LUẬN VĂN:
Vai trò thông tin đại chúng trong thực thi quyền lực chính trị của nhân dân ở nước ta hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền lực chính trị thuộc về nhân dân, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
toàn bộ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đó cũng là nội dung chủ yếu của toàn bộ công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ
thống chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
nhất là từ năm 1986, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt
Nam, đất nước ta bước vào một giai đoạn xây dựng và phát triển mới, theo tinh thần
đổi mới đó là chuyển nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, củng cố hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân, từng bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Cùng với những chuyển đổi mạnh mẽ trong nền kinh tế, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, hệ thống chính trị từ năm 1986 đến nay có những đổi mới mạnh mẽ, tích
cực. Tuy nhiên, trước yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, hệ thống chính trị
cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm, nhược điểm, trong đó nhược điểm bao trùm là bộ
máy Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân chưa thực hiện và thể hiện đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân, chế độ trách nhiệm không rõ ràng, cách làm việc còn
chồng chéo, thiếu trật tự kỷ cương, kém hiệu lực, hiệu quả; bệnh quan liêu tham nhũng
khá phổ biến và nặng nề... Vì vậy, việc đảm bảo thực thi quyền lực chính trị của nhân
dân lao động không chỉ là yêu cầu sâu xa cơ bản mà còn đang là đòi hỏi trực tiếp và
cấp thiết.
Thực hiện yêu cầu này phải là hợp lực của nhiều lực lượng, nhiều tổ chức dưới
sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, trong đó phương tiện thông tin đại chúng với chức
năng đặc thù của mình có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng.
Là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước, đồng thời là diễn đàn của các
tầng lớp nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng chính là cầu nối Đảng với dân,
Nhà nước với nhân dân... Mặt khác, trong thời đại ngày nay, thời đại của sự bùng nổ
thông tin, không có lĩnh vực xã hội nào không có sự tham gia của thông tin đại chúng.
Chính trị - lĩnh vực mà xưa kia vốn chỉ là một số ít người cầm quyền, ngày nay đã trở
thành lĩnh vực công khai, đó là dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Do vậy, thông
tin đại chúng hiển nhiên càng trở thành phương tiện không thể thiếu trong chính trị và
hoạt động chính trị.
ở nước ta, các phương tiện thông tin đại chúng tuy đã có những đóng góp
bước đầu trong công cuộc đổi mới. Song nhìn về toàn bộ tổ chức và hoạt động hiện
nay chưa thực sự vì mục tiêu đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân lao động.
Trong đó, ngoài những đặc điểm tình hình chung, điều kiện lịch sử đặc thù của
nước ta đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của phương tiện thông tin đại chúng trong
việc đảm bảo thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động, phương tiện thông
tin đại chúng có vai trò trực tiếp quan trọng.
Đánh giá vị trí, vai trò, tầm quan trọng của phương tiện thông tin đại chúng
đối với cách mạng nước ta, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: "Thông tin
đại chúng là một phương tiện hết sức quan trọng trong việc tuyên truyền và bảo vệ
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước".
Để thực hiện mục tiêu này, việc nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn ở
nước ta nhằm làm sáng tỏ vấn đề mà đề tài đã đặt ra, tác giả hy vọng với những kết quả
bước đầu khảo sát sẽ cung cấp thêm cơ sở thực tiễn và lý lẽ cho việc tiếp tục đổi mới
công tác thông tin đại chúng là cần thiết và thực sự cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể khẳng định rằng, cho đến nay ở nước ta chưa có một công trình
nghiên cứu nào trực tiếp đề cập đến vấn đề đưa thông tin đại chúng góp phần đảm bảo
thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động. Tuy nhiên, liên quan đến đề tài có
nhiều tác phẩm đã xuất bản ở nước ta và các nước khác như:
- Lê Hữu Nghĩa, Sự quá độ của hệ thống chính trị ở nước ta từ chế độ dân
chủ lên xã hội chủ nghĩa.
- Lưu Văn Sùng, Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm
chủ của nhân dân.
- Hồ Văn Thông, Chính trị và xây dựng khoa học chính trị; Vấn đề xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Nguyễn Đức Bình, Phấn đấu nâng cao chất lượng phát huy vai trò to lớn
của báo chí xuất bản trong thời kỳ đổi mới.
- Hoàng Công, Đổi mới hệ thống chính trị - mấy vấn đề lý luận và bài học
kinh nghiệm.
- Hoàng Văn Hảo, Dân chủ hóa các tổ chức chính trị, xã hội một phương hướng
cơ bản để tăng cường quyền lực của nhân dân ở nước ta hiện nay.
- Phạm Ngọc Quang, Vấn đề quyền lực và cơ chế thực hiện quyền lực trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Nguyễn Đăng Thành, Hệ thống chính trị với tư cách là kết cấu để thực thi
quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền.
- VICH TO APHANAXép, Quyền lực thứ tư và bốn đời Tổng bí thư.
- Bectơrang Russel, Quyền lực.
- A. Toffler, Thăm trầm quyền lực.
Các văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX và các Nghị quyết chỉ thị của Đảng
và Nhà nước có liên quan đến vấn đề hệ thống chính trị ở nước ta.
- Tạ Ngọc Tấn, Mặt sau bức tranh toàn cầu hóa thông tin đại chúng; Vận hội
và trách nhiệm báo chí trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Hữu Thọ, Công việc của người viết báo.
Hệ thống báo chí của các nước ASEAN, các bài tổng kết của Ban Tư tưởng
Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa Thông tin năm 1986-2005; một số bài tổng kết
kinh nghiệm của Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã
Việt Nam và các tài liệu liên quan khác.
Tuy nhiên, thực tế chưa có đề tài nào làm trực tiếp và có hệ thống về Vai
trò thông tin đại chúng trong thực thi quyền lực chính trị của nhân dân ở nước
ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
- Mục đích là phân tích, luận chứng làm sáng tỏ thực tế yêu cầu, phương hướng
và giải pháp phát triển hệ thống phương tiện thông tin đại chúng trong việc đảm bảo
quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta hiện nay.
- Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn:
+ Làm sáng tỏ khái niệm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân lao động.
Vai trò, vị trí đặc thù của phương tiện thông tin đại chúng trong việc đảm bảo quyền
lực chính trị của nhân dân lao động.
+ Làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc sử dụng hệ thống các
phương tiện thông tin đại chúng để đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân lao
động ở nước ta. Những giải pháp cơ bản để phát huy sức mạnh phương tiện thông
tin đại chúng nhằm đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta
hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu sự tác động của phương tiện thông tin
đại chúng trong việc đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta
hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn vận dụng lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Những kiến thức, kinh nghiệm của thế giới, trong nước; các văn kiện,
nghị quyết của Đảng.
- Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu của đề tài cũng như việc triển khai nội
dung, luận văn vận dụng các phương pháp lôgíc, lịch sử, phân tích tổng hợp và tổng
kết thực tiễn.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng rõ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của
phương tiện thông tin đại chúng trong việc đảm bảo quyền lực chính trị của nhân
dân lao động trong điều kiện nước ta hiện nay.
- Đưa ra một cách nhìn toàn diện, có chiều sâu về lý luận chính trị và lý
luận báo chí, về hệ thống phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta.
- Đưa ra giải pháp cơ bản có tính khả thi để phát huy sức mạnh thông tin đại
chúng ở nước ta hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần cho sự nhận thức đúng hơn nữa về vị trí, vai trò của
các phương tiện thông tin đại chúng trong sự nghiệp xây dựng bộ máy nhà nước -
bộ máy quyền lực của nhân dân. Từ đó đề xuất, kiến nghị nhằm đổi mới hoạt động
của các phương tiện thông tin đại chúng làm sao cho xứng đáng với vai trò đặc biệt
của nó trong sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta.
Đây là đề tài nghiên cứu có hệ thống đầu tiên về vấn đề quyền lực chính trị của
nhân dân lao động và vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc đảm bảo
quyền lực chính trị của nhân dân lao động. Vì vậy, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo, nghiên cứu, khoa học chính trị và lý luận báo chí.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương, 7 tiết.
Chương 1
quyền lực chính trị của nhân dân
và thông tin đại chúng trong việc thực thi
quyền lực chính trị của nhân dân
1.1. Khái niệm quyền lực, quyền lực chính trị, quyền lực chính trị của
nhân dân
Để làm rõ nội dung khái niệm quyền lực của nhân dân trước hết cần làm rõ
nội dung khái niệm quyền lực và quyền lực chính trị.
Quyền lực:
Quyền lực là một trong những vấn đề cơ bản của chính trị, do vậy đã từ rất
sớm, khi ý thức được các vấn đề chính trị thì người ta cũng đã đề cập đến vấn đề
quyền lực.
Từ thời cổ đại, ở phương Tây Arixtốt đã nghiên cứu vấn đề quyền lực và
xem xét những đặc điểm của nó. Theo ông, quyền lực tồn tại phổ biến trong mọi sự
vật và hiện tượng, không chỉ trong thế giới cảm giác mà cả trong thế giới vô cảm.
Đối với nhà nước và quyền lực nhà nước, ông coi đó như là kết quả của sự thoả
thuận giữa mọi người với nhau dựa trên ý chí chung của họ. Còn theo Platôn, chính
trị là nghệ thuật cai trị những con người với sự bằng lòng của họ. Cơ sở để đảm bảo
sự cai trị đó là pháp quan, những nhà thông thái. ở đây ông đề cao trí tuệ và coi đó
như một thứ quyền lực trong chính trị. ở phương Đông mà tiêu biểu là Trung Quốc,
vấn đề quyền lực cũng được đặt ra tương đối sớm. Khi mà "thế quyền" (quyền lực
nhà nước) chưa đủ để cai trị, người ta đã mượn uy lực của "thần quyền" để bổ sung
cho thế quyền. "Mệnh trời" được coi như uy lực tuyệt đối bao trùm thiên hạ. Vua là
thiên tử (con trời), vâng mệnh trời xuống cai trị thiên hạ. Khổng Tử (một nhà tư
tưởng lớn của Trung Quốc thời cổ đại) cho rằng, trong chính trị đạo đức là quyền
lực tối thượng. Đạo đức là cái đã tiềm ẩn trong những người quân tử - nhà chính trị,
nó như một thứ đặc ân mà trời ban cho, chỉ cần tu thân thì sẽ đạt được. Khi "tu"
được "thân", có được đạo đức thì "tề" được "gia " và "bình" được "thiên hạ". Ông ví
đạo đức của người cai trị như gió, đạo đức của người bị trị như cỏ, gió thổi cỏ sẽ
lướt theo. Một cách thực tế hơn, Hà Phi Tử cho rằng, để có quyền lực ("có thể"),
bậc vua chúa cần phải nắm vững hai điều mà ông gọi là "nhị bính" (hai cái cán) là
thưởng và phạt. Bởi theo ông con người ai cũng hám lợi và ghét hại; dùng thưởng
và phạt (kinh tế và bạo lực) sẽ khống chế được người khác, buộc người khác theo ý
mình. Vào thời Trung cổ, ở phương Tây các nhà thần học như Ô.guytxtanh,
TômátĐacanh đã phát triển các tư tưởng về quyền lực của thời cổ đại. Theo
Ô.guytxtanh con người do bản chất tự nhiên cần đến một xã hội, và xã hội cần đến
một quyền uy; nhưng quyền uy nơi trần thế lại phụ thuộc vào quyền uy của thượng
đến. Từ đó ông đi đến kết luận: nhà nước - thành bang của trần gian phải phụ thuộc
vào nhà thờ - thành bang của thượng đế. Như vậy, quyền lực của thượng đế là tối
thượng, chi phối các hoạt động của đời sống con người. Sang thời khai sáng, các
nhà tư tưởng như Môngtexkiơ; J.Rútxô đã đưa ra quan niệm về "quyền lực tối cao"
- đó là ý chí chung của những thành viên sống trong một quốc gia. Các thành viên
phải phục tùng "ý chí chung" để đổi lại họ được tự do và không bị xâm phạm. ý chí
chung là kết quả của một hợp đồng mà các thành viên đều tham gia, đó là "khế ước
xã hội" . ý chí chung, quyền tối cao đó điều khiển các lực lượng nhà nước nhằm
phục vụ lợi ích chung.
Tuy đã có nhiều quan niệm về quyền lực nhưng cho đến nay vẫn chưa có
một định nghĩa thật sự chính xác, xúc tích, khái quát được vấn đề để mọi người
chấp nhận. Nhà chính trị học Mỹ K.Đanta cho rằng, nắm quyền lực có nghĩa là buộc
người khác phải phục tùng. Còn nhà chính trị học Mỹ khác - Lesbi lipson - xem
quyền lực là khả năng đạt tới kết quả nhờ hành động phối hợp. Nhà chính trị học
A.Gra - zia cho rằng: "quyền lực là khả năng ấn định những quyết định có ảnh
hưởng đến thái độ của con người" . Bertrand Russel cho rằng: ta có thể coi quyền
lực là sản phẩm của những hiệu quả có chú ý" [8, tr.48]. Theo Từ điển Bách khoa
Triết học thì "Quyền lực là khả năng thực hiện ý chí của mình có tác động đến hành
vi, phẩm hạnh của người khác nhờ một phương tiện nào đó như kinh tế, chính trị,
nhà nước, gia đình, uy tín, quyền hành, sức mạnh…" [79, tr.92]. Gần đây nhà tương
lai học người Mỹ Alvin Toffer cho rằng" Bạo lực, của cải, tri thức là ba dạng phổ
biến và cũng là ba phương thức cơ bản để đạt được quyền lực. Trong ba loại đó, trí
tuệ được coi là loại quyền lực có phẩm chất cao nhất và là phương thức cơ bản để
đạt được quyền lực trong tương lai. Bạo lực, của cải mang lại quyền lực cho kẻ có
sức mạnh hay người giàu, còn với trí tuệ thì người nghèo vẫn có thể giành được
quyền lực. Cách luận giải của A.Toffler nên lên được được tính toàn diện của vấn
đề, đó là những yếu tố hợp lý. Song ông không nhận thấy hoặc cố tình không nhận
thấy tính chất quyết định của sở hữu tư liệu sản xuất đối với có quyền lực. Tuy
không đi sâu nghiên cứu vấn đề quyền lực và do đó chưa đưa ra một định nghĩa có
tính chất xác định, nhưng từ góc độ duy vật lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác -
Lênin đã đề cập đến vấn đề quyền lực từ trong bản chất của nó. Đó là, trong xã hội có
giai cấp, giai cấp nào nắm được quyền kiểm soát tư liệu sản xuất thì giai cấp đó cũng
nắm được quyền điều khiển, chi phối các lĩnh vực cơ bản của xã hội, từ kinh tế, chính
trị đến văn hoá, tư tưởng tinh thần. Cách tiếp cận này là chìa khoá cho ta nghiên cứu
vấn đề quyền lực một cách khoa học và hữu hiệu. Theo giáo sư Lưu Văn Sùng viết
trong tập bài giảng chính trị học "Quyền lực là mối quan hệ giữa các chủ thể hành
động của đời sống xã hội, trong đó chủ thể này có thể chi phối hoặc buộc chủ thể khác
phải phục tùng ý chí của mình nhờ có sức mạnh, vị thế nào đó trong quan hệ xã hội".
Quyền lực chính trị:
Là một bộ phận của quyền lực trong xã hội có giai cấp. QLCT cũng là một
loại quan hệ xã hội, nhưng đó là quan hệ xã hội có liên quan tới vấn đề Chính trị.
Do vậy, việc làm sáng tỏ phạm trù “Chính trị” là điều cần thiết để tiến tới một quan
điểm đúng đắn về phạm trù “Quyền lực Chính trị”.
Trong tác phẩm “Chính trị”, Platơn xem chính trị là nghệ thuật cung đình liên
kết trực tiếp các chuẩn mực của người Anh hùng và sự thông minh, sự liên kết của họ
được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái.
Mac Vây - be cho rằng “Chính trị” là khát vọng tham gia vào quyền lực, hay
ảnh hưởng tới sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong quốc gia, giữa
các tập đoàn người trong một quốc gia.
Trên quan điểm duy vật về lịch sử, V.I.Lênin cho rằng chính trị là mối quan
hệ giữa các giai cấp; là sự tham gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã
hội, vào định hướng hoạt động của Nhà nước,…
Lênin cho rằng nhân tố quy định bản chất của chính trị là: “Chính trị là sự
biểu hiện tập trung của kinh tế”. Khi nhấn mạnh tính năng động của chính trị đối
với kinh tế, Lênin viết “Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với
kinh tế”.
Từ hiện thực đa dạng và phức tạp của chính trị như một hiện thực trong xã
hội có giai cấp, chúng ta có thể đi tới một quan niệm tổng quát sau đây về chính trị:
“Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia trong vấn đề
giành, giữ, sử dụng quyền lực nhà nước; là những mục tiêu được quy định bởi lợi
ích cơ bản của các giai cấp, các đảng phái; là hoạt động thực tiễn chính trị của các
giai cấp, các đảng phái, các nhà nước để thực hiện đường lối đã lựa chọn nhằm đi
tới những mục tiêu đã đặt ra”.
Quan niệm vừa nêu về chính trị quy định cách hiểu phạm trù “Quyền lực
Chính trị”. Nói chung nhất: “Quyền lực Chính trị là quyền lực được sử dụng sức
mạnh của nhà nước nhằm thực hiện lợi ích khách quan của giai cấp, dân tộc,… trên
cơ sở sự thừa nhận của nhà nước bằng luật pháp”.
Trong ý nghĩa đó, QLCT là một kiểu quan hệ xã hội có liên quan tới vấn đề
nhà nước. Đó có thể là quan hệ giữa người với người ở nhiều cấp độ tồn tại, nhiều
hình thức tồn tại khác nhau của họ (giai cấp, dân tộc, quốc gia, đoàn thể, đảng
phái,…) trong quá trình ảnh hưởng tới nhà nước nhằm giành, giữ, sử dụng nhà nước
vì lợi ích của mình; chính trong ý nghĩa đó Mác đã xem QLCT là “Khả năng của
một giai cấp thực hiện lợi ích khách quan của mình”.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, một khi lợi ích căn bản của giai cấp này
được hiện thực hoá thì lợi ích căn bản của giai cấp khác bị triệt tiêu. Xung đột giai
cấp là điều không tránh khỏi. QLCT đóng vai trò như là công cụ để giai cấp nắm
được nó sẽ thực hiện được lợi ích của mình. Đó là cơ sở để Mác và Ănghen nêu ta
định nghĩa về QLCT: “Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó là bạo lực có tổ
chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác”.
Định nghĩa trên đây cũng cho thấy: QLCT của một giai cấp không tự nhiên mà
có, nó là sản phẩm của quá trình phát triển kinh tế và đấu tranh giai cấp.
Lực lượng sản xuất của xã hội nằm trong quá trình phát triển không ngừng.
Lực lượng sản xuất phát triển đến mức nào đó sẽ đòi hỏi thay đổi quan hệ sản xuất
hiện tồn. Trong phương thức sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư
liệu sản xuất, quá trình này sẽ sản sinh ra các giai cấp đối kháng đặc trưng cho
phương thức sản xuất đó. Các lực lượng chính trị mới với tư cách là chủ thể tương
ứng của các lợi ích giai cấp đó sẽ xuất hiện.
Sự xung đột quyền lực ngày càng gay gắt giữa các lực lượng chính trị mới
đại diện cho phương thức sản xuất mới với lực lượng chính trị cũ đại diện cho
phương thức sản xuất cũ lạc hậu nhưng còn nắm quyền thống trị. Do xu hướng tất
yếu của nó, lực lượng chính trị mới với yêu cầu QLCT tương ứng sớm hay muộn nó
sẽ vượt lên tự khẳng định chính mình về một nhà nước. Khi đó, QLCT của lực
lượng xã hội mới với tư cách là đại diện cho một giai cấp sẽ được xác lập.
Khi một chủ thể chính trị chưa có đủ sức mạnh để khẳng định QLCT của
mình, chủ thể đó vẫn ngấm ngầm hoặc công khai dùng sức mạnh nhằm đạt tới sự
khẳng định đó. Kết cục, khát vọng đó hoặc bị QLCT của giai cấp cầm quyền loại
bỏ, hoặc là sẽ buộc lực lượng chính trị cầm quyền thừa nhận về mặt nhà nước.
Do đó, trong chế độ xã hội có đối kháng giai cấp luôn tồn tại hai loại QLCT thuộc
hai chủ thể chính trị đối lập nhau: QLCT của giai cấp cầm quyền (Thống trị) và QLCT
(hay khát vọng QLCT) của giai cấp, tầng lớp không cầm quyền.
Giai cấp thống trị tổ chức ra bộ máy nhà nước và sử dụng sức mạnh của bộ
máy đó để thực thi ý chí, lợi ích của mình. Khi ấy, QLCT của giai cấp thống trị trở
thành quyền lực nhà nước. Do đó, xét về bản chất quyền lực nhà nước là quyền lực
chính trị của giai cấp thống trị. Nó được thực hiện bằng cả một hệ thống chuyên
chính do giai cấp đó lập ra. Nhờ hệ thống đó, giai cấp thống trị có khả năng vận
dụng các công cụ bạo lực của nhà nước để buộc các giai cấp, tầng lớp xã hội phục
tùng ý chí của giai cấp thống trị trong việc tổ chức xã hội như một chỉnh thể.
Các giai cấp và tầng lớp không nắm quyền thống trị dùng sức mạnh chính trị
của mình để chống lại hay đòi giai cấp thống trị phải thay đổi trật tự xã hội, thay đổi
các chính sách đã ban hành cho phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Trong trường
hợp giai cấp bị trị là giai cấp có lợi ích cơ bản đối kháng với giai cấp thống trị thì họ
dùng QLCT của mình để đấu tranh lật đổ sự thống trị của giai cấp cầm quyền, thiết lập
nhà nước của mình, dùng nhà nước đó để tổ chức lại xã hội theo một trật tự phù hợp
với lợi ích của nó. Khi ấy, QLCT của giai cấp mới giành được quyền thống trị trở
thành quyền lực nhà nước.
Như vậy, QLCT là một khái niệm rộng bao hàm cả quyền lực nhà nước của
giai cấp thống trị và bao hàm quyền lực của các giai cấp khác nhau trong mối quan
hệ biện chứng với quyền lực nhà nước để bênh vực và bảo vệ quyền lợi của mình.
Với tư cách là hình thức tổ chức QLCT của giai cấp thống trị, quyền lực nhà
nước có vai trò như là công cụ để giai cấp thống trị thực hiện QLCT của mình trên
tất cả các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Điều đó được xem xét ở các mặt sau:
Một là, Nhà nước điều khiển hoạt động của xã hội về kinh tế, văn hoá, xã hội
bằng các chiến lược, các kế hoạch định hướng; can thiệp vào các hành vi, các quá
trình kinh tế, văn hoá, xã hội bằng nhiều công cụ kinh tế - xã hội khác nhau.
Hệ thống các chính sách về kinh tế, văn hoá xã hội, nhân văn giúp nhà nước
điều khiển hoạt động của các chủ thể quyền lực, đồng thời tạo lập và đảm bảo
quyền lực cho các chủ thể quyền lực trên các lĩnh vực đó của đời sống xã hội. Có
thể hình dung: mỗi chính sách kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn là một hành lang
hướng dẫn hoạt động đầu tư phát triển nhằm hướng hành vi của các chủ thể quyền
lực phù hợp với lợi ích toàn xã hội mà không làm tổn hại QLCT của giai cấp thống
trị.
Hai là, sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, văn
hoá, xã hội, nhân văn là sự thể hiện vai trò, QLCT của giai cấp thống trị trên hai
phương diện: Một mặt, pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của các chủ thể
quyền lực trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn. Nếu như hành vi của
các chủ thể quyền lực trên các lĩnh vực đó có thể dẫn tới nguy cơ làm tổn hại đến
lợi ích của toàn xã hội; mặt khác, pháp luật là công cụ tạo môi trường, hành lang
mang tính chất xã hội hợp pháp rộng rãi cho các chủ thể quyền lực biết được điều
cho phép và cấm làm. Do đó, QLCT đúng đắn, phù hợp quy luật khác nhau nó sẽ có
ý nghĩa động lực tích cực của sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn.
Ba là, trong khi khẳng định quá trình phát triển của xã hội loài người là một
quá trình lịch sử - tự nhiên, Mác và Lênin đã chỉ ra rằng người ta có thể “Rút ngắn”
quá trình ấy, có thể làm giảm bớt những “Cơn đau đẻ” của quá trình ấy, nhưng
không thể bỏ qua quá trình ấy.
Nhân tố để thực hiện “Cái có thể” đó cũng đã được Mác và Lênin chỉ ra, đó
là vai trò của QLCT, của thượng tầng kiến trúc đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
với tư cách là những nhân tố xã hội có khả năng nhận thức ra quá trình ấy và tổ
chức thực hiện quá trình rút ngắn ấy.
Trong cách mạng XHCN, lực lượng đó là Đảng và Nhà nước của giai cấp công
nhân (GCCN) và NDLĐ. Điều này cho thấy vai trò tích cực của QLCT đối với quyền
lực trên các lĩnh vực kinh tế - văn hoá - xã hội - nhân văn.
Trong lịch sử cũng như ở thời đại đương đại, sự phát triển kinh tế, văn hoá
xã hội - nhân văn vẫn không vượt ra khỏi vai trò điều tiết của nhà nước với tư cách
tổ chức QLCT của giai cấp thống trị. Đối với các nước tư bản, điều đó đã và đang
như vậy. Đối với Nhà nước ta, vai trò của Đảng và Nhà nước với tư cách tổ chức
QLCT của nhân dân lại càng có ý nghĩa tiên quyết. Nếu không có vai trò của Đảng
Cộng sản và Nhà nước của dân, do dân, vì dân thì không thể nào thực hiện được các
quyền lực khác trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Quyền lực chính trị của nhân dân
Để hiểu đầy đủ về quyền lực của nhân dân, trước tiên cần làm sáng tỏ khái
niệm nhân dân. Nhân dân là khái niệm chỉ giai cấp, tầng lớp, tập đoàn xã hội chiếm
số đông, thuận theo sự phát triển của lịch sử và thúc đẩy lịch sử tiến lên.
Từ thời Hy lạp, La Mã cổ đại cũng đã sử dụng khái niệm nhân dân, nhưng đó
là chỉ chủ nô và dân tự do, không bao gồm nô lệ tuy họ chiếm đa số trong dân cư.
Thời Trung Quốc cổ đại nhân dân được xem như cỏ cây, chim muông gọi là thảo
dân, thứ dân. Thời cận đại khái niệm nhân dân được sử dụng rộng rãi, nhưng
thường được dùng với nghĩa chỉ chung cho toàn thể thành viên xã hội như "quốc
dân", "công dân". Từ khi chủ nghĩa Mác ra đời khái niệm nhân dân mới rõ tính chất
chính trị, khoa học:
- Nhân dân là bộ phận người đông đảo thuộc những giai cấp, tầng lớp xã hội
khác nhau phân biệt với bộ phận khác là giai cấp và tầng lớp thống trị. Trong xã hội
có giai cấp nhân dân là lực lượng bị cai trị.
- Nhân dân là cộng đồng người đông đảo gồm nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội
khác nhau, nhưng cơ bản là những người lao động - yếu tố cơ bản của lực lượng sản
xuất, trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất tinh thần của xã hội, quyết định sự phát
triển xã hội.
- Nhân dân là bộ phận người đông đảo có tác dụng thúc đẩy phát triển, tiến
bộ xã hội, không bao gồm lực lượng phản động cản trở sự phát triển, tiến bộ xã hội.
- Nhân dân là phạm trù lịch sử, tuy trước sau cơ bản vẫn là nhân dân lao
động trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội, nhưng ở các quốc
gia khác nhau, trong thời kỳ lịch sử khác nhau, thì khái niệm nhân dân cũng có
những nội dung khác. Chẳng hạn như ở nước ta, trong cách mạng dân tộc dân chủ
thành phần trong nhân dân khác với trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhân dân Việt Nam hiện nay chính là: "Khối đại đoàn kết toàn dân trong
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn được củng cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở liên
minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" [Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tr.124].
Thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết là xây dựng đất
nước Việt Nam dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; xét dưới
góc độ quan hệ quyền lực là xây dựng một xã hội, trong đó mọi quyền lực, mọi lợi ích
đều thuộc về nhân dân, mà cơ bản là nhân dân lao động.
Để phân tích, nội dung phạm trù quyết định của nhân dân lại cần phân tích
phạm trù quyền lực.
Quyền lực là mối quan hệ khách quan trong đời sống xã hội. Bởi vì loài
người sống thành cộng đồng có tổ chức, mọi cá nhân cần phải phối hợp hành động
với nhau trong các hoạt động xã hội. Để có thể phối hợp hành động được tất yếu
phải hình thành quan hệ chỉ huy phục tùng - quan hệ quyền lực. Quan hệ quyền lực
ra đời, tồn tại, phát triển cùng với xã hội loài người, là quan hệ cơ bản phổ biến
trong tất cả mọi xã hội.
Quan hệ quyền lực được biểu hiện ít nhất giữa hai chủ thể hành động: chỉ
huy ra lệnh và tuân thủ phục tùng. Các chủ thể ở đây có thể là các cá nhân, tổ chức, giai
cấp, dân tộc, nhân dân... Chủ thể giữ vai trò chỉ huy ra lệnh thường có sức mạnh và địa
vị ưu thế hơn trong quan hệ xã hội so với những địa vị ưu thế trong xã hội, và khi có
địa vị ưu thế thì lại có thêm sức mạnh. Song, hai mặt này có thể tách rời nhau trong
một giới hạn nhất định: có sức mạnh nhưng chưa có vị thế tương xứng, và có vị thế
lại thiếu sức mạnh tương xứng.
Quyền lực là năng lực của chủ thể hành động có thể chi phối hoặc buộc
chủ thể khác phải phục tùng ý chí của mình nhờ sức mạnh và vị thế nào đó trong
quan hệ xã hội. Quyền lực là cái mà nhờ đó người khác phải phục tùng.
Quyền lực thuộc về nhân dân có nguồn gốc khách quan từ chính trong đời
sống xã hội.
Trước hết là xuất phát từ quyền tự nhiên của con người. Quyền tự nhiên của
con người là tối cao và bất khả xâm phạm. Đó là quyền được sống, quyền tự do và
mưu cầu hạnh phúc. Cũng theo luật tự nhiên mà con người phải kết hợp với nhau
thành cộng đồng xã hội và xã hội lại cần đến quyền lực chung để duy trì và đảm bảo
hoạt động bình thường của đời sống xã hội, gọi là quyền lực công. Quyền lực công
có được là do các cá nhân tham gia vào cộng đồng xã hội "nhượng" một phần quyền
của mình vào quyền lực công. Nó được chỉ định (thành văn hoặc chưa thành văn)
bằng những chuẩn mực đạo đức, phong tục tập quán luật pháp... mà mọi thành viên
phải tuân thủ phục tùng.
Như vậy, quyền lực công chính là quyền lực của nhân dân, quyền lực của
mọi thành viên xã hội, mọi người có phần quyền như nhau đối với quyền lực công.
Song mọi người lại phải phục tùng quyền lực công - biểu hiện tập trung ý trí, sức
mạnh của cộng đồng xã hội. Quyền lực công, nếu được sử dụng vì lợi ích của cộng
đồng xã hội, sẽ là hợp lực, tạo nên sức mạnh mới mà từng cá nhân riêng rẽ không
thể có được, nó đảm bảo phối hợp hoạt động, điều hòa lợi ích, đảm bảo an sinh cho
các thành viên, đảm bảo quyền tự nhiên của mọi người.
Thứ hai, nhân dân là lực lượng xã hội có sức mạnh tự thân khi được tổ chức
lại. Bởi vì nhân dân mà chủ yếu là nhân dân lao động là yếu tố cơ bản của lực lượng
sản xuất, hoạt động của họ làm cho lực lượng sản xuất phát triển, dẫn đến thay đổi
quan hệ sản xuất và thay đổi toàn bộ hình thái kinh tế - xã hội. Nhân dân là người
trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất, tinh thần - cơ sở của lịch sử xã hội và mọi tiến
bộ xã hội. Nhân dân giữ vai trò quyết định trong đời sống chính trị và những biến
cố chính trị. Hành vi của nhân dân phi thường trong những biến cố lịch sử, đặc biệt
là trong các cuộc cách mạng xã hội. Trong cách mạng nhân dân mang tất cả sức lực,
hiến dâng tất cả những gì đẹp đẽ nhất của mình để sáng tạo lịch sử. Chưa khi nào
sức sáng tạo của nhân dân lại kỳ diệu như trong cách mạng. "Trong bầu trời không
gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân" [Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 6,
tr.276]. Bằng sức mạnh ấy nhân dân thực hiện quyền lực của mình.
Qua phân tích trên cho thấy quyền lực của nhân dân cơ bản là quyền lực
công, bằng sức mạnh của mình nhân dân sử dụng quyền lực ấy để đảm bảo ổn định,
phát triển xã hội, đảm bảo lợi ích và quyền tự nhiên của mình.
Quyền lực của nhân dân (quyền lực công) là quyền lực của mọi người, song
không phải mọi người đều nắm giữ quyền lực mà trao cho một số người thừa hành.
Sự thừa hành quyền lực công thực sự thể hiện trong các công xã thị tộc, bộ lạc
nguyên thủy. ở đây quyền lực của cộng đồng được trao cho người thủ lĩnh thừa
hành.Vì chỉ là thừa hành nên người thủ lĩnh không có quyền; như Ph.Ăngghen đã
chỉ rõ: Về quyền hành cá nhân thì còn kém rất xa so với "anh cảnh sát thấp nhất"
của xã hội hiện đại, nhưng sự tôn vinh, kính trọng của cộng đồng đối với người thủ
lĩnh thì ngay cả những người đứng đầu quốc gia hiện đại có uy tín nhất cũng không
thể có được.
Khi xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, phân chia thành giai cấp và đấu tranh
giai cấp, khi xã hội nguyên thủy tan rã và ra đời xã hội nô lệ thì quyền lực trở thành
quyền lực của giai cấp thống trị và xuất hiện quyền lực chính trị. Một giai cấp, để có
thể trở thành giai cấp thống trị, cần phải đoạt lấy quyền lực công và dùng nó để áp
đặt sự thống trị đối với toàn xã hội, để đảm bảo lợi ích của mình mà cơ bản là lợi
ích kinh tế, để đàn áp sự chống đối của các giai cấp, các lực lượng đối lập. Nhưng vì
sử dụng quyền lực công nên sự thống trị giai cấp chỉ có thể thực hiện trên cơ sở
thực hiện chức năng công quyền (còn gọi là chức năng xã hội). Chừng nào còn thực
hiện được sự thống trị giai cấp có nghĩa là còn thực hiện được chức năng xã hội.
Nếu không thực hiện được chức năng xã hội thì sự thống trị giai cấp cũng chấm dứt.
Dĩ nhiên thực hiện chức năng xã hội cũng vì mục tiêu giai cấp.
Do phải thực hiện chức năng công quyền (chức năng xã hội) nên giai cấp
thống trị lại biểu hiện ra như là người điều hòa các quan hệ xã hội, người đại diện
phân bổ các giá trị xã hội; thường nhân danh đảm bảo công bằng xã hội và cũng
thực hiện mức độ nhất định sự công bằng xã hội, nhưng vẫn đảm bảo lợi ích của
giai cấp thống trị.
Vậy, quyền lực chính trị là quyền lực của một hay liên minh giai cấp để thực
hiện sự thống trị của mình đối với toàn xã hội trên cơ sở thực hiện chức năng công
quyền, là năng lực áp đặt sự phân bố giá trị xã hội đảm bảo lợi ích của giai cấp
mình, đồng thời thực hiện mức độ nhất định sự công bằng xã hội.
Cuộc đấu tranh của nhân dân đòi giai cấp thống trị thực hiện chức năng công
quyền để đảm bảo lợi ích của mình chính là cuộc đấu tranh đòi dân chủ về chính trị,
đòi làm chủ và kiểm soát quyền lực chính trị.
Xuất hiện quyền lực chính trị trong đời sống xã hội thì đồng thời cũng xuất
hiện quyền lực nhà nước. Khi xã hội phân chia thành giai cấp và cuộc đấu tranh giai
cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện để kìm giữ sự xung đột ấy
không dẫn đến các giai cấp tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt cả xã hội. Song, cuộc đấu
tranh giữa các giai cấp lại tập trung ở việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà
nước. Vì nhà nước là nơi biểu hiện cơ bản của quyền lực công, đoạt được quyền lực
ấy mới có thể thực hiện được sự thống trị giai cấp đối với toàn xã hội.
Quyền lực nhà nước, về hình thức bao giờ cũng thể hiện là quyền lực công -
quyền lực đại diện cho mọi thành viên trong xã hội, cho tất cả các giai cấp và các
lực lượng khác nhau, song về thực chất quyền lực công đó cũng bị nắm giữ, chi
phối bởi một giai cấp hay một lực lượng xã hội nhất định (đó là giai cấp thống trị)
và chính nó lại thể hiện thành quyền lực chính trị, là biểu hiện tập trung của quyền
lực chính trị. Trong một xã hội, một cộng đồng quốc gia dân tộc quyền lực công,
quyền lực chính trị không thể hiện ở đâu một cách cơ bản và tập trung khác ngoài
quyền lực nhà nước (Trần Đức Lai, tr.18).
Vì vậy, cuộc đấu tranh đòi dân chủ, đòi dân làm chủ và kiểm soát quyền lực
chính trị lại tập trung ở việc đấu tranh đòi nhà nước thực hiện chức năng công
quyền, đảm bảo an sinh xã hội, đảm bảo lợi ích và quyền tự nhiên của mọi người.
Quyền lực chính trị của nhân dân chính là năng lực của nhân dân sử dụng
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước nhằm thực hiện lợi ích khách quan và
quyền tự nhiên của mình.
Quyền lực công, quyền lực của nhân dân, quyền lực chính trị, quyền lực nhà
nước là những phạm trù khác nhau nhưng chúng có quan hệ với nhau, nội dung có
những mặt giao thoa với nhau.
1.2. Những thể chế đảm bảo thực thi quyền lực chính trị của nhân dân ở
nước ta
1.2.1. Sự lãnh đạo của Đảng
Đảng là hạt nhân giữ vai trò lãnh đạo toàn bộ hệ thống và toàn xã hội. Điều
này được ghi trong văn bản pháp luật cao nhất là Hiến pháp, đây là cơ sở pháp lý
xác nhận một thực tế lịch sử về vai trò lãnh đạo của Đảng trong cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân và ngày nay trong cách mạng XHCN, không có vai trò lãnh đạo
của Đảng thì cũng không thể có được quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng CNXH. Kinh nghiệm của Liên xô và các nước Đông Âu chỉ rõ, khi Đảng
bị mất quyền lãnh đạo thì NDLĐ về thực chất cũng mất quyền làm chủ Nhà nước,
làm chủ xã hội vì chính quyền rơi vào tay các thế lực thù địch, chúng sẽ thay đổi
chế độ xã hội theo con đường TBCN, sẽ biến giai cấp công nhân và NDLĐ từ người
làm chủ trở lại người làm thuê, chúng rêu rao dân chủ cốt để mị dân mà thôi, vì nền
dân chủ tư sản thực chất vẫn là nền dân chủ của thiểu số thống trị. Do đó, Đảng phải
củng cố mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Kinh nghiệm thực tiễn của nhân dân là
cơ sở nhận thức lý luận sáng tạo của Đảng để Đảng đề ra đường lối cách mạng đúng
đắn lãnh đạo nhân dân. Đảng phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia bảo vệ
và xây dựng Đảng, kiểm tra giám sát hoạt động của Đảng giúp Đảng phát hiện và
thanh lý những đảng viên thoái hoá, biến chất, tham nhũng, độc đoán, vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân, xa rời quần chúng, không được quần chúng tín nhiệm,
đồng thời giới thiệu những người lao động ưu tú có tri thức và nhiệt tình cách mạng
để kết nạp vào Đảng. Như vậy làm cho Đảng phải tự đổi mới, không ngừng nâng
cao trình độ lý luận, kiến thức khoa học và phẩm chất chính trị, làm cho Đảng thành
một Đảng trí tuệ và lương tâm của thời đại, luôn ngang tầm với nhiệm vụ chính trị
trong mỗi một giai đoạn cách mạng.
1.2.2. Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do dân, vì dân
Nhà nước là một nhân tố cực kỳ quan trọng trong hệ thống chính trị, Nhà
nước là cơ quan quyền lực của nhân dân, thông qua Nhà nước nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước thực hiện chức năng
giai cấp thông qua chức năng xã hội của nó. Nếu không thực hiện chức năng xã hội,
nhân danh xã hội và vì lợi ích của xã hội thì bất cứ nhà nước của một giai cấp nào
cũng không thể đứng vững được.
