ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------- KHOA BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG
NGUYỄN THỊ MAI ANH
VẤN ĐỀ ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI TRÊN HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG THỦ ĐÔ TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
HÀ NỘI, 2008
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------- KHOA BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG
NGUYỄN THỊ MAI ANH
VẤN ĐỀ ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI TRÊN HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG THỦ ĐÔ TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG (Khảo s t trên b o Hà Nội mới hàng ngày, Hà Nội mới điện tử, s ng ph t thanh, truyền h nh của đài Ph t thanh và Truyền h nh Hà Nội từ năm 2004 – quý III/2008)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ Chuyên ngành: B ch học M số: 60 32 01
HÀ NỘI, 2008
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NHÀ BÁO HỒNG VINH
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: DƯ LUẬN XÃ HỘI VÀ TRUYỀN THÔNG - VAI TRÒ ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI TRÊN HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG .......................................................................................... 9 1.1. Dư luận xã hội ........................................................................................... 9 1.1.1. Dư luận xã hội, các bước hình thành và chức năng cơ bản của dư luận xã hội ................................................................................................................. 9 1.1.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 9 1.1.1.2. Các bước hình thành DLXH .............................................................. 10 1.1.1.3. DLXH có các chức năng cơ bản sau .................................................. 11 1.1.2. Vấn đề nghiên cứu ý kiến công chúng .................................................. 12 1.1.2.1 Công chúng và ý kiến công chúng ...................................................... 12 1.1.2.2. Nghiên cứu ý kiến công chúng ........................................................... 14 1.2. Truyền thông và mối liên hệ với dư luận xã hội.................................. 15 1.2.1. Truyền thông – quá trình truyền thông ................................................. 15 1.2.1.1. Khái niệm chung về truyền thông ...................................................... 15 1.2.1.2. Khái niệm truyền thông dưới góc độ xã hội học ................................ 17 1.2.1.3. Yếu tố cơ bản của quá trình truyền thông .......................................... 18 1.2.1.4. Quá trình truyền thông ....................................................................... 19 1.2.1.5. Phân biệt truyền thông đại chúng và thông tin đại chúng ................. 21 1.2.1.6. Các phương tiện truyền thông đại chúng ........................................... 21 1.3. Báo chí là phương tiện truyền thông đại chúng có hiệu quả nhất và có tác động mạnh mẽ tới dư luận xã hội ..................................................... 24 1.3.1. Mối quan hệ biện chứng giữa TTĐC và DLXH ................................... 24 1.3.2. Báo chí là kênh thông tin quan trọng trong quá trình truyền thông ...... 25 1.3.3. Mối quan hệ biện chứng giữa báo chí và DLXH .................................. 25 1.4. Cơ chế thị trường và những tác động của nó tới truyền thông ......... 28 1.4.1. Khái quát về cơ chế thị trường ở nước ta .............................................. 28 1.4.2. Sự tác động của kinh tế thị trường tới hoạt động truyền thông nói chung và báo chí nói riêng ......................................................................................... 29
1.5. Tầm quan trọng của việc định hướng dư luận xã hội trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay . .......................................................................... 33 1.5.1. Làm rõ khái niệm “Định hướng” .......................................................... 33 1.5.2. Tầm quan trọng của việc định hướng DLXH trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay .............................................................................................. 33
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN CỦA ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI TRÊN HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG THỦ ĐÔ TRONG 5 NĂM QUA (2004-2008) VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ............................................................................ 37 2.1. Khái quát về hệ thống thông tin đại chúng Hà Nội nói chung và báo HNM, Đài PT-TH HN nói riêng .................................................................. 37 2.1.1. Khái quát về hệ thống thông tin đại chúng Hà Nội .............................. 37 2.1.1. 1. Về quy mô .......................................................................................... 37 2.1.1.2. Về xây dựng lực lượng những người làm báo ................................... 38 2.1.1.3. Về chất lượng văn hoá, khoa học, giáo dục ....................................... 38 2.1.1.4. Về cơ sở vật chất và phương tiện hoạt động nghiệp vụ ..................... 40 2.1.2. Vài nét khái quát Về Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội và Báo Hà Nội mới ............................................................................................................ 40 2.1.2.1. Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội ............................................. 40 2.1.2.2. Báo Hà Nội Mới ................................................................................. 