườn ươm doanh nghiệp, thi viết kế hoạch kinh doanh, thi<br />
khởi nghiệp, các hoạt động cung cấp các kỹ năng) và (3) trải nghiệm thực tế (sinh viên thực hiện<br />
các dự án khởi nghiệp thực tế).<br />
Nhận thức khởi nghiệp<br />
Một cơ hội kinh doanh thường được định nghĩa như là một “tình huống tương lai được coi là<br />
hấp dẫn và khả thi” (Stevenson & Jarillo, 2007). Tính mong muốn đề cập đến giá trị nhận thức hoặc<br />
sự hấp dẫn của cơ hội (ví dụ: cơ hội có tiềm năng lợi nhuận cao được đánh giá là rất mong muốn).<br />
Tính khả thi đề cập đến khả năng thực thi hay khó khăn của cơ hội (ví dụ: cơ hội nằm trong một<br />
thị trường cạnh tranh cao là khả thi hơn là một cơ hội nằm trong một thị trường chỉ với một vài đối<br />
thủ cạnh tranh yếu).<br />
Theo Lý thuyết sự kiện khởi nghiệp EEM (Sokol, 1982), khởi nghiệp sẽ xuất hiện khi một cá<br />
nhân phát hiện ra một cơ hội khởi nghiệp mà họ đánh giá là khả thi và họ phải ham muốn. Tuy<br />
nhiên để ý định biến thành hành động khởi nghiệp hay không thì cần có sự tác động của các yếu tố<br />
đẩy như: mất việc, bất mãn với công việc hiện tại... hay kéo như tìm được đối tác tốt hoặc có hỗ trợ<br />
tài chính… Thiếu một trong 2 thành tố trên, các cá nhân sẽ khó có dự định và hành vi khởi nghiệp<br />
trong tương lai.<br />
Mối quan hệ giữa nhận thức khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp<br />
Gollwitzer (1996) cho rằng giai đoạn nhận thức chính là giai đoạn tạo động lực để khởi nghiệp.<br />
Một cá nhân khi có động lực sẽ hình thành ý định. Nghiên cứu của (M Brännback & Carsrud,<br />
Elfving (2006) ý định khởi nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào nhận thức cơ hội khởi nghiệp và nhận<br />
thức khả năng khởi nghiệp. Trong nghiên cứu của (Schlaegel & Koenig, 2014), kết hợp giữa hai<br />
mô hình TPB (Ajzen, 1991) và EEM (Krueger & cộng sự, 2000). Vì thế, giả thuyết H1, H2 được<br />
phát biểu như sau:<br />
Giả thuyết H1: Nhận thức mong muốn khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều đến ý định khởi nghiệp.<br />
Giả thuyết H2: Nhận thức khả thi khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều đến ý định khởi nghiệp.<br />
Mối quan hệ giữa giáo dục khởi nghiệp và nhận thức khởi nghiệp.<br />
Trong lĩnh vực nghiên cứu về khởi nghiệp, các nghiên cứu định tính của Segal & cộng sự (2007),<br />
El-Khasawned (2008) và Vesa (2010) về chương trình đào tạo khởi nghiệp trên thế giới đều đã cho<br />
thấy các chương trình đào tạo khởi nghiệp có ứng dụng lý thuyết vào thực tiễn cao giúp sinh viên<br />
tăng được cảm nhận về năng lực khởi nghiệp. Luthje và Franke (2004) cũng đã gợi ý trong nghiên<br />
cứu của mình cần phải tăng cường ứng dụng thực tế các lý thuyết hàn lâm trong các chương trình<br />
đào tạo khởi nghiệp.Các nghiên cứu đã chứng minh các chương trình đào tạo khởi nghiệp có tính<br />
9<br />
<br />