Theo Mác, tự do là ở chỗ biến Nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội thành
cơ quan phụ thuộc hoàn toàn vào xã hội và các hình thức nhà nước có tự do hay
không là tuỳ ở chỗ trong những hình thức ấy, “sự tự do của Nhà nước” bị hạn chế
nhiều hay ít. Do vậy, cần từng bước xây dựng một nhà nước hiện đại, nhà nước
pháp quyền XHCN trên cơ sở tiếp thu và vận dụng sáng tạo những giá trị phổ biến
mà nhân loại đã đạt được trong nhà nước tư sản hiện đại bằng cách gạt bỏ tính giai
cấp của nó, đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân lao động bằng luật pháp.
Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở một xã hội bao gồm hệ thống các
thiết chế xã hội và các mối quan hệ xã hội để mỗi công dân và các liên hiệp của họ
thực sự tự do, phát huy những khả năng lao động sáng tạo của mình. Nhà nước pháp
quyền phải được xây dựng nhằm mục tiêu đó của xã hội, trên cơ sở luật pháp là tối
thượng theo nguyên tắc:
+ Luật pháp quy định và bảo đảm tính thực thi các quyền tự do, dân chủ của
công dân và của cá nhân (nhân quyền và công quyền) gắn với trách nhiệm và nghĩa
vụ của họ đối với xã hội.
+ Luật pháp cũng quy định rõ giới hạn và trách nhiệm của nhà nước và các
viên chức nhà nước trong việc quản lý xã hội theo pháp luật, giữ vững kỷ cương xã
hội đồng thời chống lại mọi chuyên quyền độc đoán, lạm quyền của cơ quan nhà
nước và viên chức nhà nước.
+ Trong khi chấp hành luật pháp nếu công dân nhận thấy luật hay các văn
bản dưới luật của cơ quan nhà nước trái với hiến pháp, xâm phạm các quyền tự do
và lợi ích của công dân, thì công dân có quyền kháng nghị lên Quốc hội, cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân và cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất để xem xét
và xử lý kịp thời.
+ Luật pháp bảo đảm cho công dân quyền bãi miễn của mình đối với các đại
biểu dân cử trong chính quyền các cấp khi họ không còn được tín nhiệm bằng những
thủ tục pháp lý để cho quyền đó của công dân được thực hiện.
Chúng ta đã có một hiến pháp mới dân chủ tiến bộ nhưng chưa có một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh đảm bảo cho những điều ghi trong hiến pháp được thực
hiện một cách đúng đắn. Do đó, việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật là một yêu cầu
cần thiết cấp bách khắc phục tình trạng có những luật và văn bản dưới luật không
phù hợp với hiến pháp.
Nhà nước cũng thực hiện một cách đúng đắn các quyền tự do dân chủ của
nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước bằng nhiều hình thức phong
phú, do vậy tạo một sức mạnh để nhà nước thực hiện có hiệu quả sự chuyên chính
đối với kẻ thù nhân dân. Dân chủ và chuyên chính là hai mặt không thể tách rời của
bất cứ nhà nước dân chủ nào. Vì trong lịch sử có thể có những nhà nước độc tài
phản dân chủ, nhưng không có nhà nước dân chủ nào mà không bao hàm trong nó
mặt chuyên chính (Sức mạnh cưỡng chế của luật pháp, của các cơ quan chức năng
bảo vệ trật tự an ninh) thì sẽ trở thành một xã hội vô chính phủ, rối loạn, làm cho
quyền làm chủ của nhân dân cũng không thể thực hiện được, vì ở đó: “Luật rừng”
sẽ thay cho luật pháp văn minh.
1.2.3. Được thực hiện bằng các tổ chức chính trị của nhân dân
Đảm bảo thực thi quyền làm chủ của nhân dân trong hệ thống chính trị còn
có MTTQ và các thành viên của mặt trận, các tổ chức chính trị xã hội của các giai
cấp, các tầng lớp nhân dân dưới nhiều hình thức (trong đó quan trọng là Tổng liên
đoàn Lao động, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hội Liên
hiệp phụ nữ,…) MTTQ và các thành viên là các đoàn thể nhân dân giữ một vị trí
đặc biệt là những chiếc cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với đông đảo các tầng lớp
nhân dân. Mặt trận và các thành viên nói trên của Mặt trận vừa là hậu thuẫn vững
chắc cho Đảng và nhà nước vừa là người phản biện đường lối chính sách của Đảng
và luật pháp của Nhà nước, góp ý kiến, kiến nghị với Đảng và Nhà nước những vấn
đề về đường lối, chính sách, về luật pháp. Như vậy, làm cho đường lối chính sách,
luật pháp ngày càng phù hợp với thực tiễn cách mạng, nguyện vọng lợi ích chính
đáng của các tầng lớp nhân dân; nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường nhiều
lợi ích đan xen nhau, cần phải có một sự: “Cân bằng” nhất định về lợi ích. Mặt
khác, còn động viên mọi lực lượng xã hội trong nước (kể cả ngoài nước) nhằm khai
thác mọi tiềm năng của đất nước, phát triển lực lượng sản xuất nhanh chóng đưa
nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế thế giới và đạt đến trình độ hiện đại
trên cơ sở vận dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học kỹ thuật mới của nền
văn minh tin học. Do đó, Đảng và Nhà nước cần có một cơ chế làm việc dân chủ
với mặt trận và các thành viên của mặt trận, lắng nghe ý kiến của họ đóng góp
thông qua sự trao đổi tự do để đạt được sự nhất trí cao trong việc đề ra và thực hiện
đường lối chính sách và pháp luật.
Mặt trận và các thành viên của Mặt trận là những tổ chức đoàn thể nhân dân,
hoạt động của nó là hoạt động có tính chất quần chúng, thông qua Mặt trận và các
thành viên ấy, các tầng lớp nhân dân có thể bầy tỏ ý kiến và nguyện vọng của mình,
thái độ của mình với đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
đối với đảng viên và viên chức nhà nước. Đó là một nguồn thông tin quan trọng,
thông qua Mặt trận và các thành viên của nó, Đảng và Nhà nước tiếp nhận để kiểm
tra hoạt động của mình và cũng thông qua đó Đảng và Nhà nước phát ra: “Những
thông tin chỉ đạo” hướng dẫn nhân dân thực hiện đường lối, chính sách, luật pháp
một cách hữu hiệu, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết, sức mạnh vô địch của
chế độ XHCN ở nước ta.
Trên đây là những thể chế cơ bản thực thi quyền lực của nhân dân. Ngoài ra,
còn được thực hiện bằng các thể chế khác, trong đó quan trọng là các phương tiện
thông tin đại chúng.
1.3. Khái niệm phương tiện thông tin đại chúng và phương thức thực
hiện quyền lực của nhân dân bằng phương tiện thông tin đại chúng
1.3.1. Khái niệm "Thông tin đại chúng"
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ và sự
bùng nổ của thông tin, trong giai đoạn hiện nay TTĐC trở thành một hiện tượng đặc
biệt phổ biến, tác động từng ngày, từng giờ vào các mối quan hệ xã hội, có ảnh
hưởng tới từng địa phương, từng tổ chức, từng thành viên trong xã hội. Những
thành tựu công nghệ vượt bậc, sự phát triển ngày càng cao của đời sống vật chất và
tinh thần xã hội đã nhanh chóng kéo theo nhu cầu mở rộng quy mô, phạm vi, hình
thức hoạt động của các phương tiện TTĐC không ngừng phát triển và trở thành một
phương tiện có sức mạnh, có khả năng thu hút sự quan tâm chú ý của đại bộ phận
xã hội và tác động thường xuyên, liên tục tới ý chí, tình cảm và hành động của mọi
thành viên xã hội. Với những tiềm năng to lớn như thế, ngày nay các phương tiện
thông tin đại chúng được sử dụng ngày càng nhiều vào các mục đích kinh tế, chính
trị, xã hội khác nhau. Có thể nói trong các xã hội hiện đại không một tổ chức, lực
lượng chính trị - xã hội nào không sử dụng TTĐC như một phương tiện để thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của mình.
Thông tin đại chúng là hoạt động chuyển giao các thông điệp có tính phổ
biến giữa nguồn phát với công chúng rộng rãi trong xã hội.
Phân tích nội dung khái niệm TTĐC cho chúng ta hình dung về những khía
cạnh như sau:
- Nguồn phát hay là chủ thể của quá trình chuyển giao các thông điệp là
người giữ vai trò chủ động song cũng bị chi phối bởi một loạt yếu tố về hình thức,
điều kiện, phương pháp, khả năng trong thu nhận, khai thác, xử lý, mã hoá và truyền
thông tin đi. Đó là các nhà báo, các cán bộ biên tập, các toà soạn thông tấn, báo in,
phát thanh, truyền hình. Nguồn phát là yếu tố đầu tiên chi phối tính chất, khuynh
hướng chính trị xã hội của các thông điệp.
- Công chúng tiếp nhận hay là đối tượng tác động của TTĐC là số đông. Đó
là một bộ phận hay cả cộng đồng xã hội rộng lớn của một quốc gia, khu vực hoặc cả
thế giới.
- Nội dung các thông điệp mang tính phổ biến, có ý nghĩa xã hội liên quan
ảnh hưởng đến nhiều người trong xã hội. Nó đáp ứng nhu cầu hiểu, biết của nhiều
người, đặt ra và giả thiết những vấn đề mang tính xã hội.
- Hiệu quả của TTĐC được xem xét với nhiều thứ bậc và thể hiện cuối cùng
là hiệu ứng xã hội và hành vi xã hội.
Bản chất TTĐC cũng là một hoạt động truyền thông xã hội. Nó thể hiện tính
phổ biến rộng rãi về nội dung và đối tượng tác động của thông tin. Nó phân biệt với
các loại hình thông tin chuyên biệt như: thông tin liên lạc, thông tin khoa học, thông
tin nghề nghiệp, thông tin cá nhân,.v.v…. trong đó “Thông tin” được sử dụng với ý
nghĩa chỉ một loại hình hoạt động để chuyển đi các nội dung thông báo.
Là sản phẩm thuộc kiến trúc thượng tầng, tham gia trực tiếp vào các hoạt
động tư tưởng, chính trị, “Thông tin đại chúng” là một loại hình hoạt động chính trị
xã hội. Hoạt động TTĐC không diễn ra rời rạc, đơn lẻ mà có tính hệ thống, thông
qua “Hệ thống phương tiện TTĐC”.
“Phương tiện Thông tin đại chúng” là khái niệm chỉ một loại hình hoạt động
xã hội bao gồm tổ chức nhân sự, hệ thống thiết bị kỹ thuật, cơ chế vận hành và
phuơng pháp, cách thức làm việc đặc thù để mang thông tin đến cho công chúng xã
hội. Hệ thống các phương tiện TTĐC hiện đại gồm có: Xuất bản sách, báo in, phát
thanh, truyền hình, Internet,…
Là một hệ thống xã hội, đến lượt mình, các phương tiện TTĐC chịu sự quy
định, ảnh hưởng chặt chẽ, đồng thời có sự tác động trở lại một cách thường xuyên
và rộng rãi đối với các hệ thống xã hội khác như tư tưởng, luật pháp, hành chính,
kinh tế. Các phương tiện TTĐC là sản phẩm ra đời từ nhu cầu khách quan của xã
hội về thông tin giao tiếp, đồng thời là sản phẩm của kiến trúc thượng tầng xã hội.
Các phương tiện thông tin đại chúng chịu sự chi phối của cơ sở hạ tầng xã hội, bởi
trình độ phương tiện kỹ thuật công nghệ cũng như trình độ của nền sản xuất vật chất
trong từng thời kỳ lịch sử của mội quốc gia.
Trong xã hội định hướng XHCN, các phương tiện TTĐC được sử dụng nhiều
mục đích thực hiện mục tiêu xây dựng chế độ XHCN, bảo vệ và tăng cường lợi ích,
quyền lực, điều kiện phương tiện toàn diện của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Vì thế, hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng mang tính
khuynh hướng, tính mục đích cao thể hiện qua cơ chế tác động của thông tin đại
chúng vào đời sống xã hội.
1.3.2. Phương thức thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân bằng
cách công khai hoá, dân chủ hoá đời sống chính trị - xã hội
Trong quá trình đổi mới, toàn diện hiện nay, các tổ chức chính trị - xã hội có
vai trò hết sức quan trọng. Thực tiễn đổi mới những năm gần đây đặt ra nhiều
nhiệm vụ mới. Đó là điều kiện phát triển kinh tế thị trường, với nền văn hoá mang
bản sắc dân tộc, các tổ chức chính trị - xã hội càng có nhiệm vụ nặng nề đối với quá
trình dân chủ hoá đời sống nhà nước và xã hội.
Trong xã hội hiện đại, cùng với cuộc sống vật chất và trình độ dân trí ngày
càng được nâng lên, việc dân chủ hoá đời sống xã hội, đặc biệt là trong chính trị là
một đòi hỏi khách quan phổ biến. Mức độ tham gia rộng rãi của quần chúng vào
quá trình quản lý xã hội vừa là mục đích hướng tới, vừa là sự biểu hiện mức độ dân
chủ hoá trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, phương tiện TTĐC do
chức năng riêng có và tiềm năng xã hội của nó, ngày càng có vai trò to lớn trong
quá trình đẩy mạnh dân chủ hoá đời sống xã hội, mà cụ thể là tạo điều kiện cho mỗi
công dân có quyền, có cơ hội được bày tỏ, phát biểu những tâm tư, nguyện vọng
của mình, được đảm bảo các lợi ích và điều kiện cho sự phát triển toàn diện và
quyền làm chủ của mình đối với những công việc, sự nghiệp chung, đặc biệt là tham
gia vào các quá trình hoạch định chính sách. Xã hội càng phát triển, nhu cầu dân
chủ hoá đời sống ngày càng trở thành một nhu cầu bức xúc vào do đó phương tiện
TTĐC ngày càng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu dân chủ
hoá đời sống xã hội. Bằng cách tạo điều kiện cho sự tham gia quản lý rộng rãi của
quần chúng đối với công việc chung của xã hội, phương tiện TTĐC đã tạo ra một cơ
chế quản lý hai chiều: Biến các chủ thể quản lý (nhà nước) thành khách thể bị quản
lý, giám sát và ngược lại những khách thể bị quản lý (xã hội) trở thành người quản
lý giám sát đối với các chủ thể quản lý (nhà nước). Đây chính là một nội dung quan
trọng, cái bản chất nhất của nền dân chủ XHCN - một điều kiện, một môi trường
giúp cho QLCT của ND được thực hiện trên thực tế và có hiệu quả.
1.3.3. Cơ chế tác động của phương tiện thông tin đại chúng
Thông tin đại chúng tác động vào xã hội bằng thông tin qua mối quan hệ
thông tin - ý thức xã hội - hành vi xã hội. Nói cách khác, thông tin trong các thông điệp
tác động vào ý thức xã hội, làm thay đổi nhận thức của cộng đồng. Nhận thức mới sẽ
dẫn đến những hành vi xã hội mới. Hành vi xã hội chính là hiệu quả cuối cùng mang
tính chất của hoạt động TTĐC. Nhờ nó mà xã hội vận động theo hướng này hay
hướng khác phù hợp với ý đồ của nguồn phát.
Quy mô, tính chất của hành vi xã hội bị quy định bởi quy mô, tính chất của
thông tin. Đến lượt nó thông tin bị chi phối bởi thái độ, quan điểm, mục đích của
chủ thể khai thác và phát thông tin. Từ cùng một sự kiện, vấn đề khách quan, người
ta có thể đưa ra những nhận xét, đánh giá hoàn toàn khác nhau do phương pháp,
mục đích, lựa chọn chi tiết, phân tích, lý giải, thiết lập các mối quan hệ khác nhau.
Việc hình thành các thông điệp và cách thức, phương pháp truyền tải thông
điệp đến công chúng xã hội là một trong hai yếu tố quyết định hiệu quả, tác động
của TTĐC. Tuy nhiên phương pháp, cách thức hình thành và chuyển tải thông điệp
trong TTĐC lại liên quan chặt chẽ, hữu cơ với yếu tố thứ hai là sự hiểu biết về công
chúng xã hội và đặc điểm quá trình nhận thức của công chúng. Chính sự hiểu biết
này cùng với mục đích và chất liệu thông tin là cơ sở để hình thành phương pháp,
cách thức tạo lập và truyền tải thông điệp.
Quá trình tiếp nhận thông tin của công chúng xã hội trải qua các bước sau:
Thứ nhất, tiền đề nhận thức của đối tượng. Tiền đề này phụ thuộc vào trình
độ dân trí tức là vốn hiểu biết, trình độ văn hoá, kinh nghiệm sống, thái độ, quan điểm
chính trị xã hội của công chúng. Tất cả những yếu tố này tạo thành nền tảng, điều kiện
để đối tượng đón nhận thông tin bắt đằu bằng trực giác.
Thứ hai, sự quan tâm của đối tượng. Trong bước này, công chúng sẽ tập
trung chú ý vào nguồn thông tin khi nguồn thông tin đó có một ý nghĩa nào đó đối
với họ. Ví dụ, cư dân ở khu vực thường xuyên có bệnh sốt rét sẽ có thái độ lo lắng
và quan tâm nhanh chóng đến việc phòng chống khi nghe tin có bệnh sốt rét xảy ra.
Họ sẽ theo dõi tin dự báo bệnh thường xuyên và chăm chú. Ngược lại khu vực ít
xảy ra bệnh đó thì cư dân ít lo lắng, ít quan tâm hơn đến những thông tin về cơn
bệnh sắp xảy ra.
Thứ ba, sự đánh giá của đối tượng về nguồn thông tin. Sau khi có lượng
thông tin đầy đủ về vấn đề quan tâm, công chúng sẽ phân tích, so sánh, đánh giá
tính chất, quy mô, hiệu quả và vai trò của vấn đề. Sự đánh giá cũng là con đường,
cách thức để chấp nhận thông tin truyền thông. Ví dụ, khi nghe có tin sốt rét, cư dân
sẽ đánh giá những khả năng có thể ảnh hưởng đến gia đình người ta như thế nào,
hậu quả của nó sẽ ra sao.
Thứ tư, sự thử nghiệm của đối tượng. Sự thử nghiệm này có thể là thử
nghiệm thực tế hoặc thử nghiệm logic tưởng tượng. Bằng thử nghiệm, đối tượng
hình thành niềm tin vào tính đúng đắn của nhận thức của mình, xác định dứt khoát
thái độ trong hành động. Ví dụ, sau khi đánh giá tính chất, hậu quả có thể của cơn
bệnh, người ta thử nghiệm các phương án chống nó.
Thứ năm, đối tượng chấp nhận và thực hiện các kỹ năng phù hợp với mục
đích của vấn đề được truyền thông. Đây là bước có ý nghĩa quyết định cuối cùng
đến hiệu quả của truyền thông, là cái xác định mục đích của truyền thông được thực
hiện. Ví dụ, sau khi cân nhắc, đánh giá, thực hiện các thử nghiệm, cư dân vùng sẽ bị
ảnh hưởng của cơn bệnh bắt tay vào phòng chống, tập trung chuẩn bị thuốc men,
ngủ mắc màn, uống nước sôi và chuẩn bị các phương thức giải quyết khác khi bệnh
sốt rét xảy ra.
Trên cơ sở hiểu biết về quá trình tiếp nhận thông tin, người ta tiến hành
nghiên cứu công chúng, tìm ra những căn cứ để tiến hành truyền thông có hiệu quả.
Việc nghiên cứu công chúng chủ yếu nhằm phân tích đối tượng, tìm ra các thông số
về cộng đồng công chúng như: dân tộc, giới, trình độ văn hoá, thói quen, đặc điểm
tâm lý, nhu cầu, lợi ích, quan điểm, thái độ chính trị xã hội, các tín đồ tôn giáo,…
những thông số này sẽ là cơ sở để xác định nội dung thông tin, cách thức hình thành
thông điệp để tác động một cách có hiệu quả vào xã hội. Hiệu quả xã hội của các
phương tiện TTĐC được đánh giá chủ yếu qua hiệu ứng xã hội của TTĐC.
Hiệu ứng xã hội của TTĐC là những biểu hiện của xã hội hình thành do sự
tác động của những thông tin từ các hoạt động TTĐC. Hiệu ứng xã hội của TTĐC
được biểu hiện dưới nhiều hình thức với các tính chất, mức độ khác nhau từ những
phản ứng tâm lý - tình cảm, thái độ, dư luận xã hội đến các thói quen trong sinh
hoạt, cách ứng xử trong xã hội, hành vi cụ thể của con người và cộng đồng.
Trong các biểu hiện được gọi là hiệu ứng xã hội của thông tin, có những biểu
hiện xuất hiện như hậu quả tức thì của các thông điệp truyền đi. Đó là những thái
độ, những ý kiến, những hành vi phản ứng tức thì đối với thông điệp. Có những
biểu hiện được hình thành như kết quả của một quá trình tác động của các thông
điệp. Đó là những thói quen, cách ứng xử, những đức tính,… của một hay nhiều
người có được dưới ảnh hưởng lâu dài của TTĐC.
Một hình thức phổ biến của hiệu ứng xã hội là dư luận xã hội. Dư luận xã hội
là những thái độ, phản ứng của cộng đồng xã hội đối với một nguồn thông tin nào
đó. Trong xã hội hiện đại, các phương tiện thông tin đại chúng có sức mạnh hàng
đầu, quyết định trong việc hình thành dư luận xã hội. Dư luận xã hội có vai trò vô
cùng quan trọng trong đời sống xã hội hiện nay, và sẽ dẫn đến các hành vi xã hội
tương ứng, sẽ tạo thành áp lực, điều kiện cho việc nhận thức và giải quyết các vấn
đề chính trị, kinh tế, sẽ trở thành công cụ để dẫn dắt, định hướng sự vận động của
các tiến trình xã hội.
Nói chung, hiệu ứng xã hội phù hợp với tính chất, quy mô, khuynh hướng
của các thông điệp do TTĐC ghi lại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, hiệu ứng
xã hội không phù hợp, thậm chí trái ngược với tính chất, khuynh hướng của thông
điệp từ các phương tiện TTĐC. Điều này chủ yếu do sự lệch pha giữa chủ ý của
thông điệp và điều kiện tiếp nhận thông điệp ấy. Đôi khi trường hợp này xuất hiện
do những khuynh hướng phụ, phát sinh từ thông điệp mà người phát thông điệp
không lường hết được hay không thể lọc hết được. Ví dụ, các hình ảnh trên truyền
hình về điều kiện sống tốt đẹp của một nước phát triển được phát đi với mục đích
mở rộng hiểu biết có thể dẫn tới một tâm lý bức bối, khó chịu về hoàn cảnh sống
hiện tại của tầng lớp cư dân nghèo ở một nước chậm phát triển. Một ví dụ khác, các
thông điệp nhằm giáo dục tình dục trên các phương tiện TTĐC có thể dẫn đến khả
năng kích dục trong trường hợp xử lý thông điệp không khéo léo, chuyển phát
thông điệp không hợp lý.
Đạt tới hiệu ứng xã hội phù hợp mục đích truyền thông là cơ sở hàng đầu để
đánh giá hiệu quả TTĐC. Với quy mô rất rộng rãi, tính chất rất phong phú và hình
thức đa dạng, hiệu ứng xã hội phản ánh vai trò ngày càng to lớn của hoạt động
thông tin đại chúng trong xã hội hiện đại.
1.3.4. Quyền lực chính trị của nhân dân được thực hiện thông qua các
chức năng cơ bản các phương tiện thông tin đại chúng
“Chức năng” được hiểu là tổng hợp của những vai trò và tác động của một
tiến trình hay một hoạt động nào đó (Có tính tổ chức) trong tự nhiên và xã hội. Mỗi
loại hình hoạt động trong đời sống xã hội loài người đều được đặc trưng bởi chức
năng của nó. Phù hợp với các đặc trưng đó là vai trò, vị trí và cả tính chất vận động
của mỗi loại hình hoạt động. Chính vì vậy, những tri thức về chức năng có ý nghĩa
rất quan trọng kể cả phương diện lý luận và phương diện thực tiễn. Nó cho phép con
người nắm được mối liên hệ chủ yếu của đối tượng nghiên cứu, là cơ sở để xác định
phương hướng và phương pháp hành động một cách có hiệu quả. Nói đến việc thực
hiện các chức năng xã hội cũng có nghĩa là nói đến vai trò to lớn của các phương
tiện TTĐC trong xã hội định hướng XHCN.
Là một loại hình hoạt động đặc thù, ra đời do những nhu cầu khách quan của
xã hội và trên nền tảng của nền sản xuất xã hội đã đạt tới một trình độ nhất định,
TTĐC mang trong mình những tiềm năng có ý nghĩa xã hội to lớn. Chính những
tiềm năng đó đã quy định tính chất khách quan của các chức năng của TTĐC. Nói
cách khác, bản thân sự ra đời của TTĐC đã khẳng định một cách khách quan vai
trò, tác dụng và ý nghĩa của nó trong xã hội. Tổng hợp những vai trò, tác dụng và ý
nghĩa của TTĐC cũng chính là chức năng xã hội của nó.
Trước khi làm bất cứ việc gì, con người đều hình dung, xác định trước về
mục đích cần phải đạt tới, con đường và phương pháp hành động để tác động vào
đối tượng,… Do đó, tính mục đích cũng luôn thể hiện một cách rõ ràng và nhất
quán trong thực tiễn hoạt động báo chí, TTĐC. Vì thế, các chức năng trong hoạt
động thực tiễn của TTĐC còn là các chức năng có tính hướng đích nhằm đạt tới
những kết quả nhất định, nói cách khác, phương tiện TTĐC được sử dụng để nhằm
đạt được những mục tiêu đã định trước.
Lý luận báo chí Mác - Lênin và thực tiễn hoạt động của các phương tiện
TTĐC cho thấy phương tiện TTĐC bao gồm các nhóm chức năng sau đây: nhóm
chức năng tư tưởng, nhóm chức năng quản lý và nhóm các chức năng văn hoá - dân
trí.
- Chức năng tư tưởng là chức năng quan trong nhất trong các nhóm chức
năng của hoạt động TTĐC. Mục đích của công tác tư tưởng là nhằm tác động vào ý
thức xã hội, hình thành và củng cố một hệ tư tưởng chủ đạo với những định hướng
nhất định. Việc xây dựng một ý thức hệ xã hội chủ đạo là một trong những điều
kiện tiên quyết, cơ sở quan trọng đảm bảo sự làm chủ quyền lực trong lĩnh vực tinh
thần xã hội của giai cấp lãnh đạo xã hội. Trong nền chính trị XHCN, việc xây dựng,
củng cố các giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin là một trong những đòi hỏi hàng đầu
để đảm bảo tăng cường QLCT, cũng như phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động trong các lĩnh vực kinh tế xã hội. Đồng thời, đó cũng là cơ sở cho sự tập hợp
lực lượng quần chúng, phát huy những tiềm năng to lớn của nhân dân nhằm xây
dựng, phát triển xã hội theo định hướng đã chọn.
Trên phạm vi toàn xã hội, nhiệm vụ đặt ra cho công tác tư tưởng chính là liên
kết những thành viên riêng rẽ của xã hội thành một khối thống nhất trên cơ sở một
lập trường chính trị chung, thái độ trách nhiệm tích cực nhằm thực hiện các mục
tiêu đề ra. Với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ vào
toàn bộ xã hội, hoạt động của các phương tiện TTĐC có vai trò và ý nghĩa hết sức
to lớn trong công tác tư tưởng. Lý luận báo chí vô sản và thực tiễn hoạt động của
các phương tiện TTĐC đã chỉ ra vai trò và ý nghĩa vô cùng to lớn của TTĐC trong
việc hình thành ý thức, quan điểm, lập trường giai cấp của quần chúng nhân dân lao
động. Nhận thức này càng quan trong trong điều kiện xây dựng CNXH dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản. Tính chất mới mẻ và triệt để của cuộc cách mạng này đòi
hỏi trình độ tự giác cao của tất cả mọi thành viên xã hội. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho
TTĐC là phải lôi cuốn tất cả mọi bộ phận, lực lượng xã hội, phát huy trí tuệ và tài
năng của họ trong công cuộc sáng tạo lịch sử. Quy mô của cuộc sáng tạo lịch sử
càng mở rộng, trình độ văn hóa chung của nhân dân lao động càng được nâng lên
thì quy mô hoạt động và khả năng tác động của TTĐC càng phát triển.
Chức năng có tính mục đích đầu tiên trong hoạt động tư tưởng của TTĐC
chính là nâng cao tính tự giác của quần chúng nhân dân. Để nâng cao tính tự giác
của quần chúng, nhiệm vụ đặt ra cho báo chí là phát triển nhận thức của họ. Trình
độ nhận thức chính là tiền đề quy định trình độ tự giác của nhân dân lao động, đến
lượt mình tính tự giác sẽ trở thành động lực mạnh mẽ cho những hành động sáng
tạo trong lao động sản xuất và xây dựng xã hội.
Việc nâng cao trình độ và mở rộng giới hạn nhận thức nhằm hình thành sự tự
giác trong nhân dân lao động đòi hỏi TTĐC phải quan tâm tới việc thông tin một
cách đầy đủ, sinh động các sự kiện, hiện tượng đa dạng, phong phú của tự nhiên và
xã hội, phân tích các mối quan hệ bên trong và giữa chúng với nhau, chỉ ra các biểu
hiện cụ thể của những mối quan hệ đó. Như vậy TTĐC mang đến cho công chúng
bức tranh toàn cảnh về những hiện tượng mà chính họ cũng là nhân vật hoạt động
trong đó. Hơn thế nữa, TTĐC giúp cho công chúng có sự nhìn nhận, đánh giá bức
tranh đó trên quan điểm, lập trường chính trị của mình, từ đó xác định được vị trí, ý
nghĩa của sự tham gia của bản thân họ vào những hoạt động chính trị xã hội và tự
định hướng lại các hành vi cho phù hợp. ở đây yêu cầu về sự định hướng toàn diện
của quần chúng trở thành yêu cầu chủ đạo và có ý nghĩa quyết định trong toàn bộ
hoạt động tư tưởng của các phương tiện TTĐC.
Nội dung của tính định hướng xã hội toàn diện trước hết là khả năng nhìn
nhận và thẩm định đời sống hiện thực một cách hệ thống. Đời sống xã hội hiện thực
hàng ngày vô cùng phong phú, phức tạp và đa dạng. Mỗi sự kiện, hiện tượng, tiến
trình diễn ra trong những điều kiện lịch sử cụ thể với những hình thức, tính chất, nội
dung, phương thức và kết cục khác nhau. Yêu cầu đặt ra cho hoạt động thông tin đại
chúng không chỉ dừng lại ở sự mô tả, phản ánh số lượng to lớn những sự kiện, hiện
tượng và quá trình đó mà phải phát hiện trong chúng những mối quan hệ, qua đó chỉ
ra cho quần chúng những vấn đề có tính bản chất, chiều hướng vận động chính của
hiện thực. Cũng từ đó TTĐC giúp định hướng sự chú ý của quần chúng vào việc
nhận thức cái gì là bản chất, là cần thiết. Như vậy vấn đề quan trọng là trên cơ sở
khoa học, khách quan, TTĐC xây dựng một mô hình thông tin hợp lý về bức tranh
thế giới khách quan để công chúng nhìn nhận và đánh giá.
Nội dung của tính định hướng xã hội bao hàm sự thẩm định giá trị của mỗi
sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội là cơ sở hình thành thái độ của công chúng đối
với các hoạt động đó và cả môi trường trong đó những hoạt động này diễn ra. Cơ sở
của sự thẩm định giá trị này bao giờ cũng là quan điểm về quyền lợi giai cấp dưới
ánh sáng của hệ tư tưởng và những lý tưởng xã hội của giai cấp đó. Yêu cầu đặt ra
đối với TTĐC là cùng với việc phản ánh những sự kiện, hiện tượng phong phú của
đời sống hiện thực phải đánh giá được những giá trị của chúng hoặc cung cấp
những thông tin cần thiết để công chúng có thể đánh giá một cách đúng đắn bản
chất của các sự kiện, hiện tượng đó và ý nghĩa của chúng đối với hiện thực.
Tính định hướng còn bao gồm khả năng xác định mục đích hành động, hình
dung được kết quả cần phải đạt đựơc phù hợp với lợi ích chung của giai cấp, của xã
hội. Đồng thời là khả năng nắm được các điều kiện, phương tiện và các phương
pháp để có thể thực hiện mục đích đề ra một cách có hiệu quả nhất. Các điều kiện,
phương pháp này được quy định bởi những hoàn cảnh lịch sử, các điều kiện kinh tế
xã hội cụ thể.
Với những đặc trưng và tiềm năng xã hội của mình, báo chí vô sản có năng
lực to lớn trong việc xây dựng một quy mô thông tin phản ánh sự vận hành của đời
sống hiện thực, tác động vào đông đảo quần chúng nhân dân lao động nhằm tạo nên
những định hướng xã hội tích cực. Cơ sở nền tảng của năng lực đó là tính khoa học,
cách mạng chủ nghĩa Mác - Lênin và những lợi ích của nhân dân lao động và của
chế độ mà nó bảo vệ phù hợp với quy luật vận động của lịch sử. Tiếng nói của báo
chí vừa là tiếng nói của Đảng Cộng sản - Đội tiên phong của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động đấu tranh cho những quyền lợi chân chính của nhân dân, của dân
tộc, vừa là tiếng nói của nhân dân lao động - phản ánh những tâm tư, nguyện vọng,
tình cảm, những giá trị văn hoá tinh thần, những lợi ích kinh tế, vật chất của họ. Sức
mạnh định hướng của TTĐC của chúng ta thể hiện ở khả năng cuốn hút toàn bộ xã
hội vào diễn đàn rộng lớn của phương tiện TTĐC, từ đó toàn Đảng, toàn dân đều
tham gia thảo luận và giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước, phê bình và
đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực, cản trở sự phát triển của xã hội. Biểu
hiện của tính định hướng trong hoạt động phê bình trên báo chí là tính chất xây
dựng, đấu tranh để hướng đến cái đúng, cái thật, hướng đến những lợi ích của đông
đảo quần chúng nhân dân lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Phê bình và tự phê
bình là vũ khí cần thiết và rất sắc bén, nó giúp chúng ta sửa chữa sai lầm và phát triển
ưu điểm. Vì khéo lợi dụng nó mà Đảng ta và nhân dân ta ngày càng tiến bộ. Đối với
báo chí cũng vậy”.
Là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, những hoạt động của phương tiện
TTĐC là nhằm nâng cao trình độ tự giác với sự định hướng xã hội toàn diện, tích
cực dựa trên nền tảng là hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện qua
đường lối cơ bản của Đảng Cộng sản. Những hoạt động đó của các phương tiện
TTĐC luôn chịu sự chi phối về các lợi ích chân chính của giai cấp công nhân, của
toàn thể dân tộc, của chế độ. Để thực hiện sứ mệnh của mình, nhiệm vụ đặt ra cho
TTĐC là khẳng định những yếu tố tích cực, phát hiện và phản ánh những cái mới
trong sự nghiệp xây dựng CNXH, phê phán những tàn dư của chế độ cũ, những
quan niệm, tập quán lỗi thời trong nội bộ nhân dân, phát huy trí tuệ, tài năng và mọi
tiềm lực của đất nước, nhằm đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ chính trị to lớn.
Cùng với nhiệm vụ đó, các phương tiện TTĐC cần tiến hành cuộc đấu tranh kiên
quyết, dựa trên những cơ sở khoa học và những bằng chứng thực tế có tính thuyết
phục nhằm vạch trần những luận điệu phản tuyên truyền của kẻ địch, những âm
mưu xuyên tạc, bôi nhọ chế độ và công cuộc xây dựng CNXH. Phương tiện TTĐC
trở thành công cụ quan trọng trong việc củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong
Đảng, trong nội bộ quần chúng nhân dân, phát huy tích cực những thành quả ban
đầu quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH.
Hoạt động tư tưởng có tính hướng đích của TTĐC còn được thể hiện ở chức
năng giáo dục của nó. Giáo dục chính trị tư tưởng nhằm biến những tri thức mà mỗi
con người thu nhận được thành chất lượng nội tại, thành quan điểm và lập trường
tích cực của bản thân họ. Đó là cơ sở tiền đề đồng thời là kết quả có tính hướng đích
của việc hình thành tính tự giác với định hướng xã hội toàn diện, chất lượng cần đạt
được trong giáo dục chính trị tư tưởng là sự hình thành ý thức giai cấp của toàn thể
nhân dân lao động, hình thành trong họ một thế giới quan, nhân sinh quan khoa học,
sự ý thức đầy đủ và đúng đắn về những giá trị lịch sử và văn hoá truyền thống, tạo
lập trong quần chúng một tình cảm cách mạng sâu sắc. Bởi vì bên cạnh những yếu tố
khác, tình cảm cách mạng có vai trò hết sức quan trọng, nó là động lực mạnh mẽ thúc
đẩy tiến trình cách mạng. V.I.Lênin nói: “Nếu không có tình cảm cách mạng trong
quần chúng, không có những điều kiện thuận lợi cho tình cảm ấy phát triển thì không
thể làm cho sách lược cách mạng biến thành hành động được” [29, tr. 59].
Bởi vai trò to lớn của nó trên mặt trận tư tưởng, TTĐC trở thành một trong
những phương tiện quan trọng của Đảng trong việc thực hiện chức năng giáo dục
chính trị tư tưởng. Hoạt động chính trị - tư tưởng của báo chí dựa trên sự tác động
có tính thuyết phục bằng việc thông tin các sự kiện, hiện tượng, các vấn đề của đời
sống hiện thực mà trong đó hàm chứa những giá trị cần khẳng định. Để đảm bảo
tính thuyết phục đối với những giá trị ấy, báo chí phải đưa ra được những minh
chứng dựa trên những cơ sở khoa học đúng đắn, khách quan trong mỗi nhận định,
đánh giá và luận điểm của mình. Sự minh chứng chặt chẽ và khoa học kết hợp với
sự phản ánh kịp thời, phong phú các sự kiện, hiện tượng, vấn đề của đời sống hiện
thực là cơ sở để tạo nên một chất lượng mới trong nhận thức của công chúng. Sự
nhận thức một cách lý trí, tự giác những quan điểm về cuộc sống, những lý tưởng
xã hội, những giá trị của hiện thực. Đó là những nền tảng nẩy sinh và quy định tính
chất, mức độ của chính kiến, niềm tin vào tình cảm cách mạng của công chúng - Đó là
chất lượng mà công tác giáo dục chính trị tư tưởng cần phải hướng tới. Đó cũng là
những điều kiện nền móng tạo ra những cơ sở thiết yếu về mặt tư tưởng và chính trị xã
hội nhằm không ngừng tăng cường quyền lực chính trị của nhân dân.
- Chức năng quản lý và giám sát xã hội: Song song với các chức năng tư
tưởng, TTĐC cũng thực hiện chức năng quản lý và giám sát xã hội. Quản lý xã hội
là sự tác động có tính định hướng và thường xuyên của chủ thể quản lý đối với
khách thể quản lý nhằm đảm bảo sự hoạt động, phát triển của tổ chức đó được đồng
bộ, hiệu quả, đạt được những kết quả mong muốn. Để đảm bảo hiệu quả tác động
của chủ thể quản lý đối với khách thể, nhất thiết đòi hỏi một quá trình nhận thức sâu
sắc, đầy đủ và toàn diện về những mối quan hệ liên quan, những quy luật vận động
phát triển khách quan và về bản thân khách thể quản lý, có nghĩa là phải có sự trao
đổi thông tin. Chỉ với nguồn thông tin chính xác, toàn diện về đối tượng mới có thể
xử lý, lựa chọn được những phương hướng và cách thức tác động hợp lý, có hiệu
quả. Sự tác động ấy được thể hiện bằng quyết định quản lý và được truyền đến
khách thể quản lý dưới dạng thông tin. Khách thể của quá trình quản lý là tất cả các
bộ phận, đơn vị, các lĩnh vực khác nhau và nói chung là toàn bộ xã hội. Tất nhiên,
có những phương thức quản lý khác nhau, với những công cụ khác nhau và do đặc
trưng riêng của mỗi loại hình quản lý đạt được hiệu quả ở những mức độ khác nhau.
Phương tiện TTĐC thực hiện chức năng quản lý thông qua dòng thông tin hai chiều
liên tục từ chủ thể quản lý đến khách thể và ngược lại.