42 2.2. Đánh giá chất lượng định hướng dư luận xã hội của Đài Phát thanh, truyền hình Hà Nội, Báo Hà Nội Mới hàng ngày và Hà Nội mới Điện tử 43 2.2.1. Phân tích phiếu điều tra xã hội học của công chúng về chất lượng nội dung thông tin của các chương trình phát thanh, truyền hình Hà Nội, báo HNM hàng ngày và HNM điện tử................................................................... 43 2.2.1.1. Nhận định về công chúng Hà Nội ...................................................... 43 2.2.1.2. Điều tra về đánh giá nội dung thông tin và nhu cầu của công chúng trong điều kiện kinh tế thị trường ................................................................... 44 2.2.2. Đánh giá về một vài nội dung định hướng cụ thể trên báo HNM hàng ngày, báo HNM điện tử, sóng phát thanh, truyền hình Hà Nội từ năm 2004 đến tháng 8/2008 ............................................................................................. 54 2.2.2.1. Định hướng chính trị và các sự kiện lớn trên báo HNM và đài PT-TH HN ................................................................................................................... 55 2.2.2.2. Thông tin và định hướng về lĩnh vực kinh tế ...................................... 63 2.2.2.3. Thông tin định hướng lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục ..................... 67 2.2.2.4. Thông tin về các vấn đề xã hội ........................................................... 71
2.2.3. Những sai phạm trên báo HNM và đài PT-TH HN đã bị xử lý và nhắc nhở từ năm 2004 đến nay ................................................................................ 84 2.2.4. Đánh giá về đội ngũ cán bộ, phóng viên của báo HNM và đài PT-TH HN ................................................................................................................... 86 2.3. Những vấn đề đặt ra qua việc định hướng DLXH trên hệ thống Báo chí Hà Nội ....................................................................................................... 87
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHO VIỆC ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI TRÊN HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG THỦ ĐÔ TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG ....................................................... 93 3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và của Thành phố Hà Nội đối với báo chí kể từ Đại hội IX của Đảng đến nay ................................................ 93 3.2. Yêu cầu, thách thức đối với hệ thống truyền thông nói chung và báo chí Hà Nội nói riêng trong cơ chế thị trường ............................................. 96 3.2.1. Những tác động khách quan từ bên ngoài tới hoạt động truyền thông của nước ta ...................................................................................................... 96 3.2.2. Tác động của sự biến đổi trong nước và những yêu cầu đối với việc định hướng dư luận xã hội thông qua hệ thống truyền thông ......................... 98 3.3.3. Thách thức và yêu cầu đối với báo chí và những người làm báo ......... 99 3.3. Phương hướng, giải pháp định hướng DLXH Trên hệ thống truyền thông thủ đô trong cơ chế thị trường hiện nay ........................................ 102 3.3.1. Phương hướng định hướng DLXH trên hệ thống truyền thông Thủ đô .... 102 3.3.2. Giải pháp định hướng DLXH trên hệ thống truyền thông Thủ đô trong cơ chế thị trường ........................................................................................... 104 3.3.2.1. Về nội dung định hướng ................................................................... 104 3.3.2.3. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng đối với báo chí trong cơ chế thị trường ................................................................................. 110 3.3.3. Đề xuất kiến nghị thực hiện giải pháp ................................................ 111 3.3.3.1. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế cung cấp thông tin ............................. 111 3.3.3.2. Coi trọng việc định hướng thông tin từng thời kỳ ............................ 112 3.3.3.3. Đề cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân của nhà báo, nhất là tổng biên tập .................................................................................................. 113 3.3.3.4. Tăng cường bồi dưỡng chính trị, gắn với nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn ................................................................................................................ 114
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 118 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 121
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
STT NỘI DUNG KÝ HIỆU
1 Dư luận xã hội DLXH
2 Hà Nội mới HNM
3 Phát thanh – truyền hình Hà Nội PT-TH HN
4 Truyền thông đại chúng TTĐC
1
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện
đất nước, mà trước hết là đổi mới nền kinh tế. Nhờ sự chuyển đổi từ nền kinh
tế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh thị trường dưới sự quản lý của Nhà
nước, định hướng xã hội chủ nghĩa, các lĩnh vực của đời sống, kinh tế - xã hội
nước ta đã có nhiều khởi sắc. Qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đó, diện
mạo của đất nước ta đã có nhiều thành tựu đáng ghi nhận.
Sự vận hành theo cơ chế thị trường của nền kinh tế đã thể hiện nhiều ưu
điểm đối với sự phát triển của nền kinh tế của đất nước, đời sống nhân dân có
phần được cải thiện, các hoạt động dịch vụ, xã hội phát triển… Song, nó cũng
bộc lộ không ít những hạn chế, từ “mặt trái” cơ chế thị trường. Những “mặt
trái” đó đã và đang tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực, trong đó có cả hoạt
động truyền thông mà chủ yếu là lĩnh vực báo chí trong truyền thông.