Bản thân xã hội là một tổ chức hết sức phức tạp, đa dạng, phong phú. Những
mối quan hệ bên trong các hệ thống và bên ngoài các hệ thống với nhau của nó luôn
có sự tác động chi phối lẫn nhau thậm chí gây nhiều, làm rối loạn các hoạt động
chức năng, do đó có nguy cơ dẫn đến phá vỡ một số yếu tố trong hệ thống. Trong
những trường hợp ấy, để có được hiệu quả quản lý thì chủ thể cần phải được cung
cấp một cách đầy đủ những thông tin phức tạp, đa dạng về bản thân các yếu tố gây
nhiễu phá hoại, về trạng thái bên trong của các yếu tố trong hệ thống. Đồng thời,
những thông tin về quyết định quản lý cần phải được chuyển tải kịp thời đầy đủ đến
khách thể quản lý, đến những khâu, những yếu tố cần tác động điều chỉnh. Do đó,
hiệu quả của quá trình quản lý phụ thuộc trước hết vào tính đồng bộ của thông tin
hai chiều thuận, ngược, đó cũng là điều kiện cần thiết cho khả năng tác động một
cách có hiệu lực của chủ thể quản lý vào khách thể quản lý, làm cho khách thể quản
lý vận động phát triển theo chiều hướng định trước.
Thông tin địa chúng chính là phương tiện để thực hiện sứ mạng cầu nối giữa hai
chiều thông tin đó. Bằng cách tiến hành thu - phát thông tin hai chiều, các phương tiện
TTĐC thực hiện chức năng quản lý của mình. Xã hội càng phát triển, nhu cầu đối với
hoạt động TTĐC ngày càng lớn và toàn diện, do đó vai trò quản lý của TTĐC cũng càng
lớn. Trong quá trình hoạt động của mình, phương tiện thông tin đại chúng luôn phải duy
trì khả năng đảm bảo nguồn thông tin hai chiều, đồng thời, trên quy mô toàn xã hội,
luồng thông tin hai chiều này cũng không thể tồn tại ở đâu khác bên ngoài tổng thể hoạt
động của hệ thống các phương tiện TTĐC . Một mặt, với khả năng thông tin nhanh
chóng kịp thời trong phạm vi toàn xã hội, các phương tiện TTĐC là giải pháp tối ưu đề
truyền tải đến khách thể quản lý những quyết định, chỉ thị, những điều chỉnh chính sách,
hướng dẫn thi hành một cách kịp thời, nhanh chóng. Mặt khác, TTĐC phản ánh đời sống
hiện thực với những sự kiện, hiện tượng phong phú đa dạng, thông tin kịp thời các vấn
đề thời sự của cuộc sống, thẩm định các giá trị tinh thần, vật chất của các sự kiện, các quá
trình lịch sử. Đó chính là dòng thông tin ngược có vai trò to lớn trong việc đảm bảo mối
liên hệ giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý.
Thêm vào đó, tính chất, quy mô hoạt động quản lý và giám sát xã hội của
TTĐC phụ thuộc trước hết vào tính chất và quy mô của các cơ quan, tổ chức mà nó
đại diện. ở phạm vi toàn xã hội, trong khi thực hiện các chức năng tư tưởng, TTĐC
cũng đồng thời thực hiện chức năng quản lý xã hội, nói cách khác trong quá trình
hoạt động truyền thông ở quy mô toàn xã hội, các chức năng tư tưởng và quản lý
của TTĐC không tách khỏi nhau, chúng luôn đan xen, lồng ghép vào nhau. Khi tác
động vào đời sống tinh thần của quần chúng, TTĐC hướng tới việc hình thành và
củng cố ý thức xã hội tích cực, hướng người dân lao động vào việc giải quyết các
nhiệm vụ cách mạng. Sự định hướng tư tưởng mà TTĐC hướng tới chính là nhằm
tạo ra sự vận động, phát triển của xã hội, đồng thời sự vận động này diễn ra có nhịp
nhàng hay không là phục thuộc ở khả năng quản lý xã hội, trong đó chức năng quản
lý của báo chí góp phần quan trọng.
Chức năng quản lý, giám sát xã hội của hoạt động TTĐC không chỉ trong cơ
chế thông tin hai chiều của nó, mà còn được biểu hiện ở khả năng lôi cuốn, tạo điều
kiện cho sự tham gia rộng rãi và tự giác của quần chúng ND vào các công việc quản
lý xã hội, phát huy tính dân chủ XHCN, đảm bảo quyền làm chủ trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội của ND.
- Chức năng nâng cao văn hoá - dân trí là các chức năng khách quan của
TTĐC, liên hệ chặt chẽ với các chức năng tư tưởng và chức năng quản lý. Khi
truyền bá những tri thức văn hoá toàn diện nhằm nâng cao trình độ hiểu biết về tự
nhiên và xã hội cho ND, phương tiện TTĐC đã thực hiện chức năng nâng cao văn
hoá - dân trí của nó. Sự phát triển của các phương tiện TTĐC là điều kiện quan
trọng để phổ cập, quần chúng hoá những giá trị văn minh của nhân loại, giúp cho
mỗi thành viên của xã hội có cơ hội không ngừng bổ xung vốn tri thức, làm phong
phú đời sống tinh thần của mình. Đây cũng là điều kiện, phương tiện để thực hiện
việc phát triển con người một cách toàn diện và giải phóng triệt để con người - mục
tiêu cao cả nhất của chế độ XHCN.
Nội dung chức năng dân trí - văn hoá của TTĐC trước hết được thể hiện ở sự
xã hội hoá các hiểu biết, kinh nghiệm sống, những tri thức có giá trị tinh thần cao.
Những giá trị tinh thần này, nguồn gốc xã hội ban đầu của nó tất nhiên chỉ khu biệt
trong một khu vực, một bộ phận xã hội nhất định, chính nhờ hoạt động TTĐC, cái
riêng, khu biệt ở một bộ phận xã hội, một không gian hẹp nào đó đã dần trở thành
cái chung phổ biến của toàn xã hội. Điều này cũng có nghĩa là phương tiện TTĐC đã
giúp kéo dài tầm tay với, mở rộng tầm mắt nhìn cho mỗi thành viên của xã hội. Do đó,
phương tiện TTĐC là một nhân tố góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, bởi vì xã hội
hoá các tri thức, các kinh nghiệm là một điều kiện quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
xã hội nói chung.
Nâng cao trình độ dân trí có thể nói là nấc thang tiếp theo của việc xã hội hoá
các tri thức, kinh nghiệm. Sự xã hội hoá các hiểu biết, kinh nghiệm sống chỉ dừng
lại ở mức độ trao đổi, chia sẻ ở chừng mực nào đó những tri thức, vốn kinh nghiệm
sống mà các cá nhân, cộng đồng đúc kết được trong cuộc sống, mà chưa vươn tới sự
lý giải, so sánh, phân tích và đánh giá. Nâng cao trình độ dân trí là một hoạt động có
hệ thống hướng đến xây dựng một mặt bằng tri thức nhất định cho quần chúng ND.
Để thực hiện nhiệm vụ này, hoạt động TTĐC không chỉ dừng lại ở chức năng cầu
nối giữa các thành viên xã hội mà còn chủ động sắp xếp, lựa chọn, phân tích những
tri thức, các giá trị tinh thần đó, đặt chúng trong một hệ thống các tri thức được định
hướng sau đó cung cấp cho các đối tượng cụ thể trong cộng đồng xã hội, giúp họ
nâng cao trình độ nhận thức, có thêm sự hiểu biết đối với lĩnh vực mà họ quan tâm.
Một nội dung quan trọng khác trong chức năng nâng cao văn hoá và dân trí
của hoạt động TTĐC là vấn đề giáo dục lối sống. Mục đích của nội dung chức năng
này là phương tiện TTĐC thông qua khả năng phổ cập rộng rãi, thường xuyên liên
tục của nó, luôn uốn nắn, xây dựng một lối sống lành mạnh tích cực và nâng cao
tinh trần trách nhiệm của quần chúng nhân dân. Đây là một nhiệm vụ đặt ra thường
xuyên đối với xã hội và ở mọi thời điểm lịch sử. Sự mở rộng của không gian giao
tiếp, những khác biệt về nhận thức, quan niệm giữa các thế hệ, cùng với những thay
đổi, phát triển của đời sống vật chất, của đời sống tinh thần xã hội luôn làm nẩy sinh
những nhu cầu mới. Có những trào lưu, nhu cầu tích cực, lành mạnh phù hợp với
truyền thống văn hoá, bản sắc dân tộc và có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của xã
hội, ngược lại có những nhu cầu, trào lưu tiêu cực, xa lạ, làm tổn hại đến sự trưởng
thành của cơ thể xã hội, do đó việc giáo dục lối sống cũng trở thành một nhu cầu tất
yếu thường xuyên, thường trực ở mọi quốc gia, dân tộc. Nhiệm vụ đó không chỉ đặt
ra ở trong gia đình, ở trường học, trong các tổ chức mà quan trọng hơn hết chính là
các phương tiện TTĐC phải gánh vác lấy trách nhiệm đó, bởi vì về khách quan chỉ
có phương tiện TTĐC mới có khả năng phổ cập, xã hội hoá các tri thức được định
hướng một cách thường xuyên, liên tục và nhanh chóng ở quy mô toàn xã hội. Đồng
thời, chức năng giáo dục lối sống của hoạt động TTĐC cũng giúp “chuẩn hoá”,
khẳng định những giá trị tốt đẹp, giá trị chung toàn xã hội, các giá trị nhân loại, từ
đó hình thành một nhân sinh quan, thế giới quan tích cực trong xã hội, xây dựng
một hệ giá trị chủ đạo trong xã hội, thông qua sự tác động có tính hướng dẫn, thuyết
phục thường xuyên. Quá trình định hướng và định hướng lại các trào lưu, khuynh
hướng giúp đưa toàn xã hội vào những giá trị chuẩn mực chung đã được chấp nhận,
chính là một trong những nội dung quan trọng của sự phát triển. Nội dung chức
năng văn hoá, giáo dục của TTĐC còn bao hàm cả việc khơi dậy, gìn giữ, phát huy
và củng cố những cơ sở, những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Quá trình
hoạt động truyền tải thông tin của các phương tiện TTĐC đồng thời cũng là quá
trình khơi dậy, phổ biến, khẳng định các giá trị văn hoá truyền thống và sàng lọc,
tiếp thu những tinh hoa văn hoá của các dân tộc khác, những giá trị chung toàn nhân
loại để làm giàu thêm vốn văn hoá của dân tộc mình. Bản thân hoạt động TTĐC
cũng tạo nên một thứ văn hoá - Văn hoá tiếp nhận và lựa chọn các thông điệp. Như
thế với sức mạnh to lớn, với khả năng tác động rộng khắp và liên tục, TTĐC có ảnh
hưởng rất to lớn đối với đời sống văn hoá hiện nay của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
Thông qua chức năng văn hoá dân trí, TTĐC góp phần tạo ra những điều kiện cho
việc tăng cường QLCT của ND.
- Các chức năng khác: Xã hội ngày càng phát triển thì TTĐC càng mở rộng
phạm vi, quy mô, đa dạng hoá tính chất, phương thức hoạt động. Sự phát triển của
TTĐC nói cho cùng cũng chỉ nhằm đáp ứng những yêu cầu ngày càng đa dạng của
xã hội. Cho nên, ngoài các chức năng chính kể trên, TTĐC còn có một số chức năng
mới mẻ và đặc thù khác như: chức năng giải trí, chức năng dịch vụ xã hội, chức
năng giao lưu…
Các phương tiện TTĐC ngày càng giữ vai trò như một phương tiện giải trí
không thể thiếu. Nói đến giải trí có thể phân biệt hai loại hình, mức độ khác nhau.
Thứ nhất, giải trí là sự thay đổi loại hình, tính chất lao động nhằm giải toả sự nặng
nề, ức chế, mệt mỏi, buồn chán do hoạt động lao động trước đó gây nên nhằm hồi
phục sức khoẻ cả về tinh thần và thể lực. Thông thường, loại hình lao động để giải
trí thường là nhẹ hơn, đơn giản hơn, tạo ra hứng thú lớn hơn. Người ta gọi đây là
loại hình giải trí tích cực. Ví dụ, sau một tuần lao động mệt mỏi ở thành phố, ngày
thứ bảy, ngày chủ nhật người ta về trang trại chăm sóc cây cối, súc vật hay chơi thể
thao,…
Loại hình giải trí thứ hai là hình thức nghỉ ngơi, thư giãn hoàn toàn trong một
điều kiện, môi trường thích ứng. Người ta gọi đây là hình thức giải trí thụ động.
Trên thực tế, ở loại hình giải trí này, con người vẫn làm việc, chỉ có điều cường độ
lao động rất thấp. Ví dụ, sau giờ lao động người ta nghe nhạc, đọc thơ, đọc các tin tức thú
vị, đi xem phim hay xem biểu diễn nghệ thuật.
TTĐC là phương tiện giải trí với tính chất cả hai loại hình nói trên. Nó lôi
kéo cư dân vào các sân chơi, tạo ra các nội dung thông tin có sức hấp dẫn, thu hút
hàng triệu, triệu người. Không có phương tiện nào khác có thể thu hút thời gian rỗi
rãi của cư dân trên khắp hành tinh bằng truyền hình, phim ảnh, các chương trình
phát thanh, âm nhạc giải trí.
Cần lưu ý rằng ngay trong khi phục vụ mục đích giải trí, TTĐC vẫn đồng
thời thực hiện các chức năng khác. Đôi khi, để nâng cao hiệu quả tiếp nhận, người
ta vẫn xen kẽ, hoà quyện các nội dung chính trị phức tạp vào các chương trình giải
trí. Ngược lại, trong từng nội dung chương trình giải trí đã hàm chứa các ý nghĩa tư
tưởng, giáo dục, hướng dẫn dư luận xã hội ở mức độ nhẹ nhàng, tế nhị.
Chức năng dịch vụ xã hội được hiểu là những nội dung nhằm giải quyết những
công việc dịch vụ phục vụ cho cuộc sống của con người. Xã hội càng phát triển thì nhu
cầu dịch vụ càng phong phú, tỷ lệ lao động dịch vụ càng lớn, tính chất của các dịch vụ
càng phức tạp, chuyên môn hóa. Đó là các loại dịch vụ thông tin, dịch vụ du lịch, dịch
vụ ăn uống, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, dịch vụ mua sắm, dịch vụ làm quen,… Các
phương tiện TTĐC ngày nay triển khai các hoạt động nhằm đáp ứng, giải quyết ngày
càng nhiều các yêu cầu dịch vụ. Với sự phát triển của truyền hình cáp và các loại hình
phát thanh trực tiếp, TTĐC ngày càng mở rộng và hoàn thiện đáp ứng các dịch vụ liên
quan đến du lịch, phục vụ tiệc cưới, hội nghị, dịch vụ đặt hàng, mua sắm đồ dùng,…
Các chức năng của TTĐC luôn quan hệ chặt chẽ, xuyên thấm, đan xen nhau,
bản thân các chức năng này cũng tạo điều kiện, thúc đẩy lẫn nhau. Một chức năng
không chỉ được biểu hiện ra bên ngoài chỉ bởi bản thân nó mà dưới nhiều hình thức
khác nhau và một sản phẩm truyền thông bao giờ cũng thực hiện đồng thời nhiều chức
năng. Vì thế, vai trò của TTĐC chỉ được nhận thức đầy đủ khi đặt nó trong sự thống
nhất hữu cơ của các chức năng. Việc tách riêng các chức năng cụ thể chỉ có ý nghĩa về
khoa học vì nó cho phép ta hiểu rõ hơn, sâu hơn mỗi chức năng riêng biệt, song quan
điểm biện chứng đòi hỏi chúng ta phải luôn đặt các chức năng dó trong mối quan hệ
thống nhất hữu cơ và chỉ trên cơ sở đó mới có thể thấy hết tiềm năng to lớn của các
phương tiện TTĐC.
Nói tóm lại, TTĐC là phương tiện quan trọng đặc biệt trong việc đặt ra và
giải quyết một số loạt công việc, trong đó có việc thúc đẩy, tăng cường QLCT của
ND. Với sức mạnh và ảnh hưởng to lớn với sự phong phú và sinh động của hàm
lượng thông tin với sự tác động nhiều chiều và đa dạng, các phương tiện TTĐC can
dự và thúc đẩy đối với tất cả các bình diện trong quyền lực của ND từ các điều kiện
để hình thành cho đến sự xác lập và phát huy quyền lực chính trị trên thực tế. Đặc
biệt đối với các quốc gia chậm phát triển thì sự lựa chọn con đường phát triển theo
định hướng XHCN là khách quan tất yếu trong thời đại ngày nay. Sự phát triển theo
định hướng khách quan đó đến lượt nó đòi hỏi về mặt chính trị phải tự giác thực
hiện một yêu cầu cơ bản là: QLCT phải thuộc về ND. Đây vừa là mục tiêu bao
trùm, tổng quát, đồng thời là nội dung cơ bản của toàn bộ việc xây dựng và hoàn
thiện HTCT của các nước phát triển theo định hướng XHCN.
Trên cơ sở phân tích làm sáng rõ khái niệm, cơ chế tác động và các chức
năng cơ bản của phương tiện TTĐC, có thể thấy rõ vai trò quan trọng đặc biệt của
phương tiện TTĐC đối với việc tạo lập các cơ sở, điều kiện cần thiết để tổ chức và
thực thi QLCT nói chung, đặc biệt đối với việc tăng cường QLCT của ND trong
điều kiện hiện nay.
Như vậy, với việc phân tích, khái quát để đi tới những tri thức căn bản cần thiết
về khái niệm “Quyền lực chính trị”, “Quyền lực chính trị của nhân dân”, về tính tất yếu
của con đường XHCN, về QLCT phải thuộc về ND, về cơ chế tác động, vai trò của
phương tiện TTĐC đối với tăng cường quyền lực chính trị của nhân dân,… chương 1
của luận văn tạo những tiền đề có tính chất cơ sở chung, cần thiết cho việc tìm hiểu, phân
tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc sử dụng hệ thống phương tiện TTĐC để
tăng cường QLCT của ND ở nước ta.
Chương 2
Vai trò của thông tin đại chúng trong việc thực thi
quyền lực chính trị của nhân dân, Thực trạng
và những vấn đề đặt ra hiện nay
2.1. Hệ thống thông tin đại chúng, những thành tựu đạt được trong
những năm đổi mới
Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, TTĐC và báo chí cách mạng Việt
Nam trong những năm qua đã phát triển nhanh về số lượng và chất lượng, về công
nghệ và trình độ chính trị, nghiệp vụ chuyên môn, thực sự là những chiến sĩ xung
kích trên mặt trận tư tưởng của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước, các loại hình báo chí trở thành một trong những động lực trực tiếp tham
gia và thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Quá trình phát triển của TTĐC và báo chí nước ta trong những năm đổi mới là
thành quả của sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, là sự vận động biện chứng của mối quan hệ báo chí, công cụ tư tưởng sắc bén của
Đảng ngay từ những ngày đầu đã hưởng ứng tích cực quá trình đổi mới và sự nghiệp đổi
mới vượt qua mọi khó khăn, từng bước giành thắng lợi đã tác động tích cực trở lại với
báo chí, thúc đẩy báo chí phát triển.
Sự đổi mới và phát triển không ngừng của các loại hình báo chí có nguyên
nhân sâu sa và trực tiếp là đường lối đổi mới công tác tư tưởng của Đảng. Đề ra
khẩu hiệu “Đổi mới tư duy”, Đảng chủ trương triệt để giải phóng tư tưởng, phát huy
cao độ sự năng động, sáng tạo của mọi cán bộ, đảng viên, của nhân dân trong lĩnh
vực văn hoá, tư tưởng tạo động lực to lớn cho quá trình đổi mới. Xoá bỏ bao cấp về
tư tưởng, Đảng đề ra cho hệ thống thông tin đại chúng và các lĩnh vực văn hoá khác
yêu cầu vừa là: "Tiếng nói của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội" vừa là
"Diễn đàn tin cậy của nhân dân". Với chủ trương này, báo chí trở thành đầu mối
thông tin hai chiều: Vừa tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước tới
quần chúng và tổ chức quần chúng thực hiện, vừa phản ánh đời sống, tâm tư,
nguyện vọng của người dân. Quá trình vận động của các đường lối, chính sách đó
trong thực tiễn cả mặt thành tựu và yếu kém, bất cập, khuyết điểm giúp các cơ quan
lãnh đạo các cấp điều chỉnh, hoàn thiện nó. Đây là nguyên nhân có tính quyết định
trong đổi mới tư duy của người làm báo, đổi mới nội dung thông tin, tăng tính chiến
đấu, hiệu quả của báo chí cách mạng trong giai đoạn mới.
Xoá bao cấp về kinh tế, tài chính trong hoạt động báo chí cũng là chủ trương
"cởi trói" cho hoạt động báo chí, khơi dậy tính chủ động, tinh thần sáng tạo của đội
ngũ những người làm báo phù hợp với quy luật khách quan, với cơ chế thị trường
định hướng XHCN. Báo chí được xã hội hoá, từng bước hội nhập cơ chế thị trường
đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chính trị, văn hoá từng tự trang trải, tự tích luỹ để
phát triển thoát ly dần sự lệ thuộc vào "bầu sữa" bao cấp về kinh phí. Nhờ đó báo
chí không ngừng đổi mới nghiệp vụ, nội dung thông tin phong phú, đa dạng, hấp
dẫn. Hình thức ngày càng đẹp cả với Báo in, phát thanh, truyền hình và cũng mở ra
điều kiện về kinh tế để số lượng báo chí tăng nhanh như hiện nay. Báo chí ngày
càng đến với đông đảo bạn đọc không có nghĩa là không khiếm khuyết, bất cập, yếu
kém. Vấn đề này sẽ được đề cập ở phần sau. Để làm rõ thành tựu và khuyết điểm,
đề án này sẽ lần lượt trình bày những mặt chủ yếu của hai mặt trên, rút ra bài học
kinh nghiệm và kiến nghị phương án cũng như những giải pháp quan trọng.
2.1.1. Những thành quả bước đầu
2.1.1.1. Đổi mới về nội dung thông tin
Phát huy truyền thống cách mạng, trong những năm đổi mới hệ thống TTĐC
của nước ta luôn trung thành với lợi ích của dân tộc, đất nước, vững vàng trước mọi
khó khăn thử thách, tự nguyện tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng, không ngừng
phấn đấu vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và vì lý tưởng chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn
mới của cách mạng đặt ra những yêu cầu mới; cuộc cách mạng như vũ bão về công
nghệ thông tin diễn ra trên phạm vi toàn cầu, đời sống vật chất và trình độ dân trí
không ngừng tăng lên đòi hỏi khách quan đến sự đổi mới của thông tin.
Những năm qua, nhiều sự kiện trong nước và thế giới đem lại thuận lợi và
cũng đặt ra nhiều thách thức mới. Quá trình đổi mới nước ta phải trải qua cơn
khủng hoảng nhiều mặt, trong đó có kinh tế. Kinh tế trì trệ, đời sống khó khăn, lòng
dân không yên. Chưa thoát ra khỏi khủng hoảng, năm 1991 Liên Xô sụp đổ, hệ
thống xã hội chủ nghĩa tan rã, phong trào cách mạng lâm vào thoái trào trên phạm
vi toàn thế giới, cùng với những khó khăn về tư tưởng là những khó khăn về kinh tế
tưởng chừng không vượt qua nổi khi mọi nguồn viện trợ không còn nữa trong lúc
đó Mỹ tiếp tục xiết chặt vòng vây cấm vận. Vừa ra khỏi khủng hoảng nước ta lại
chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực và
trên thế giới. Các thế lực cơ hội trong nước tiếp tục cấu kết với lực lượng thù địch
bên ngoài đứng đầu là Mỹ đẩy mạnh âm mưu " diễn biến hoà bình" nhằm lật đổ chế
độ ta. Góp sức cùng toàn Đảng, toàn dân tranh thủ thuận lợi, vượt qua khó khăn các
phương tiện thông tin đại chúng đã đổi mới nội dung tuyên truyền, đặc biệt là tuyên
truyền chính trị đối nội và đối ngoại. Bằng nhiều hình thức phong phú, nhanh nhạy,
sắc bén, có sức thuyết phục cao, vừa tuyên truyền vừa tích luỹ kinh nghiệm, hệ
thống TTĐC nước ta đã thường xuyên cổ vũ toàn dân đoàn kết, chống âm mưu, thủ
đoạn "diễn biến hoà bình", kịp thời vạch trần những luận điệu xuyên tạc của các thế
lực thù địch nhân danh cái gọi là "nhân quyền", "dân chủ" để gây mất ổn định chính
trị - xã hội trên đất nước ta, kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và giá trị tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa. Cổ vũ nhân dân tôn trọng
kỷ cương, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đồng tâm hiệp lực xây
dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Những nội dung thông tin đó là
bước trưởng thành quan trọng trong công tác tuyên truyền chính trị đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ mới.
Thành tựu nổi bật trong nội dung tuyên truyền gần 20 năm đổi mới là hệ
thống TTĐC đã nhiệt thành ủng hộ sự nghiệp đổi mới cả ở hai chiều thông tin. Một
mặt tiếp tục là lực lượng mạnh mẽ "tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức
tập thể" tập hợp quần chúng hưởng ứng và qua các phong trào thi đua yêu nước
biến các chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Mặt khác, phát huy chức
năng "là diễn đàn tin cậy của nhân dân", TTĐC đã có mặt ở mọi lĩnh vực đời
sống, nắm bắt thực tiễn, tìm tòi biểu dương các điển hình và cá nhân tiên tiến, nhân
rộng kinh nghiệm và điển hình đổi mới thành công. Song song với biểu dương mặt
tích cực, TTĐC kiên quyết và đi đầu trong cuộc đấu tranh chống các mặt tiêu cực,
đặc biệt là chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, vi phạm quyền dân chủ, sự suy
thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ và đảng viên và tệ nạn xã hội
khác. Cuộc đấu tranh chống tiêu cực trên TTĐC diễn ra vô cùng phức tạp và gian
khổ. Không ít thất bại sai lầm, khuyết điểm nhưng trong cuộc đấu tranh chống tiêu
cực này, TTĐC đã trở thành chỗ dựa tin cậy của Đảng và Nhà nước trong quá trình
đổi mới, làm trong sạch đội ngũ Đảng, lành mạnh hoá bộ máy nhà nước, bảo vệ chế
độ, khôi phục và giữ vững niềm tin của quần chúng, làm thất bại âm mưu chống phá
của kẻ thù và những phần tử bất mãn, cơ hội. Từ đây, nhiều kinh nghiệm quý trong
hoạt động TTĐC đã được tập hợp lại để những người làm công tác tuyên truyền
tham khảo nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ nghiệp vụ chuyên môn.
TTĐC đã trở thành nơi truyền bá văn hoá, sáng tạo văn hoá, nâng cao dân trí,
thoả mãn nhu cầu văn hoá ngày càng cao của toàn xã hội. Nội dung về thông tin văn
hoá trên các phương tiện truyền thông hết sức phong phú, bao gồm các lĩnh vực đạo
đức, đời sống; văn học - nghệ thuật, giới thiệu và phát huy các giá trị văn hoá của
các dân tộc trong nước; giới thiệu tinh hoa văn hoá nhân loại,… Nhiều nội dung
thông tin giáo dục từ xa, như truyền bá khoa học công nghệ, giới thiệu kinh nghiệm
sản xuất kinh doanh xoá đói giảm nghèo, vượt khó làm giàu,… đã góp phần to lớn
trong sự nghiệp nâng cao dân trí, đời sống tinh thần của nhân dân. Nội dung thông
tin trên phương tiện TTĐC cũng đã đóng góp tích cực vào quá trình hội nhập, giao
lưu quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới. Đã tổ chức, khơi dậy và
biến nhiều hoạt động xã hội từ thiện thành phong trào của toàn xã hội như: Đền ơn
đáp nghĩa, xoá đói giảm nghèo, ủng hộ đồng bào khắc phục thiên tai, khuyến học,
khuyến tài năng, khuyến thiện,…
Sự đổi mới mạnh mẽ về nội dung thông tin đã tạo lập bầu không khí dân chủ
trong đời sống xã hội, góp phần đấu tranh giữ gìn sự ổn định về chính trị, xã hội,
đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới đất nước làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
2.1.1.2. Loại hình, số lượng tăng, trang thiết bị ngày càng đổi mới
Hệ thống TTĐC cách mạng Việt Nam đã đạt được bước tiến bộ toàn diện về
số lượng và chất lượng. Năm 1989 cả nước có hơn 200 tờ báo và hơn 6.000 người
làm báo chuyên nghiệp, đến năm 1994 cả nước ta có 350 cơ quan báo và tạp chí với
hơn 350 triệu bản in, tiêu thụ hơn 12.000 tấn giấy/năm. Cả nước có 6 tờ báo xuất
bản hàng ngày. Đã bắt đầu có hàng loạt tờ báo ra 3,4 số 1 tuần, số cuối tuần, cuối
tháng. Báo chí Việt Nam đã phát huy được mặt tích cực trong cơ chế thị trường.
Phần nhiều các báo tạp chí đã "chia tay" với cơ chế bao cấp, khắc phục được tính ỷ
lại, đã tự hạch toán, giảm trợ cấp và làm ăn có lãi bằng việc luôn luôn cải tiến nội
dung, hình thức để ngày càng hấp dẫn hơn. Đến nay cả nước có hơn 50 cơ quan báo
chí, trong đó báo in xuất bản hơn 650 ấn phẩm các loại, số lượng phát hành khoảng
hơn 600 triệu bản/năm, bình quân 7,5 bản báo/người/năm. Về phát thanh Đài tiếng
nói Việt Nam (Đài quốc gia) đến nay phát sóng 4 hệ đối nội (VOV I: Hệ thời sự
chính trị tổng hợp - 19 giờ/ngày; VOV II: Hệ văn hoá - xã hội - 19 giờ/ngày; VOV
III: Hệ âm nhạc - tin tức - 24 giờ/24 giờ; VOV IV: Hệ chương trình tiếng dân tộc
thiểu số - 15 giờ/ngày). Phát sóng 2 hệ đối ngoại (VOV V: Chương trình đối ngoại
giành cho người nước ngoài ở Việt Nam 10 giờ/ngày; VOV VI: chương trình đối
ngoại giành cho người nước ngoài và cộng động người Việt ở nước ngoài - 37
giờ/ngày. Chương trình đối ngoại phát 12 thứ tiếng "Anh, Pháp, Nga, Lào, Khơme,
Tây Ba Nha, Quảng Đông, Bắc Kinh, Inđônêxia, Nhật Bản, Thái Lan và tiếng Việt
Nam). Cùng với đài quốc gia, các địa phương còn hình thành các đài phát thanh
truyền hình riêng: Thành phố Hồ Chí Minh có đài phát thanh tiếng nói nhân dân T.P
Hồ Chí Minh; cả nước có 288 đài phát thanh huyện phát sóng FM, các xã đều có đài
truyền thanh. Về truyền hình: Đài truyền hình Việt Nam (đài quốc gia) có 5 hệ
chương trình (VTV1 - chương trình tổng hợp - 18,5 giờ /ngày; VTVT2 - chương
trình Khoa học Giáo dục - 18 giờ/ngày; VTV3 - chương trình Văn hoá, Thể thao,
Thông tin, Giải trí - 18 giờ/ngày; VTV4 - Chương trình đối ngoại - 8 - 16 giờ/ngày;
VTV5 - chương trình tiếng dân tộc thiểu số - 2 - 8 giờ/ngày; ngoài ra còn có kênh
truyền hình cáp 24 giờ/24 giờ và chương trình thử nghiệm trên Internet - ITV). Có 4
đài truyền hình khu vực thuộc Đài truyền hình Việt Nam là Đài truyền hình Huế, Đà
Nẵng, Phú Yên, Cần Thơ và hơn 400 trạm phát lại truyền hình. Các tỉnh thành phố
trực thuộc trung ương đều có Đài phát thanh và truyền hình (T.P Hồ Chí Minh có
đài truyền hình riêng). Ngày nay, công xuất phát sóng, diện phủ sóng, phát thanh và
truyền hình tăng lên đáng kể, phủ sóng rộng khắp không chỉ ở hải đảo, vùng sâu,
vùng xa và vươn xa nhiều nước trên thế giới. Thông qua mạng Internet, báo điện tử
đang ngày càng phát huy tác dụng, đặc biệt là trong công tác thông tin đối ngoại.
Công nghệ làm báo có bước tiến nhanh về nhiều mặt và ngày càng hiện đại.
Đến nay có hơn 50 đơn vị báo điện tử và các nhà cung cấp thông tin, có hơn
2.500 trang Web đang hoạt động trên toàn quốc.
Hiện tất cả các bộ, ngành, tổ chức chính trị xã hội đều có cơ quan báo chí.
Các bộ có nhiều cơ quan báo chí là Bộ Quốc phòng; Bộ Giáo dục - Đào tạo; Bộ
Giao thông vận tải,… (trên 20 cơ quan báo, tạp chí), Bộ Y tế (15 báo, tạp chí), tổ
chức chính trị xã hội có nhiều cơ quan báo chí là Trung ương Đoàn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh (10 cơ quan với trên 20 ấn phẩm). Các tổ chức xã hội, nghề
nghiệp, Liên hiệp các hội KHKT Việt Nam, hội phi chính phủ hầu hết đều đã có
báo, tạp chí - diễn đàn riêng của mình.
Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có ít nhất 2- 3 cơ quan báo chí
gồm báo của Đảng bộ địa phương, đài phát thanh - truyền hình, một tạp chí văn
nghệ. Các địa phương có nhiều cơ quan báo chí nhất là T.P Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Hải Phòng, Đà Nẵng và Đồng Nai.
Công nghệ làm báo có những bước tiến nhanh về nhiều mặt, các phương tiện
kỹ thuật hiện đại được sử dụng cho phép báo chí cập nhật thông tin, nâng cao chất
lượng ấn phẩm báo chí ngày một đẹp hơn, hấp dẫn hơn; đường truyền dẫn hiện đại
cho phép báo cùng một lúc in được ở nhiều nơi, phát hành nhanh hơn. Công suất,
thời lượng phát sóng, lượng phủ sóng phát thanh truyền hình tăng nhanh không chỉ
trong nước mà còn tới nhiều nước trên thế giới với chất lượng cao về âm thanh và
hình ảnh. Với công nghệ thông tin hiện đại cùng một lúc người dân có thể tiếp cận với
những sự kiện quan trọng của thế giới và ngược lại thế giới cũng có thể tiếp cận với những
sự kiện quan trọng của Việt Nam.
2.1.1.3. Thông tin đối ngoại đạt những bước phát triển mới
Thực hiện Chỉ thị 11 - CT/TW, ngày 13/6/1992 của Ban Bí thư TW Đảng
(Khoá VII về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại). Thông báo 188 -
TB/TW ngày 19/12/1998 Bộ Chính trị TW Đảng (khoá VIII) về đổi mới công tác
thông tin đối ngoại, Chỉ thị 20/2000/TTg, ngày 26/4/2000 của Thủ tướng Chính phủ
về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại, trong những năm
qua dưới sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, công tác thông tin
đối ngoại đã có những bước chuyển biến rõ nét về nội dung, tổ chức và cách thức
tiến hành thu được những kết quả tốt, đảm bảo thông tin cho người nước ngoài ở
Việt Nam, cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, cho thế giới, thu hút được
nhiều đối tượng khác nhau với nội dung ngày càng phong phú, hình thức ngày càng
đa dạng và hấp dẫn hơn.
Trong bối cảnh công nghệ thông tin toàn cầu hoá, cuộc đấu tranh trên mặt
trận tư tưởng, thông tin, văn hoá ngày càng phức tạp, quyết liệt và có tầm quan
trọng đặc biệt. Đây là một binh chủng rộng lớn, trong đó TTĐC là một trong các lực
lượng chủ lực. TTĐC Việt Nam phục vụ tốt việc thực hiện đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, Việt Nam
sẵn sàng làm bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì độc lập, hoà bình và phát triển.
Thông tin đại chúng có tiến bộ rõ nét trong công tác tuyên truyền đối ngoại.
Việc tham gia mạng thông tin điện tử toàn cầu (Internet), mở rộng diện phát sóng
truyền hình và phát thanh tới một số khu vực và quốc gia trên thế giới đã phá vỡ thế
bị động, cô lập về thông tin, phục vụ ngày càng tốt hơn việc tuyên truyền đường lối
đối ngoại, chính sách hội nhập kinh tế, tình hình kinh tế - xã hội đất nước và các
hoạt động quốc tế của Đảng, Nhà nước, nhân dân ta. Công tác quản lý, cung cấp
thông tin cho phóng viên, cơ quan báo chí nước ngoài của Bộ ngoại giao có nhiều
tiến bộ, nhất là trong dịp tổ chức các hội nghị quốc tế lớn, các sự kiện chính trị,
ngoại giao quan trọng.
Hoạt động TTĐC đối ngoại đã được tăng cường vệ đội ngũ cán bộ chuyên
môn, cung cấp nhiều trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Các chương trình truyền hình
VTV4 của Đài truyền hình Việt Nam, các chương trình phát thanh bằng tiếng nước
ngoài của Đài Tiếng nói Việt Nam, các báo Vietnam News, Vietnam Courrer của
Thông tấn xã Việt Nam, Sài Gòn giải phóng bằng tiếng Hoa, Vietnam Economic
Times của Hội kinh tế Việt Nam, Saigon Times của Sở Thương mại T.P Hồ Chí
Minh, Vietnam Investiment Review của Bộ Kế hoạch và đầu tư cùng nhiều báo, tạp
chí đối ngoại của các Bộ, ngành khác đã có những cố gắng nâng cao chất lượng, đổi
mới hình thức thông tin, bước đầu đáp ứng được những nhu cầu đa dạng về thông
tin của công chúng.
Việc phát hành mạng lưới báo chí điện tử và trang tin điện tử với gần 50 tờ
báo và hơn 2.500 Website trên mạng Internet đã cung cấp một lượng thông tin to
lớn cho bạn bè quốc tế và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Chương trình
truyền hình asean, việc trao đổi phóng viên với các nước trong khu vực, hệ thống
các cơ quan đại diện của Thông tấn xã Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài
truyền hình Việt Nam, báo Nhân dân ở nước ngoài đã góp phần tích cực trong việc
thực hiện thông tin đối ngoại.
Ngoài thông tin về các vấn đề chính trị, ngoại giao, hầu hết báo chí đối ngoại
đã thông tin kịp thời, đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về
phát triển kinh tế, hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy quan hệ thương mại
và hợp tác đầu tư giữa nước ta với các nước trên thế giới.
2.1.1.4. Đội ngũ nhà báo tăng nhanh về số lượng có bước trưởng thành về
chính trị, tư tưởng và nghiệp vụ
Từ năm 1986, bước vào thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt
đối của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, đội ngũ cán bộ báo chí từ TW đến địa
phương đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Từ hơn 1.000
người được cấp thẻ Nhà báo (năm 1993), đến nay số người được cấp thẻ Nhà báo đã
lên đến 12.410 người, riêng trong năm 2003 đã có 1.328 người được cấp thẻ Nhà
báo.
Đội ngũ những người làm báo nước ta bước vào thời kỳ đổi mới gồm các thế
hệ:
- Thế hệ các nhà báo trưởng thành trong Cách mạng Tháng Tám và trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đến nay đa số nhà báo này đã nghỉ hưu
nhưng nhiều người vẫn là tấm gương sáng cổ vũ các thế hệ nhà báo kế tiếp. Một số
người trong số họ vẫn đang là cộng tác viên đắc lực của nhiều cơ quan báo chí.
- Thế hệ nhà báo trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
đang giữ cương vị chủ chốt ở các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí và các cơ quan
báo chí. Đây là đội ngũ kế thừa truyền thống, đạo đức, kinh nghiệm làm báo của thế
hệ nhà báo trong Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp. Họ
đang là lực lượng nòng cốt đảm bảo cho báo chí cách mạng nước ta phát triển đúng
hướng theo đường lối của Đảng, vững vàng trước thách thức của thời cuộc.
- Thế hệ nhà báo trưởng thành sau ngày đất nước thống nhất có điều kiện
thuận lợi để phấn đấu nhiều mặt. Nhiều người trở thành lãnh đạo chủ chốt ở các cơ
quan báo chí, là những nhà báo có nghiệp vụ giỏi trong đội ngũ báo chí cả nước.
- Thế hệ nhà báo trẻ xuất hiện trong thời kỳ đổi mới được đào tạo hệ thống,
cơ bản, có khả năng nắm bắt nhanh, làm chủ các thiết bị, công nghệ làm báo tiên
tiến, có trình độ ngoại ngữ, tiến bộ nhanh về nghề nghiệp.
Trong đội ngũ nhà báo hiện nay có hơn 53 % là đảng viên, gần 20% là đoàn
viên; Trình độ chính trị: cao cấp hơn 17%; trung cấp hơn 40%; Trình độ văn hoá:
trên đại học hơn 3,5%; đại học báo chí hơn 25 %; đại học khác hơn 60%, chưa tốt
nghiệp đại học hơn 12 %; ngoại ngữ gần 50%.