Hiện nay, trong hệ thống báo chí nước ta (có cả báo chí Hà Nội) xuất
hiện những tờ báo phát hành chạy theo lợi nhuận kinh tế đơn thuần, có biểu
hiện xa rời tôn chỉ mục đích; không coi trọng nhiệm vụ định hướng dư luận
xã hội theo hướng tích cực; Có những báo chưa nhanh nhạy, kịp thời trong
phản ánh dư luận nhân dân. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là một bộ
phận những người làm báo ở Hà Nội chưa năng động, sáng tạo, tư duy làm
báo chưa nhạy bén, sắc sảo, chưa đáp ứng yêu cầu làm báo trong thời kỳ kinh
tế thị trường; chưa nhận thức đúng đắn về vai trò định hướng dư luận xã hội
của mình;có biểu hiện chạy theo xu hướng “thương mại hoá”, gây tác động
không tốt đối với nhiệm vụ định hướng dư luận xã hội của báo chí nói riêng
và của cả hệ thống truyền thông nói chung. Những lý do nêu trên ít nhiều đã
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng định hướng dư luận xã hội.
2
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Bên cạnh đó, tâm lý và tư duy của công chúng trong cơ chế thị trường ít
nhiều cũng thay đổi, theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Việc phát triển đa
dạng các loại hình thông tin, phương tiện truyền thông đại chúng giúp công
chúng có thể tiếp cận được thông tin từ nhiều “luồng” và bằng nhiều phương tiện
khác nhau, song việc kiểm soát được tính đúng đắn, chuẩn xác của những thông
tin đó vô cùng khó khăn. Sự bùng nổ mạnh mẽ về thông tin toàn cầu trên hệ
thống các phương tiện truyền thông đại chúng trong và ngoài nước đang đặt ra
vấn đề với chúng ta là phải có sự chọn lọc thông tin trong “rừng thông tin ấy” để
có sự định hướng dư luận một cách đúng đắn. Có như vậy, mới có thể ngăn chặn
những luồng thông tin xấu, trái chiều, những thông tin không có lợi cho sự phát
triển về mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội.
Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước ta với sự giao lưu, hội nhập
quốc tế sâu rộng, việc định hướng dư luận xã hội trên hệ thống truyền thông
nói chung và hệ thống báo chí nói riêng là một yêu cầu rất quan trọng, nhất là
đối với hệ thống truyền thông của Thủ đô - trung tâm đầu não chính trị, kinh
tế, văn hóa của cả nước.
Ngoài ra, sự phát triển của đất nước nói chung và Thủ đô nói riêng đã
tạo ra nhiều mối quan hệ và có sự phân hóa rất phức tạp về nhiều mặt. Điều
đó, ảnh hưởng không nhỏ tới việc thông tin trên hệ thống truyền thông, đòi
hỏi phải có sự định hướng rõ ràng.
Dư luận xã hội là cơ sở hình thành nên những trào lưu tư tưởng, tâm lý
xã hội, nên nó có ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển và phồn vinh của đất nước.
Báo chí là một bộ phận quan trọng và cũng là bộ phận chủ yếu của hệ thống
truyền thông làm nên và có sức tác động tới dư luận xã hội. Do vậy, việc nâng
cao chất lượng định hướng dư luận xã hội của hệ thống truyền thông Thủ đô
chính là việc nâng cao chất lượng định hướng dư luận của hệ thống báo chí của
Thủ đô.
3
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Thủ đô Hà Nội là “trái tim” của cả nước, vì vậy nhiệm vụ định hướng
dư luận xã hội, định hướng suy nghĩ và hành động của công chúng một cách
đúng đắn, kịp thời trên hệ thống truyền thông (mà trực tiếp là hệ thống báo
chí) của Thủ đô là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng. Để làm được điều đó
trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, Hà Nội cần có một hệ thống
truyền thông nói chung và hệ thống báo chí nói riêng hoàn chỉnh, năng động,
phát triển xứng tầm với vị thế của của Thủ đô cả về quy mô, nội dung, hình
thức; công tác định hướng dư luận xã hội, quản lý báo chí phải luôn đổi mới,
sát hợp thực tiễn; đội ngũ những nhà lãnh đạo quản lý, những người làm báo
cần được nâng tầm cả về bản lĩnh chính trị và trình độ nghiệp vụ chuyên môn.
Vấn đề định hướng dư luận trên hệ thống truyền thông Thủ đô, cụ thể
là trên các báo, đài trong điều kiện kinh tế thị trường đã và đang là vấn đề cần
được nghiên cứu để có những giải pháp đúng đắn, hiệu quả, nhất là trong điều
kiện kinh tế thị trường sôi động như hiện nay.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Từ trước đến nay, có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về dư luận xã hội nói
chung; có rất nhiều đề tài, sách nghiên cứu về truyền thông đại chúng. Gần
với đề tài này, có các nghiên cứu: Luận án tiến sĩ “Truyền thông đại chúng và
công chúng – Trường hợp Thành phố Hồ Chí Minh” (của nhà nghiên cứu
Trần Hữu Quang); đề tài “Truyền thông đại chúng và quản lý văn hóa đô thị”
(đề xuất cho trường hợp Thành phố Hồ Chí Minh) của nhà nghiên cứu Lê
Thanh Bình. Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết về các lĩnh vực, liên quan đến
nghiên cứu xã hội học, dư luận xã hội và truyền thông cùng những vấn đề liên
quan đến định hướng, quản lý báo chí. Có thể điểm một vài ví dụ: “Phụ nữ
nông thôn với việc hưởng thụ văn hóa qua các phương tiện thông tin đại
chúng” (Tác giả: Mai Văn Hải – Tạp chí Xã hội học số 1/1992); bài viết “Tìm
hiểu mức độ tiếp cận thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng của
4
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
người nông dân châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới” (tác giả: Trương
Xuân Trường – Tạp chí xã hội học số 2/2001); Sách “Định hướng hoạt động
và quản lý báo chí trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”. Liên
quan đến hệ thống truyền thông Thủ đô, có một số đề tài nghiên cứu những giải
pháp phát triển báo chí báo chí Hà Nội đến năm 2010; đề tài “Nâng cao phẩm
chất, trính trị của cán bộ, phóng viên báo, đài Hà Nội” của Ban tuyên giáo Thành
uỷ Hà Nội. Tuy vậy, chưa có một cuốn sách hoặc đề tài nào nghiên cứu riêng về
vấn đề định hướng dư luận xã hội trên hệ thống truyền thông của Hà Nội trong
điều kiện kinh tế thị trường. Chưa có đề tài nào nghiên cứu tổng hợp và đưa ra
giải pháp tương đối đồng bộ để góp phần nâng cao chất lượng định hướng dư
luận xã hội một cách cụ thể đối với các báo, đài Hà Nội, mặc dù đây là một
nhiệm vụ hết sức quan trọng. Do vậy, tác giả luận văn lựa chọn đề tài “Vấn đề
định hướng dư luận xã hội trên hệ thống truyền thông Thủ đô trong cơ chế
thị trường” làm đề tài nghiên cứu tốt nghiệp thạc sĩ.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
3.1. Mục đích của đề tài
Trên cơ sở thực trạng định hướng dư luận xã hội trên hệ thống truyền
thông của Thủ đô, chủ yếu là của hệ thống báo chí Hà Nội, đề tài xin đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng định hướng dư luận xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường của các báo, đài Hà Nội, bản tin Hà Nội hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài: Truyền thông và
báo chí; Vì báo chí giữ vai trò chủ lực trong việc định hướng dư luận xã hội
trong hệ thống truyền thông, do vậy luận văn làm rõ về vai trò định hướng dư
luận xã hội của báo chí, mối quan hệ giữa báo chí và dư luận xã hội; Những vấn
đề mang tính lý luận về dư luận xã hội; Cơ chế thị trường và tác động của nó tới
báo chí báo chí nói riêng, hệ thống truyền thông nói chung.
5
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
- Đánh giá thực trạng định hướng dư luận xã hội trên hệ thống truyền
thông, trực tiếp là thông qua các báo, đài phát thanh, truyền hình và bản tin của
Hà Nội trong thời gian 5 năm gần đây (từ 2004 – quý III/2008).
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng định hướng dư luận
xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường của hệ thống truyền thông Thủ đô.
- Tổ chức điều tra công chúng (điều tra 500 phiếu), đánh giá của công
chúng về những báo, đài, bản tin được khảo sát và nhu cầu của công chúng
hiện nay là gì, tìm hiểu những kiến nghị của công chúng đối với báo chí.
- Tổng hợp và phân tích phiếu điều tra công chúng để phản ánh đúng
thực trạng tuyên truyền.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu định hướng dư luận xã hội trên hệ thống truyền
thông của Thủ đô, cụ thể là trên sóng phát thanh, truyền hình Hà Nội; báo Hà
Nội mới hàng ngày; báo Hà Nội mới điện tử .
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hệ thống truyền thông của Thủ đô bao gồm nhiều loại hình: báo chí,
băng rôn, khẩu hiệu, áp phích… Song, báo chí (cụ thể là các báo, đài phát
thanh, truyền hình, báo điện tử) là một trong những phương tiện truyền thông
đại chúng là một kênh của truyền thông quan trọng và có hiệu quả nhất trong
việc hình thành và định hướng dư luận xã hội trong quá trình truyền thông.
Hệ thống báo chí Hà Nội hiện nay bao gồm 12 báo viết của các ban,
ngành đoàn thể của Hà Nội; một đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội; 4 báo
điện tử của báo Hà Nội mới, Kinh tế đô thị, An ninh Thủ đô, đài Phát thanh -
Truyền hình Hà Nội; 14 bản tin của các sở, ngành, đoàn thể. Song, trong phạm
vi một luận văn Thạc sĩ, đề tài lựa chỉ chọn nghiên cứu kênh thông tin báo chí
trong hệ thống truyền thông của Hà Nội; nghiên cứu đại diện mỗi loại hình báo
6
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
chí 1 ấn phẩm, cụ thể như sau: sóng phát thanh, truyền hình của Đài Phát thanh
– Truyền hình Hà Nội là đại diện báo hình và báo nói; Báo Hà Nội mới là đại
diện báo in; báo Hà Nội mới điện tử là đại diện báo điện tử nối mạng internet.