Điểm nổi bật của đội ngũ những người làm báo nước ta là luôn thể hiện rõ
quan điểm chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và cả
nhân dân. Làm báo trong cơ chế thị trường nhưng quan điểm chính trị, tư duy nghệ
nghiệp không chệch định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa cống hiến có hiệu quả công
cuộc đổi mới đất nước, vừa nỗ lực tự rèn luyện để tự đổi mới đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đội ngũ những người làm báo Việt Nam không ngừng lớn mạnh với sự đóng
góp xứng đáng của Hội nhà báo Việt Nam - tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp
của những người làm báo Việt Nam - Hội đã phối hợp với Ban Tư tưởng Văn hoá
Trung ương, Bộ Văn hoá Thông tin, các cơ quan và tổ chức khác thường xuyên tổ
chức cho học viên học tập, quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, luật pháp của
Nhà nước. Đó chính là cơ sở giúp cho các nhà báo đi sâu tìm hiểu thực tiễn, phản
ánh những vấn đề phong phú, đa dạng của đời sống xã hội trong công cuộc đổi mới.
Hội đã góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà báo, làm tham mưu cho
Đảng, Nhà nước về chủ trương, biện pháp để báo chí và các nhà báo phát huy tài
năng sáng tạo và thế mạnh của mình vì sự đổi mới đất nước.
2.1.1.5. Thích ứng với kinh tế thị trường, từng bước tự chủ về tài chính,
bắt đầu hình thành kinh tế báo chí
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều
cơ quan báo chí đã tích luỹ, từng bước tự chủ nền tài chính, lấy thu bù chi, có cơ
quan báo chí tự hạch toán, tự đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, giảm bớt gánh nặng đầu
tư của cơ quan chủ quản. Đã có một số cơ quan báo chí không chỉ hoàn thành nhiệm
vụ chính trị, mà vừa tăng nguồn thu còn đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước,
giảm chi cho ngân sách. Vấn đề kinh tế báo chí đã bước đầu hình thành trong các cơ
quan báo chí.
Hiện nay báo chí hoạt động theo hai loại cơ chế phổ biến sau:
Một là, cơ quan báo chí hoạt động bằng ngân sách nhà nước, theo cơ chế đơn
vị sự nghiệp có thu, cấp kinh phí hoạt động. Các cơ quan chủ quản cấp kinh phí
hoạt động, bố trí trụ sở, đầu tư trang thiết bị. Do yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính
trị, một số báo, tạp chí phải bán dưới giá thành và được cơ quan chủ quản bù lỗ (số
này phần lớn là các tạp chí nghiên cứu khoa học). Hàng năm báo chí của tỉnh trung
bình được cấp từ 500 - 700 triệu đồng; báo chí của bộ, ngành được cấp từ 700 triệu
đến 1 tỷ đồng; các đài phát thanh truyền hình địa phương được cấp từ 1 - 2 tỷ đồng;
tạp chí khoa học được cấp từ 50 đến 200 triệu đồng.
Hai là, Cơ quan báo chí và đài phát thanh truyền hình tự cân đối thu, chi, tự
hạch toán kinh tế, tự đầu tư trang thiết bị và một số cơ quan báo chí tự mua hoặc
thuê trụ sở làm việc, như một số cơ quan báo Đảng bộ địa phương, báo bộ ngành
(Sài Gòn giải phóng, Hà Nội mới, Hải Phòng, Đầu Tư); một số đài phát thanh,
truyền hình (Đài phát thanh truyền hình Hà Nội; Đài truyền hình T.P Hồ Chí Minh);
Báo chí của tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp (Lao động, Tiền Phong, Thanh
niên, Thời báo kinh tế Việt Nam, Tạp chí xưa và nay; Kinh tế nông thôn, Thế giới
trong ta,…)
Là đơn vị sự nghiệp có thu, nhưng một số cơ quan báo chí đã cân đối thu chi
và có lãi, thậm chí có ấn phẩm báo chí sau khi nộp thuế còn nộp cho cơ quan chủ
quản hàng chục tỷ đồng/năm.
Hàng năm Nhà nước hỗ trợ 4 tỷ đồng cho các cơ quan báo chí có khó khăn.
Từ năm 2002, Chính phủ dành 20 tỷ đồng/năm đặt hàng một số cơ quan báo chí làm
các số chuyên đề để cấp không cho các tỉnh miền núi. Nhà nước cũng đã tạo hành
lang pháp lý để các báo hoạt động kinh doanh, dịch vụ khác hỗ trợ cho hoạt động
báo chí.
Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, của các cơ quan chủ quản, điều kiện
hoạt động của nhiều cơ quan báo chí ngày càng được cải thiện tốt hơn, thiết bị kỹ
thuật hiện đại, thu nhập của người làm báo nhìn chung cao hơn mức thu nhập trung
bình của cán bộ, cơ quan hành chính sự nghiệp. Một số báo trả lương và phụ cấp
cho cán bộ, phóng viên khá cao, không thua kém các doanh nghiệp có thu nhập cao.
Có báo trả lương và các khoản phụ cấp trách nhiệm cho Tổng biên tập, Phó tổng
biên tập từ 20 - 30 triệu đồng/tháng, cá biệt có tổng biên tập hưởng mức lương 50
triệu đồng/tháng.
- Báo Sài Gòn giải phóng là cơ quan báo Đảng bộ địa phương có doanh thu cao
nhất (năm 2002); tổng doanh thu 72.202 triệu đồng, nộp thuế 6.815 triệu đồng.
- Báo Công an T.P Hồ Chí Minh và báo An ninh thế giới là cơ quan báo bộ,
ngành có doanh thu cao nhất (năm 2002): Báo Công an T.P Hồ Chí Minh tổng
doanh thu 69.533 triệu đồng, nộp thuế 11.533 triệu đồng; Báo An ninh thế giới tổng
doanh thu 50.020 triệu đồng, nộp thuế 4.728 triệu đồng.
- Báo Thanh niên là cơ quan báo chí đoàn thể có doanh thu cao nhất (năm 2002).
Tổng doanh thu 181.626 triệu đồng (doanh thu từ báo chí là 62.614 triệu đồng, từ các hoạt
động khác: 55.012 triệu đồng), nộp thuế 6.710 triệu đồng.
Đài Truyền hình T.P Hồ Chí Minh là đài địa phương có doanh thu cao nhất (năm
2002) tổng doanh thu: 338.014 triệu đồng, nộp thuế: 82.842 triệu đồng.
Doanh thu bình quân của các báo Đảng bộ địa phương là 1.000 - 1.500 triệu
đồng. Thấp nhất là 520 triệu đồng. Doanh thu bình quân của các đài phát thanh -
truyền hình là 1.200 - 2.000 triệu đồng.
Chưa cập nhật được thông tin, nhưng một điều chắc chắn rằng, trong hai năm 2004
và 2005 mức thu nhập của các tờ báo trên vẫn không ngừng tăng lên.
Kinh tế báo chí là vấn đề hết sức mới mẻ và phức tạp, Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Luật báo chí đã có những chế tài quan trọng tạo điều kiện cho việc
phát triển kinh tế báo chí. Vấn đề này cần phải được nghiên cứu sâu để có những
chính sách phù hợp và kịp thời.
2.1.1.6. Vai trò của cơ quan chủ quản báo chí được khẳng định
Những thành tựu, tiến bộ và đóng góp của các cơ quan báo chí đều gắn với vai trò
chỉ đạo quản lý trực tiếp của các cơ quan chủ quản. Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ, đối
tượng phục vụ, phạm vi phát hành, phát sóng, nhiều cơ quan chủ quản đã quan tâm quy
hoạch báo chí, xác định tôn chỉ, mục đích cho từng cơ quan thuộc quyền, nhiều cơ quan
chủ quản có sự phân công người phụ trách báo chí như Tổng cục Chính trị (Bộ Quốc
phòng), Tổng cục Xây dựng lực lượng (Bộ Công an), Bộ Giáo dục và Đào tạo; một số
địa phương giao cho Ban Tuyên giáo; Ban Tư tưởng - Văn hoá phụ trách việc chỉ đạo, tổ
chức giao ban báo chí thường xuyên. Các phương thức chỉ đạo, quản lý này đã có vai trò,
tác dụng quan trọng đối với việc định hướng, cung cấp thông tin cho báo chí. Nhờ đó đã
nâng cao được chất lượng nội dung chính trị, tư tưởng, hạn chế được các vi phạm,
khuyết điểm.
Nhiều cơ quan chủ quản đã quan tâm xây dựng bộ máy tổ chức, xác định
biên chế và kế hoạch đào tạo, nâng cao trình độ chính trị, năng lực chuyên môn,
phẩm chất đạo đức của người làm báo.
2.2. Thực trạng việc thực hiện mục tiêu tăng cường quyền lực chính trị
của nhân dân
2.2.1. Phương tiện truyền thông đại chúng với việc góp phần xác lập và
kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin trong đời sống tinh thần xã hội
Nguyên tắc hàng đầu để đảm bảo QLCT của ND là phải xác lập và kiên trì
chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời đấu tranh bác bỏ mọi luận điệu phản tuyên truyền,
xuyên tạc của các thế lực thù địch. Đây không phải là công việc có thể thực hiện
một sớm một chiều, đi tắt, làm lướt, hoặc đốt cháy giai đoạn. Nhận thức một cách
sâu sắc điều đó, ngay từ rất sớm, Trung ương Đảng đã ra nhiều nghị quyết có tính
định hướng, chỉ đạo các phương tiện TTĐC cần chủ động tham gia tích cực vào
cuộc đấu tranh tư tưởng thầm lặng nhưng đầy phức tạp và quyết liệt này. Trong
những năm gần đây, dưới sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Đảng, Nhà nước, các
phương tiện TTĐC đã đóng góp một phần quan trọng trong cuộc đấu tranh trên mặt
trận lý luận và trở thành diễn đàn phản ánh thường xuyên thực tiễn xây dựng Đảng,
Nhà nước. Các phương tiện TTĐC đã thực hiện tốt chức năng tư tưởng, giáo dục định
hướng với việc thường xuyên đưa các tin, bài viết chỉ đạo và có tính chất tổng kết kinh
nghiệm và lý luận sâu sắc của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước kết hợp với
việc mở các chuyên mục cùng trao đổi và phát động sâu rộng trong quần chúng các
phong trào thi đua tìm hiểu và viết về Đảng, Bác Hồ, Cách mạng,...
Không chỉ báo nhân dân mà nhiều báo, đài khác cũng bắt đầu xây dựng
nhiều chuyên mục tương tự, trong đó phải kể đến một phương tiện TTĐC lớn và có
uy tín là Đài phát thanh. Chuyên mục quen thuộc nhất của thính giả trong các
chương trình phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam là chương trình “Đi tìm đồng
đội”. Nội dung chủ yếu của chuyên mục này là tìm những người đã hi sinh trong
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chương trình đền ơn đáp nghĩa và các chuyên mục giới
thiệu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phổ biến các chủ
trương chính sách của Đảng. Đối với báo hình, Đài truyền hình quốc gia đã bước
đầu xây dựng các chương trình “Diễn đàn doanh nghiệp trẻ”, đây là diễn đàn mở
với sự tham gia của nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, giảng viên ở các
trường Đại học, Học viện Chính trị quốc gia cùng thảo luận, giải đáp những quan
tâm, thắc mắc của các khán thính giả về cả lý luận và những vấn đề thực tiễn của
đất nước. Mặc dù mới ra đời song chuyên mục “từ Nghị quyết đến cuộc sống” của
Đài truyền hình Trung ương được đánh giá là một trong những chương trình thành
công và thu hút được đông đảo nhất sự quan tâm theo dõi của khán giả xem truyền
hình.
Bằng việc thực hiện tốt chức năng tư tưởng, giáo dục định hướng với nhiều
hoạt động cụ thể, có ý nghĩa, các phương tiện TTĐC đã bước đầu khơi dậy sự quan
tâm của công chúng đối với các hoạt động và công tác sinh hoạt lý luận của Đảng.
Quan trọng hơn là các phương tiện TTĐC đã tạo ra một động lực thúc đẩy ĐNCB
đảng viên tự giác nghiên cứu học tập để nâng cao nhận thức về các vấn đề lý luận,
bồi dưỡng phẩm chất đạo đức. Theo các báo cáo về công tác tư tưởng, các phương
tiện TTĐC đã bước đầu xác lập được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của mình
trong việc cuốn hút, động viên đông đảo các tầng lớp, bộ phận xã hội tham gia vào
các hoạt động, các phong trào do Đảng phát động tìm hiểu và viết về lịch sử đấu
tranh cách mạng, về quá trình đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhìn chung trên góc độ định hướng, các
phương tiện TTĐC đã góp phần quan trọng vào việc xã hội hoá tri thức, kể cả các
vấn đề trước kia chỉ thường giới hạn trong không gian của các cuộc hội thảo, các
học viên, các đề tài nghiên cứu, báo cáo khoa học.
Đấu tranh chống các luận điệu phản tuyên truyền, xuyên tạc và đầu độc tư
tưởng của các thế lực thù địch là một lĩnh vực cực kỳ khó khăn, phức tạp và quyết
liệt trên mặt trận tư tưởng. Trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng này, phát
huy truyền thống tiến công của báo chí cách mạng, trong giai đoạn hiện nay các
phương tiện thông tin đại chúng không ngừng rèn luyện, nâng cao sức chiến đấu tập
trung mũi nhọn đấu tranh kiên quyết bác bỏ, bóc trần những âm mưu, những luận
điệu xuyên tạc của các thế lực phản động. Đồng thời, luôn nêu cao truyền thống
cách mạng, khẳng định những thành quả to lớn đạt được trong công cuộc đổi mới
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Với bề dày lịch sử ra đời và trưởng thành cùng với quá trình đấu tranh cách
mạng, các báo chí, phương tiện TTĐC khẳng định được uy tín chính trị, sức chiến
đấu bền bỉ, là chiếc cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân. Phương tiện TTĐC
trở thành người truyền tải những tư tưởng, lý luận cách mạng, đường lối chính sách
của Đảng tới nhân dân.
Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi sướng và lãnh đạo trong giai đoạn
hiện nay, phát huy sức mạnh của hệ thống phương tiện TTĐC với tư cách là một vũ
khí lợi hại trên mặt trận tư tưởng, trong việc thực hiện chức năng tư tưởng, giáo dục
định hướng, các phương tiện TTĐC không dừng lại ở việc tuyên truyền giáo dục lý
luận thuần tuý. Gắn liền với công tác tư tưởng, với việc vận hành một diễn đàn văn
nghệ quần chúng thấm đậm các giá trị văn hoá dân tộc, giá trị nhân đạo cách mạng,
các chuyên mục giáo dục định hướng, đề cao những giá trị nhân đạo, cách mạng của
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Qua đó các phương tiện TTĐC
đã góp phần tích cực vào việc hình thành và xây dựng một nền văn hoá đậm đà bản
sắc dân tộc, đồng thời thấm đậm những giá trị nhân đạo cách mạng, đưa những giá
trị của hệ tư tưởng mácxít trở thành hạt nhân tư tưởng trong đời sống văn nghệ.
Nhìn lại những thành quả bước đầu đạt được trong những năm đổi mới gần
đây trên lĩnh vực tư tưởng có thể thấy rằng, trong quá trình hoạt động, các phương
tiện TTĐC đã góp phần quan trọng trong việc truyền bá rộng rãi những giá trị khoa
học, cách mạng và nhân đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin - Tư tưởng Hồ Chí Minh và
chủ trương đường lối của Đảng đến mọi tầng lớp, mọi bộ phận khác nhau trong xã
hội, góp phần quyết định vào việc đánh bại mọi luận điệu xuyên tạc, phản tuyên
truyền của các lực lượng phản động trong và ngoài nước. Hiện nay, để góp phần
củng cố và tăng cường QLCT của ND, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đặt ra đối với
nước ta là phải giữ vững mặt trận tư tưởng. Điều đó đòi hỏi các phương tiện TTĐC
phải phát huy bản lĩnh chính trị, trở thành lực lượng tiên phong, xung kích trên mặt
trận tư tưởng.
2.2.2. Phương tiện thông tin đại chúng với việc góp phần xây dựng tư
cách chủ thể kinh tế của nhân dân
Trong những năm vừa qua, trong bối cảnh đổi mới toàn diện nổi bật nhất là
đổi mới kinh tế, các phương tiện TTĐC đã tích cực chủ động tham gia vào đời sống
kinh tế, kịp thời động viên khuyến khích và phổ biến những mô hình phát triển kinh
tế trang trại hay việc quản lý kinh tế có hiệu quả, cũng như phổ cập rộng rãi các
thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ ứng dụng cho các khu vực kinh tế. Đã
đăng tải nhiều bài viết giới thiệu những kinh nghiệm, những bài học thành công của
các nước trong khu vực.
Góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng tư cách chủ thể kinh tế của ND, các
phương tiện TTĐC đã bước đầu tạo ra được một kênh giao tiếp, một cầu nối giữa
Nhà nước với các chủ thể kinh tế. Nhìn chung, trên lĩnh vực kinh tế, các phương
tiện TTĐC có uy tín đều mở nhiều chuyên mục, chương trình ghi nhận những ý
kiến, phản ánh của quần chúng đến các cơ quan chức năng, trong đó đáng chú ý là
“Diễn đàn doanh nghiệp trẻ” của Đài Truyền hình Việt Nam. Chuyên mục đã nêu
lên những suy nghĩ của tác giả và cũng là sự quan tâm chung của xã hội đối với
những ưu điểm và tồn tại của việc thay đổi cơ chế quản lý kinh tế. Đây là một vấn
đề được đông đảo mọi giới xã hội quan tâm như lĩnh vực “đảng viên có được làm
kinh tế tư nhân hay không?” đây là sự phản ánh đến với những người làm công tác
quản lý. Có thể thấy các phương tiện TTĐC đã bước đầu phát huy có hiệu quả chức
năng cầu nối giúp ghi nhận, phản ánh những nguyện vọng, kiến nghị, dư luận chung
của xã hội, của các doanh nghiệp cũng như các hộ kinh tế gia đình về những vấn đề
bức xúc, những bất cập trong các chủ trương, chính sách của Nhà nước đến các cơ
quan có chức năng. Những hoạt động cụ thể này đã giúp các cơ quan chức năng có
được thông tin sát với thực tiễn để có thể cùng với các doanh nghiệp, các chủ thể
hoạt động kinh tế cùng nhau trao đổi, tháo gỡ những vướng mắc cản trở, tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho các thành viên tham gia hoạt động kinh tế trong xã hội có
thể làm chủ đời sống kinh tế của họ và thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Trong những năm gần đây, thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý, điều tiết của Nhà
nước, quá trình này không tránh khỏi những khuyết tật của nền kinh tế thị trường đó
là sự phân hoá giầu nghèo, bất công xã hội có chiều hướng gia tăng. Trước thực
trạng đó, Đảng trực tiếp chỉ đạo hệ thống phương tiện TTĐC phải tăng cường chức
năng quản lý thực hiện thông tin nhiều chiều, phát huy vai trò của mình trên mặt
trận kinh tế xã hội để kịp thời ghi nhận, phản ánh đưa ra công luận những sự bất
công, vô lý tồn tại hoặc đang xuất hiện, đặt những tồn tại đó vào chương trình nghị
sự chung của xã hội, thành vấn đề mà Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần chúng
nói chung và cả xã hội phải cùng nhau giải quyết. Những thắc mắc, băn khuăn của
đông đảo dư luận xã hội xung quanh vấn đề này đã được các cơ quan có chức năng
thông qua phương tiện TTĐC kịp thời giải thích, làm sáng tỏ và nhanh chóng trở thành
một kênh đối thoại giữa các cơ quan chức năng và quần chúng cùng nhau giải quyết
những vướng mắc, tồn tại nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và kích thích sự phát triển
kinh tế song vẫn đảm bảo những quyền lợi chính đáng của người lao động.
Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng nhìn một cách thực chất và toàn diện, các
phương tiện TTĐC còn chưa thực sự ngang tầm với đòi hỏi của thực tế, mới chỉ
dừng lại chủ yếu ở những thông tin có tính thời sự. Những thông tin này đã phản
ánh một cách khá đa dạng những mặt khác nhau của thực tiễn hoạt động kinh tế,
như khả năng dự báo, nhất là dự báo có tính chiến lược hoặc cụ thể hoá còn chưa
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Thêm vào đó còn tồn tại một bộ phận không
nhỏ những người làm công tác thông tin đại chúng còn hạn chế về trình độ nhận
thức, thiếu những bài viết có tính phê bình, tính chiến đấu cao. Vấn đề đặt ra là làm
sao trong tương lai các phương tiện TTĐC của chúng ta có thể góp phần chủ động
hơn vào việc định hướng, dự báo tổng kết thực tiễn để xuất hiện những quá trình
hoạch định chính sách với tư cách một người tham dự thực sự.
2.2.3. Phương tiện thông tin đại chúng với việc góp phần hoàn thiện thể
chế chính trị đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân
Việc hoàn thiện thể chế chính trị đảm bảo QLCT của ND ở nước ta thực chất
là việc từng bước củng cố HTCT hiện nay, nhằm tạo ra sự cân bằng, ổn định và
phối hợp nhịp nhàng giữa Đảng - Nhà nước - Nhân dân theo nguyên tắc: “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”.
Trong những mục tiêu đó, nhiệm vụ cụ thể để hoàn thiện thể chế chính trị
đảm bảo QLCT của ND, việc khẳng định về cả lý luận và thực tiễn sự lãnh đạo duy
nhất và tuyệt đối của Đảng Cộng sản đối với toàn bộ HTCT là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu. Nhận thức đựơc tầm quan trọng đó, trong mọi hoạt động của
mình, các phương tiện TTĐC ở nước ta luôn nêu cao, khẳng định tính tất yếu về vai
trò lãnh đạo của Đảng với ý nghĩa như điều kiện then chốt, hạt nhân của một thể chế
chính trị đảm bảo QLCT thuộc về ND.
Trong những hoạt động cụ thể nhằm thực hiện sứ mạng đó, một mặt các
phương tiện TTĐC chủ động, tích cực phát huy thế mạnh, vai trò của mình trong
cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin - Tư tưởng Hồ Chí Minh. Không
ngừng nêu cao, khẳng định những thành quả đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo
của Đảng, thường xuyên ôn lại những thắng lợi vĩ đại và truyền thống đấu tranh bất
khuất của nhân dân các dân tộc trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
Song song với việc khẳng định bề dày lịch sử đấu tranh cách mạng và những
cơ sở lý luận về vai trò lãnh đạo duy nhất và tuyệt đối của Đảng đối với HTCT, để
góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới, các phương tiện
TTĐC cũng là lực lượng đi đầu trong cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng,
phát động các phong trào thi đua trong toàn Đảng, đấu tranh phê bình và tự phê
bình, thực hiện nghiêm túc, triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm tạo ra một
chất lượng mới trong sinh hoạt và tổ chức của Đảng, trước hết là việc sưu tầm chọn
đăng nhiều tin bài có chất lượng cao, giá trị lớn về cả lý luận và thực tiễn.
Về cuộc đấu tranh phê bình và tự phê bình trong Đảng của các đồng chí lãnh
đạo Đảng, Nhà nước và một số bài phân tích các bài học kinh nghiệm trong xây
dựng chỉnh đốn Đảng ở các nước XHCN anh em khác của các nhà nghiên cứu lý
luận. Những bài viết này đều có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn cũng như đúc kết
nhiều bài học kinh nghiệm quý báu đối với công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Những nỗ lực của các phương tiện TTĐC trong
thời gian gần đây đã đáp ứng một cách có hiệu quả nhu cầu học tập, nghiên cứu lý
luận và đấu tranh tự phê bình của đông đảo cán bộ đảng viên, qua đó bước đầu tạo
ra một sức sống mới trong toàn Đảng, từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng đối với xã hội.
Góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước, các
phương tiện TTĐC đang tích cực góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chính trị cấp
bách hiện nay: Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách thủ tục hành chính. Trong
chương trình hành động chung, các phương tiện TTĐC với khả năng tổ chức diễn
đàn, xác lập các chương trình nghị sự xã hội đặc trưng của mình, đã thường xuyên
đưa nhiều tin bàn phản ánh hoạt động của các cơ quan xây dựng pháp luật cũng như
thực tế thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nước. Đồng thời, bản thân các
phương tiện TTĐC tự mình trở thành cầu nối truyền tải những quan điểm, thái độ
của quần chúng đến các cơ quan chức năng. Vấn đề này các báo đài đã xây dựng
được các chuyên mục: “Phổ biến kiến thức pháp luật”,….
Bên cạnh những đóng góp tích cực trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, các phương tiện TTĐC còn có những đóng góp không nhỏ trong
việc phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhà nước thúc đẩy quá trình đổi mới
cải cách hành chính. Quá trình này đang được các phương tiện TTĐC từng bước
đẩy mạnh thông qua việc đa dạng hoá nội dung và hình thức thông tin, chủ động
đưa các tin bài được ghi nhận và phản ánh từ nhiều nguồn, nhiều chiều một cách
thường xuyên hơn nhằm tạo ra một cơ chế quản lý, giám sát bằng thông tin đối với
việc thực thi các mệnh lệnh của các cơ quan nhà nước, góp phần tạo ra một môi
trường có các thủ tục hành chính ngày càng thông thoáng.
Việc hoàn thiện thể chế chính trị ở nước ta phải gắn liền với chủ thể của
quyền lực đó là ND. Góp phần nâng cao vai trò làm chủ của nhân dân, mở ra trong
họ sự nhận thức về vai trò chính trị - xã hội và tư cách chủ thể trong tiến trình phát
triển của lịch sử, các phương tiện TTĐC một mặt thường xuyên đẩy mạnh công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, đồng thời thông qua nhiều hoạt động cụ thể, đa dạng, tích
cực xây dựng trong quần chúng sự nhận thức đúng đắn và toàn diện về những giá trị
lịch sử và văn hoá của truyền thống dân tộc đang khơi dậy tình cảm và lòng tự hào
truyền thống văn hoá và bản sắc lâu đời của đất nước và dân tộc với truyền thống hào
hùng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Như thế, việc khẳng định vài trò
và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và NDLĐ đã giúp cho quần chúng nói
chung ngày càng nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của họ đối với sự nghiệp cách
mạng và do đó ngày càng chủ động, tự giác tham gia vào các công việc quản lý và điều
hành xã hội.
Bên cạnh đó, một nội dung quan trọng trong những việc phải làm để nâng
cao quyền làm chủ của ND là tạo điều kiện, cơ hội cho người dân được làm chủ
thông tin được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin và hơn thế nữa được tự do trao
đổi thông tin. ý thức được tầm quan trọng của vấn đề đó, trong những năm qua các
phương tiện TTĐC đã tiến hành nhiều chương trình, nhiều biện pháp nhằm từng
bước xã hội hóa thông tin giúp tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất để nhân dân có
thể tiếp cận với các phương tiện TTĐC, qua đó có thể phát biểu mọi nguyện vọng, ý
kiến thắc mắc và kiến nghị của mình đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước
hay đối với một vấn đề, một nhóm vấn đề xã hội. Theo số liệu thu được, mỗi năm
chương trình “Nhà nước - Pháp luật” của Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền
hình Việt Nam phối hợp với các cơ quan chức năng cũng như những cá nhân có
thẩm quyền đã nhận và trả lời qua các chương trình phát sóng và qua điện thoại
hàng ngàn đơn thư kiến nghị của bạn đọc khắp mọi nơi gửi tới. Điều đó cho thấy
rằng, chủ trương xã hội hoá thông tin ở nước ta đang ngày càng nhận được sự quan
tâm ủng hộ của đông đảo quần chúng.
Những đóng góp và thành quả mà phương tiện TTĐC đạt đựơc trong việc
góp phần thực hiện mục tiêu hoàn thiện thể chế chính trị đảm bảo QLCT của ND là
không nhỏ. Song, trong điều kiện thực tế hiện nay do những điều kiện khách quan
và chủ quan các phương tiện TTĐC chưa thực sự đạt tới trình độ xã hội hoá thông
tin mà thực tiễn đòi hỏi, một trong những lý do căn bản là do trình độ cả lý luận và
kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ nhân viên, biên tập viên chưa thực sự ngang tầm
với nhiệm vụ trong khi đó lại làm việc trong một môi trường pháp luật thiếu đồng
bộ. Hiện nay ở nước ta sự thiếu vắng một hành lang pháp lý chặt chẽ đã gây trở ngại
không nhỏ đối với đội ngũ những người làm công tác báo chí, truyền thông, hạn chế
họ phát huy khả năng và nâng cao trách nhiệm trong công tác. Mặt khác, do trình độ
dân chí còn chưa cao, người dân chưa ý thức một cách đầy đủ về những quyền lợi
chính đáng của mình, trong đó quyền sử dụng phương tiện thông tin đại chúng như
một công cụ thể hiện QLCT, chưa thực sự tạo ra một sức ép đối với hoạt động
thông tin đại chúng do đó nhiều nơi, phương tiện thông tin đại chúng có phần lơ là,
mới chỉ dừng lại ở mức như một công cụ truyền tải những chỉ thị, đường lối của
Đảng và Nhà nước chứ chưa trú trọng tới việc truyền tải thông tin phản hồi từ phía
nhân dân. Đây là một trong những cản trở đối với quá trình quản lý và ra chính sách
vì các cơ quan chức năng thiếu thông tin sát thực, phản ánh đúng tình hình đời sống
kinh tế xã hội thực tế hiện nay. Do đó, để góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả
quản lý của Nhà nước, các phương tiện thông tin đại chúng cần phải phát triển theo
hướng chuyển phát thông tin nhiều chiều, nhằm tạo ra một cơ chế: “Giám sát và cân
bằng” giữa những mệnh lệnh của nhà nước và thông tin của xã hội để cùng các cơ
quan nhà nước thực hiện tốt công tác quản lý xã hội.
2.2.4. Phương tiện thông tin đại chúng với việc góp phần xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị
Thực tiễn hoạt động chính trị cho thấy, để có một ĐNCB trong sạch, kiên
tâm và có năng lực thì bên cạnh việc bồi dưỡng đào tạo thường xuyên về lý tưởng,
trình độ, kỹ năng chính trị cho họ, luôn buộc phải có một cơ chế kiểm tra, giám sát
chính những con người ấy trong quá trình họ thực thi quyền lực được giao. Trong
cơ chế kiểm tra, giám sát đó, các phương tiện TTĐC đóng vai trò cực kỳ quan
trọng.
Trong lĩnh vực này, hoạt động của các phương tiện TTĐC trước hết là việc
thường xuyên đưa các tin, bài, phóng sự phản ánh việc thực thi chấp hành các nghị
quyết, đuờng lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, của các cơ quan
Trung ương và địa phương mà trực tiếp là các cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng như
con người hoạt động trong những đơn vị đó. Bằng cách thường xuyên đưa tin, phản
ánh hoạt động và những vấn đề đang tồn tại của các đơn vị, địa phương,… các
phương tiện TTĐC đã bước đầu tạo ra một cơ chế kiểm tra giám sát tích cực,
thường xuyên đối với các cơ quan nhà nước và những cá nhân hoạt động trong đó.
Cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên này đã tạo một sức ép nhất định đối với
ĐNCB làm công tác lãnh đạo, quản lý cũng như những nhân viên dưới quyền họ, từ
đó góp phần đảm bảo rằng đa số các chủ trương, đường lối của Đảng đều được triệt
để thực hiện và có sự thống nhất xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương.
Hiện nay, các phương tiện TTĐC là một trong những vũ khí quan trọng
trong cuộc đấu tranh chống hiện tượng tham nhũng và suy thoái đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong bộ máy đảng và cơ quan nhà
nước.
Trước thực trạng tham nhũng đang trở thành hiện tượng bức xúc, trầm trọng
hiện nay, Trung ương Đảng và Chính phủ đã ra một số Nghị quyết, chỉ thị chống
tham nhũng và trực tiếp chỉ đạo các phương tiện TTĐC tập trung mọi sức mạnh vào
cuộc chiến đấu phức tạp này. Bản thân các phương tiện TTĐC với khả năng vận
hành diễn đàn công luận rộng lớn của mình đã thể hiện được thế mạnh tuyệt đối
trong việc nêu vấn đề, lôi ra ánh sáng dư luận những hiện tượng tiêu cực, tham
nhũng cũng như sự suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận các cán bộ, đảng
viên chức quyền, để các cơ quan hữu quan phải tỏ thái độ, phải ra tay xử lý và lên
tiếng trả lời công luận. Những nỗ lực không mệt mỏi của các phương tiện TTĐC
trong đấu tranh chống tham nhũng và đấu tranh ngăn chặn mọi hành vi ức hiếp,
chèn ép quần chúng đã thu được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, các báo cáo
điều tra cho thấy tham nhũng và các hiện tượng quan liêu đã có chiều hướng giảm
bớt.
Không chỉ là cơ chế kiểm tra giám sát đối với việc thực thi chính sách và
chống tham nhũng, phương tiện TTĐC đồng thời còn là diễn đàn để cho các cán bộ
lãnh đạo gặp gỡ tiếp xúc với quần chúng nhân dân, bày tỏ sự cảm thông, sự quan
tâm và tình cảm của mình đến với quần chúng, cũng như bày tỏ sự quyết tâm, lời
hứa của họ trước xã hội. Bằng cách thường xuyên đưa những tin bài, phóng sự về
hoạt động gặp gỡ giữa các cán bộ làm công tác lãnh đạo, quản lý và quần chúng,
các phương tiện TTĐC đã gián tiếp tạo ra cơ chế giám sát mà những hoạt động và
những con người được đưa tin dù muốn hay không cũng phải có thái độ trách
nhiệm, không chỉ trước cấp trên, với tổ chức mà quan trọng hơn với chính danh dự,
với lời hứa của họ trước dân chúng. Gần đây, các báo, đài đều thường xuyên đưa
tin, bài nói về các chuyến đi thực tế của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước
đến với nhân dân các địa phương. Các chuyến đi thực tế đến với nhân dân các địa
phương thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với đời sống của
nhân dân đã kịp thời được các phương tiện TTĐC chuyển tới mọi miền của Tổ
quốc, từ đó đã tạo ra sự động viên, khuyến khích nhân dân vượt qua những khó
khăn, trở ngại trong cuộc sống để xây dựng cuộc sống mới và đất nước ngày
càng tươi đẹp.
Góp phần xây dựng một ĐNCB có phẩm chất đạo đức và năng lực, các
phương tiện TTĐC còn là một cầu nối quan trọng trong việc giới thiệu thường
xuyên những gương người tốt, việc tốt, những cá nhân xuất sắc có nhiều thành tích
trong công tác, có phẩm chất và đạo đức cách mạng xứng đáng được biểu dương
khen ngợi. Thông qua các phương tiện TTĐC, những con người có nhiều cống hiến
trong những công việc thầm lặng hàng ngày của họ đã kịp thời được dư luận biết
đến và có thể sẽ được quần chúng tin tưởng lựa chọn để bầu vào những cương vị
lãnh đạo phụ trách công việc chung của xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong lĩnh vực này các
phương tiện TTĐC còn có những hạn chế nhất định trong đó nổi bật là báo, đài
chưa đưa tin, phản ánh một cách thường xuyên và toàn diện mọi cơ quan, ban ngành
từ Trung ương đến các địa phương. Các hoạt động của phương tiện TTĐC mặc dù
có nhiều cố gắng song không phải lúc nào cũng dám kiên quyết đấu tranh đối với
những hiện tượng tiêu cực. Đây là vấn đề đòi hỏi người làm công tác TTĐC cần
dũng cảm và kiên quyết hơn trong thời gian tới để các phương tiện TTĐC của
chúng ta thực sự trở thành một công cụ góp phần đắc lực vào việc nâng cao năng
lực và hoàn thiện ĐNCB làm công tác quản lý và lãnh đạo chính trị.
2.2.5. Phương tiện thông tin đại chúng với việc nâng cao văn hoá chính
trị và trình độ dân trí
Khẳng định và làm sáng tỏ những chân giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin
không chỉ giúp củng cố và nâng cao địa vị của hệ giá trị mácxít trong đời sống tinh
thần xã hội, mà bản thân điều đó chính là một phương pháp khoa học và vũ khí sắc
bén nhất để chống lại mọi sự xuyên tạc, bài bác của các thế lực phản động. Các
phương tiện TTĐC luôn thể hiện vai trò của lực lượng xung kích tiên phong, là vũ
khí sắc bén của Đảng và Nhà nước trong cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, góp
phần bóc trần, đập tan mọi âm mưu phản tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù
địch trong và ngoài nước. Những hoạt động, thành tựu của TTĐC trong việc khẳng
định những giá trị cách mạng, khoa học và nhân đạo của hệ giá trị mácxít được trình
bày trong những phần nội dung phần trên của luận văn.
Việc nâng cao văn hoá chính trị đồng thời phải gắn với quá trình xây dựng và
hoàn thiện thể chế, xây dựng hệ thống các thiết chế thực thi quyền lực theo hướng dân
chủ hoá, nâng cao trình độ, nghệ thuật lãnh đạo chính trị của cả HTCT. Trong lĩnh vực
này, các phương tiện TTĐC bước đầu đã có những đóng góp tích cực trong các lĩnh
vực lập pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền, thúc đẩy quá trình dân chủ hoá việc ra
các quyết định chính trị, hoàn thiện các thể chế bầu cử và ứng cử, cải cách thủ tục hành
chính, chống quan liêu, cửa quyền,...
Song song với những hoạt động trên, để góp phần nâng cao năng lực và hiệu
quả lãnh đạo chính trị, các phương tiện TTĐC với những chức năng riêng có và thế
mạnh của mình đang không ngừng mở rộng nội dung thông tin phản ánh nhiều lĩnh
vực hoạt động nhằm mục tiêu xã hội hoá mạnh mẽ các quá trình chính trị. Biểu hiện
cụ thể của xu hướng này như đưa tin, phát sóng truyền hình trực tiếp hoạt động của
các kỳ họp Quốc hội, các cuộc họp tổng kết công tác của Chính phủ, các cuộc gặp
gỡ tiếp xúc, trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội với cử tri, đưa tin, bài, phóng sự
tường thuật, phản ánh kịp thời sự chỉ đạo trực tiếp của các cơ quan hữu quan đối với
những vấn đề mà dư luận xã hội quan tâm. Như thế, bằng cách tạo ra một môi
trường mà ở đó chính trị, hoạt động chính trị được xã hội hoá rộng rãi, có sự quan
sát và tham dự của đông đảo quần chúng, các phương tiện TTĐC đã góp phần xây
dựng một cơ chế giám sát, một áp lực buộc những người được giao trách nhiệm
lãnh đạo, quản lý xã hội phải thường xuyên tự điều chỉnh bản thân họ, phải gần gũi
quần chúng, không dễ lạm quyền, không thể cẩu thả và phải thường xuyên nghiêm
khắc với bản thân họ, để từ đó giữ và nâng cao uy tín của họ trước quần chúng, cho
tương xứng với cương vị mà họ được giao phó.
Mặt khác, hiệu quả của việc nâng cao văn hoá chính trị có quan hệ tương hỗ
trực tiếp với nâng cao trình độ dân trí. Nhận thức được điều đó, Đảng, Nhà nước đã
có những sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời nhằm tạo điều kiện cho hoạt động TTĐC
góp phần tích cực vào sứ mạng nâng cao trình độ dân trí, trong đó trước hết là việc
tập trung xây dựng niềm tin, sự thuyết phục chính trị thông qua việc phổ biến những
tri thức khoa học tự nhiên và khoa học xã hội có tính nền tảng, định hướng giá trị
cho quần chúng. Trong những hoạt động cụ thể, các phương tiện TTĐC hiện nay
đều có các chuyên mục dưới các hình thức “Phổ biến kiến thức”, “Tìm hiểu pháp
luật”, “Khoa học và Giáo dục”, “Dạy tiếng nước ngoài”, “Giáo dục chính trị”,… với
những nội dung thông tin và hình thức chuyển tải đa dạng, phong phú và ngày càng
thu hút đông đảo mọi tầng lớp khán, thính giả quan tâm theo dõi. Như thế, thông
qua các chức năng tư tưởng và chức năng văn hoá - dân trí của mình, các phương
tiện TTĐC đã thường xuyên tuyên truyền giáo dục, giải thích, thuyết phục để quần
chúng dần đi đến sự nhận thức tự giác về vai trò và địa vị lịch sử của họ trong sự
nghiệp cách mạng. Nhờ các hoạt động thông tin tích cực, thường xuyên với quy mô
sâu rộng, các phương tiện TTĐC đã tạo ra một sức sống mới trong đời sống chính
trị với sự tham gia ngày càng tự giác của quần chúng vào các quá trình chính trị.