Có sự lựa chọn như vậy là do Thành phố Hà Nội chỉ có 1 đài Phát
thanh và Truyền hình; đối với hệ thống báo in và báo điện tử thì báo HNM là
báo lớn nhất của Thành phố, có số lượng phát hành lớn nhất trong hệ thống
báo chí của Hà Nội; HNM điện tử là báo điện tử đầu tiên của Hà Nội và có số
lượng truy cập lớn nhất. Những báo, đài nêu trên có vai trò, vị trí rất quan
trọng trong việc định hướng dư luận xã hội và đồng thời được Thành uỷ Hà
Nội quan tâm chỉ đạo, định hướng rất sát sao.
Luận văn nghiên cứu chất lượng các tác phẩm, chất lượng thông tin của các
báo, đài nêu trên. Riêng đối với đài PT-TH HN thì nghiên cứu chất lượng định
hướng dư luận của nội dung các chương trình phát thanh, truyền hình. Tuy nhiên,
không đi sâu phân tích từng thể loại tin, bài cụ thể, mà tổng hợp, khái quát, đánh
giá trên cơ sở tổng hợp từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau.
Thời gian nghiên cứu các báo HNM hàng ngày, HNM điện tử, đài phát
thanh, truyền hình Hà Nội: 5 năm, từ năm 2004 đến quý III/2008.
Về phía công chúng: đề tài nghiên cứu đánh giá tác động định hướng
dư luận xã hội, cũng như nhu cầu, xu hướng của công chúng về các báo, đài
nêu trên trong kinh tế thị trường.
Nghiên cứu về đội ngũ những người làm báo Hà Nội; đội ngũ cán bộ
lãnh đạo các cơ quan báo chí; các cơ quan quản lý báo chí là những nhân tố
trực tiếp tổ chức, thực hiện nhiệm vụ định hướng dư luận xã hội.
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN:
5.1. Cơ sở lý luận
Tác giả dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm, nghị quyết của Đảng về báo chí, truyền thông,
7
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
về dư luận xã hội và kinh tế thị trường để làm cơ sở lý luận thực hiện nghiên
cứu luận văn. Đồng thời, kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các tác
giả đi trước làm cơ sở lý luận cho công trình nghiên cứu của mình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp có tổng hợp, hệ thống hoá tài liệu
có liên quan; quan sát trực tiếp; sưu tầm; thống kê; phân tích nội dung và hình
thức tuyên truyền của các báo, đài. Để thu thập đa dạng các thông tin, tác giả
tiến hành nhiều bước: phỏng vấn, gặp gỡ các chuyên gia làm công tác quản lý
báo chí, phỏng vấn lãnh đạo các cơ quan báo chí (Tổng biên tập hoặc phó
tổng biên tập) để tìm hiểu sâu sắc những vấn đề liên quan đề tài.
Tác giả dành nhiều thời gian thu thập tài liệu, dữ liệu, báo cáo, những
vấn đề liên quan đề tài; tổ chức lập bảng điều tra xã hội học; từ đó tổng hợp,
phân tích, đánh giá chất lượng định hướng dư luận xã hội của các báo, đài Hà
Nội; Thông qua việc tổng hợp, đánh giá khái quát 1 báo viết, 1 báo điện tử và
1 Đài truyền hình, nhằm đưa ra những nhận định chung và giải pháp chung
cho báo chí Hà Nội đối với việc nâng cao chất lượng định hướng dư luận xã
hội trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN:
6.1. Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm bản chất của định hướng dư
luận xã hội và vai trò của định hướng dư luận xã hội thông qua hệ thống
truyền thông đối với sự ổn định xã hội, phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô
trong điều kiện kinh tế thị trường.
- Góp phần làm rõ thêm những vấn đề đang đặt ra với định hướng dư
luận xã hội qua hệ thống truyền thông Hà Nội, thuộc về chủ thể truyền thông,
đối tượng truyền thông và bản thân dư luận xã hội cần được giải quyết trong
quá trình phát triển kinh tế xã hội trong cơ chế thị trường.
8
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả định hướng dư luận xã hội trên hệ thống truyền thông, báo chí được tốt
hơn, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy, học tập về chủ đề định hướng dư luận xã hội trên báo chí trong các
trường đào tạo và các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
* Luận văn gồm:
- PHẦN MỞ ĐẦU
- PHẦN NỘI DUNG: gồm 3 chương
HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI TRÊN HỆ THỐNG TRUYỀN
THÔNG TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
* Chương I: DƯ LUẬN XÃ HỘI - TRUYỀN THÔNG VÀ VAI TRÒ ĐỊNH
THỐNG TRUYỀN THÔNG THỦ ĐÔ TỪ NĂM 2004 – 8/2008
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
* Chương II: THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI TRÊN HỆ
HIỆU QUẢ ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI TRÊN HỆ
THỐNG TRUYỀN THÔNG THỦ ĐÔ TRONG CƠ CHẾ THỊ
TRƯỜNG.
* Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO
- PHẦN KẾT LUẬN
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
- PHỤ LỤC
9
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
CHƯƠNG 1
DƯ LUẬN XÃ HỘI VÀ TRUYỀN THÔNG - VAI TRÒ ĐỊNH HƯỚNG
DƯ LUẬN XÃ HỘI TRÊN HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG
TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. DƯ LUẬN XÃ HỘI
1.1.1. Dư luận xã hội, các bước hình thành và chức năng cơ bản của
dư luận xã hội
1.1.1.1. Khái niệm
DLXH là sự phản ánh tâm trạng của xã hội, phản ánh sự đánh giá của
các nhóm xã hội lớn (của nhân dân nói chung) về những vấn đề cụ thể, về các
hiện tượng đại diện cho lợi ích xã hội cấp bách trên cơ sở các quan hệ xã hội
đang tồn tại. Cơ sở quan tâm là lợi ích xã hội, đây là những lợi ích cấp bách,
cần ngay. Trong phản ánh DLXH có tính chất đánh giá tốt - xấu, nên – không
nên. Tính chất của dư luận xã hội phụ thuộc vào tính chất của các sự kiện, vấn
đề, những quan điểm, hành động của các nhân vật trong trường hợp thông tin
phản ánh đúng đắn, chính xác.
Quan niệm trên cho thấy sự phản ánh thực tế trong DLXH trước hết là
thái độ phán xét, ý kiến đánh giá của quần chúng nhân dân đối với các sự kiện
và vấn đề thời sự mà họ quan tâm. Hay nói cách khác, DLXH có tính chất
đánh giá các hiện tượng xã hội để xác định hành vi ứng xử của con người.
Tính đặc thù của DLXH thể hiện ở chỗ: nó không chỉ thuần tuý tinh thần mà
nó là cấu trúc tinh thần - thực tế. Tính đặc thù này chỉ ra mức độ xem xét sự
thể hiện của DLXH và DLXH được xem là một hiện tượng tâm lý xã hội.
10
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
DLXH là một trạng thái tinh thần thực tế, có thể được biểu hiện đầy đủ ở thái
độ, lời nói và đỉnh cao là hành vi.
Tất cả những vấn đề đó được đặt trong quan hệ xã hội đang tồn tại. Nghĩa
là khi quan hệ xã hội thay đổi, DLXH thay đổi theo, về mặt triết học, nó là tinh
thần của xã hội. Đây không phải là ý kiến của một ngưòi, một vài người, mà là
các nhóm lớn, tập đoàn xã hội. DLXH bao giờ cũng phản ánh lợi ích, nếu không
có lợi ích không thành dư luận. DLXH dựa trên các quan hệ xã hội đang tồn tại.
Bởi vậy, DLXH
Khách thể của DLXH có thể là những sự kiện hết sức khác nhau trong
đời sống xã hội và lợi ích chung được xem là tiêu chuẩn hàng đầu để xác định
khách thể của DLXH. Còn chủ thể của DLXH là toàn thể xã hội nói chung, là
quần chúng nhân dân, là các tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể xã hội. Lập
trường giai cấp được xem là cơ sở để xác định chủ thể của DLXH.
1.1.1.2. Các bước hình thành DLXH
+ Bước thứ nhất, các cá nhân, các nhóm xã hội tiếp xúc, làm quen tạo
nên cảm giác ban đầu và trao đổi thông tin về hiện tượng, sự việc đó.
+ Bước thứ hai, các nhóm xã hội bắt đầu bàn bạc về thông tin, đánh giá
tốt, xấu, nên – không nên, dựa trên lợi ích cụ thể. Tại đây, ý kiến cá nhân bắt
đầu trở thành tinh thần xã hội.
+ Bước thứ ba, các ý kiến khác nhau được thống nhất lại trên những quan
điểm cơ bản để hình thành sự đánh giá chung về các hiện tượng, các quá trình xã
hội, những đánh giá này thoả mãn được sự nhận định của đa số cộng đồng
người.
+ Bước thứ tư, từ việc đánh giá dẫn đến sự phán xét về hành động và
rút ra những kiến nghị trong hoạt động thực tiễn.
Sự hình thành dư luận xã hội diễn ra liên tục và chứa đầy các yếu tố tự
phát, nhưng đây là một quá trình có quy luật. Lợi ích xã hội là nhân tố chi
11
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
phối sâu sắc đến sự hình thành DLXH. Lợi ích cá nhân thường rất nhạy bén
trong sự hành thành ý kiến cá nhân. Ý kiến của nhóm được coi là đơn vị đầu
tiên tạo nên “chất” của DLXH. Con đường vận động từ ý kiến cá nhân qua ý
kiến nhóm, để tạo thành DLXH là một quá trình biện chứng. Sự phát triển của
các “tầng” ý kiến quy định cường độ của DLXH về một hiện tượng xã hội nào
đó. Mặc dù sự phát triển của DLXH được xác định bởi các quy luật khách
quan, song trong một xã hội phát triển có định hướng, thì quá trình hình thành
DLXH theo con đường tự phát, tất yếu cần đến sự điều khiển của hoạt động
quản lý và tổ chức xã hội.
Để hoạt động này đạt được hiệu quả, cần thường xuyên quan tâm tới lợi
ích của các tầng lớp nhân dân, các nhóm xã hội. Việc khắc phục những khác
biệt, trước hết là những khác biệt về lợi ích kinh tế, nhằm hướng tới mục tiêu
chung, vì sự tiến bộ chung của xã hội, sẽ làm cho hoạt động định hướng
DLXH đạt hiệu quả. Việc định hướng DLXH được hình thành thuận lợi khi
có sự nhất quán trong chủ trương, chính sách với quá trình tổ chức và chỉ đạo
thực hiện. Nếu chủ trương chính sách được về xuất và các hành vi quản lý
diễn ra theo kiểu “nói một đường, làm một nẻo” thì hoạt động định hướng của
DLXH sẽ mất tác dụng.
1.1.1.3. DLXH có các chức năng cơ bản sau
+ Chức năng phản ánh: là sự phản ánh về các vấn đề nóng bỏng hoặc
có liên quan trực tiếp tới lợi ích xã hội. Thông qua sự phản ánh này, các cơ
quan quản lý, cơ quan chức năng nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân và có hướng giải quyết. Từ đó, có thể điều hoà các quan hệ xã hội, không
làm cho lợi ích nghiêng về nhóm nào.
+ Chức năng kiểm soát xã hội: Việc kiểm soát xã hội trong DLXH diễn
ra cả ở kênh chính thức và không chính thức. DLXH là độc giả, khán thính
giả, thường thể hiện quan điểm, thái độ, lập trường về những vấn đề mà họ
12
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
quan tâm. Đây là biểu hiện giám sát rất tích cực, thể hiện sự dân chủ “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, từ đó tạo nên hiệu quả truyền thông.
+ Chức năng giáo dục: Ví như việc lấy khuôn mẫu chung, chuẩn mực
chung của xã hội để giáo dục. Bằng những nhận xét đánh giá khen chê,
khuyên bảo của cộng đồng, DLXH tác động mạnh đến ý thức và hành vi của
con người, nhất là đối với thế hệ trẻ.
+ Chức năng tư vấn hoặc lời khuyên: Trước những vấn đề lớn của đất
nước, DLXH có thể đưa ra những lời khuyên sáng suốt. Ngày nay, rất nhiều
quốc gia trên thế giới đã tiến hành các cuộc thăm dò dư luận trước khi quyết
định những vấn đề quan trọng. Sự ủng hộ hay phản đối của công chúng là yếu
tố then chốt cho sự thành công hay thất bại của một chính sách nhất định. Các
ý kiến phản ánh của DLXH giúp cho các cơ quan quản lý có được những chủ
trương, chính sách phù hợp với thực tế, phù hợp với lợi ích của nhân dân.
Như việc góp ý vào các dự thảo, trước khi ban hành các chủ trương, chính
sách lớn của Đảng và Nhà nước. Dư luận báo chí không chỉ bày tỏ sự khen,
chê, mà còn đưa ra những giải pháp thiết thực.
+ Chức năng giải toả tâm lý: Sự bày tỏ ý kiến, nỗi bất bình của mỗi con
người với cộng đồng có ý nghĩa quan trọng trong việc giải toả tâm lý.
1.1.2. Vấn đề nghiên cứu ý kiến công chúng
1.1.2.1 Công chúng và ý kiến công chúng
Trong Đại từ điển tiếng Việt (Nxb Văn hoá-Thông tin, 1999) định nghĩa:
“Công chúng là đông đảo người xem hoặc người chứng kiến việc gì, trong quan
hệ với người diễn thuyết, tác giả, diễn viên...”. Như vậy, công chúng là số đông
người, cùng quan tâm tiếp nhận thông tin từ một sự việc, sự kiện hay một đối
tượng nào đó trong một khoảng không gian chung. Chẳng hạn: công chúng của
báo chí, công chúng của điện ảnh, công chúng của sân khấu...