Trong các hoạt động cụ thể, nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin và nâng cao
trình độ nhận thức của quần chúng đối với các vấn đề chính trị - xã hội khác, các
phương tiện TTĐC đã mở nhiều chương trình, chuyên mục thường xuyên đưa tin
phản ánh về tình hình chính trị và hoạt động chính trị - xã hội trong nước cũng như
của các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Những nội dung thông tin này ít
nhiều đã có những tác động tích cực và có hiệu quả đến sự nhận thức của quần
chúng và cả những người làm công tác quản lý và lãnh đạo chính trị, giúp họ mở
rộng tầm nhìn, từ đó có thể tự điều chỉnh quan điểm, thái độ của mình đối với thế
giới xung quanh.
Tuy nhiên, nhìn lại hoạt động của các phương tiện TTĐC trong các lĩnh vực
nâng cao văn hoá chính trị và dân trí, bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được,
những tồn tại, yếu kém trong lĩnh vực này cũng không thể coi nhẹ. Trong đó phải kể
đến một bộ phận không nhỏ những người làm công tác TTĐC còn yếu về lý luận và
kinh nghiệm, do đó thường nặng về hô hào, đưa tin, bài tràn lan thiếu chọn lọc, những
phân tích và bình luận chưa thực sự sâu sắc. những yếu kém đó dẫn đến thực trạng đôi
lúc phủ định sạch trơn hay sa vào sự hời hợt, thiếu sâu sắc, làm cho thông tin thiếu sức
thuyết phục đối với công chúng.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến nhược điểm, thiếu sót và những vấn đề đặt ra
từ thực trạng trên
2.3.1. Nguyên nhân dẫn đến nhược điểm và thiếu sót
2.3.1.1. Về khách quan
Phương tiện TTĐC ở nước ta hoạt động trong một môi trường có những khó
khăn đặc thù. Trong đó nổi bật là:
Thứ nhất, đó là môi trường thông tin hết sức phức tạp với sự hiện diện
thường xuyên của các phương tiện TTĐC nước ngoài,… đồng thời việc sử dụng
chảo thu phát vệ tinh một cách tự do của một bộ phận quần chúng nhân dân, cùng
với đó là các ấn phẩm báo chí bằng tiếng Việt, tiếng Anh được đưa bằng nhiều
nguồn khác nhau vào trong nước. Trong những thông tin được phát đi từ những
nguồn này, có nhiều thông tin hoàn toàn đi ngược lại những chủ trương và đường
lối chính trị của Đảng, của Nhà nước ta, gây nên những tác động tiêu cực và làm sai
lạc sự định hướng phát triển đúng đắn của xã hội. Trong điều kiện nước ta còn gặp
nhiều khó khăn về kinh tế, đội ngũ những người làm báo chí, truyền thông còn
mỏng và yếu cộng thêm trình độ khoa học còn hạn chế như hiện nay, sự hiện diện
thường xuyên của các phương tiện TTĐC của nước ngoài, của các nguồn thông tin
trái với chủ trương của Đảng và Nhà nước đã và chắc chắn sẽ còn tiếp tục gây ra
những trở ngại rất lớn đối với sự phát triển của các TTĐC ở nước ta.
Thứ hai, sự phân bổ dân cư không đồng đều là nguyên nhân dẫn tới những
khó khăn rất lớn trong việc vận hành một mạng lưới hệ thống các phương tiện
TTĐC. Sự phân tán dân cư dẫn tới thực tế là muốn hoạt động TTĐC có hiệu quả thì
không thể không xây dựng và phát triển một hệ thống các phương tiện TTĐC trên
cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng những đặc thù khác nhau của từng vùng, từ đó có sự quy
hoạch riêng cho từng khu vực khác nhau, cụ thể là phù hợp với mức độ tập trung
dân cư, với tập quán và trình độ dân trí ở đó. Điều đó đòi hỏi trình độ của hoạt động
TTĐC không chỉ phát triển theo bề rộng và mang tính phổ thông mà phải đi vào
chiều sâu và có tính chuyên môn cao, và điều này tất yếu đòi hỏi chi phí về đầu tư
kỹ thuật và con người tốn kém hơn nhiều lần. Với điều kiện kinh tế và trình độ khoa
học kỹ thuật ở nước ta hiện nay rõ ràng chưa thể lập tức đáp ứng được. Do đó
nguyên nhân này đã hạn chế rất lớn ảnh hưởng và quy mô tác động của phương tiện
TTĐC đối với đời sống xã hội nói chung ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, đặc điểm địa lý đa dạng với núi non hiểm trở, điều kiện giao thông
đi lại khó khăn đã hạn chế rõ rệt sự chuyển tải của các phương tiện truyền thông, ấn
phẩm. Các trạm phát sóng hình và tiếng tuy thuận lợi hơn song về cơ bản cũng gặp
phải những khó khăn không nhỏ về kỹ thuật thu phát và nguồn điện. Tuy nhiên, vấn
đề khó khăn hơn cả là điều kiện giao thông đi lại khó khăn đã hạn chế khả năng
thực hiện các tin, bài, phóng sự chứa đựng nội dung thông tin có tính thời sự ở địa
phương, bởi vì những điều kiện kinh tế, kỹ thuật hiện nay ở nước ta chưa cho phép
có những cơ quan thường trú để làm tin bài tại chỗ. Do đó những tin, bài, phóng sự
liên quan đến địa phương đến khi đến được với người đọc, người nghe thì thường
thiếu cập nhật, không còn tính thời sự, còn những tin, bài, thông tin có tính thời sự
được chuyển phát đến nhân dân các vùng sâu, vùng xa thì chủ yếu là các thông tin ở
vùng đồng bằng, nơi tập trung đông dân cư và điều kiện đi lại thuận tiện hơn.
Thứ tư, trình độ phát triển kinh tế thấp là nguyên nhân căn bản dẫn đến tình
trạng lạc hậu về kỹ thuật chuyển phát thông tin và thiếu đầu tư để đổi mới, đa dạng
hoá nội dung và hình thức của thông tin. Mặt khác, chính sự thiếu thốn về đời sống
vật chất làm người ta ít quan tâm đến thông tin nhưng một nhu cầu thực sự, chưa
nói đến người dân không có tiền để mua báo hằng ngày. Thực trạng là hiện nay ở
nước ta, không ít người xem phương tiện TTĐC như là cái gì đó “có cũng được, mà
không có cũng không sao”. Đây không chỉ là quan niệm của người dân, mà còn phổ
biến ở nhiều cấp lãnh đạo. Thực tế này đã ngăn trở rất lớn những nỗ lực nhằm phát
triển hệ thống TTĐC vì không ít người xem việc đầu tư vào phát triển phương tiện
TTĐC như tiêu tốn tiền của vào một loại hàng hoá xa sỉ, không thiết thực. Thực
trạng kinh tế thấp khiến người ta coi nhẹ tầm quan trọng của phương tiện TTĐC đã
càng làm cho quy mô tác động của các phương tiện TTĐC đối với xã hội ở nước ta
trở nên nhỏ bé. Ngược lại, chính mức độ ảnh hưởng, tác động không lớn, không
mạnh mẽ của các phương tiện TTĐC đỗi với xã hội lại càng làm cho những người
có trách nhiệm ít chú ý, quan tâm đến ý nghĩa, vai trò của nó. Đây chính là tình
trạng tiến thoái lưỡng nan, “vòng luẩn quẩn” của tình trạng TTĐC ở nước ta hiện
nay.
Thứ năm, không thể phủ nhận thực tế là trình độ dân trí ở nước ta hiện nay
rất thấp và có sự chênh lệch khá lớn giữa vùng thành thị, đồng bằng với vùng miền
núi, vùng sâu, vùng xa. Đây cũng là nguyên nhân làm cho quy mô tác động và mức
độ hiệu quả của thông tin đối với dời sống xã hội là không cao bởi vì mỗi chương
trình truyền thông chỉ thu hút được một bộ phận rất ít công chúng quan tâm. Khi đối
tượng của TTĐC có trình độ nhận thức thấp và chênh lệch lớn, để thu hút được
người nghe, người xem đòi hỏi đội ngũ những người làm báo chí, truyền thông phải
đa dạng hoá nội dung và hình thức thông tin, chia nhỏ đối tượng phục vụ để đáp
ứng những thị hiếu khác nhau, điều đó cũng có nghĩa là phải có sự đầu tư khá lớn
về cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ con người. Với những điều kiện kinh tế, kỹ
thuật hạn hẹp và đội ngũ hoạt động TTĐC còn mỏng và yếu của nước ta hiện nay,
đây là một thách thức không nhỏ.
2.3.1.2. Về chủ quan
Trước hết, nhận thức, đánh giá và xác định về vai trò, vị trí của phương tiện
TTĐC chưa thật được chú trọng và đồng đều ở nhiều cấp lãnh đạo. Đây là một thực
tế phổ biến đang gây cản trở đối với sự phát triển của hoạt động TTĐC. Trong khi
Đảng và Nhà nước luôn ý thức được một cách sâu sắc tầm quan trọng của phương
tiện TTĐC trong công cuộc đổi mới nói chung và phát triển kinh tế - xã hội nói
riêng, thể hiện rõ trong những nghị quyết, chủ trương cũng như sự quan tâm đặc
biệt của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp Trung ương, thì trong quá trình triển khai thực
hiện, ở nhiều cấp lãnh đạo, nhiều người còn chưa ý thức đúng vai trò quan trọng,
tầm mức lợi hại và thiết thực của các phương tiện TTĐC trong tình hình hiện nay.
Rất phổ biến ở nhiều cấp lãnh đạo quan niệm đơn giản cho rằng, phương tiện TTĐC
cũng chỉ là một bộ phận như những cấu thành khác của thượng tầng kiến trúc xã
hội, chịu sự quy định của trình độ phát triển kinh tế, do đó logic tất yếu là cần phải
chú trọng và đặt ưu tiên trước hết cho các hoạt động kinh tế, hoặc ít nhất là các lĩnh
vực trực tiếp liên quan đến các hoạt động kinh tế như pháp luật, giao thông vận tải,
giáo dục đào tạo,… Nhiều cấp lãnh đạo cho rằng, khi đời sống kinh tế phát triển thì
sẽ kéo theo sự phát triển của các lĩnh vực khác, trong đó có phương tiện TTĐC, việc
tập trung tiền của vào xây dựng và phát triển hệ thống các phương tiện TTĐC trong
điều kiện hiện nay là không thiết thực, thậm chí lãng phí. Thiếu sự quan tâm, chú
trọng hoặc quan tâm không đủ tầm mức và không đồng đều ở nhiều cấp lãnh đạo rõ
ràng là yếu tố không thuận đối với sự phát triển của hệ thống các phương tiện
TTĐC và là một nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự yếu kém, trì trệ trong hoạt động
TTĐC ở nước ta thời gian qua.
Thứ hai, bộ máy tổ chức chỉ đạo quản lý chưa thật hợp lý, chưa thật sự hoạt
động có hiệu quả do những yếu kém trong chỉ đạo nội dung và hình thức trong hoạt
động TTĐC. Trong những năm qua, mặc dù đã có sự cố gắng lớn trong công tác
kiện toàn cơ quan chỉ đạo và quản lý các hoạt động TTĐC, nhưng so với yêu cầu
của thực tiễn đổi mới thì công tác chỉ đạo, quản lý vẫn bộc lộ những nhược điểm,
yếu kém. Nhiều cấp uỷ, chính quyền và cơ quan chủ quản địa phương chưa xác định và
phân nhiệm rõ trách nhiệm quản lý, chỉ đạo của cấp mình, dẫn đến hiện tượng nhiều
khi sự chỉ đạo, quản lý bị chồng chéo, lúc khác lại bị buông lỏng, thả nổi. Giữa những
cơ quan này chưa thực sự có được những cơ chế phân định rõ ràng vai trò, chức năng
và phương thức phối hợp chặt chẽ để chỉ đạo và quản lý hoạt động TTĐC cho có hiệu
quả thực chất.
Tại các cơ quan chỉ đạo, quản lý cấp Trung ương, tình trạng thiếu cán bộ có
đủ năng lực và trình độ để làm tốt chức năng chỉ đạo, tham mưu, quản lý đã diễn ra
từ nhiều năm nhưng chưa có biện pháp cụ thể, hữu hiệu để khắc phục. ở hầu hết các
tỉnh, thành hiện nay vẫn chưa có đủ số lượng cán bộ cần thiết và có đủ trình độ, tiêu
chuẩn để giúp cấp uỷ và chính quyền địa phương chỉ đạo, quản lý hoạt động TTĐC
thuộc phạm vi trách nhiệm và địa bàn của mình.
Hiện nay các cơ quan TTĐC nói chung đều chịu sự quản lý đồng thời của ba
cơ quan khác nhau là Đảng bộ, chính quyền địa phương và ngành dọc (Bộ Văn hoá
và thông tin). Về nguyên tắc giữa các cơ quan này đều có sự phân công, phân nhiệm
rõ ràng với các chức năng cụ thể trong việc quản lý hoạt động TTĐC. Tuy nhiên,
trong một môi trường ở đó thiếu vắng một hành lang pháp lý rõ ràng quy định hoạt
động TTĐC, các cơ quan này ra những quyết định, chỉ thị không đúng với vai trò,
chức năng của mình, gây nên những chồng chéo, cản trở đối với hoạt động đặc thù
của phương tiện TTĐC. Sự quản lý chồng chéo đương nhiên sẽ thu hẹp không gian
hoạt động của các phương tiện TTĐC và dẫn tới sự đông cứng, bị động của các cơ
quan TTĐC và đội ngũ những người làm công tác TTĐC.
Thêm vào đó, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý những hành động tiêu
cực, những vi phạm pháp luật trong hoạt động TTĐC còn chậm và thiếu triệt để.
Tinh thần tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm chưa thật nghiêm túc. Nhiều cơ quan
chủ quản các phương tiện TTĐC buông lỏng trách nhiệm quản lý, chỉ đạo đối với
hoạt động của các phóng viên, biên tập viên; nhất là việc chỉ đạo phương hướng, nội
dung và quản lý những cán bộ chủ chốt.
Như vậy, những yếu kém trong công tác quản lý của các cơ quan chức năng
trong việc cụ thể hoá những chủ trương, đường lối của Đảng và sự bị động của bản
thân các cơ quan hoạt động TTĐC trong chỉ đạo nội dung và hình thức thông tin là
một trong những nguyên nhân góp phần làm gia tăng những yếu kém, thiếu sót của
hoạt động TTĐC ở nước ta trong thời gian qua.
Thứ ba, sự thiếu vắng một hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động TTĐC
đang là một vấn đề nổi trội gây nhiều khó khăn và hạn chế sự năng động cũng như
khả năng sáng tạo của đội ngũ những người làm TTĐC. Vấn đề xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật nói chung, một nội dung quan trọng hàng đầu trong việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết trong đời
sống chính trị của nước ta hiện nay. Sự thiếu vắng một hành lang pháp lý quy định
rõ ràng và chặt chẽ hoạt động TTĐC ở nước ta hiện nay cũng là nguyên nhân dẫn
tới những bất hợp lý trong khâu tổ chức, điều hành hoạt động TTĐC đã được đề cập
ở trên. Đồng thời, nó cũng đã và đang trói buộc đội ngũ những người làm công tác
TTĐC không cho họ phát huy được khả năng sáng tạo và năng lực vốn có của mình,
đẩy họ vào tình trạng bị động, phải bước một cách “rón rén” vì luôn phải “nhìn
trước, ngó sau” không biết mình được làm cái gì và không được làm cái gì. Thực
trạng này có thể ví như việc các cầu thủ chơi bóng trên một sân không có đường
biên dọc, ngang, không có luật rõ ràng và việc thổi phạt, rút thẻ là tuỳ ý trọng tài,
điều này tất yếu sẽ dẫn tới hiện tượng các cầu thủ sẽ chơi túm lại ở giữa sân để đảm
bảo an toàn. Sự thiếu vắng một hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động TTĐC ở
nước ta đã làm cho đội ngũ những người hoạt động trên lĩnh vực này trở nên bị
động và dẫn đến sự khô cứng trong nội dung và hình thức thông tin. Thực tế trong
thời gian qua, mặc dù đội ngũ những người làm TTĐC luôn mong muốn tìm tòi,
khám phá và sáng tạo cái mới, song vì phần lớn những người làm công tác TTĐC
đều ngần ngại không muốn đi khai phá những con đường mới mà chấp nhận bước
theo những lối mòn do đó những thành quả có được không nhiều, không thực sự
gây ấn tượng.
Trong những nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót, yếu kém của hoạt động
TTĐC trong thời gian qua có thể thấy sự thiếu vắng một hành lang pháp lý rõ ràng
điều chỉnh hoạt động TTĐC là một trong những yếu tố căn bản. Một hành lang pháp
lý, trong đó xác định rõ ràng và quy định chặt chẽ một không gian cụ thể những gì
pháp luật cho phép và không cho phép đối với hoạt động TTĐC là điều tối cần thiết
đối với sự phát triển của TTĐC ở nước ta hiện nay.
Thứ tư, ĐNCB, phóng viên, biên tập viên còn mỏng và yếu. Trong thời gian
qua, mặc dù đã có những cố gắng lớn trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
những người làm công tác TTĐC, song nhìn chung ĐNCB, phóng viên, biên tập
viên làm công tác TTĐC ở nước ta hiện nay còn rất mỏng và yếu. Hiện nay ở Việt
nam, trong số 53 cơ quan TTĐC đang hoạt động chỉ khoảng 30 người đã được đào
tạo chính quy Đại học báo chí, chỉ có một số rất ít tổng biên tập có trình độ tiến sĩ.
Bởi lẽ sản phẩm truyền thông là một loại hàng hoá đặc biệt, do đó hoạt động TTĐC
luôn đòi hỏi sự đổi mới và sáng tạo. Điều đó cũng có nghĩa là đội ngũ những người
làm công tác này phải được đào tạo cơ bản vững chắc đồng thời phải luôn được bồi
dưỡng, tổng kết kinh nghiệm qua đó nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy
nhiên, thực tế là hiện nay ở nước ta không ít nhà báo, biên tập viên hoạt động trong
các cơ quan TTĐC không được đào tạo cơ bản, đội ngũ những người được đào tạo
thì lại quá mỏng và không được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
một cách thường xuyên. Thêm vào đó, một thực trạng phổ biến là ở nhiều cơ quan
những người hoạt động lâu năm lại không được bổ nhiệm giữ các trọng trách quản
lý mà phần lớn những người lãnh đạo các cơ quan này do các cơ quan cấp trên bổ
nhiệm hoặc thuyên chuyển từ nơi khác đến. Thực tế này đã cản trở sự phát triển của
một số cơ quan TTĐC cũng như sự sáng tạo và khả năng cống hiến của những
người hoạt động báo chí, truyền thông đã hoạt động lâu năm trong các đơn vị đó. Sự
bất hợp lý trong khâu tổ chức này là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự trì trệ
của cả tổ chức.
Cuối cùng, sự thiếu thốn thực sự về cơ sở vật chất là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến khoảng cách về trình độ báo chí ở nước ta so với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Nhìn chung, hiện nay ngành báo chí, TTĐC của nước ta còn đang
thiếu trầm trọng những trang thiết bị kỹ thuật hiện đại phục vụ cho việc in ấn, thu -
phát sóng, xử lý thông tin,… phục vụ cho các hoạt động nghiệp vụ, hoặc một số đơn
vị nếu có được trang bị những trang thiết bị hiện đại thì phần lớn lại không đồng bộ.
Điều này đã gây trở ngại rất lớn cho đội ngũ những người làm công tác TTĐC của
nước ta có thể tiếp cận và theo kịp với trình độ của báo chí, TTĐC của các nước
khu vực và thế giới. Thêm vào đó là những khó khăn về đời sống kinh tế đối với đội
ngũ những người làm báo cũng là vấn đề bức xúc. Kinh phí của Trung ương cấp
cho các tỉnh, thành dành cho hoạt động TTĐC còn hết sức eo hẹp. Các chế độ bồi
dưỡng và đãi ngộ đối với những người làm báo còn chưa thoả đáng. Đây là nhân tố
có tác động không nhỏ gây trở ngại đến sự phát triển của chất lượng tờ báo.
2.4. Những vấn đề đặt ra
2.4.1. Vấn đề chất lượng thông tin đơn điệu, nghèo nàn
Khi xem xét thực trạng hoạt động của các phương tiện TTĐC của nước ta
hiện nay đặt trong những điều kiện thực tế đặc thù của Việt Nam và tương quan với
tình hình chung của khu vực và thế giới, vấn đề nổi lên hàng đầu là chất lượng sản
phẩm truyền thông đơn điệu, ít ỏi và nghèo nàn. Hiện nay phần lớn các chương
trình truyền thông của Việt Nam đều quá khô cứng, lượng thông tin truyền tải đến
quần chúng tính trên đơn vị thời gian thông tin là quá ít, trong khi đó các phương
tiện TTĐC nước ngoài lại rất đa dạng, phong phú về thể loại, hình thức và lượng
thông tin chuyển tải đến khán, thính giả. Điều này không chỉ phản ánh chất lượng
của ĐNCB, phóng viên, biên tập viên và kỹ thuật viên còn quá mỏng và yếu, mà
còn cho thấy những mặt hạn chế của cơ chế quản lý, phương tiện kỹ thuật và kinh
phí hạn hẹp của Nhà nước dành cho hoạt động TTĐC, bởi vì xét đến cùng bất cứ
quá trình nào cũng được phản ánh thông qua sản phẩm của nó, trong đó TTĐC
không phải là ngoại lệ. So với thông tin của nước ngoài, gần nhất là Thái Lan, thì rõ
ràng chất lượng thông tin của các phương tiện TTĐC của Việt Nam còn ở khoảng
cách quá xa cả về hình thức và nội dung của thông tin cho đến trình độ chuyển phát
thông tin. Những vấn đề liên quan đến thông tin, cụ thể là khối lượng sản phẩm
thông tin quá ít và chất lượng thông tin yếu kém đang trở nên nổi trội và bức xúc
đòi hỏi những người làm công tác TTĐC ở nước ta phải nghiêm túc coi đó là những
khuyết điểm, yếu kém lớn nhất trong hoạt động TTĐC hiện nay.
Mặc dù có những đặc thù riêng liên quan đến vai trò, ý nghĩa của nó đối với
đời sống xã hội, (phần lớn các phương tiện TTĐC ở Việt Nam vẫn được Nhà nước
bao cấp về kinh phí và là hoạt động độc quyền của Nhà nước) song trong bối cảnh
chúng ta đang cải cách nền kinh tế thị trường thì xét ở một ý nghĩa nào đó vẫn
không thể phủ nhận rằng các sản phẩm của TTĐC cũng là một loại hàng hoá. ở góc
độ là hàng hoá, rõ ràng sản phẩm truyền thông vẫn phải tuân theo quy luật cung -
cầu, quy luật cạnh tranh của thị trường, trong đó vấn đề quan trọng hàng đầu là chất
lượng. Chất lượng của sản phẩm TTĐC phải đạt tới một trình độ mà công chúng sẽ
khước từ hàng hoá đó, để tìm đến với các hàng hoá khác có chất lượng cao hơn.
Trong môi trường đó, hoạt động TTĐC không thể không chú trọng đến chất lượng
của sản phẩm mình làm ra. Tuy nhiên, nhìn một cách thực chất, hiện nay chúng ta
còn chưa thực sự chú trọng tới vấn đề chất lượng của hàng hoá, chưa quan tâm đến
việc đáp ứng nhu cầu của thị trường, và thực trạng là chất lượng của các sản phẩm
thông tin của các phương tiện TTĐC ở nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu của
người tiêu dùng. Phần lớn các sản phẩm của TTĐC do chúng ta thực hiện còn quá
đơn điệu, nghèo nàn về nội dung và hình thức, sản phẩm làm ra không xuất phát từ
đòi hỏi, từ nhu cầu có thực của quần chúng mà phần lớn được thiết kế, xây dựng
dựa trên các chủ trương, đường lối và chỉ thị của cấp trên hoặc từ ý chí chủ quan
của các cơ quan truyền thông. Do đó, thực chất hàng hoá của chúng ta không có khả
năng cạnh tranh trên thị trường. Đây là nguyên nhân chính làm cho quần chúng tìm
đến với các phương tiện TTĐC nước ngoài và từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các
phương tiện TTĐC nước ngoài lấn sân, chiếm lĩnh thị trường thông tin.
Liên quan đến vấn đề chất lượng thông tin của các phương tiện TTĐC ở
nước ta hiện nay, ngoài những yếu kém, đơn điệu và nhàm chán trong nội dung và
hình thức của thông tin, còn một vấn đề nổi trội nữa là trình độ chuyển phát thông
tin đến với công chúng của các phương tiện TTĐC còn quá yếu. Để nghe những
thông tin về một sự kiện quốc tế, hoặc trong nước, người dân thường bắt sóng của
các đài nước ngoài phát vì chất lượng sóng tốt, tín hiệu rõ nét, còn chất lượng sóng
phát của Đài phát thanh hoặc Truyền hình quốc gia thường kém. Sự yếu kém trong
trình độ chuyển phát thông tin của các phương tiện TTĐC trong nước cũng là
nguyên nhân dẫn tới những thờ ơ của công chúng và như thế vô tình chúng ta đã tự
đánh mất thị phần thông tin của mình cho dù đội ngũ những người phóng viên, biên
tập viên đã nỗ lực để nâng cao chất lượng của nội dung và hình thức của thông tin.
2.4.2. Vấn đề sản phẩm truyền thông ít
Vấn đề sản phẩm truyền thông ít đang là một vấn đề không thể không nói tới.
Hiện nay, quy mô tác động đối với xã hội của thông tin còn quá hạn hẹp. Điều này
thể hiện rõ ở việc các phương tiện TTĐC của Việt Nam chưa phát huy được một
cách đầy đủ những thế mạnh của chức năng tư tưởng, công cụ đặc biệt trong việc
thể hiện và khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Trên mặt trận tư tưởng,
các phương tiện TTĐC của Việt Nam nhìn chung phát huy tốt khả năng chuyển tải
những chủ trương, đường lối của Đảng, theo kịp và bám sát được thực tiễn chính trị
của đất nước, song vấn đề đặt ra vẫn là sự thiếu vắng rất lớn những ngòi bút lý luận
sắc bén, có tính chiến đấu cao trong đấu tranh lý luận, trong dự báo và làm sáng tỏ
những vấn đề thực tiễn đổi mới đang đặt ra.
Về mặt quản lý, các phương tiện TTĐC ở Việt Nam còn chưa phát huy được
thế mạnh vốn có trong việc thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát đối với hoạt
động của các cơ quan nhà nước và ĐNCB, công chức. Vẫn còn nhiều hiện tượng né
tránh khuyết điểm, thiếu sót, nói nhiều đến thành tích. Bên cạnh đó, khả năng
chuyển tải và phản ánh những thái độ, ý kiến của quần chúng còn nhiều hạn chế,
nhất là khả năng thông tin đa chiều. Trong thời gian qua, các phương tiện TTĐC đã
có nhiều cố gắng trong việc xây dựng các diễn đàn quần chúng, phản ánh kịp thời
và chính xác thái độ, ý kiến của quần chúng, song đây chưa thực sự là diễn đàn
thường xuyên và còn thiếu chiều sâu, mới chỉ dừng lại ở những ý kiến, kiến nghị
chung chung hoặc trái lại quá đi sâu vào chi tiết, bộ phận. Một vấn đề nổi trội nhất
hiện nay trong hoạt động TTĐC ở nước ta là thiếu vắng một cơ chế thông tin nhiều
chiều, chủ yếu vẫn là từ trên xuống, thông tin chưa thực sự có tính khách quan, còn
nặng tính hình thức, áp đặt.
Trong cạnh tranh giành thị phần với các phương tiện TTĐC nước ngoài, rõ
ràng các phương tiện TTĐC Việt Nam đang bị “lấn sân” quá sâu. Các phương tiện
TTĐC nước ngoài với những trạm phát hiện đại, khả năng phủ sóng tốt, nội dung
thông tin phong phú đang dần trở thành người chiếm lĩnh hầu hết các trận địa truyền
thông. Thực trạng này nếu tiếp tục kéo dài sẽ trở nên hết sức bất lợi đối với sự phát
triển của hệ thống TTĐC Việt Nam, thậm chí có nguy cơ bị cô lập, bị mất hoàn toàn
thị phần và cuối cùng sẽ là mất mặt trận tư tưởng. Đây là một vấn đề lớn, nổi trội
mà tất cả những người hoạt động truyền thông không thể không ý thức đến một
cách sâu sắc.
Hiện trạng về quy mô tác động quá khiêm tốn của truyền thông đối với đời
sống xã hội Việt Nam bắt nguồn từ một nguyên nhân hết sức cơ bản đó là khối
lượng sản phẩm truyền thông quá ít, nội dung lại đơn điệu, nhàm chán. Hiện nay,
thực trạng quy mô sản lượng truyền thông quá ít là vấn đề đang đặt ra đối với tất cả
mọi đề tài truyền thông của Việt Nam, từ các lĩnh vực thông tin, giáo dục, cho đến
giải trí,….. So với các nước trong khu vực thì Việt Nam bị bỏ lại ở một khoảng
cách khá xa khi xét khối lượng sản phẩm truyền thông tính trên đầu người và tính
trên thời lượng truyền tin. Thực tế là từ sau giải phóng đến nay, nước ta đã sản xuất
được một số phim truyền hình, phim nhựa,.. nhưng số lượng quá ít, chất lượng chưa
cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của quần chúng; mặt khác các chương trình phim
truyện chiếu cho công chúng chủ yếu là phim nước ngoài, các chương trình khác ít
nhiều đều có sự trùng lặp và thiếu sự hấp dẫn, do đó không thu hút được quần
chúng. Vấn đề không phải là người dân không có nhu cầu, mà thực chất là nhu cầu
của họ không được đáp ứng. Quy mô sản phẩm truyền thông ít là nguyên nhân đầu
tiên dẫn tới hiện tượng công chúng thờ ơ với các phương tiện TTĐC trong nước,
háo hức tìm đến với các phương tiện TTĐC nước ngoài, nơi có thể cung cấp cho họ
nhiều sự lựa chọn hơn.
Để khắc phục tình trạng quần chúng xa rời các phương tiện TTĐC trong
nước hiện nay, chúng ta cần phải nhanh chóng tìm ra các giải pháp gia tăng số
lượng và chất lượng của các sản phẩm truyền thông. Đó là con đường không thể
khác nếu chúng ta muốn từng bước giành lại được thị phần truyền thông.
2.4.3. Vấn đề tổ chức
Công tác tổ chức, điều hành luôn là cốt lõi của mọi quá trình, trong đó hoạt
động TTĐC không phải là ngoại lệ. Từ những vấn đề đã khảo sát, xem xét ở trên,
chúng ta có thể thấy rằng công tác tổ chức, quản lý và điều hành hoạt động TTĐC
hiện nay ở nước ta đang có nhiều bất hợp lý, không đáp ứng được những đòi hỏi
của thực tiễn. Điều đó đòi hỏi đã đến lúc phải xem xét đánh giá lại công tác tổ chức.
Những chồng chéo trong khâu tổ chức, quản lý và điều hành hoạt động
TTĐC hiện nay ở Việt Nam là một trong những thách thức lớn nhất cản trở sự phát
triển của bản thân hoạt động TTĐC, mà trực tiếp nhất là hạn chế sự sáng tạo, khả
năng hoạt động độc lập của đội ngũ những người hoạt động trong lĩnh vực này. Vấn
đề tổ chức hiện nay chứa đựng hàng loạt những bất hợp lý từ việc phân công, phân
nhiệm về phạm vi quyền hạn giữa các cơ quan chức năng, đến việc bổ nhiệm cán bộ
quản lý lẫn công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các phương tiện TTĐC.
Vấn đề đổi mới công tác tổ chức quản lý hoạt động TTĐC theo hướng tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý song không chồng chéo trong điều hành, qua đó
giúp khơi dậy và phát huy hết được năng lực và sức sáng tạo của đội ngũ những
người hoạt động báo chí, truyền thông là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng và
thiết thực.
Vấn đề tổ chức đặt ra hiện nay đối với hoạt động TTĐC ở Việt Nam chủ yếu
tập trung vào hai vấn đề mấu chốt đó là: (1) vấn đề phân công, phân nhiệm rõ ràng,
dứt khoát đối với các cơ quan có chức năng chỉ đạo và quản lý hoạt động TTĐC và
quy trách nhiệm cụ thể đối với từng cơ quan và (2) vấn đề bổ nhiệm, bãi nhiệm
những người làm công tác lãnh đạo và quản lý các cơ quan TTĐC.
Đối với vấn đề phân công, phân nhiệm rõ ràng về chức năng và quy trách
nhiệm cụ thể cho các cơ quan chịu trách nhiệm chỉ đạo, quản lý hoạt động TTĐC là
hết sức quan trọng và cần thiết hiện nay. Đây là việc làm đòi hỏi một cách đồng bộ
sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo và sự phối hợp giữa các ban ngành liên
quan nhằm tạo ra một môi trường thông thoáng, tháo gỡ mọi cản trở, chồng chéo
trong khâu quản lý, tạo động lực cho sự vận hành nhịp nhàng trong bộ máy tổ chức,
qua đó giúp cho cả hệ thống hoạt động có hiệu quả. Đồng thời, việc quy trách
nhiệm cụ thể đối với mỗi cơ quan chịu trách nhiệm chỉ đạo, quản lý hoạt động
TTĐC sẽ giúp nâng cao trách nhiệm của các cơ quan này đối với những quyết định,
chỉ thị mà họ ban hành (có phù hợp với tình hình thực tế hay không, có đúng chức
năng, phạm vi quyền hạn không,….) từ đó tránh đi những sai sót và vô trách nhiệm
trong khâu ra quyết định, dẫn đến những sự chồng chéo trong quản lý và điều hành,
làm giảm tính hiệu quả trong hoạt động của các phương tiện TTĐC.
Vấn đề bổ nhiệm, bãi miễn và có được một cơ chế tuyển dụng cán bộ hợp lý
là yêu cầu quan trọng trong công tác đổi mới bộ máy tổ chức. Những bất hợp lý tồn
tại trong khâu bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo đã trình bày ở trên cần nhanh chóng tìm ra
biện pháp giải quyết, trong đó cần ưu tiên bổ nhiệm những người đã hoạt động lâu
năm trong ngành có nhiều kinh nghiệm thực tiễn và nắm chắc những điểm mạnh
yếu cũng như những tồn tại của đơn vị trở thành những người giữ trọng trách lãnh
đạo và quản lý. Việc bổ nhiệm những người có uy tín và khả năng điều hành công
việc chung, những phẩm chất đã được thẩm định qua thời gian công tác tại đơn vị,
là cách thực hợp lý để có được một bộ khung tổ chức hoạt động nhịp nhàng, bởi lẽ
khó đó là những người được mọi người trong đơn vị ủng hộ và tin tưởng vào khả
năng, cũng như phẩm chất đạo đức và chính điều đó sẽ tạo ra những bước chuyển
biến mới, sức sống mới cho toàn đơn vị. Đồng thời, đó cũng là phần thưởng xứng
đáng đối với những người có thành tích và phẩm chất tốt, do đó cách này sẽ tạo ra
động lực thúc đẩy đội ngũ những người đang dồn công sức cống hiến và phát huy
mọi khả năng sáng tạo và tinh thần độc lập tự chủ, từ đó tạo ra một chất lượng cao
nhất trong công việc được giao phó. Bên cạnh đó, việc bãi nhiệm cán bộ đang giữ
trọng trách lãnh đạo, quản lý nhưng mắc phải những sai lầm, khuyết điểm cần phải
do Hội đồng kỷ luật quyết định. Hội đồng này phải được thành lập công khai, hoạt
động độc lập trên cơ sở xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng mọi mặt và phải triệt để tôn
trọng pháp luật, không để xảy ra những vụ việc xuất phát từ động cơ lợi ích cá nhân.
2.4.4. Vấn đề xây dựng và hoàn thiện những văn bản pháp lý
Đây là vấn đề chưa thể một sớm một chiều có thể làm ngay, song trong
khuôn khổ định hướng chung từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng
xây dựng Nhà nước pháp quyền, chúng ta cần sớm quan tâm đến việc xây dựng và
kiện toàn lại hệ thống các văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động TTĐC. ở Việt
Nam hiện nay, sự thiếu vắng một hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động TTĐC
đang gây nên những trở ngại không nhỏ đối với hoạt động TTĐC nói chung và đến
khả năng phát huy tính độc lập, sáng tạo của ĐNCB làm công tác TTĐC nói riêng.
Thực tiễn ở nhiều nước cho thấy, để xây dựng được một hệ thống phương
tiện TTĐC hoạt động có hiệu quả, trong đó khâu mấu chốt là xây dựng một ĐNCB
làm công tác TTĐC có năng lực, kiên tâm, có tinh thần làm việc độc lập tự chủ và
sáng tạo song vẫn kiểm soát được họ, không để họ bị thả nổi, tự phát, thì việc có
một hệ thống pháp luật TTĐC bao gồm: báo chí, xuất bản, quảng cáo, Internet,….
hoàn chỉnh là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu không thể coi nhẹ.
Tất nhiên ở đây trong điều kiện một nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay,
việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý chưa thể lập tức được thực
hiện, song đã đến lúc chúng ta cần quan tâm, chú trọng xây dựng một khung pháp lý
lớn (chưa cần và cũng chưa thể quá đi sâu vào chi tiết như các nước phát triển), tạo
nền móng cho việc xây dựng các bước tiếp theo một hệ thống các văn bản pháp quy
hoàn chỉnh điều chỉnh hoạt động đặc thù này. Chỉ khi nào chúng ta có được một
khung pháp lý điều chỉnh những vấn đề liên quan đến lĩnh vực này thì lúc đó mới có
thể có những cơ sở vững chắc tạo điều kiện cho các phương tiện TTĐC phát huy
được một cách đầy đủ sức mạnh và tiềm năng vốn có của nó. Đồng thời chỉ khi một
hệ thống luật báo chí được ban hành thì mới có thể xoá bỏ tận gốc hiện tượng các
cơ quan được giao trách nhiệm quản lý hoạt động TTĐC tự ý ra các quyết định, chỉ
thị và văn bản, rất nhiều khi sai chức năng và chồng chéo, mang tính nhất thời rồi
mặc nhiên coi đó như “luật” gây cản trở cho sự phát triển của hoạt động TTĐC.
2.4.5. Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ
Việc xây dựng ĐNCB hoạt động trong lĩnh vực TTĐC đủ năng lực, khả năng
chuyên môn và phẩm chất đạo đức để đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn là
vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của hoạt động TTĐC ở Việt Nam
trong thời gian tới. Trong thời gian qua, nhờ sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước, chúng ta đã từng bước xây dựng được một ĐNCB làm công tác TTĐC và
những thành quả họ làm ra là rất đáng ghi nhận, song đánh giá một cách thực chất
thì ĐNCB hiện nay của chúng ta còn quá mỏng và yếu so với đòi hỏi của tình hình
thực tiễn. Có thể nói rằng, vấn đề xây dựng ĐNCB làm công tác TTĐC ở nước ta
hiện nay là rất bức xúc bởi vì đó không chỉ đặt ra đối với riêng một bộ phận nào mà
liên quan đến tất cả ĐNCB hoạt động trong lĩnh vực này bao gồm bộ phận những
người làm công tác quản lý, điều hành cho đến đội ngũ những người làm biên tập,
phóng viên và chuyên môn kỹ thuật.
Thực tế là từ sau giải phóng đến nay, Đảng và Nhà nước cũng đã dành nhiều
sự quan tâm đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, song về căn bản công tác
này vẫn dựa vào sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế là chính, trong đó tập trung vào gửi
cán bộ đi nghiên cứu, học tập ở nước ngoài để tiếp thu các vấn đề chuyên môn kỹ
thuật, nghiệp vụ thực hiện các công nghệ truyền thông (công nghệ in ấn, kỹ thuật
phát thành, phát hình báo chí), mà chưa có điều kiện gửi nhiều cán bộ đi học tập,
nghiên cứu lý luận về lĩnh vực này. Thực tế là cho đến tận thời điểm này ở Việt
Nam vẫn chưa có một trường đào tạo chuyên nghiệp về TTĐC. Thực tiễn ở các lĩnh
vực khác cho thấy, để có một ĐNCB có năng lực chuyên môn thì ngành nào cũng
cần có một trường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ riêng của mình. Do đó có thể khẳng
định rằng, bên cạnh việc tiếp tục gửi người đi học tập, nghiên cứu tại nước ngoài, đã
đến lúc chúng ta phải xây dựng một trường đào tạo cán bộ TTĐC trong nước để đào
tạo lý luận báo chí cho ĐNCB kế cận. Vì không có một trường đào tạo lý luận và
nghiệp vụ chuyên môn trong nước về lĩnh vực TTĐC, do đó hiện nay phần lớn đội
ngũ những người làm báo chí, truyền thông ở nước ta đều không được qua đào tạo
một cách hệ thống những vấn đề mang tính lý luận liên quan đến hoạt động TTĐC.
Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, một vấn đề không thể không đặt ra
hiện nay là cơ chế tuyển dụng. Hiện nay cơ chế tuyển dụng chủ yếu vẫn là xét tuyển
mà không phải là thi tuyển công chức. Thực tiễn ở tất cả các nước xây dựng được
một bộ máy công chức mạnh, hoạt động có hiệu quả thì đều dựa vào cơ chế thi
tuyển để tuyển dụng công chức. Do đó, đã đến lúc chúng ta phải xem xét lại cơ chế
tuyển dụng hiện nay. Cơ chế xét tuyển đã và đang bộc lộ nhiều bất hợp lý, là một
trở ngại lớn hạn chế khả năng tìm ra được những người thực sự có khả năng và
nhiệt tâm đối với công việc.
Trên đây là hai vấn đề đặt ra và cần được sự quan tâm hàng đầu trong công tác
xây dựng và củng cố ĐNCB làm công tác TTĐC ở nước ta hiện nay. Đây là vấn đề rất
lớn cần được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của các cấp lãnh đạo.
2.4.6. Vấn đề đầu tư mở rộng và đổi mới trang thiết bị
Việc đầu tư để nâng cấp và đổi mới hệ thống các trang thiết bị đã cũ và lạc
hậu là một vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với tất cả các cơ quan hoạt động TTĐC ở
nước ta hiện nay, đặc biệt là phát thanh, truyền hình. Trong bối cảnh phát triển như
vũ bão của cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới hiện nay, nhất là những tiến
bộ vượt bậc trong công nghệ thông tin, tất cả các cơ quan TTĐC của các nước trong
khu vực và trên thế giới đều thường xuyên đầu tư mở rộng và đổi mới sản phẩm
truyền thông nhằm tăng khả năng cạnh tranh giành thị phần thông tin. Trong khi đó,
thực tế ở Việt Nam hiện nay phần lớn các trang thiết bị phục vụ cho công nghệ
TTĐC đều đang trong tình trạng thiếu thốn và những thiết bị đang hoạt động thì quá
lạc hậu. Hiện nay, phần lớn các hãng thông tấn, truyền thanh và truyền hình trên thế
giới đã trang bị các thiết bị thu phát trực tiếp qua vệ tinh và các thiết bị sử dụng
công nghệ hiện đại như công nghệ cáp quang, công nghệ số (digital) trong khi đó ở
Việt Nam chủ yếu vẫn sử dụng các thiết bị của những năm 80 trở về truớc và đa số
các thiết bị đều sử dụng công nghệ tín hiệu tương tự (analog), công nghệ in ấn cũng
đã trở nên lạc hậu và hoạt động với hiệu suất thấp hơn nhiều lần so với các thiết bị
hiện có trên thị trường thế giới hiện nay. Phần lớn những thiết bị TTĐC hiện có ở
Việt Nam đều là viện trợ và giúp đỡ của một số nước XHCN anh em từ sau giải
phóng. Song đến nay, sau hơn 30 năm hoạt động phần lớn các thiết bị này đều đã
trở nên cũ và lạc hậu so với các trang thiết bị, máy móc thuộc thế hệ mới. Chúng ta
đều biết rằng để có một sản phẩm truyền thông có chất lượng thì phải đồng thời hai
yếu tố đó là đội ngũ chuyên môn và trình độ khoa học và công nghệ. Sự lạc hậu về
trình độ công nghệ là một trong những nhân tố căn bản làm cho sản phẩm truyền
thông của Việt Nam trở nên kém hấp dẫn và chất lượng thông tin bị nhiều hạn chế.
Sự lạc hậu về công nghệ đang làm cho các phương tiện TTĐC của Việt Nam ngày
càng tụt hậu so với sự tiến lên mạnh mẽ của các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Trong bối cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, việc dành các
khoản đầu tư lớn để nâng cấp và đổi mới trang thiết bị cho TTĐC là vấn đề không
thể giải quyết ngay một sớm một chiều. Song đây là vấn đề không thể không đặt ra
và cần sớm tìm ra giải pháp để từng bước nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống trang
thiết bị, thu hẹp khoảng cách về công nghệ truyền thông giữa Việt Nam và các nước
trong khu vực, trên cơ sở đó góp phần nâng cao một bước trình độ và chất lượng
của sản phẩm truyền thông, từ đó mới có thể thu hút được sự quan tâm và hưởng
ứng của quần chúng khán, thính giả đối với các sản phẩm của TTĐC trong nước.
Từ nội dung phân tích trong chương này có thể thấy rằng, trong bất cứ chế độ chính
trị xã hội nào, việc thực hiện QLCT bao giờ cũng được khẳng định và đánh giá trên các
điều kiện căn bản sau: xây dựng và duy trì hệ tư tưởng chủ đạo; khẳng định tư cách chủ thể
trong các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ kinh tế; xây dựng và ngày càng hoàn thiện hệ
thống chính trị như sức mạnh đảm bảo thực thi, trên thực tế QLCT của ND ở nước ta cũng
chính là xem xét, đánh giá về ba bình diện chủ yếu: địa vị trên thực tế của hệ tư tưởng Mác
- Lênin trong đời sống xã hội; vai trò, vị thế của ND trong các quan hệ kinh tế; tổ chức, cơ
chế vận hành và năng lực thực hiện các chức năng xã hội của hệ thống chính trị.
Trong điều kiện một đất nước nghèo, các cơ sở kinh tế - kỹ thuật vốn đã nhỏ
bé lại bị tàn phá nặng nề sau một thời gian dài chiến tranh, công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước thực sự là một cuộc cách mạng sáng tạo, phấn đấu gian khổ,
quyết liệt. Trước những khó khăn, thách thức hết sức phức tạp, Đảng và Nhà nước
ta đã lãnh đạo, tổ chức nhân dân các dân tộc đạt được những thành tựu quan trọng
về mọi mặt, nhằm mục đích đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho nhân
dân. Nhìn một cách tổng thể, đó cũng chính là con đường nhằm mang lại QLCT
trên thực tế cho ND. Mặt khác, mỗi một bước đi trên con đường tăng cường QLCT
cho ND, công cuộc xây dựng, phát triển của đất nước lại có thêm điều kiện vững
chắc, động lực thúc đẩy tích cực. Nói cách khác, xuất phát từ những điều kiện lịch
sử tự nhiên, kế thừa toàn bộ những giá trị của lịch sử, việc tăng cường QLCT của
ND đã và đang vừa là mục tiêu chủ động, vừa là động lực mạnh mẽ, vừa là điều
kiện tích cực cho toàn bộ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Nhìn vào thực tế, mọi thành tựu đạt được cũng như những hạn chế trọng việc
thực thi QLCT của ND đều liên quan đến vai trò TTĐC với tính cách là vũ khí đấu
tranh công cụ tổ chức, phương tiện xây dựng, phát triển xã hội của Đảng và Nhà
nước ta. Trong điều kiện xã hội thông tin ngày nay, mỗi bước vận hành và phát triển
của xã hội không thể không tính đến sự tác động mạnh mẽ của TTĐC. Vì thế, việc
làm rõ những vấn đề cơ bản và cấp bách đang đặt ra phải giải quyết để cho TTĐC
có thể phát triển, có thể đóng góp một cách thực sự hữu hiệu vào việc tăng cường
QLCT của ND là nội dung tiếp nối đặc biệt quan trọng của luận văn ở chương này.
Chương 3
Những giải pháp chủ yếu cần thực hiện để phát huy sức mạnh của hệ thống
thông tin đại chúng
trong việc thực thi quyền lực chính trị
của nhân dân ở nước ta hiện nay
Theo phương hướng Nghị quyết của Đảng, trên cơ sở căn cứ lý luận, thực
tiễn và những vấn đề đặt ra đã được phân tích ở các phần trên, luận văn nêu ra
những giải pháp chủ yếu sau:
3.1. Xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển hệ thống thông tin đại
chúng
3.1.1. Hình thành chiến lược phát triển hệ thống thông tin đại chúng
Trong khuôn khổ định hướng chung về phát triển xã hội, chúng ta cần xây
dựng một chiến lực phát triển TTĐC trên cơ sở những điều kiện kinh tế - xã hội
thực tế của nước ta, trong đó bao gồm hàng loạt các vấn đề như: Quy hoạch mạng
lưới TTĐC; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại; đào tạo ĐNCB; chính sách
tài chính (đầu tư, tín dụng, thuế khoá,…). Những chính sách cụ thể trong khuôn khổ
chiến lược đó cần được triển khai và thực hiện nhất quán đến năm 2020, thậm chí
xa hơn nữa theo hướng vừa phát triển và quản lý tốt, đủ sức đáp ứng nhu cầu trong
nước, từng bước mở rộng sự giao lưu và ảnh hưởng quốc tế của các phương tiện
TTĐC với những mục tiêu và định hướng chính trị đã được xác định.
Việc xây dựng chiến lược phát triển TTĐC trước hết cần chú trọng việc thực
hiện dân chủ hoá và xã hội hoá hoạt động TTĐC. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và
bùng nổ thông tin mạnh mẽ, thông tin ngày càng có ảnh hưởng và sức mạnh chi
phối đến mọi sinh hoạt của đời sống xã hội, thực sự là một trong những động lực
quan trọng đối với sự phát triển của xã hội hiện đại. Do đó, TTĐC - phương tiện để
truyền tải thông tin đến với quần chúng - ngày càng cho thấy vai trò của nó đối với
định hướng phát triển của xã hội. Xã hội ngày càng phát triển thì việc dân chủ hoá
và xã hội hoá mọi quá trình xã hội, trong đó có hoạt động TTĐC, là một thực tế đáp
ứng đòi hỏi khách quan của xã hội.
Nghị quyết của Bộ Chính trị TW Đảng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải đa
dạng hoá nội dung và hình thức thông tin để đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng
phong phú, đa dạng của xã hội. Đây là chủ trương có tính định hướng quan trọng
nhằm từng bước xã hội hoá TTĐC. Quán triệt tinh thần đó, các phương tiện TTĐC
cần chú trọng nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin trên các mặt chính trị, văn hoá,
xã hội, ở các nội dung và hình thức. Về mặt kỹ thuật phải bảo đảm đưa thông tin
đến được với mọi nhà, mọi vùng, phù hợp với mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, với những
sản phẩm có giá trị văn hoá và xã hội cao, đáp ứng sự mong đợi của đông đảo quần
chúng nhân dân. Để đạt được điều đó, chúng ta cần sớm có quy hoạch, kế hoạch
phát triển đồng bộ về cả cơ cấu nhân sự và hệ thống trang thiết bị kỹ thuật của các
phương tiện TTĐC, phấn đấu đến năm 2020 tuyệt đại bộ phận dân cư, đặc biệt là
dân cư nông thôn, vùng sâu, vùng xa, ở biên giới,… có điều kiện thực tế trong việc
sử dụng diễn đàn các phương tiện TTĐC để bày tỏ ý chí và nguyện vọng của mình.
Đồng thời, qua hệ thống các phương tiện TTĐC nhân dân cả nước có thể tiếp nhận
kịp thời các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và tình hình thời
sự của đất nước. Trước mắt cần tập trung ưu tiên cho việc củng cố và phát triển, đặc
biệt là nâng cao chất lượng một số loại hình báo chí. Đến năm 2010, chúng ta cần
chú trọng mở rộng quan hệ trao đổi và giao lưu về TTĐC với các nước trong khu
vực và trên thế giới theo nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ và giữ vững
bản sắc, truyền thống văn hoá dân tộc. Trước bối cảnh đời sống chính trị quốc tế
đang chuyển biến hết sức sôi động và phức tạp cùng với sự bùng nổ thông tin trên
thế giới, việc tăng cường công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại càng trở nên
quan trọng. Nó không chỉ góp phần nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế
mà còn góp phần quan trọng vào việc mở rộng và phát triển các mối quan hệ đối
ngoại phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Với ý nghĩa đó, các
phương tiện TTĐC cần nhanh chóng triển khai mạnh mẽ các chương trình phục vụ
công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đẩy mạnh việc đưa thông
tin và giới thiệu các ấn phẩm văn hoá nước ta ra nước ngoài, đồng thời tiếp thu có
chọn lọc những thành tựu, giá trị và tinh hoa văn hoá nhân loại, thực hiện đúng đắn
và sáng tạo đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng và đa phương
hoá các quan hệ quốc tế trong hoạt động TTĐC.
Chiến lược phát triển hệ thống TTĐC phải bao gồm việc quy hoạch và tổ
chức hệ thống đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác báo chí, TTĐC cả về mô
hình đào tạo, nội dung chương trình, phương thức giảng dạy, học tập, trang thiết bị,
cơ sở vật chất, kỹ thuật,… Yêu cầu đặt ra là phải xây dựng được ĐNCB làm công
tác TTĐC có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, có kiến thức sâu rộng, có trình
độ nghiệp vụ tinh thông, đặc biệt là có phẩm chất đạo đức trong sáng, trung thực,
gắn bó với cơ sở, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, xứng đáng là
những chiến sĩ xung kích chiến đấu trên mặt trận tư tưởng - văn hoá. Đây là nhiệm
vụ có tầm quan trọng đặc biệt và cấp bách, là khâu căn bản và then chốt nhất bảo
đảm thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển TTĐC của Đảng và Nhà nước trong
thời kỳ mới.
Xác định chính sách tài chính trong hoạt động TTĐC, tạo điều kiện cho
TTĐC thoát khỏi tình trạng quan liêu bao cấp mà không sa vào khuynh hướng
thương mại hoá là một vấn đề bức thiết hiện nay. Trong xã hội ta, phương tiện
thông tin không thể trở thành một ngành kinh doanh theo đúng nghĩa của từ đó, cho
dù đó là một ngành kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận. Song cũng cần thấy một
thực tế là tình hình kinh tế hiện nay của đất nước không có khả năng đầu tư nhiều
cho các phương tiện TTĐC, do đó Nhà nước chủ trương cho phép các cơ quan hoạt
động TTĐC có thể năng động, sáng tạo, trong việc chủ động tìm thêm những nguồn
tài trợ, đóng góp của các tổ chức, cá nhân khác trong những điều kiện cho phép để
tự trang trải một phần chi phí tái đầu tư. Để thực hiện tốt chủ trương này đòi hỏi các
cơ quan chức năng phải nhanh chóng xây dựng các chính sách cụ thể, quy định chặt
chẽ vấn đề này như một nội dung quan trọng trong khuôn khổ định hướng chung
chiến lược phát triển TTĐC ở nước ta. Chính sách tài chính rõ ràng đối với các
phương tiện TTĐC sẽ cho phép các cơ quan hoạt động TTĐC có sự chủ động trong
mỗi kế hoạch phát triển của đơn vị mình, từ đó có được hiệu quả cao nhất trong
công tác.
Tóm lại, có thể thấy rằng đã đến lúc chúng ta cần xây dựng một chiến lược
phát triển TTĐC ở tầm vĩ mô nhằm đảm bảo một định hướng phát triển rõ ràng,
nhất quán của bản thân hoạt động TTĐC trên cơ sở sự phát triển đồng bộ, toàn diện
ở tất cả các lĩnh vực liên quan đến hoạt động TTĐC. Chúng tôi cho rằng sự cần thiết
và tầm quan trọng trong việc có một chiến lược phát triển TTĐC chính ở chỗ nó cho
phép tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát huy cao nhất tính chủ động sáng tạo
và khả năng hoạt động độc lập của các phương tiện TTĐC song vẫn phải đảm bảo
sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Đảng. Một chiến lược phát triển hợp lý là
điều kiện then chốt để các phương tiện TTĐC có sự phát triển mạnh mẽ và đúng
hướng, thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước,
giữ vững vai trò là lực lượng chiến đấu của Đảng trên mặt trận tưởng, là công cụ
quản lý có hiệu quả của Nhà nước và diễn đàn tin cậy của nhân dân.
3.1.2. Phát triển hệ thống thông tin đại chúng trên cơ sở qui hoạch hợp
lý
Sự qui hoạch hợp lý là cơ sở nền tảng của mọi quá trình phát triển bền vững.
Sự phát triển của một tổ chức ở trình độ càng cao thì càng đòi hỏi các bộ phận cấu
thành của tổ chức đó phải được chuyên môn hoá và sắp xếp hợp lý về vai trò, chức
năng nhằm tạo ra sự đồng bộ và nhịp nhàng trong mỗi hoạt động của cả tổ chức đó.
Do đó, trong việc xây dựng và phát triển TTĐC không thể xem nhẹ vấn đề qui
hoạch hợp lý.
Trước hết là vấn đề qui hoạch hệ thống trang thiết bị truyền thông. Hiện nay
vấn đề còn chưa được chú trọng đúng tầm mức, vẫn còn tình trạng phân bổ thiết bị
không đồng bộ. Trong bối cảnh kinh phí Nhà nước cấp cho hoạt động TTĐC còn rất
hạn hẹp, rõ ràng thực trạng trên là một vấn đề rất cần được xem xét. Hiện nay, sự
thiếu qui hoạch hợp lý về hệ thống trang thiết bị đang đặt ra không ít những khó
khăn cả trong việc khai thác hiệu quả đầu tư lẫn trong việc nâng cao chất lượng
quản lý và vận hành trong nhiều cơ quan hoạt động truyền thông. Chúng ta đều biết
rằng, phần lớn các thiết bị phục vụ hoạt động TTĐC đều rất đắt tiền và phải nhập
ngoại, việc một cơ quan truyền thông đầu tư cho một thiết bị mà không khai thác
công suất rõ ràng là lãng phí rất lớn. Đó là chưa nói đến những vấn đề phát sinh
trong khâu quản lý và vận hành. Trong khi đó nhiều nơi khác yêu cầu công việc đòi
hỏi phải có những thiết bị hiện đại, công suất lớn nhưng vì lý do kinh phí đành phải
chờ đợi, tiếp tục chấp nhận lãng phí thời gian và nhân lực vào việc khắc phục, tận
dụng thiết bị chất lượng thấp để làm việc hoặc ép thiết bị hoạt động quá công suất
thiết kế dẫn đến thực tế nhiều máy móc bị giảm tuổi thọ nhanh chóng. Về mặt quản
lý nhà nước, rõ ràng đây là một mâu thuẫn cần nhanh chóng được khắc phục đảm
bảo nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các phương tiện TTĐC ở nước ta.
Chúng tôi cho rằng đã đến lúc chúng ta cần tiến hành một cuộc tổng kiểm kê
để qui hoạch lại một cách hợp lý hệ thống thiết bị TTĐC trong cả nước. Để thực
hiện tốt công việc này, chúng ta cần nhanh chóng tiến hành các khâu rà soát, khảo
sát, đánh giá tình hình thực tế và hệ thống trang thiết bị của các cơ quan hoạt động
TTĐC trong cả nước và yêu cầu nhiệm vụ của những cơ quan này để trên cơ sở đó
có những kết luận cụ thể làm cơ sở cho việc tiến hành qui hoạch lại hệ thống trạng
thiết bị phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ từng cơ quan, địa phương.
Vấn đề thứ hai là việc qui hoạch lại bộ máy nhân sự. Trong những năm vừa
qua do những điều kiện lịch sử bắt buộc, chúng ta chưa thể tập trung xây dựng và
bỗi dưỡng một cách có hệ thống, có bài bản một ĐNCB làm công tác báo chí,
TTĐC. Phần lớn anh chị em và các đồng chí đang phục vụ trong ngành hiện nay
đều trưởng thành từ trong những công việc cụ thể của thực tiễn cách mạng, đã từng
tham gia hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau và sau đó vì yêu cầu công tác mà
chuyển sang tham gia hoạt động TTĐC. Trên thực tế, bộ máy nhân sự của chúng ta
còn chưa được phân bổ, qui hoạch hợp lý. Vẫn còn hiện tượng chỗ thì phải thường
xuyên "gồng" lên để phục vụ yêu cầu công tác, chỗ khác thì không ít người "ngồi
chơi xơi nước". Đây chính là vấn đề đang cần phải nghiêm túc xem xét đánh giá lại
và có những giải pháp cụ thể để nhanh chóng sắp xếp, qui hoạch lại nhân sự một
cách hợp lý nhằm phát huy cao nhất tiềm năng nguồn lực con người trong công tác
TTĐC.
Qua nghiên cứu, khảo sát chúng tôi nhận thấy hiện nay đang nổi lên hiện
tượng phần lớn các phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên đều tập trung ở một số
thành phố, Thủ đô, một số đài, báo lớn, thậm chí nhiều người trong số này không ở
trong quân số biên chế mà chỉ mới ăn lương hợp đồng hoặc cộng tác viên. Trong
khi đó, ở các cơ quan TTĐC địa phương tình trạng thiếu hụt nhân sự lại hết sức
trầm trọng. Sở dĩ có hiện tượng này là do phần lớn các phóng viên, biên tập viên, kỹ
thuật viên…cho rằng tham gia hoạt động ở các cơ quan, đài báo lớn ở các đô thị thì
có nhiều cơ hội phát triển và điều kiện làm việc tốt hơn so với các địa phương, do
đó họ có điều kiện để nâng cao năng lực chuyên môn và mức sống. Một số cơ quan
thì tập trung quá nhiều cán bộ chuyên môn tới mức phải sắp xếp họ sang làm những
công việc không đòi hỏi khả năng nghiệp vụ, trong khi đó ở nhiều cơ quan khác thì
lại thiếu quá nhiều cán bộ nắm vững trình độ nghiệp vụ. Thực trạng này, cộng với
một số nguyên nhân khác, đang tạo ra một khoảng cách khá lớn về chất lượng của
sản phẩm truyền thông giữa các cơ quan TTĐC trong nước.
Để phát triển hệ thống phương tiện TTĐC theo hướng dần nâng cao năng lực
và hiệu quả hoạt động của chúng, không thể không coi trọng vấn đề qui hoạch bộ
máy nhân sự một cách hợp lý. Việc quy hoạch đó phải gắn liền với những chính
sách, biện pháp để phân bổ lại nguồn lực con người trong hệ thống các cơ quan
TTĐC trong cả nước. Trong đó, cần chú trọng tới các chính sách đầu tư, đãi ngộ
công bằng và thoả đáng giữa TW và địa phương, giữa các đơn vị hoạt động TTĐC
với nhau để tạo ra một sự mất cân bằng hợp lý về nhân sự giữa các cơ quan này.
Một vấn đề khác, liên quan đến việc quy hoạch hoạt động TTĐC, không thể
không đặt ra là vấn đề tổ chức và cơ chế làm việc của hệ thống các cơ quan quản lý
hoạt động TTĐC ở nước ta hiện nay. Các cơ quan này bao gồm: các cấp uỷ đảng,
Bộ Văn hoá - Thông tin, Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh, huyện…làm nhiệm vụ quản
lý, điều hành, kiểm tra và giám sát hoạt động TTĐC nói chung. Hiện nay, giữa các
cơ quan này vẫn còn tồn tại hiện tượng các chỉ thị, hướng dẫn chồng chéo, thậm chí
nhiều khi mệnh lệnh không được thực thi do sự triệt tiêu lẫn nhau, gây cản trở đến
hoạt động TTĐC. Để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các phương tiện
TTĐC, chúng ta cần phải xác định rõ cơ cấu tổ chức, gỡ bỏ bớt sự chồng chéo, cản
trở đối với sự phát triển độc lập của bản thân phương tiện TTĐC. Yêu cầu đặt ra là
phải xây dựng được cơ cấu tổ chức quản lý hợp lý, sắp xếp và phân công, phân
nhiệm rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ và phạm vi quản lý của từng cơ quan, đơn vị.
Cuối cùng là việc quy hoạch, phân bổ hợp lý vốn đầu tư cho từng đơn vị hoạt
động truyền thông, ngay trong một cơ quan cũng cần phải có sự quy hoạch, phân bổ
tài chính hợp lý đối với từng chương trình, từng loại sản phẩm truyền thông, trên
mỗi lĩnh vực cụ thể. Việc quy hoạch vốn đầu tư hợp lý sẽ giúp tạo điều kiện thuận
lợi cho sự vươn lên của những cơ quan truyền thông ở những địa bàn được ưu tiên,
cũng như các lĩnh vực, chương trình truyền thông có nhiều tiềm năng phát triển,
đồng thời giảm sự lãng phí ở những chỗ không cần thiết, tránh sự phình to, cồng
kềnh của bộ máy nhân sự, quản lý.
3.1.3. Vừa phát triển vừa quản lý và vận hành, bảo đảm phát huy cao nhất
năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống thông tin đại chúng
Trong xã hội hiện đại, phương tiện TTĐC là một nhu cầu phổ biến như
những nhu cầu cơ bản khác của xã hội như: nhu cầu được có việc làm, nhu cầu
được chăm sóc sức khoẻ; nhu cầu được hưởng một nền giáo dục cơ bản, nhu cầu
được bảo hiểm…Song mặt khác, tất cả những như cầu trên chỉ thực sự được cảm
nhận và trở thành những nhu cầu xã hội thực sự khi chúng được đặt trong một môi
trường thông tin đầy đủ, nơi mà các phương tiện TTĐC đóng vai trò quyết định.
Điều đó cho thấy TTĐC là một nhu cầu xã hội đặc biệt bởi nó không tồn tại và phát
triển độc lập như những nhu cầu xã hội khác, mà có ý nghĩa bao trùm, tạo thành một
môi trường, trong đó có sự phát triển của những nhu cầu xã hội khác. Đồng thời, sự
phát triển của những nhu cầu xã hội khác lại trở thành động lực thúc đẩy sự phát
triển của bản thân hoạt động TTĐC. Thông qua những chức năng riêng có của
mình, các phương tiện TTĐC phản ánh sự phát triển của cơ chế xã hội. Đồng thời,
trình độ mà các phương tiện TTĐC phản ánh các nhu cầu xã hội (thể hiện ở khả
năng mô tả, phân tích, bình luận và dự báo) lại trở thành thước đo trình độ phát triển
của bản thân hoạt động TTĐC.
Một trong những yếu tố bên trong hết sức quan trọng quyết định đến sự phát
triển của phương tiện TTĐC chính là trình độ quản lý đối với bản thân hoạt động
TTĐC. Để phát triển hệ thống TTĐC, nâng cao hiệu quả tác động của thông tin đối
với đời sống xã hội, thì một trong những điều kiện bắt buộc là phải song song xây
dựng được một bộ máy quản lý và điều hành tốt. Bộ máy quản lý và điều hành tốt
cho phép tất cả các cấu thành của bộ máy truyền thông hoạt động nhịp nhàng, từng
bước vận động và phát triển phù hợp với thực tiễn khách quan, phù hợp với trình độ
phát triển của xã hội. Nếu bộ máy quản lý và điều hành không tốt, thì trước sức ép
của những vấn đề thực tiễn, trong vòng cuốn của các xu thế xã hội khác, khi đó bộ
máy điều hành, quản lý, do năng lực kém hoặc vô trách nhiệm không thể tránh khỏi
sa vào làm ẩu, làm sai và kết cục sẽ là sự chệch hướng hoặc gây ra những tác hại
không thể lường trước đối với toàn bộ xã hội.
Để xây dựng được một bộ máy quản lý và điều hành tốt hoạt động TTĐC
trong tình hình mới đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được một cơ chế quản lý hợp lý
và một bộ máy nhân sự có đủ năng lực. Trong những phần nội dung liên quan,
chúng tôi đã có sự trình bầy cụ thể hơn hai yêu cầu này. ở đây chỉ muốn nhắc lại để
nhấn mạnh thêm những việc phải làm để bảo đảm xây dựng được một bộ máy quản
lý và điều hành tốt hoạt động đặc thù này.
Như vậy, việc mở rộng hành lang thông tin, phát triển hệ thống TTĐC nhất
thiết phải gắn liền với việc không ngừng nâng cao trình độ quản lý và điều hành
những hoạt động đó. Năng lực và hiệu quả tác động đối với xã hội của các phương
tiện TTĐC phụ thuộc trực tiếp và trước hết vào sự phát triển của chính bản thân
TTĐC, trong đó trình độ, năng lực quản lý điều hành hoạt động TTĐC là một khâu
căn bản.
3.2. Xây dựng hành lang pháp lý để tạo cơ sở cho thông tin đại chúng
hoạt động có hiệu quả
Bất kỳ một xã hội nào, một tập thể hay một tổ chức kinh tế - xã hội nào
muốn ổn định và phát triển đều phải được quản lý. Từ trước tới nay, vấn đề quản lý
kinh tế - xã hội bằng pháp luật là một yêu cầu khách quan đối với tất cả các quốc
gia trên thế giới. Vì vậy, xây dựng hành lang pháp lý (Luật báo chí và các văn bản
dưới luật khác) để tạo cơ sở cho TTĐC hoạt động có hiệu quả cao là một đòi hỏi
cấp bách hiện nay.
Nhận thức được ý nghĩa tầm quan trọng của vai trò Luật trong quản lý đất
nước những năm đổi mới gần đây, hoạt động lập pháp của Nhà nước ta có nhiều
tiến bộ. Quốc hội đã xây dựng bổ sung sửa chữa được một loạt các bộ luật quan
trọng khác nhau. Nhưng so với những yêu cầu mà thực tiễn mới đang đặt ra, có thể
nói hệ thống pháp luật hiện nay còn nhiều bất cập. Trong đó đặc biệt là sự thiếu
vắng các Bộ luật về quản lý hoạt động TTĐC như: Luật Báo chí, Xuất bản, Quảng
cáo, Internet, phim ảnh và các văn bản dưới luật khác để quản lý hoạt động TTĐC ở
nước ta.
Với nhận thức đó, xây dựng hành lang pháp lý tạo cơ sở cho cơ quan TTĐC
hoạt động ổn định, trật tự theo khuân khổ của pháp luật là một trong những giải
pháp cấp thiết hiện nay.
Để từng bước xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp lý, đảm bảo nâng cao
vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động TTĐC bằng pháp luật ở nước ta trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay, trước hết cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất là, quán triệt những quan điểm và những nguyên tắc cơ bản của
Đảng về chức năng, nhiệm vụ về vai trò của các cơ quan TTĐC trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay ở nước ta trong quá trình xây dựng các văn bản luật và văn bản dưới
luật. TTĐC là một bộ phận của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Việc phát triển hệ thống TTĐC phải
thể hiện được bản chất tốt đẹp của chế độ. Truyền thông đại chúng phải đáp ứng
được nhu cầu thông tin tích cực, đa dạng, không ngừng mở rộng, nhằm phát triển
con người một cách toàn diện, hiện đại và giữ gìn, phát huy tốt các bản sắc dân tộc.
Thứ hai là, Nhà nước từng bước xây dựng và hoàn chỉnh các chương trình kế
hoạch xây dựng các văn bản luật và các văn bản dưới luật về lĩnh vực TTĐC như
Luật Xuất bản, Luật báo chí, Luật Bản quyền, Luật Quảng cáo, Luật Điện ảnh, luật
về sử dụng mạng Internet,… Quốc hội cần thống nhất các chương trình dự án luật
để phân công các cơ quan chức năng chuẩn bị văn kiện chu đáo theo quy trình dân
chủ đảm bảo khai thác được trí tuệ của nhân dân trong quá trình xây dựng luật. Nhà
nước cần rà soát lại các văn bản pháp luật, xem xét, điều chỉnh bổ sung bãi bỏ những
văn bản không còn phù hợp với thực tế hiện nay, tháo gỡ những cản trở để hoạt động
TTĐC phát triển lành mạnh.
Thứ ba là, hệ thống luật pháp bảo đảm quyền lực thống nhất của Nhà nước
đối với việc quản lý các phương tiện TTĐC trên lãnh thổ nước ta và thể hiện được
quyền lực của NDLĐ trong việc tiếp nhận các thông tin cần thiết và phát biểu các ý
kiến, bày tỏ thái độ, quan điểm đối với các vấn đề chung của xã hội. Đồng thời, tăng
cường phân cấp quản lý các cơ quan TTĐC theo ngành và địa phương. Nhà nước
Trung ương điều hành. Chỉ đạo thống nhất các hoạt động của các cơ quan TTĐC như
cơ quan Báo chí, đài phát thanh, truyền hình, các cơ quan xuất bản, hệ thống viễn thông
quốc gia, hệ thống mạng Internet. Mặt khác, cần phân định rõ chức năng, quyền hạn và
nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành, từng lĩnh vực để tránh chồng chéo về nhiệm vụ
hoặc bỏ trống trận địa.
Thứ tư là, xác định tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp công chức, viên chức
hoạt động trên lĩnh vực TTĐC để định hướng cho công tác đào tạo, đào tạo lại và sử
dụng công chức, viên chức theo quy định thống nhất chung của Nhà nước và thống
nhất các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với lực lượng này. Có biện pháp giáo dục cụ
thể để nâng cao ý thức trách nhiệm xã hội và nghĩa cụ công dân của những người
tham gia hoạt động trên lĩnh vực TTĐC.
Thứ năm là, tăng cường phổ biến và giáo dục kiến thức pháp luật về lĩnh vực
TTĐC cho nhân đân để nhân dân biết nhân dân làm, nhân dân kiểm tra. Trong quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường, việc khai thác lợi thế của các phương tiện
TTĐC để tìm nguồn lợi kinh tế (xu hướng thương mại hoá) ngày càng tăng. Vì vậy,
bên cạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho cộng đồng, cần phải tăng cường
hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
của các cơ quan nhà nước đến hoạt động của các cơ quan TTĐC nhằm phát hiện, xử
lý nghiêm khắc và kịp thời các vi phạm pháp luật trong hoạt động này, bảo đảm trật
tự, kỷ cương chung của xã hội. Đồng thời, cần đấu tranh kiên quyết với sự xâm
nhập thông tin phản văn hoá, phản dân tộc từ bên ngoài tràn vào, đấu tranh chống
âm mưu "diễn biến hoà bình" trên lĩnh vực thông tin.
Như vậy, tăng cường quản lý các hoạt động TTĐC bằng pháp luật là yêu cầu
tất yếu hiện nay ở nước ta. Việc sớm ban hành những bộ luật và văn bản dưới luật
đã nêu trên là việc làm cần thiết nhằm lập lại trật tự trong các lĩnh vực này, tạo điều
kiện cho sự phát triển lành mạnh, đúng hướng, từng bước đưa các hoạt động có liên
quan đến truyền thông, hoạt động truyền thông đi vào nền nếp, phát huy mặt tích
cực và thế mạnh vốn có để phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu xã hội.
3.3. Mở rộng, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng nội dung, hình thức
thông tin
3.3.1. Mở rộng hành lang thông tin trên cơ sở có sự định hướng tối ưu
Mở rộng, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng cũng như hình thức thông tin
là sự lựa chọn tất yếu để hoạt động TTĐC tiến kịp được với sự phát triển không
ngừng trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong những
điều kiện thực tế ở nước ta hiện nay, việc mở rộng, đa dạng hoá nội dung và hình
thức thông tin phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng ở sự nhất quán về định
hướng chính trị, tư tưởng và sự chọn lọc định hướng địa bàn tối ưu.
Để thực hiện điều đó, trước hết chúng ta cần chú trọng việc khảo sát cụ thể
những điều kiện thực tế về địa lý, điều kiện dân cư và cơ sở hạ tầng kỹ thuật để trên
cơ sở đó xây dựng định hướng tối ưu về mô hình và thể loại phương tiện truyền
thông nhằm đáp ứng cao nhất những nhiệm vụ công tác và phát huy triệt để những
thế mạnh, khả năng vốn có của các phương tiện TTĐC ở nước ta. Với những điều
kiện địa lý, tự nhiên và dân cư đa dạng, cơ sở hạ tầng phát triển không đồng đều,
hoạt động TTĐC ở nước ta nhất định cũng phải đa dạng hoá các mô hình truyền
thông của mình cho phù hợp với thực tiễn. Vùng đồng bằng tập trung nhiều cư dân
và cơ sở hạ tầng giao thông, liên lạc tốt cho phép phát triển mạnh và toàn diện các
mô hình, thể loại phương tiện TTĐC (Báo in, phát thanh, truyền hình, sách,…),
song ở những vùng sâu, vùng xa điều kiện đi lại khó khăn, dân cư thưa thớt, nhiều
nơi thậm chí còn chưa có điện, hoặc số người biết chữ không nhiều, thì rõ ràng sự
phát triển của báo hình, báo in là hạn chế hơn so với thế mạnh của phát thanh,
truyền hình. Những đặc điểm đa dạng về tự nhiên, dân cư, phong tục tập quán và cơ
sở hạ tầng cũng đòi hỏi các phương tiện TTĐC phải xác lập các thứ bậc ưu tiên
khác nhau về qui mô của phương tiện truyền thông, về mô hình truyền thông, về nội
dung và hình thức của chương trình, sản phẩm truyền thông đối với từng địa
phương, từng vùng, từng nhóm dân cư.
Để nâng cao hiệu quả của TTĐC, việc mở rộng, đa dạng hoá thông tin cũng
đòi hỏi chúng ta cần phải quan tâm đến mức độ chuyên biệt hoá đối tượng theo các
lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Trên thực tế, sự chuyên biệt hoá đối tượng
của thông tin ở những lĩnh vực cụ thể cũng là một hình thức định hướng tối ưu -
định hướng tối ưu về đối tượng truyền thông.
Việc xác định tối ưu về đối tượng truyền thông đòi hỏi phải chú trọng vào
việc đầu tư, xây dựng các chương trình, sản phẩm truyền thông tập trung chỉ vào
một số mảng đề tài trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội mà TTĐC của nước ta
có thế mạnh của người trong cuộc, có năng lực vượt trội hơn hẳn các phương tiện
TTĐC nước ngoài. Đó là một khả năng thực tế bởi vì chúng ta là chủ thể thực tiễn
chính trị, xã hội của đất nước, là những người có điều kiện đi sâu, nắm sát đời sống
hiện thực. Chỉ bằng cách phát huy triệt để những thế mạnh đó chúng ta mới có cơ
sở để phát triển nền TTĐC, đáp ứng đúng và trúng nhu cầu thông tin của quần
chúng trong nước. Trong điều kiện hoạt động TTĐC trong nước luôn chịu sức ép
trực tiếp của các phương tiện TTĐC nước ngoài, chúng ta càng cần phải luôn tỉnh
táo, nắm vững thế mạnh, điểm yếu của chúng ta cũng như của các phương tiện
TTĐC nước ngoài, trên cơ sở đó mà định ra những bước đi cụ thể, chủ động và sáng
tạo. Nói cách khác, chúng ta phải hoạch định được một lộ trình phát triển nhất quán,
rõ ràng cho sự phát triển của các phương tiện TTĐC. Cụ thể là chú trọng đầu tư
trước hết vào các chương trình, sản phẩm truyền thông có mục đích thiết thực, đáp
ứng sự mong đợi của đông đảo quần chúng, nhất định không thể vì tâm lý ganh đua,
nóng vội mà chạy theo các mô hình truyền thông của các phương tiện TTĐC nước
ngoài. Về lâu dài, khi các chương trình, sản phẩm TTĐC của chúng ta đa giành
được thị phần, giành được sự quan tâm ủng hộ của quần chúng, lúc đó chúng ta sẽ
mở rộng, làm giầu thêm các chương trình thông tin của mình. Đó là sự lựa chọn
không thể khác đối với hoạt động TTĐC của nước ta trong thời gian tới.
3.3.2. Đa dạng hoá hoạt động thông tin đại chúng phù hợp với các nhu
cầu xã hội khác nhau
Bên cạnh việc định hướng tối ưu về địa bàn truyền thông và đối tượng phản
ánh, để nâng cao hiệu quả của TTĐC đối với đời sống xã hội, các phương tiện
TTĐC ở nước ta cũng cần phải đa dạng hoá các hoạt động của mình cho phù hợp
với các nhu cầu và thị hiếu khác nhau.
Trước hết là việc đa dạng hoá hoạt động TTĐC cho phù hợp với các đối
tượng ở các lứa tuổi khác nhau. Cần chú trọng tập trung xây dựng các chương trình
hướng vào phục vụ các đối tượng cụ thể như: chương trình phục vụ thiếu nhi, phục
vụ thanh niên, các chương trình giành cho người cao tuổi,… Mặc dù đều là đối
tượng của các sản phẩm, chương trình truyền thông, song do công chúng là những
bộ phận khác nhau về lứa tuổi, do đó nhu cầu của họ cũng khác nhau. Việc tập
trung khảo sát, phân tích và đánh giá các nhu cầu, thị hiếu khác khau của mỗi nhóm
đối tượng truyền thông theo lứa tuổi là một khâu hết sức quan trọng, vì nó giúp cho
việc tập trung xây dựng và triển mô hình và chương trình truyền thông cho có hiệu
quả, phát huy được tối ta những nguồn lực vốn có. Qua nghiên cứu, theo dõi chúng
tôi nhận thấy hiện nay các phương tiện TTĐC của nước ta còn chưa chú trọng nhiều
đến vấn đền này. Phần lớn các chương trình, sản phẩm truyền thông còn chưa phân
định rõ đối tượng lứa tuổi mà mình hướng đến phục vụ. Kết quả là do sự đầu tư thiếu
trọng tâm đã hạn chế hiệu quả truyền thông, không gây được những hiệu ứng xã hội
mong muốn.
Sự phù hợp về mặt lứa tuổi chỉ là một điều kiện của vấn đề. Bởi hiệu quả của
hoạt động TTĐC phụ thuộc trực tiếp vào việc các sản phẩm chương trình của nó có
phù hợp với loại hình của đối tượng phục vụ hay không,… Do đó xét trên tổng thể,
bên cạnh vấn đề phù hợp về mặt lứa tuổi, còn có những điều kiện khác không kém
phần quan trọng là sự phù hợp của sản phẩm, chương trình truyền thông với từng
giới, từng nhóm xã hội. Cùng nhóm lứa tuổi nhưng nhóm công chúng là cán bộ,
công chức có nhu cầu, thị hiếu khác với nhóm đối tượng là doanh nhân. Cũng thế,
nhu cầu và thị hiếu của giới tri thức khác với nhóm những người lao động chân tay
thuần tuý, nhóm người có thu nhập cao có thị hiếu và nhu cầu khác với nhóm có thu
nhập thấp,… Xã hội càng phát triển thì sự phân công lao động càng sâu sắc, do đó
tất yếu dẫn đến sự chia tách về nhu cầu, thị hiếu, quan điểm, thẩm mỹ. Sự khác
nhau giữa các nhóm trong quan hệ với các vấn đề xã hội, trong đó có TTĐC. Thực
tế ở các xã hội phát triển cho thấy, sự phát triển của các phương tiện TTĐC luôn có
xu hướng tập trung sự phản ánh của mình ngày càng sâu vào các vấn đề để phục vụ
các nhóm thị hiếu khác nhau. Điều này dẫn tới thực tế là sự tăng lên ngày càng
nhanh của các chương trình, sản phẩm truyền thông chuyên sâu và sự giảm sút
tương đối của số lượng sản phẩm truyền thông phản ánh những vấn đề chung.
Trong tương lai xa, khi xã hội đã có những sự trưởng thành nhất định, sự hoạt động
của các phương tiện TTĐC nước ta cũng không thể bước ra ngoài xu thế chung đó.
Trong điều kiện mở cửa và phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay, ở nước
ta sự chia tách và phân nhóm xã hội đang diễn ra ở trên tất cả các bình diện xã hội
một cách hết sức nhanh chóng và mạnh mẽ. Do đó, vấn đề đa dạng hoá hoạt động
truyền thông cho phù hợp với các nhu cầu, thị hiếu khác nhau giữa các nhóm xã hội
khác nhau đang ngày càng trở nên cấp thiết và tính chiến lược đối với sự phát triển
của bản thân các phương tiện TTĐC.
Để thực hiện tốt việc đa dạng hoá các hoạt động TTĐC cho phù hợp với nhu
cầu và thị hiếu của các nhóm đối tượng tiếp nhận thông tin, chúng tôi cho rằng cần
phải tiến hành định kỳ những nghiên cứu, khảo sát về xu hướng phát triển của xã
hội về cấu trúc dân số, về trình độ học vấn, về thu nhập,…. Trên cơ sở đó đánh giá,
dự báo thường xuyên về những khuynh hướng, những sự thay đổi trong nhu cầu, thị
hiếu của quần chúng đối với truyền thông, loại hình truyền thông, để có những sự
điều chỉnh cho phù hợp. Sự đa dạng hoá hoạt động TTĐC là con đường phát triển
tất yếu. Song ccon đường đó phải được định hướng, xây dựng trên cơ sở có những
sự khảo sát cụ thể, kỹ lưỡng những dữ liệu cần thiết, cập nhật và tuyệt đối tránh mọi
sự chủ quan duy ý chí.
3.3.3. Mở rộng và nâng cao chất lượng các loại hình nghệ thuật trên
phương tiện thông tin đại chúng
Trong một thế giới đang diễn ra những thay đổi mau chóng dưới tác động
của qúa trình toàn cầu hoá như hiện nay, người ta đã bắt đầu cảm nhận một cách rõ
nét sự hiện diện của một không gian thông tin toàn cầu. Điều đó cũng có nghĩa là,
cùng với sự lựa chọn mở cửa và hội nhập quốc tế của các quốc gia, các hoạt động
TTĐC của một quốc gia sớm muộn cũng sẽ phải hội nhập vào nền truyền thông
chung của thế giới.
Đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển như nước ta hiện nay,
khi TTĐC không có trong tay sức mạnh của tài chính và công nghệ hiện đại như
của các nước tư bản phát triển, thì sức sống của các phương tiện truyền thông đó sẽ
không ở đâu khác ngoài sức mạnh văn hoá và bản sắc. Với nhận thức đó, chúng tôi
nhận định rằng sự lựa chọn tối ưu hiện nay để giữ được chủ quyền quốc gia đối với
các hoạt động TTĐC của mình không có sự lựa chọn nào tốt hơn là từng bước đẩy
mạnh việc “văn hoá hoá" các quá trình, mô hình và sản phẩm của các phương tiện
TTĐC trong nước. Cụ thể là mở rộng và nâng cao chất lượng các loại hình nghệ
thuật trên các phương tiện TTĐC, phải làm sao cho hàm lượng văn hoá, chất nhân
văn trong mỗi sản phẩm truyền thông của chúng ta ngày càng đậm hơn.
Sự lựa chọn cho tương lai của nền TTĐC quốc gia của nước ta trong một thế
giới mà những hàng rào truyền thông của không gian thông tin quốc gia ngày càng
bị xoá nhoà, phải là một mô hình truyền thông đáp ứng được những điều kiện đó là:
* Hiện đại song vẫn đậm nét truyền thống
* Sản phẩm truyền thông có hàm lượng giá trị nhân văn cao.
* Thống nhất giữa tính giai cấp, dân tộc và nhân loại.
* Hội nhập và giữ vững bản sắc.
Khi xã hội phát triển ở trình độ ngày càng cao, những giá trị được chia rẽ ở
các quốc gia, dân tộc sẽ lắng đọng trở thành những giá trị phổ biến và chính sự hiện
diện thường xuyên một cách phổ biến của những giá trị đó, đặc biệt là trên các
phương tiện TTĐC, ở mức độ nào đó, sẽ tự nhiên trở nên quen thuộc đến mức
người ta chẳng có ý định phải tìm kiếm chúng. Khi đó sự khát khao sẽ giành cho
những giá trị truyền thống. Bởi vì, xét đến cùng cho dù quá trình toàn cầu hoá có
diễn ra sâu sắc đến mức trái đất trở thành một cái "làng thông tin" thì mỗi con người
vẫn phải được sinh ra, sống và làm việc ở một khu vực địa lý nhất định với những
truyền thống và bản sắc văn hoá riêng của vùng đó.
Việt Nam là một nước có truyền thống và bản sắc văn hoá lâu đời. Đây là
kho tài nguyên vô giá mà ông cha để lại, hôm nay chúng ta có thể vững vàng và tự
tin bước vào quá trình hội nhập quốc tế mà không sợ bị "hoà tan". Từ nhiều năm
nay, Trung ương Đảng đã ra nhiều nghị quyết chỉ đạo việc giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc. Song qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các hoạt động
TTĐC của nước ta hiện nay vẫn chưa thực sự đưa ra được những giải pháp, bước đi
rõ ràng và nhất quán, chú trọng đầu tư để không ngừng mở rộng và nâng cao chất
lượng của các loại hình nghệ thuật dân tộc vốn rất giàu chất văn hoá và mang bản
sắc tiêng của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Thực tế là trên các phương tiện
TTĐC của nước ta hiện nay còn quá thiếu vắng các sản phẩm, chương trình truyền
thông, các loại hình nghệ thuật chứa đựng những giá trị văn hoá truyền thống. Đây
là vấn đề rất cần được sự quan tâm. Bởi vì, ngoài ý nghĩa giáo dục, bản thân việc sử
dụng sức mạnh của các phương tiện TTĐC để giữ gìn và phát triển các giá trị văn
hoá, nghệ thuật truyền thống, nuôi dưỡng thường xuyên sự yêu thích và lòng tự hào
của quần chúng đối với các giá trị văn hoá truyền thống cũng là một cách thức có
hiệu quả để thu hút sự quan tâm của quần chúng đối với các chương trình, sản phẩm
truyền thông trong nước. Rõ ràng đó cũng là một sự lựa chọn khả thi để từng bước
mở rộng thị phần truyền thông. Bởi vì, nếu những sản phẩm, chương trình truyền
thông mà các phương tiện TTĐC phát đi thực sự chứa đựng những giá trị nghệ thuật
và văn hoá cao, thì sự yêu thích những loại hình nghệ thuật đó, quần chúng, khán
thính giả nhất định sẽ giành sự quan tâm, ưu ái đến các phương tiện TTĐC trong
nước.
Do đó, việc mở rộng và nâng cao chất lượng các loại hình nghệ thuật, nâng
cao hàm lượng "văn hoá" trong các sản phẩm truyền thông là sự lựa chọn có ý nghĩa
thiết thực trong bối cảnh khi, mà chúng ta phải đấu tranh chống những tác động tiêu
cực của các phương tiện TTĐC nước ngoài cạnh tranh giành giật thị phần truyền
thông. Đồng thời, về lâu dài, đó cũng là sự lựa chọn tất yếu cho sự phát triển bền
vững và bảo vệ chủ quyền truyền thông quốc gia khi sự độc quyền về không gian
thông tin bị thu hẹp do tác động của toàn cầu hoá.
3.3.4. Tạo điều kiện để nhanh chóng cung ứng một cách rộng khắp các
phương tiện thu nhận thông tin
Để nâng cao hiệu quả tác động của các phương tiện TTĐC đối với đời sống
xã hội, một mặt chúng ta cần chú trọng cải thiện và nâng cao chất lượng của các sản
phẩm thông tin, da dạng hoá nội dung và hình thức, cũng như mô hình, cách thức
truyền tin để phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của quần chúng. Mặt khác, cũng cần
phải có những biện pháp cụ thể để giúp người dân có điều kiện thực tế tiếp nhận
những thông tin đó, nhất là đối với nhân dân các vùng sâu, vùng xa, điều kiện giao
thông đi lại khó khăn và đời sống kinh tế còn chưa cao. Hiệu quả của hoạt động
TTĐC chỉ thực sự có được khi những thông tin phát ra đến được với đối tượng của
nó. Do đó, làm thế nào để mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện tiếp nhận thông
tin là một vấn đề bức xúc ở nước ta hiện nay. Vấn đế này sẽ không thể được giải
quyết trọn vẹn nếu không có những giải pháp kinh tế, xã hội cụ thể.
Chúng tôi cho rằng, trước hết các cơ quan chức năng cần có những biện pháp
kinh tế mà thiết thực nhất là trợ giá cho các nhà cung cấp thiết bị thu nghe - nhìn để
họ có thể cung cấp các thiết bị này với giá ưu đãi cho người sử dụng ở các vùng sâu,
vùng xa còn khó khăn về kinh tế và kể cả bộ phận dân cư có thu nhập thấp ở các
vùng đồng bằng. Hiện nay biện pháp này đã được áp dụng có hiệu quả ở Việt Nam.
Với chính sách trợ giá, Chính phủ uỷ quyền cho một số cơ quan chức năng trực tiếp
đứng ra mua gom các thiết bị thu thanh từ các xí nghiệp lắp ráp điện tử trong nước
rồi bán lại cho nhân dân vùng sâu, vùng xa với giá thấp, tạo điều kiện cho người
dân có được những thiết bị tối thiểu để tiếp nhận thông tin từ các đài phát thanh.
Đây là biện pháp rất đáng được phát huy, bởi vì trên thực tế nó không chỉ giúp cho
nhân dân các vùng sâu, vùng xa có được thiết bị nhận tin mà về mặt kinh tế còn
kích thích sản xuất trong nước, tạo ra việc làm thông qua cơ chế phân phối lại tài
nguyên giữa các vùng mà Chính phủ là người trung gian dàn xếp. Những điều kiện
thực tế của nước ta hiện nay hoàn toàn cho phép áp dụng rộng rãi biện pháp này để
giúp người dân có thu nhập thấp có được phương tiện thu nhận thông tin, từ đó
nâng cao hiệu quả của hoạt động TTĐC đối với đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ những người làm
công tác tuyên giáo. Đây là một ĐNCB năng động, nhiệt tình và không quản khó
khăn. Họ có nhiệm vụ đi vận động, giác ngộ quần chúng nhân dân hiểu và ủng hộ
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước. Nhiệm vụ của họ
hiện nay nặng nề về tuyên truyền, giáo dục và hoạt động chủ yếu theo các đợt
truyên truyền. Chúng tôi cho rằng, nên sử dụng ngay ĐNCB tuyên giáo để chuyển
tải thông tin đến với quần chúng. Những người này chịu trách nhiệm nhận các tin
tức hàng ngày, hàng tuần rồi phổ biến lại cho nhân dân địa phương, những người
không có điều kiện tiếp cận các phương tiện thông tin. Lực lượng cán bộ thông tin
chịu trách nhiệm trước cơ quan về nội dung thông tin mà họ chuyển đến với nhân
dân. Do đó, họ phải có trách nhiệm thông tin một cách trung thực không bóp méo.
Đây là một cách thức có hiệu quả trong việc góp phần hình thành một hệ thống
truyền tin trong cả nước khi chúng ta chưa có điều kiện để ngay lập tức phát triển
một hệ thống chuyển tải thông tin hiện đại, rộng rãi.
Những biện pháp phụ trợ thêm là xây dựng, tổ chức các câu lạc bộ, nhà văn
hoá, thư viện, trạm phát thanh, thành lập các đội tuyên truyền, các nhóm chiếu bóng
lưu động,… Những nơi đã có các hình thức sinh hoạt văn hoá này nên được tập
trung đầu tư thêm để củng cố, hoàn thiện chức năng thông tin của các tổ chức này.
Đây là những giải pháp tích cực, có thể thực hiện. Chúng tôi thấy rằng, là một nước
còn tương đối lạc hậu, trình độ dân trí thấp, nhất là những bộ phận người dân sống ở
các vùng sâu, vùng xa ít có điều kiện tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Do đó, trước
khi chúng ta triển khai các kế hoạch thiết lập một mạng lưới truyền thông hiện đại
cũng cần có những bước quá độ để làm sao trong mỗi người dân hình thành dần thói
quen nhận thông tin từ thế giới bên ngoài những làng, bản thân thuộc của họ. Nói
cách khác, đây cũng là giải pháp cần thiết để khơi dậy nhu cầu được nhận thông tin
của bộ phận những người dân vốn chưa biết thông tin là gì.
Như vậy, việc tạo ra một môi trường thuận lợi để cho đại đa số người dân có
cơ hội và điều kiện thuận lợi để tiếp cận và thu nhận thông tin trong những điều
kiện thực tế hiện nay là một vấn đề bức xúc, đòi hỏi sự quan tâm chỉ đạo và phối
hợp của nhiều ban ngành.
3.4. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin đại chúng
Trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng XHCN, chúng
ta đang rất cần nguồn nhân lực có chất lượng cao. Do đó, vấn đề đào tạo ĐNCB đủ
năng lực và phẩm chất trong công tác đang là một vấn đề được quan tâm và ưu tiên
hiện nay. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ mục
tiêu của giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và tay nghề, có năng lực thực hành,
tự chủ, năng động, sáng tạo,… Đối với hoạt động TTĐC nói riêng, công tác cán bộ
cũng đang nổi lên như một vấn đề quan trọng và cấp bách.
3.4.1. Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hiện có
Theo thống kê, hiện nay có khoảng hơn 12.410 nhà báo tham gia hoạt động
TTĐC trong các cơ quan, tổ chức. Đây là lực lượng chủ chốt của ngành, những
người đang ngày đêm góp công sức làm ra những sản phẩm, chương trình truyền
thông để phục vụ quảng đại quần chúng nhân dân. Nhìn chung họ đều là những
người có tâm huyết, có năng lực, chủ động sáng tạo trong công tác và được quần
chúng tin yêu. Hơn nữa đây là đội ngũ những người đã có nhiều kinh nghiệm thực
tiễn, từng lăn lộn với cuộc sống và không ít người trong số họ đã trải qua những
năm tháng chiến tranh ác liệt. Họ hiểu được những giá trị, thành quả mà cách mạng
mang lại cho cuộc sống hôm nay, do đó những gì họ viết, họ nói trong mỗi tác
phẩm truyền thông của mình đều có sức mạnh của thực tiễn cuộc sống. Đây là một
vốn rất quý của sự nghiệp báo chí. TTĐC của đất nước, không dễ gì có được. Tuy
nhiên, TTĐC là sự nghiệp quần chúng, sự nghiệp của TTĐC gắn liền với sự phát
triển của xã hội, do đó đội ngũ những người hoạt động trong đó cũng phải thường
xuyên được bồi dưỡng để đáp ứng được những đòi hỏi của yêu cầu thực tiễn.
Sự tiến bộ nhanh chóng của các phương tiện kỹ thuật và công nghệ truyền
thông hiện đại đã làm cho đội ngũ những người hoạt động báo chí hiện nay ở nước
ta bị lạc hậu đi tương đối nhanh vì họ ít có được cơ hội để tiếp cận với kỹ thuật hiện
đại. Trong khi đó, đội ngũ những người làm công tác báo chí, TTĐC hiện nay phần
lớn đều xuất thân từ các ngành nghề khác nhau, do yêu cầu công tác mà chuyển
sang tham gia hoạt động báo chí, TTĐC. Họ còn thiếu kiến thức về nghiệp vụ báo
chí. Những kiến thức họ có được ngày nay chủ yếu do tích luỹ từ kinh nghiệm thực
tế trong công tác. Sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ TTĐC hiện đại đã làm cho đội
ngũ những người hoạt động báo chí hiện nay trở nên tụt hậu. Họ bị "dốt" đi tương
đối vì không tiến kịp với những đòi hỏi của thực tiễn TTĐC mới. Thực tế đó đòi hỏi
các cơ quan, ban ngành cần nhanh chóng có kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên về
nghiệp vụ cho đội ngũ những người làm công tác TTĐC. Chúng tôi cho rằng, biện
pháp thực tế là thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, hội thảo và trao đổi kinh
nghiệm giữa các nhà báo Việt Nam với những người hoạt động TTĐC của các nước
trong khu vực. Đồng thời, cần tạo điều kiện cho những người hoạt động TTĐC
trong nước có cơ hội được đi thăm quan hoặc theo học các khoá ngắn hạn ở nước
ngoài, sau đó về trao đổi lại với đồng nghiệp ở trong nước, từ đó thu hẹp dần
khoảng cách về trình độ nghiệp vụ giữa các nhà hoạt động truyền thông và các nước
khác trong khu vực và trên thế giới.
Ngoài vấn đề nghiệp vụ, hiện nay trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, sự
xáo trộn của nhiều thang bậc giá trị đang làm tha hoá một bộ phận không nhỏ cán
bộ là công tác trong ngành TTĐC. Vấn đề này thực ra chưa đến mức nghiêm trọng,
song những mầm mống của nó cần phải được nhanh chóng loại bỏ. Bởi vì, từ những
tha hoá về kinh tế dẫn đến sự tha hoá về chính trị là gang tấc. Do đó, vấn đề bồi
dưỡng thường xuyên về phẩm chất đạo đức cho đội ngũ những người đang được
giao trách nhiệm gánh vác sự TTĐC là một việc có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc
biệt.
Một vấn đề cần thiết khác mà những người hoạt động TTĐC hiện nay ở nước
ta cần phải được bồi dưỡng đó là khả năng sử dụng ngoại ngữ. Trước đây, do hoàn
cảnh đất nước chiến tranh, chúng ta chưa có điều kiện để tiếp cận nhiều với ngoại
ngữ, đặc biệt là tiếng Anh. Điều này đã dẫn đến thực tế là phần lớn các cán bộ đang
hoạt động TTĐC hiện nay đều không sử dụng được tiếng Anh, trong khi phần lớn
các tài liệu liên quan đến nghiệp vụ TTĐC hiện đại sẵn có hiện nay đều sử dụng
tiếng Anh, các cuộc hội thảo quốc tế cũng đều dùng tiếng Anh. Do rào cản ngôn
ngữ mà hiện nay đa số đội ngũ những người làm TTĐC đều gặp rất nhiều khó khăn
trong việc tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại của thế giới, khả năng trao đổi
chuyên môn với đồng nghiệp nước ngoài cũng vì thế bị hạn chế rất nhiều. Do đó
ngoại ngữ cũng là vấn đề mà chúng ta cần phải quan tâm bồi dưỡng thường xuyên.
Hiện nay, đội ngũ những người làm báo chí, TTĐC so với yêu cầu nhiệm vụ
thì số lượng còn khiêm tốn. Song, nếu các cơ quan, ban ngành hữu quan biết cách
nâng cao chất lượng của ĐNCB hiện có, bằng cách quan tâm, bồi dưỡng về trình độ
nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức và lý luận chính trị một cách thường xuyên, thì chắc
chắn nền TTĐC của Việt Nam sẽ có một trụ cột vững vàng và ngày càng có thêm
những thành tựu mới.
3.4.2. Đào tạo đội ngũ cán bộ kế cận
Việc đào tạo ĐNCB kế cận là một việc làm luôn được Đảng và Nhà nước
dành nhiều thời gian ưu tiên. Bởi vì, chính lớp người này sẽ là lực lượng chủ chốt
được giao trọng trách tiếp nối cha anh, đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân
tộc đi tiếp chặng đường phía trước. Đối với lĩnh vực TTĐC hiện nay khi vấn đề cán
bộ đang có nhiều bất cập lại trong bối cảnh TTĐT của các nước trên thế giới đang
có những bước phát triển vượt bạc, vấn đề đào tạo ĐNCB kế cận càng có ý nghĩa và
tầm quan trọng đặc biệt của nó.
Nhận thức được ý nghĩa,tầm quan trọng của vấn đề đó, trong những năm gần
đây Đảng ta đã ra nhiều Nghị quyết chỉ đạo hoạt động TTĐC, trong đó đặc biệt là
công tác đào tạo cán bộ kế cận. Các cơ quan TTĐC từ Trung ương đến địa phương
cũng đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng một ĐNCB trẻ, năng động và nhiệt
tâm.
Trong khi đó, trên thế giới hiện nay, kẻ cả một số nước có nền báo chí xuất
hiện lâu đời như Anh, Đức, Pháp, Mỹ đang có những thay đổi lớn thậm chí có tính
cách mạng trong đào tạo nghề làm báo. ở các khoa báo chí các trường đại học lớn
đã xuất hiện những bộ môn mới như tâm lý báo chí, xã hội học báo chí, báo chí về
môi trường... ở Trung Quốc hiện nay có 48 trường đại học, cao đẳng có khoa Báo
chí chuyên ngành. Số học sinh báo chí có mặt tại trường đang học tập trung tới hơn
11 nghìn người. Hội nhà báo Trung Quốc đã mở "Học viện báo chí viên chức" và
"Học viện cán bộ quản lý báo chí Tứ Xuyên" phục vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
báo chí tại chức. Nhờ coi trọng công tác đào tạo cán bộ báo chí mà bây giờ Trung
Quốc có được đội ngũ làm công tác báo chí có phẩm chất tốt và năng lực chuyên
môn nghiệp vụ giỏi, đạt trình độ quốc tế. Đội ngũ này đang hoạt động có hiệu quả
cả trong nước và nước ngoài.
Hiện nay, hàng năm nước ta vẫn gửi một số học sinh sang học tập nghiên
cứu về nghiệp vụ báo chí tại một số nước. Vì vậy, so với yêu cầu nhiệm vụ thì lực
lượng này quá mỏng. Thực tế đó đang làm cho tất cả những người quan tâm đến sự
nghiệp TTĐC hiện nay không khỏi lo lắng. Chúng tôi kiến nghị rằng Đảng, Nhà
nước cần quan tâm nhiều hơn đến vấn đề này, làm sao trong vài năm tới trường đào
tạo nghiệp vụ báo chí của chúng ta tập trung được ĐNCB, giáo viên giàu kinh
nghiệm và có tâm huyết trong việc giảng dạy, tạo điều kiện thuận lợi để họ truyền thụ
lại những tri thức quý giá đã tích luỹ được trong quá trình công tác trên thực tế, với mô
hình đào tạo hợp lý là khâu then chốt đối với sự nghiệp đào tạo cán bộ kế tục sự nghiệp
báo chí cách mạng.
Về chất lượng đào tạo, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải gắn mục tiêu đào
tạo với những yêu cầu của thực tiễn hoạt động TTĐC và xuất phát từ yêu cầu xây
dựng ĐNCB trong tình hình mới. Đội ngũ cán bộ kế tục gánh vác sự nghiệp TTĐC
ở nước ta trong tương lai phải là những người khắc phục được những khiếm khuyết
của những người đi trước. Cụ thể, đội ngũ đó phải là những người có lập trường
chính trị vững vàng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, sử dụng thành thạo ngoại ngữ, đặc
biệt là tiếng Anh, có nền tảng văn hoá và tri thức cao, có phẩm chất đạo đức trong
sáng, khả năng làm việc độc lập và sáng tạo. Muốn có được đội ngũ cán bộ như vậy,
chúng ta cần phải sớm hoạch định một chiến lược tổng thể về chọn lọc, đào tạo và
sử dụng cán bộ, cần xây dựng một mô hình đào tạo chú trọng toàn diện đến đào tạo
tất cả các lĩnh vực:
ngoại ngữ, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học và công nghệ, khoa học
tự nhiên...
Nhân tố con người luôn là khâu then chốt nhất trong những vấn đề then chốt.
Do đó, đào tạo ĐNCB kế cận như thế nào có quan hệ mật thiết đến sự thành bại của
sự nghiệp TTĐC của đất nước trong những thập kỷ tới. Với nhận thức đó, Đảng và
Nhà nước cần dành sự quan tâm sát sao hơn nữa đến vấn đề này, làm sao trong
tương lai đội ngũ những người kế tục sự nghiệp báo chí cách mạng có thể có đủ bản
lĩnh như cha anh họ vững bước đưa đất nước hội nhập vào thế giới.
3.4.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý
Công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐNCB lãnh đạo, quản lý báo chí luôn có ý
nghĩa quan trọng và cấp bách. Nhưng từ trước tới nay, ở nước ta chưa có quy hoạch,
kế hoạch đào tạo mà chủ yếu chọn lọc và bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý bằng
hai nguồn:
- Lựa chọn, đề bạt cán bộ đang hoạt động trong bộ máy tổ chức đảng, trong
các đoàn thể, trong một số cơ quan chính quyền có quan hệ gần gũi với công tác
chính trị - tư tưởng như các cơ quan văn hoá - giáo dục, ... sang quản lý các cơ quan
báo chí. Số cán bộ này xuất phát từ những nghề nghiệp khác nhau, có nhiều kinh
nghiệm thực tiễn cuộc sống và quản lý hành chính. Tuy nhiên, họ thiếu hiểu biết cơ
bản về báo chí. Họ buộc phải tự học, tự làm quen những tri thức liên quan đến nghề
nghiệp báo chí trong quá trình làm việc.
- Lựa chọn, bồi dưỡng dần dần những người làm báo, có kinh nghiệm nghiệp
vụ, đưa họ vào những vị trí hoạt động quản lý ở phạm vi nhỏ, cấp thấp để bồi
dưỡng, rèn luyện. Qua thử thách về khả năng quản lý, được sự tín nhiệm của đồng
nghiệp, những người này sẽ dần dần được xếp vào các vị trí quản lý cơ quan báo chí
cao hơn. Số cán bộ này có thuận lợi trong việc tổ chức, quản lý hoạt động chuyên
môn.
Phần đông cán bộ được lựa chọn theo hai hướng trên có sự thiếu hụt các tri
thức về quản trị kinh doanh. Trong khi cơ chế thị trường, một bộ phận không nhỏ
các cơ quan báo chí đã phải hoạt động độc lập, tự trang trải kinh phí để đảm bảo
vừa duy trì nội dung vừa tự nuôi dưỡng đội ngũ của mình. Vi vậy, tri thức quản trị
kinh doanh một loại hình hoạt động đặc biệt như báo chí đã trở thành đòi hỏi khách
quan đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý báo chí.
Từ thực tế hoạt động TTĐC cũng như kinh nghiệm của một số nước trên thế
giới, có thể thấy những tri thức cần thiết cho một số cán bộ quản lý chủ chốt của cơ
quan TTĐC bao gồm ba bộ phận gắn bó hữu cơ với nhau:
- Những tri thức văn hoá - chính trị - xã hội: bao gồm những hiểu biết về các
quan hệ chính trị - kinh tế - xã hội; những quy luật phổ biến của lịch sử và đời sống
xã hội hiện đại; những kinh nghiệm cuộc sống thực tế và khả năng giao tiếp xã hội...
- Những tri thức về nghề nghiệp, bao gồm những hiểu biết cơ bản về lý luận
TTĐC, những kỹ năng chính trong hoạt động nghề nghiệp; về nguyên lý hoạt động
cũng như khả năng sử dụng các phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ...
- Những tri thức về quản trị kinh doanh, bao gồm: Sự hiểu biết về đặc điểm,
tính chất hoạt động của các loại hình cơ quan TTĐC, các khả năng, phương pháp
điều hành và thiết lập các mối quan hệ trong nội bộ cơ quan; hiểu biết về quan hệ
tác động giữa TTĐC với xã hội; các khả năng kinh doanh TTĐC phù hợp với môi
trường xã hội và mục tiêu định hướng về nội dung; các khả năng, phương pháp tổ
chức thực hiện quá trình hạch toán kinh doanh đối với các sản phẩm báo chí cụ
thể...
Khả năng tiếp nhận và tự hoàn thiện những tri thức cần thiết này một mặt tuỳ
thuộc vào khả năng vốn có của mỗi cá nhân như là trí thông minh, năng khiếu, các
phẩm chất tâm lý. Mặt khác, phải qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng để hoàn thiện
kiến thức và kỹ năng cho các cán bộ quản lý TTĐC
tương lai.
Để đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng ĐNCB quản lý TTĐC, trước hết cần
phải có một cơ quan khoa học chủ trì. Cơ quan này sẽ là một trung tâm tổng kết
kinh nghiệm quản lý, tập hợp đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học nghiên cứu về
TTĐC, tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định phương hướng, kế hoạch và làm
đầu mối tổ chức các quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí.
Giải pháp chuẩn bị cán bộ có thể đi theo hai hướng: Bồi dưỡng và đào tạo.
Bồi dưỡng nhằm vào những người đương chức là chủ yếu và nên tổ chức theo các
chuyên đề có cùng tính chất như các chuyên đề nghiệp vụ báo chí, các chuyên đề
chính trị - xã hội hay các chuyên đề chuyên quản lý - kinh doanh cơ quan TTĐC.
Đào tạo là cách cơ bản nhất, chủ động nhất để chuẩn
bị ĐNCB.
Việc chọn đúng người, có đủ khả năng ở đầu vào để đưa đi đào tạo đòi hỏi
sự quan tâm đầy đủ của cấp chủ quản và những cán bộ quản lý đương chức, đồng
thời đòi hỏi cách thức xét tuyển chặt chẽ và hợp lý, được chuẩn hoá thành chính
sách, quy chế rõ ràng, cụ thể.
Về chương trình đào tạo, có thể vận dụng chương trình đào tạo cao học để
thực thi nhiệm vụ này. Trên thực tế, chương trình xây dựng cho hệ cao học ở các
nước cũng được đào tạo thành từ các bộ phận tri thức cần thiết cho cán bộ quản lý.
Nếu tăng cường thêm phần thực tế - thực tiễn cho chương trình này, mở ra hai
phương thức đào tạo tập trung, hệ đào tạo cao học có thể đảm nhận được vai trò đào
tạo cơ bản cho cán bộ quản lý TTĐC. Song hành và quan hệ chặt chẽ với công tác
đào tạo, bồi dưỡng ĐNCB quản lý TTĐC là việc đào tạo các nhà TTĐC trẻ, quy
hoạch, chuẩn bị những nguồn cán bộ cần có để đưa đi đào tạo và hình thành một cơ
chế chặt chẽ, đảm bảo cho việc bổ nhiệm cán bộ quản lý phù hợp với các tiêu chí
cần thiết.
Đội ngũ nhà báo được bổ sung, đổi mới từ hai nguồn - những người được
đào tạo ban đầu về nghiệp vụ báo chí và những người đào tạo theo những chuyên
nghiệp khác, song có khả năng và mong muốn làm báo. Đây là sự cần thiết, hợp lý
xét theo cả hai phương diện - xã hội và nghề nghiệp. Tuy nhiên, việc đào tạo
chuyên nghiệp cơ bản có ý nghĩa rất quan trọng, là nguồn chủ yếu nhất để chuẩn bị
đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung cho hàng ngũ cán bộ quản lý các cơ quan TTĐC.
3.5. Những điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện thành công những giải
pháp
3.5.1. Kiên định và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước đối với hoạt động thông tin đại chúng
3.5.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
Lịch sử giao phó cho Đảng ta "Đại biểu trung thành quyền lợi của GCCN,
NDLĐ và của cả dân tộc là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội" (Hiến pháp).
Ngày nay, cách mạng nước ta đang bước sang giai đoạn mới, nắm vững hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả
nước đang phấn đấu thực hiện mục tiêu từ nay đến năm 2020 đưa nước ta thoát khỏi
tình trạng kém phát triển, có cơ sở sản xuất nông nghiệp và công nghiệp vững chắc,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện và củng cố.
Trong sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các phương tiện TTĐC nước
ta đã và đang có những đóng góp xứng đáng vào những thắng lợi chung của cách
mạng.
Đảng lãnh đạo TTĐC là nguyên tắc hàng đầu, bất di bất dịch. Do những điều
kiện mới của nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường và mở cửa, sự lãnh
đạo của Đảng đối với TTĐC ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết. Xã hội càng
phát triển, TTĐC càng có vai trò to lớn. Với nội dung thông tin có định hướng đúng
đắn, chân thật, có sức thuyết phục, TTĐC có khả năng tác thành dư luận xã hội dẫn
đến hành động xã hội phù hợp với vận động của hiện thực theo những chiều hướng
có chủ định. TTĐC không chỉ là vũ khí tư tưởng sắc bén, lợi hại, mà còn là người
cổ động tập thể, tổ chức tập thể. Điều này càng đúng trong thời đại bùng nổ thông
tin như hiện nay. Vì thế, Đảng lãnh đạo như một điều kiện tiên quyết bảo đảm sự
phát triển có hiệu quả của phương tiện TTĐC , là cơ sở cho sự ổn định chính trị - xã
hội, bảo đảm cho sự phát triển chung của chế độ.
Đảng lãnh đạo TTĐC không chỉ bằng đường lối mang tính định hướng mà
còn thường xuyên chỉ ra cho TTĐC những phương hướng cụ thể trong từng thời kỳ.
Chúng ta thường nói, TTĐC cách mạng phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhưng Đảng lãnh đạo TTĐC không phải theo kiểu cầm tay chỉ việc, bắt người làm
truyền thông và cơ quan TTĐC phải viết bài này, sáng tạo tác phẩm kia cụ thể, hoặc
dùng phương pháp thể hiện như thế nào. Đảng lãnh đạo TTĐC thông qua việc bồi
dưỡng ĐNCB cốt cán, cấp uỷ đảng thực hiện tốt sự lãnh đạo của mình mà không sa
vào những vụ việc cụ thể hoặc đi sâu vào nghiệp vụ chuyên môn. Chỉ dưới sự lãnh
đạo của Đảng, các nhà truyền thông mới hội tụ được đầy đủ các giá trị nhân đạo và
cách mạng đích thực để sáng tạo và xây dựng, mang hết tài năng của mình để cống
hiến, phục vụ cho đất nước, V.I.Lênin đã chỉ rõ: "Phải đảm bảo phạm vi hết sức
rộng rãi cho sáng kiến cá nhân, cho khuynh hướng cá nhân, cho tư tưởng và sức
tưởng tượng, cho hình thức rộng và nội dung. Tất cả những điều đó là hiển nhiên và
chỉ chứng tỏ rằng bộ phận văn học trong sự nghiệp của Đảng, của giai cấp vô sản
không thể cùng với những bộ phận khác trong sự nghiệp của Đảng, của giai cấp vô
sản rập khuôn như nhau". Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo cho ĐNCB
truyền thông có một tinh thần cách mạng, đó là sáng tạo không ngừng để tiếp cận
chân lý.
Đảng và Nhà nước tạo mọi điều kiện cho đội ngũ nhà báo truyền thông sáng
tạo. Khi tình hình trong nước và trên thế giới có những chuyển biến quan trọng, khi
Đảng, Nhà nước chuẩn bị ban hành những chủ trương, chính sách mới, những người
làm truyền thông phải luôn tự giác quán triệt. Trước hết, phải thường xuyên so sánh,
đối chiếu với hiện thực khách quan, sôi động để tìm ra các phương pháp đúng đắn,
khoa học nhằm hiện thực hoá, đưa những chủ trương, đường lối của Đảng vào thực
tiễn cuộc sống. Ngược lại, các cấp uỷ Đảng phải có trách nhiệm thường xuyên bám
sát, dành thời gian định kỳ làm việc với những người phụ trách các cơ quan TTĐC. Từ
góc độ lãnh đạo chính trị, cấp uỷ đảng chỉ rõ những việc làm được, biểu dương mặt tốt,
dân chủ thảo luận để rút kinh nghiệm khi có lệch lạc để uốn nắn và ngăn ngừa. Đó
là những điều kiện hết sức cơ bản đảm bảo cho hoạt động TTĐC đi đúng hướng.
3.5.1.2. Tăng cường sự quản lý của Nhà nước
Đảng ta là Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng gắn liền và bằng cách
thông qua sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Quan điểm của Đảng ta là sự phát
triển đi đôi với quản lý tốt mạng lưới thông tin, báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền
hình,… Khái niệm "phát triển" ở đây bao gồm cả về mặt số lượng và chất lượng.
Nội dung thông tin cần được cải tiến cho sâu sắc và phong phú hơn. Yêu cầu của sự
nghiệp phát triển TTĐC cả về nội dung, hình thức, số lượng đều hướng tới hiệu quả
xã hội cao góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Không nên hiểu rằng "quản lý' chỉ là sự "bó hẹp", "thắt lại", hay quản lý chỉ
đồng nghĩa với quản lý hành chính. Nhà nước quản lý TTĐC chính là nhằm phát
huy tính sáng tạo của đội ngũ các nhà truyền thông, giúp họ sửa chữa khuyết điểm,
lệch lạc, yếu kém, trong đó hết sức coi trọng việc phát huy tài năng, sáng tạo và
những ưu điểm của họ. Quản lý là sự thường xuyên trao đổi lại, hướng dẫn, rút kinh
nghiệm và giúp đỡ người làm truyền thông bám sát các mục tiêu và nhiệm vụ chính
trị, giữ gìn bản sắc văn hoá, đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, củng cố lòng
tin trong họ để ngày càng có nhiều sản phẩm truyền thông chứa đựng những giá trị
nhân văn cao.
Công cuộc đổi mới đất nước chúng ta thành công có nguyên nhân từ sự định
hướng và bước đi đúng, không nóng vội cũng không trì trệ, trong đó quan trọng
nhất là xác định rõ và làm đúng tôn chỉ mục đích của từng cơ quan TTĐC, chuẩn bị
các phương tiện kỹ thuật mới, tiếp thu phương tiện hiện đại trong nghề nghiệp, tạo
điều kiện và hướng dẫn thông tin trên các phương tiện TTĐC nhanh chóng, chính
xác, đúng hướng. Trong điều kiện mới, TTĐC có chất lượng phải là một hệ thống
hợp lý các cơ quan TTĐC với các sản phẩm tương ứng có khả năng cung cấp thông
tin bổ ích, đúng đắn, đầy đủ, kịp thời, đáp ứng nhu cầu tinh thần to lớn không
ngừng tăng lên của nhân dân. Hệ thống TTĐC phải đủ trình độ và bản lĩnh để nhận
thức và phân tích một cách chính xác, kịp thời các sự kiện, những diễn biến phức
tạp của thời cuộc, có đủ sức hình thành và hướng dẫn một cách đúng đắn dư luận xã
hội, nâng cao trình độ nhận thức và có sức tập hợp, động viên xã hội hành động
theo những mục tiêu và định hướng của Đảng và Nhà nước.
Nâng cao trình độ quản lý của Nhà nước còn thể hiện ở chỗ các cơ quan
quản lý TTĐC cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà truyền thông không
ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức.
Điều đó nhằm khơi dậy trong họ sự say mê khám phá, phát hiện cái mới, tính
sắc sảo và nhạy bén chính trị trong nhận thức thực tiễn và trong hoạt động sáng tạo,
từ đó tạo ra các sản phẩm, chương trình truyền thông có chất lượng kỹ thuật cao, sự
hấp dẫn và sức thuyết phục. Đó là cơ sở khách quan, khoa học để nâng cao chất
lượng chính trị - tư tưởng của mỗi sản phẩm truyền thông. Đồng thời, củng cố niềm
tin, sự trung thành vào lý tưởng của Đảng, trung thành với mục tiêu xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc XHCN của mỗi nhà báo. Đó là cơ sở vững chắc để chống lại sự phá hoại
nhiều mặt của các thế lực thù địch, bảo vệ chế độ, đóng góp tích cực vào sự nghiệp
cách mạng của nhân dân.
Tăng cường quản lý TTĐC cũng là tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
Bởi vì, sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện thông qua chính hoạt động quản lý của
bộ máy nhà nước các cấp, các ngành, các địa phương. Chỉ có thể phát huy tiềm
năng, sức mạnh của TTĐC khi thực hiện quản lý chúng một cách có hiệu quả.
Trong những năm qua, việc sắp xếp và quy hoạch lại hệ thống TTĐC cho
hợp lý hơn đã được hoàn thành về cơ bản, song về mặt quản lý nhà nước cần đẩy
mạnh hơn nữa công tác này. Cụ thể là mạng lưới TTĐC của các ngành, các địa
phương cần được xem xét và sắp xếp lại, loại bỏ một số bản tin và một số báo, tạp
chí, một số nhà xuất bản,… có chất lượng chuyên môn thấp hoặc sai lệch về nội
dung. Trên cơ sở đó, Bộ Văn hoá - Thông tin cấp lại hoặc cấp mới giấy phép hoạt
động theo đúng mục đích, tôn chỉ của cơ quan TTĐC. Các cơ quan có trách nhiệm
cũng đã xem xét để cho phép những nơi có đủ điều kiện xuất bản thêm một số báo,
tạp chí mới, đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi về thông tin, nâng cao dân trí của xã hội,
của nhân dân.
Phấn đấu để từng bước tạo ra sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cấp
uỷ và các cơ quan quản lý của Nhà nước đối với TTĐC là một công việc đòi hỏi sự
đổi mới phương thức chỉ đạo, quản lý từ cả hai phía. Đã đến lúc phải đặt vấn đề một
cách cụ thể hơn, rõ ràng hơn về vai trò của các cấp uỷ đảng trong cơ quan TTĐC.
Đồng thời, cũng phải đổi mới phương thức quản lý của các cơ quan nhà nước. Nên
chăng đã đến lúc Nhà nước cần giao thẩm quyền quyết định cùng trách nhiệm xã hội
cho các Tổng biên tập hoặc Giám đốc.
Tăng cường quản lý nhà nước đối với TTĐC cũng có nghĩa là tăng cường
hoàn thiện hành lang pháp lý của các hoạt động của TTĐC. Luật pháp thể hiện ý
chí, lợi ích của Đảng, của dân tộc. Nó còn là chỗ dựa cho các cơ quan TTĐC chủ
động triển khai công tác nhằm thực hiện nhiệm vụ công tác của mình. Chừng nào
hành lang pháp lý còn thiếu và không đồng bộ, chừng ấy hiệu quả hoạt động của hệ
thống TTĐC còn hạn chế.
Bên cạnh đó, cũng phải đặc biệt quan tâm tới vai trò của ĐNCB, đảng viên
nói chung trong các cơ quan hoạt động TTĐC. Trong giai đoạn hiện nay, việc tăng
cường sự quản lý của Nhà nước đối với TTĐC cũng có nghĩa là các cơ quan quản lý
nhà nước cần dành sự quan tâm nhiều hơn đến đội ngũ những người hoạt động báo
chí, TTĐC tạo điều kiện thuận lợi cho họ hoàn thành mọi nhiệm vụ, phát huy tinh
thần độc lập, tự chủ, xứng đáng với phẩm chất của người chiến sĩ chiến đấu trên
mặt trận tư tưởng của Đảng, vì sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam
phồn vinh.
3.5.2. Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đảm bảo sự ổn định và phát triển toàn
diện của đất nước
3.5.2.1. Phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục và nâng cao dân trí
Đây là sự nghiệp thường xuyên, lâu dài và thành công của nó cũng có quan
hệ mật thiết đến vai trò của TTĐC. Hơn nữa, đây cũng là điều kiện để bảo đảm thực
hiện tốt các giải pháp phát triển hệ thống TTĐC quốc gia.
Vấn đề phát triển kinh tế luôn là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt, là cơ sở và
mục tiêu phát triển của xã hội, trong đó TTĐC không ngoại lệ. Việc xây dựng một
nền tảng kinh tế bền vững là cốt vật chất của các tiến trình xã hội luôn là vấn đề
được Đảng và Nhà nước coi trọng. Các đề xuất, nghiên cứu sâu về giải pháp phát
triển kinh tế không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn, ở đây chúng tôi chỉ
muốn nhấn mạnh đến hai khía cạnh quan trọng của sự cần thiết phải phát triển kinh
tế như một nhiệm vụ trọng tâm, then chốt để đảm bảo cho các giải pháp phát triển
hệ thống TTĐC ở nước ta được thực hiện tốt, có hiệu quả thiết thực.
Thứ nhất, vấn đề phát triển kinh tế để có khả năng tăng nguồn đầu tư cho
TTĐC. Như đã phân tích ở trên, trong điều kiện hiện nay, phương tiện TTĐC cần
phải phát triển trước một bước so với các lĩnh vực khác. Song trong điều kiện các
thành tựu khoa học kỹ thuật thế giới, đặc biệt trong công nghệ truyền thông, phát
triển một cách nhanh chóng, mạnh mẽ như hiện nay, thì đó không là vấn đề đơn
giản. Nhìn một cách thực chất thì chúng ta không thể chỉ dựa vào sự phát triển của
khoa học công nghệ trong nước để phát triển hệ thống TTĐC ngang tầm với đòi hỏi
của nhiệm vụ. Việc xây dựng và phát triển một hệ thống TTĐC hiện đại, có khả
năng phát triển trước một bước trở thành mũi xung kích, mở đường cho sự phát
triển của các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác phải gắn liền với với mở cửa và tiếp thu
trình độ khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. Do đó vấn đề đặt ra là phải tăng
khả năng đầu tư của Nhà nước đối với hoạt động TTĐC. Như thế cũng có nghĩa là
nếu kinh tế của chúng ta không phát triển mạnh mẽ, hoặc chỉ cần bị chững lại vì
một lý do nào đó, thì chắc chắn nguồn đầu tư cho TTĐC cũng sẽ bị giảm thiểu.
Khía cạnh thứ hai cũng có liên qua mật thiết đến sự phát triển của TTĐC đó
là thu nhập, mức sống của người dân. Nếu đời sống kinh tế của cộng đồng, của
nhân dân không có những bước phát triển lên những trình độ mới thì cho dù chúng
ta có một hệ thống phương tiện TTĐC hiện đại ngang tầm với trình độ của thế giới
cũng sẽ chẳng để làm gì vì đối tượng mà TTĐC phục vụ công chúng của chúng ta
sẽ không có bất cứ sự hứng thú, quan tâm nào đến tiến trình này. Đơn giản là vì họ
còn phải dành nhiều sự quan tâm hơn đến cuộc sống thường ngày, đến những lo
toan vật chất cơ bản của cuộc sống hơn là đến các chương trình, sản phẩm mà
TTĐC chuyển đến họ. Thêm vào đó, ngoại trừ một bộ phận nhỏ những người có
điều kiện kinh tế ở thành thị có khả năng tự sắm cho mình những thiết bị nghe, nhìn
hiện đại có thể thu nhận những sản phẩm, chương trình truyền thông quốc gia, đa số
đông còn lại sẽ không lấy đâu ra tiền để mua sắm những vật dụng mà dưới con mắt
của họ là "xa xỉ" đó. Do đó, nhân dân cũng không thể tiếp nhận thông tin từ các
phương tiện TTĐC. Khi mà các sản phẩm, chương trình TTĐC không đến được với
đối tượng của mình thì rõ ràng TTĐC cũng sẽ không thể phát triển. Như thế, tất cả
những khía cạnh trên cho thấy tầm quan trọng của việc phải tiếp tục đẩy mạnh
nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế.
Song mặt khác, phát triển kinh tế không thể tách rời với phát triển văn hoá,
giáo dục và nâng cao dân trí. Sự phát triển kinh tế là điều kiện cần song chưa đủ để
có một xã hội phát triển toàn diện. Một xã hội phát triển đòi hỏi sự phát triển kinh tế
phải gắn với sự phát triển văn hoá, giáo dục và nâng cao dân trí. TTĐC chỉ có thể
hội tụ đầy đủ những điều kiện khách quan cho sự phát triển khi xã hội đạt được một
trình độ nhất định nào đó về văn hoá và dân trí. Về mặt khách quan, sự phát triển
của văn hoá và trình độ dân trí tất yếu đòi hỏi nhu cầu được thông tin của xã hội.
Đến lượt nó, nhu cầu được thông tin của xã hội trở thành tiền đề quan trọng và cần
thiết đối với hoạt động TTĐC. Đó là quy luật vận động nội tại của bản thân TTĐC
trong xã hội hiện đại.
Mặt khác, trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hoá đòi hỏi các quốc gia
đều phải mở cửa và hội nhập quốc tế. Điều đó cũng kéo theo nhu cầu phải trao đổi,
giao lưu văn hoá giữa các quốc gia, dân tộc mà TTĐC là một kênh, một cầu nối
quan trọng. Sản phẩm, chương trình truyền thông của một quốc gia do đó cũng luôn
phải chứa đựng những giá trị bản sắc riêng cũng như trình độ văn hoá của dân tộc,
quốc gia đó. Đồng thời, để người dân có thể tiếp thu, hấp thụ được những giá trị văn
hoá có tính phổ biến toàn nhân loại (những giá trị này đôi khi rất mới mẻ đối với
quần chúng) và có thái độ đúng đắn trước những tác động xấu, tiêu cực, những giá
trị phản văn hoá mà các phương tiện TTĐC kể cả trong nước và ngoài nước đang
thường xuyên, không ngừng chuyển tải, thì tất yếu cũng đòi hỏi phải nâng cao văn
hoá, giáo dục và trình độ dân trí. Như thế sự phát triển của văn hoá, giáo dục, dân trí
sẽ tạo tiền đề thúc đẩy các giải pháp phát triển TTĐC trong nước. Đồng thời, điều
đó cũng tạo ra một nhu cầu, một nhận thức mới của quần chúng trong tiếp nhận, hấp
thụ những giá trị đích thực mà các phương tiện TTĐC chuyển tải tới họ. Đến lượt nó,
TTĐC trở lại thành động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện của xã hội.
Điều đó cho thấy tính tất yếu khách quan của sự cần thiết phải tiếp tục công
cuộc đổi mới toàn diện lấy xây dựng, phát triển kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
gắn với phát triển văn hoá, giáo dục và nâng cao dân trí. Đây là những tiền đề, điều
kiện có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần đảm bảo thực hiện tốt các giải pháp
phát triển TTĐC.
3.5.2.2. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị
Trong những năm vừa qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đã và đang không ngừng đưa đất nước tiến lên những trình độ mới. Những
thành quả bước đầu trong đổi mới kinh tế tạo ra những tiền đề căn bản, thuận lợi để
nước ta phát triển trở thành nước công nghiệp hiện đại.
Song cũng phải nhìn nhận một cách có trách nhiệm rằng, công cuộc đổi mới
kinh tế đang đặt ra nhiều vấn đề, mâu thuẫn đòi hỏi phải được giải quyết không chỉ
bằng các biện pháp kinh tế mà phải gắn với các giải pháp chính trị, trong đó là sự
cần thiết phải đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện HTCT theo hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân, kiên định mục tiêu và lý tưởng
XHCN.
Nhu cầu đổi mới và hoàn thiện HTCT đang đặt ra một cách bức thiết không
chỉ đối với lĩnh vực kinh tế, quản lý kinh tế, mà nó đồng thời cũng là vấn đề đặt ra
đối với sự phát triển của TTĐC. Để đảm bảo thực hành thành công các giải pháp
phát triển hệ thống TTĐC ở nước ta, đòi hỏi phải có sự đổi mới đồng bộ toàn diện ở
cả cơ cấu tổ chức quản lý, vận hành hệ thống các phương tiện TTĐC và bộ máy
nhân sự. Nhìn từ tầng sâu bản chất thì những điều kiện đó sẽ không thể thực hiện
được một cách trọn vẹn, kỹ càng nếu tách khỏi sự đổi mới và hoàn thiện HTCT. Bởi
vì đó chính là những mắt khâu của việc hoàn thiện thể chế.
TTĐC cũng là một lĩnh vực hoạt động đặc thù có liên quan trực tiếp đến
nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Việc đổi mới và hoàn thiện HTCT có ý nghĩa hết sức thiết thực, cấp thiết. Chính
những vấn đề, những bất hợp lý, mâu thuẫn trong quá trình quản lý, vận hành hệ
thống TTĐC, trong cơ cấu phân bổ, tổ chức nhân sự, trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ,… rồi quan hệ giữa các tổ chức, cơ quan hoạt động TTĐC ở địa
phương và TW, sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với TTĐC, liên
quan đến trách nhiệm và quyền lợi của những người được giao trọng trách quản lý
hoạt động TTĐC,… cho đến những vấn đề có tính chiến lược như chính sách, pháp
luật, qui chế hoạt động của các phương tiện TTĐC,… Đó là những vấn đề không
thể được giải quyết trọn vẹn chỉ bởi các giải pháp trực tiếp, mà phải giải quyết trong
một mối quan hệ tổng thể những vấn đề của HTCT. Bởi vì, xét đến cùng, mặc dù
mọi giải pháp cụ thể đưa ra để xây dựng và phát triển TTĐC là những giải pháp có
liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hoạt động đặc thù này, song những giải pháp đó có
khả thi, có thực sự phát huy được hiệu quả của nó hay không, thì một phần rất căn
bản còn phụ thuộc ở môi trường thực hiện những giải pháp đó. Chẳng hạn việc đổi
mới cơ chế quản lý hoạt động TTĐC sẽ không thể được thực hiện trọn vẹn nếu
không có sự phân định chức năng, nhiệm vụ cụ thể giữa các cơ quan quản lý theo
ngành dọc và theo chiều ngang trong bộ máy hành chính nhà nước.
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi không đi sâu vào phân tích quá
trình đổi mới và hoàn thiện HTCT, song về mặt nguyên tắc cần nhấn mạnh rằng vấn
đề đổi mới và hoàn thiện HTCT ở nước ta hiện nay cần phải được thực hiện từng
bước, đồng bộ, đồng thời cũng phải có ý chí quyết tâm tiến hành đến cùng. Đó là
một quá trình phức tạp vì cần sự sắp xếp, hoàn thiện cơ cấu các cấu thành của
HTCT nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và trình độ quản lý của Nhà
nước. Hiệu quả hoạt động, sức phát triển của nó phụ thuộc trực tiếp vào kết quả của
công cuộc đổi mới và hoàn thiện HTCT hiện nay. Do đó, nếu chúng ta có những
giải pháp, bước đi đúng đắn, khoa học trong quá trình đổi mới và hoàn thiện HTCT
thì hệ quả chắc chắn sẽ là TTĐC sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ, ngược lại
thì sẽ không lường trước được những hậu quả của nó.
Như vậy, để thực hiện tốt, có hiệu quả các giải pháp phát triển hoạt động
TTĐC ở nước ta, bện cạnh các điều kiện khác, còn đòi hỏi phải có sự đổi mới đồng
bộ, toàn diện theo hướng không ngừng hoàn thiện HTCT nhằm tạo một môi trường
thuận lợi cho việc thực thi những giải pháp cụ thể.
3.5.3. Phương hướng, mục tiêu phát triển phương tiện thông tin đại
chúng nước ta trong những năm tới
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định vai trò, vị trí
của thông tin đại chúng trong đời sống xã hội, là "nhân tố thúc đẩy con người tự
hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, xây dựng và bảo vệ tổ quốc". Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và những năm sau đã chỉ rõ: Phát triển và hiện
đại hoá mạng lưới thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ
phát thanh, truyền hình, báo chí, xuất bản. Đến năm 2010 hoàn thành cơ bản việc
phổ cập các phương tiện phát thanh, truyền hình đến mỗi gia đình. Phát triển các
điểm văn hoá kết hợp với hệ thống bưu cục khắp các xã trong nước. Dùng tiếng nói
dân tộc và chữ viết của các dân tộc có chữ viết trên các phương tiện thông tin đại
chúng ở vùng đồng bào dân tộc (Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương).
Để thực hiện tốt yêu cầu đó, mục tiêu phát triển phương tiện TTĐC ở nước ta
những năm tới là:
Phát triển báo chí theo cơ cấu, quy mô hộ lý, đáp ứng quyền được thông tin
của nhân dân, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời
theo kịp khả năng và trình độ phát triển báo chí của cả nước trong khu vực và quốc
tế.
Đổi mới và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng về thông tin, sắp xếp, củng cố hệ
thống TTĐC phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH đất nước, đảm bảo trật tự, hiệu quả,
từng bước xây dựng hệ thống TTĐC nước ta hiện đại, có chất lượng chính trị, chất
lượng văn hoá, chất lượng khoa học, chất lượng nghiệp vụ cao.
Cần tổ chức nhân dân tham gia diễn đàn báo chí, đóng góp ý kiến xây dựng
đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát triển đồng bộ và hiện đại các phương tiện TTĐC để phục vụ tích cực,
có hiệu quả hơn nữa sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc Việt
Nam XHCN. Bảo đảm cho toàn bộ cư dân, đặc biệt là dân cư ở nông thôn, vùng
sâu, vùng xa, vùng miền núi, vùng biên giới, hải đảo được tiếp nhận đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tình hình mọi mặt trong nước, quốc tế
qua các phương tiện, loại hình thông tin phù hợp, với chất lượng tốt, hấp dẫn, kịp
thời.
Phương tiện TTĐC phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và
quyền làm chủ của nhân dân, trang bị cho cán bộ và nhân dân bản lĩnh chính trị,
trình độ hiểu biết, phẩm chất đạo đức để thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH; đẩy mạnh
thông tin đối ngoại và thông tin cho các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; thông
tin trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị; văn hoá - xã hội; khoa học công nghệ; quốc
phòng - an ninh; xây dựng biểu dương người tốt việc tốt và chống quan liêu, tham
nhũng lãng phí, tiêu cực, tệ nạn xã hội; đấu tranh chống các quan điểm sai trái,
xuyên tạc, thù địch.
Có biện pháp cụ thể để khắc phục tình trạng phát triển báo chí cân đối, bảo
đảm sự đồng đều về phân bố, thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ báo chí của nhân
dân giữa các vùng, miền. Quan tâm hơn nữa nhu cầu thông tin của nhân dân ở vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, biên giới hải đảo, bảo đảm tốt hơn nữa quyền
và nhu cầu được thông tin của nhân dân.
Từng bước thực hiện xã hội hoá một số khâu, công đoạn trong hoạt động báo
chí, trước mắt là khâu chế bản, in ấn, phát hành của báo chí, quảng cáo thương mại
của phát thanh, truyền hình báo in, điện ảnh, Internet và sản xuất các chương trình
nghe - nhìn thời sự của truyền hình; nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách để cơ
quan báo chí có điều kiện tự chủ về tài chính.
Nghiên cứu sớm để có các chính sách cụ thể về hợp tác, liên doanh liên kết
với nước ngoài, nhằm thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, kỹ năng, kỹ xảo và
công nghệ hiện đại của nước ngoài nhất là trong các khâu quảng bá, phát hành ra
nước ngoài cũng như thông tin đối ngoại.
Bước sang thế kỳ XXI, đất nước ta đi vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Thế và lực nước ta sau gần 20 năm đổi mới đã lớn mạnh hơn
trước rất nhiều. Bối cảnh quốc tế và trong nước có cả cơ hội lớn và thách thức lớn.
Thông tin đại chúng là một lĩnh vực quan trọng trên mặt trận tư tưởng - văn hoá, là
"nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách
mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc", là công cụ sắc bén trên mặt trận tư tưởng - văn hoá cần tham gia
tích cực và có hiệu quả hơn nữa vào việc tuyên truyền, cổ vũ toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân dân ta phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tiếp tục sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sớm đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng
chậm phát triển, nhanh chóng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân,
tạo nền tảng vững chắc để đưa đất nước về cơ bản thành nước công nghiệp vào năm
2020. Từ khi có Chỉ thị 08 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII),
Chỉ thị 22 - CT/TW của Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khoá VIII) hệ thống TTĐC
nước ta đã có bước phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, về nội dung và hình
thức thể hiện. Thành tựu đó là nhờ sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, những phương tiện kỹ thuật ngày càng hiện đại
để báo chí nước ta làm tròn trách nhiệm là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của
các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, là diễn đàn của nhân dân. Thành tựu đó là
sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân, của đội ngũ những người làm báo chí
nước ta.
Đội quân báo chí Việt Nam tự hào đã góp phần quan trọng và xứng đáng vào
sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân mà tiêu biểu là những tập thể, những
nhà báo tận tuỵ với nghề nghiệp, bám sát đời sống xã hội, dũng cảm đấu tranh bảo
vệ công lý, sáng tạo nên những tác phẩm báo chí xuất sắc.
Những người làm báo Việt Nam nguyện phấn đấu giữ vững là những chiến sĩ
xung kích của Đảng trên mặt trận tư tưởng, gặt hái được nhiều thành tựu mới trên
chặng đường thực hiện sứ mệnh cao cả và truyền thống vẻ vang "Báo chí cách
mạng Việt Nam trung thành, đoàn két, trí tuệ, đổi mới vì sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá".
Tóm lại, TTĐC là một lĩnh vực có quan hệ biện chứng, tác động qua lại với
tất cả các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Từ phương diện thứ nhất, nó có vai
trò như một công cụ, phương tiện để giáo dục, xây dựng và thực hiện quyền lực
chính trị của ND. Từ mặt thứ hai, TTĐC còn là diễn đàn, môi trường thể hiện
QLCT của ND, là hàn thử biểu của thời tiết chính trị xã hội của đất nước nói chung.
Vì thế việc phát triển TTĐC trở thành một điều kiện, một đòi hỏi khách quan nhằm
không chỉ đáp ứng nhu cầu thông tin đa dạng của xã hội, mà quan trọng hơn là xây
dựng và tăng cường một động lực quan trọng sống còn cho sự phát triển của xã hội
hiện đại, trong đó có việc thực hiện mục đích tăng cường QLCT cho ND.
Tuy nhiên, muốn phát triển TTĐC để tăng cường QLCT của ND cần phải có
những giải pháp đồng bộ, tác động đến nhiều khâu, nhiều mối quan hệ khác nhau
dưới những quan điểm nhất quán mang tính nguyên tắc. Xuất phát từ những cơ sở
khoa học và thực tiễn cách mạng ở nước ta có thể cho thấy những giải pháp phát
triển TTĐC cần phải bao quát đầy đủ các phương diện từ quan điểm tổng quát, định
hướng chiến lược phát triển chung, hành lang pháp lý, cơ cấu, hệ thống tổ chức ở
tầm quốc gia và từng địa phương, đến các giải pháp phát triển nội dung, mở rộng,
tăng cường chất lượng thông tin, chất lượng kỹ thuật đầu phát, đầu nhận tương ứng
với trình độ phát triển chung của khu vực và trên thế giới. Đặc biệt phải quan tâm
đến các giải pháp liên quan đến vấn đề cán bộ bao gồm từ công tác đào tạo, bồi
dưỡng đến lựa chọn, sắp xếp, kiểm tra, đánh giá đội ngũ cán bộ. Đây chính là vấn
đề sống còn, không chỉ quyết định khả năng phát triển nói chung, mà còn quyết
định cả tính chất chính trị nói riêng của hệ thống TTĐC.
Mặt khác, mỗi bước đi trong sự phát triển của hệ thống các phương tiện
TTĐC không tách rời sự phát triển hay những biến động của toàn bộ môi trường
chính trị - xã hội của đất nước. Nói cách khác, chính sự vận động của các lĩnh vực
chính trị - xã hội của đất nước là điều kiện cho sự phát triển của TTĐC. Trong các
điều kiện hàng đầu, giữ vị trí quyết định. Chỉ có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý
của Nhà nước dân chủ nhân dân mới đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và phát
huy tốt nhất vai trò tích cực của TTĐC trong việc tăng cường QLCT của ND. Nhận
thức rõ điều này không chỉ giúp cho việc hình thành các giải pháp, điều kiện để phát
triển TTĐC, mà còn hướng tới việc ý thức đầy đủ cho một chiến lược lâu dài phát
triển và phát huy sức mạnh của TTĐC trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước.
Kết luận
Trong thời đại ngày nay, để có sự phát triển chân thực và bền vững vì quảng
đại quần chúng ND, đặc biệt đối với các quốc gia chậm phát triển thì sự lựa chọn
con đường phát triển theo định hướng XHCN là khách quan tất yếu. Sự phát triển
theo định hướng khách quan đó đến lượt nó lại đòi hỏi về mặt chính trị phải tự giác
thực hiện một yêu cầu cơ bản là: "quyền lực chính trị thuộc về nhân dân".
Với cơ chế tác động và chức năng đặc thù của mình, các phương tiện TTĐC
là công cụ có vị trí quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện mục tiêu giành, giữ, sử
dụng và thực thi QLCT nói chung và tăng cường QLCT của ND ở nước ta nói
riêng.
Xuất phát từ những điều kiện lịch sử tự nhiên đặc thù của nước ta, kế thừa và
phát huy những giá trị của toàn bộ cách mạng Việt Nam trong lịch sử, việc tăng
cường QLCT của ND đã và đang là mục tiêu chủ đạo của toàn bộ việc xây dựng và
phát triển HTCT ở nước ta hiện nay.
Vai trò của các phương tiện TTĐC đối với việc tăng cường QLCT của ND ở
nước ta hiện nay, về mặt lý luận là khả năng đóng góp, hiệu quả tác động trên thực
tế của nó trên 3 phương diện căn bản: (1) xác lập và duy trì hệ tư tưởng Mác -
Lênin; (2) xây dựng tư cách chủ thể kinh tế của ND; (3) nâng cao năng lực của
HTCT. Xét trên bình diện TTĐC đã có những đóng góp căn bản to lớn. Đó là diễn
đàn quan trọng phản ánh thực tiễn xây dựng Đảng, Nhà nước, công cụ đắc lực trong
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đó là vũ khí sắc bén trong đấu tranh chống các
luận điệu thù địch và khẳng định những thành quả to lớn trong công cuộc đổi mới
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phát huy vai trò tích cực trên địa
hạt kinh tế, các phương tiện TTĐC trở thành một kênh giao tiếp, cầu nối giữa Nhà
nước với các chủ thể kinh tế, phản ánh những vấn đề bức xúc, những bất cập trong
chủ trương, chính sách của Nhà nước, góp phần tích cực trong công cuộc đấu tranh
chống nghèo đói, phân cực, xoá bỏ sự bất công kinh tế. Góp phần hoàn thiện thể chế
chính trị đảm bảo QLCT của ND, các phương tiện TTĐC là lực lượng đi đầu trong
cuộc vận động chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phê bình và tự phê bình. Hiện nay, các
phương tiện TTĐC đang có những đóng góp quan trọng trong việc thực hiện hai
nhiệm vụ chính trị cấp thiết, đó là hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách thủ tục
hành chính, là công cụ đắc lực trong đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu,
khuyến khích người dân ý thức và nâng cao quyền làm chủ của mình thông qua làm
chủ thông tin, giúp phản ánh nguyện vọng, ý kiến của dân đối với Đảng, Nhà nước.
Mặc dù những thành tựu đó không thể phủ nhận, tuy nhiên, đánh giá một
cách thực chất và toàn diện, các phương tiện TTĐC ở nước ta còn chưa ngang tầm
nhiệm vụ, chưa theo kịp được sự vận động của thực tiễn cách mạng. Cụ thể là khả
năng xã hội hoá thông tin còn chưa cao, khả năng dự báo, khả năng cụ thể hoá các
vấn đề thiết thực, bức xúc của xã hội còn thấp, chưa tạo ra được một cơ chế thông
tin nhiều chiều, chưa có được vai trò chủ động trong quá trình hoạch định chính
sách với tư cách một người tham gia thực sự.
Để khắc phục những bất cập đó, nhằm củng cố và phát triển hệ thống TTĐC
để TTĐC có thể có vai trò tích cực, chủ động hơn nữa và có những đóng góp thực
sự có hiệu quả vào việc tăng cường QLCT của ND ở nước ta, chúng tôi cho rằng,
trước hết cần phải có những quan điểm chủ đạo và nhất quán, cụ thể: (1) Quán triệt
tư tưởng cơ bản trong các Nghị quyết của BCH TW Đảng về xây dựng và phát triển
các phương tiện TTĐC; (2) Phương tiện TTĐC cần đi trước một bước, trở thành
một trong những động lực cho sự phát triển của kinh tế, chính trị xã hội; (3) Thực
hiện đầy đủ, sáng tạo các nguyên tắc cơ bản của hoạt động TTĐC; (4) Hoạt động
TTĐC cần phải bám sát hiện thực thực tế ở nước ta; (5) Đặt việc xây dựng và phát
triển hệ thống TTĐC trong cuộc đấu tranh chống tác động có hại của hệ thống
TTĐC nước ngoài. Đây là nguyên tắc căn bản có giá trị định hướng trực tiếp cho
toàn bộ quá trình đổi mới và tăng cường hiệu quả của hoạt động TTĐC, góp phần
củng cố QLCT của ND ở nước ta trong giai đoạn sắp tới.
Trên những quan điểm chủ đạo đó, xét từ nhiệm vụ chính trị cũng như trong
hiện thực thực tế ở nước ta hiện nay, chúng tôi nhấn mạnh đến sự cần thiết phải
thực hiện một cách đồng bộ nhóm những giải pháp.
- Xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển hệ thống TTĐC.
- Xây dựng hành lang pháp lý để tạo cơ sở cho TTĐC hoạt động có hiệu quả
cao.
- Mở rộng, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng nội dung và hình thức thông
tin.
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác TTĐC.
- Đầu tư mở rộng và đổi mới kỹ thuật theo hướng ưu tiên.
Nhóm giải pháp trên chỉ có thể được triển khai một cách có hiệu quả và phát
huy được vai trò thực chất của nó khi có những điều kiện cơ bản đảm bảo việc thực
hiện. Những điều kiện then chốt đó là: (1) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động TTĐC; (2) Tiếp tục sự nghiệp đổi mới,
đảm bảo sự ổn định và phát triển toàn diện của đất nước. Đây là những yếu tố có tính
chất nền tảng tạo điều kiện cho việc đổi mới và nâng cao hoạt động TTĐC một cách
thường xuyên, liên tục, theo dúng với những thay đổi về chất ở tất cả các lĩnh vực
khác nhau trong đời sống xã hội.
Trong bối cảnh công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đang tiếp tục diễn ra rộng khắp và toàn diện, nắm chắc những quan điểm có
tính chủ đạo trên và thực hiện một cách đồng bộ nhóm giải pháp chủ yếu, chúng ta
có cơ sở để tin rằng hoạt động TTĐC nhất định sẽ có những bước phát triển mới,
phát huy được vai trò tích cực, chủ động của mình trong việc góp phần củng cố và
tăng cường QLCT của ND ở nước ta.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. AChal merha (1989), "Hệ thống báo chí của các nước ASEAN", AMIC.
Singapore (Hội nhà báo Việt Nam dịch ra tiếng Việt).
2. Alvill Toffle (1992), Làn sóng thứ ba, Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà
Nội.
Alvill Toffle (1991), Thăng trầm quyền lực, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. 3.
Báo chí những điểm nhìn từ thực tiễn, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 4.
2000.
5. Hoàng Chí Bảo (1989), "Dân chủ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam", Tạp chí Thông tin lý luận, (7).
Beeton Philippe, Bùng nổ truyền thông sự ra đời một ý thức hệ mới. 6.
Bertrand Russ (1972), tập 1, Quyền lực, Nxb Hiện đại, Sài Gòn. 7.
Bertrand Russ (1972), tập 2, Quyền lực, Nxb Hiện đại, Sài Gòn. 8.
Nguyễn Đức Bình (1998), "Phấn đấu nâng cao chất lượng phát huy vai trò 9.
to lớn của báo chí xuất bản trong thời kỳ đổi mới", Tiếp tục đổi mới và
tăng cường sự lãnh đạo quản lý công tác báo chí xuất bản, Bộ Văn hóa -
Thông tin, tập 1, Hà Nội.
10. Lê Thanh Bình, Quản lý và phát triển báo chí xuất bản.
11. Đ.Brêzinxhi (1992), "Thất bại lớn", Viện Thông tin khoa học Hà Nội.
12. Hoàng Công (1996), "Đổi mới hệ thống chính trị - mấy vấn đề lý luận và bài
học kinh nghiệm", Tạp chí Cộng sản, (21).
13. Phạm Như Cương - Lê Cao Đoàn (1993), Góp phần vào việc đổi mới nhận
thức về CNXH, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
14. Claudia Mast, Truyền thông đại chúng công tác biên tập.
15. Hồng Chương, Báo chí Việt Nam.
16. Development Suppat, Truyền thông hỗ trợ phát triển.
17. Ngọc Đản, Báo chí với sự nghiệp đổi mới.
18. Hà Minh Đức (2/1997), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
19. Got Hôn (1987), "Những vấn đề mới của cuộc đấu tranh giai cấp", Tạp chí
những vấn đề hòa bình và chủ nghĩa xã hội, (2).
20. Grabennhicốp, Báo chí trong cơ chế thị trường.
21. Đỗ Xuân Hà (1999), Báo chí với thông tin Quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
22. Hoàng Văn Hảo (1993), "Dân chủ hóa các tổ chức chính trị, xã hội một
phương hướng cơ bản để tăng cường quyền lực của nhân dân ở nước ta
hiện nay", Nghiên cứu lý luận, (1).
23. Hồ Chí Minh về báo chí, Nxb Chính trị quốc gia.
Tuyên Văn Huyền, Phạm trù quyền lực chính trị. 24.
25. Trần Đình Huỳnh, ổn định chính trị và đổi mới hệ thống chính trị, Báo Quân
đội nhân dân (12/1/1992).
26. Cốc Văn Khang (Trung Quốc-1994), Cuộc đọ sức giữa hai chế độ xã hội - bàn về
chống "diễn biến hòa bình", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Lưu Ngọc Khánh, Bước chuyển sang nền kinh tế trí thức ở một số nước trên
thế giới hiện nay,
28. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
29. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
30. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
31. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
32. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
33. Thanh Lê, Hướng về con người xã hội tương lai.
34. Nguyễn Anh Liên, "Tôn trọng pháp luật của đảng viên", Báo Nhân dân
(6/9/1998).
35. I.Li-ga-chốp (1993), Bên trong Điện Cremli của M.Gooc-ba-chốp, Viện
Thông tin lý luận thuộc Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
36. Nguyễn Ngọc Long (1993), "Những đặc trưng cơ bản, quan điểm, nguyên
tắc xây dựng và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Báo cáo tổng quan đề tài KX.05.04,
Nghiên cứu lý luận, (5).
37. C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
38. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
39. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
40. M.Môhamét (1994), "Sự mục nát của chế độ dân chủ trên thế giới', Thông tin
công tác tư tưởng, (2).
41. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Michel Dertouzos, Cuộc cách mạng thôgn tin đã làm thay đổi cuộc sống của
bạn như thế nào.
44. Michech Schudson, Sức mạnh của tin tức truyền thông.
45. Đỗ Mười (1992),Phát huy vai trò của Quốc hội xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân, Nxb Sự thật, Hà Nội.
46. Đỗ Mười (1997), "Phát triển đi đôi với quản lý tốt hoạt động báo chí và xuất
bản", Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo quản lý công tác báo
chí xuất bản, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông
tin, tập 1, Hà Nội.
47. Lê Hữu Nghĩa (1994), "Giữ vững ổn định chính trị và đổi mới hệ thống
chính trị", Tạp chí Cộng sản, (2).
48. Lê Hữu Nghĩa (1996), "Vai trò của chính trị trong việc bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, (5).
49. Hoài Nguyên (1997), Lào đất nước - con người, Nxb Thuận Hóa.
50. PIERRL ALBERT, Lịch sử báo chí.
51. Đỗ Nguyên Phương - Trần Ngọc Đường (1992), Xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa và nhà nước - pháp quyền, Nxb Sự thật, Hà Nội.
E.P.Prôkhorốp, Cơ sở lý luận của báo chí. 52.
Phạm Ngọc Quang (1995), "Văn hóa chính trị với việc nâng cao chất lượng 53.
lãnh đạo chính trị", Tạp chí Cộng sản, (14).
54. Phạm Ngọc Quang (1997), "Một phạm trù cơ bản của chính trị học", Nhà
nước và Pháp luật, (4).
55. Phạm Ngọc Quang, Quyền lực chính trị và thực hiện quyền lực chính trị giai
cấp công nhân, nhân dân lao động trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm
quyền.
56. Lưu Văn Sùng (1997), "Mở rộgn dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân lao động", Tạp chí Cộng sản, (9).
57. Sự đột phá của khoa học thông tin trước thế kỷ XXI, Thông tin Khoa học xã
hội chuyên đề, 1998.
58. Tạ Ngọc Tấn, Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí.
59. Tạ Ngọc Tấn (6/1997), "Vận hội và trách nhiệm báo chí trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Cộng sản, (12).
60. Tạ Ngọc Tấn (4/1998), "Mặt sau bức tranh toàn cầu hóa thông tin đại
chúng", Tạp chí Cộng sản, (8).
61. Tạ Ngọc Tấn và tập thể tác giả (1999), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Thông tin,
Hà Nội.
62. Tập thể tác giả (1993), Chính trị học (tập bài giảng), Viện Khoa học Chính
trị, Hà Nội.
63. Tập thể tác giả (1993), "Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật", Viện Nghiên cứu khoa học và pháp lý, Hà Nội.
64. Nguyễn Thành, Sự nghiệp báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
65. Hữu Thọ, Bình luận báo chí thời kỳ đổi mới.
66. Hữu Thọ (1997), Nghĩ về nghề báo, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
67. Trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà báo, Hội Nhà báo Việt
Nam 1998.
68. Nguyễn Đăng Thành (1993), "Hệ thống chính trị với tư cách là kết cấu để
thực thi quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền", Nghiên cứu lý luận,
(1).
69. Nguyễn Đăng Thành (2/1997), "Những yêu cầu của sự lãnh đạo chính trị đối
với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta",
Tạp chí Cộng sản, (3).
70. Nguyễn Đăng Thành (1999), "Một vài suy nghĩ về nâng cao năng lực hoạt
động của bọ máy nhà nước", Thông tin chính trị học, (1).
71. Trần Cao Thành (1995), Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 20 năm xây dựng
và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Nguyễn Thành, Sự nghiệp báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa
- Thông tin (1995).
73. Trần Phúc Thăng (1993), "Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và
đặc điểm của hệ thống chính trị", Nghiên cứu lý luận, (5).
74. Thông tin lý luận (1993), "Các chương trình cổ phần hóa công nhân viên Mỹ:
Các phương diện chính trị, pháp luật về thuế", số 4.
75. Hồ Văn Thông, "Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta", Tạp chí Cộng sản, (20).
76. Hồ Văn Thông "Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta", Tạp chí Cộng sản, (20).
77. Trần Hữu Tiến (1993), "Vấn đề vận dụng tư tưởng chuyên chính vố ản của
chủ nghĩa Mác - Lênin trong đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện
nay", Nghiên cứu lý luận, (5).
78. Trịnh Quốc Tuấn (1993), "Sự chuyển biến của hệ thống chính trị ở nước ta từ
giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sang giai đoạn quá độ lên
chủ nghĩa xã hội", Nghiên cứu lý luận, (5).
79. Từ điển triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tiếng Việt.
80. Đỗ Tư (1997), "Dân chủ và dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa", Nghiên cứu lý
luận, (6).
81. Hà Xuân Trường (1995), "Chung quanh vấn đề Đảng lãnh đạo báo chí", Tạp
chí Cộng sản, (3).
82. Đào Trí úc (1993), "Quand diểm nhà nước - pháp quyền với việc xây dựng
và hoạt động hệ thống chính trị nước ta trong quá độ lên chủ nghĩa xã
hội", Nghiên cứu lý luận, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (5).
83. La Trần Vũ (1964), Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
84. Yvesmeney, Montchrestien, Chính trị so sánh, Đề tài KX.05.02-1991.