13
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Công chúng là khái niệm được đề cập nhiều trong các sách, báo và các
công trình nghiên cứu khoa học về truyền thông. “Công chúng là quần thể cư
dân mà cơ quan báo chí hướng vào để tác động (và trực tiếp hay gián tiếp chịu
sự tác động của báo chí), nhằm lôi kéo, thu phục họ vào phạm vi ảnh hưởng
của mình. Công chúng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động báo
chí”. Sản phẩm của báo chí nói chung và truyền hình nói riêng được phát
hành định kỳ, liên tục và rộng khắp cả về thời gian và không gian. Do đó,
công chúng của báo chí cũng rộng lớn nếu không nói là đại đa số trong xã hội.
Còn “ý kiến” cũng trong từ điển tiếng Việt giải thích “ý kiến: suy nghĩ
và nhận định về một việc gì”. Công chúng được tập hợp từ những cá nhân
trong xã hội, ý kiến công chúng chính là biểu thị thái độ, phán xét, đánh giá
của một cộng đồng trước các sự việc, hiện tượng... mà họ quan tâm. Về bản
chất, ý kiến công chúng chính là dư luận xã hội (hay còn gọi là công luận).
Tuy nhiên, theo nghĩa riêng thì ý kiến và dư luận có sự khác nhau. Dư luận
biểu hiện ra thành lời, còn ý kiến không nhất thiết biểu hiện bằng lời mà ở
dưới dạng chính kiến, quan điểm.
DLXH không phải ý kiến của một người, mà là ý kiến của số đông
người, nó cũng không phải là tổng cộng các ý kiến phán xét đánh giá của các
cá nhân, mà là sự phán xét, đánh giá chung của đại đa số trong cộng đồng. Ở
nhiều trường hợp, ý kiến cá nhân trở thành DLXH rộng rãi khi nó thể hiện
mối quan tâm chung, sự đánh giá chung của toàn xã hội về một vấn đề, hiện
tượng nào đó.
Ý kiến của con người thường phản ánh thái độ của họ đối với một vấn
đề nào đó. Tuy nhiên có những trường hợp ý kiến và thái độ không đồng
nhất, họ giấu giếm thái độ đích cực của mình, bộc lộ ý kiến trái ngược hẳn.
“ý kiến thường phức tạp và có thể phân biệt ở nó các biến số khác nhau. Các
biến số thường xuyên nhất là khuynh hướng, cường độ, bề rộng, chiều sâu”.
14
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Khuynh hướng thể hiện sự tán thành hay phản đối, cường độ là sức mạnh
một ý kiến có được. Bề rộng thể hiện phạm vi phổ biến của ý kiến. Chiều
sâu ý kiến thể hiện mức độ vững chắc của nó trong hệ thống các giá trị của
cá nhân. Những ý kiến có chiều sâu thường khó thay đổi khuynh hướng,
ngược lại những ý kiến không có chiều sâu, dù được thể hiện mạnh mẽ vẫn
dễ dàng chuyển sang khuynh hướng trái ngược.
1.1.2.2. Nghiên cứu ý kiến công chúng
Nghiên cứu ý kiến công chúng là vận dụng trí tuệ để khai thác các giá
trị của ý kiến công chúng vào một mục đích nhất định. Trong xã hội bùng nổ
thông tin, công chúng tiếp cận với nhiều nguồn thông tin bằng nhiều cách
khác nhau, đó là cơ sở để nâng cao nền tri thức cho mỗi người, nhưng cũng
tạo ra các luồng ý kiến đa dạng, phong phú trong xã hội. Trên thế giới, các
nước phát triển đã chú ý nghiên cứu ý kiến công chúng rất sớm. Ở Mỹ, những
cuộc nghiên cứu công luận đầu tiên có nguồn gốc từ những cuộc thăm dò bầu
cử của báo chí vào năm 1824, sau đó nó trở thành phổ biến. Năm 1914, Trung
tâm Quốc gia nghiên cứu công luận của Mỹ đã được thành lập. Năm 1936 tờ
Digest đã gửi qua bưu điện hơn 10 triệu lá phiếu thăm dò trong cuộc bầu cử
tổng thống. Họ đã thu về được hơn 2 triệu phiếu để thống kê, phân tích, những
kết quả dự đoán sai. Các nhà nghiên cứu đã phân tích nguyên nhân thất bại là
do 10 triệu lá phiếu chỉ gửi đến những người đại diện của những người nghèo
và ít học. Ngoài ra, những người không nhận được và không gửi lại các lá
phiếu thì không được tính đến trong mẫu chung. Qua thất bại trên đây cho thấy,
nghiên cứu ý kiến công chúng là một công việc đòi hỏi tính khoa học tỉ mỉ.
Chưa hẳn những cuộc điều tra, nghiên cứu quy mô lớn đã cho kết quả chính
xác.
Ngày nay, việc nghiên cứu ý kiến công chúng được ứng dụng vào nhiều
lĩnh vực. Ở nước ta với phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
15
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
tra, là quan điểm của Đảng, thể hiện sự tôn trọng ý kiến nhân dân. Nhân dân
được góp ý vào những văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước, được bàn
luận những chính sách xã hội có liên quan trực tiếp tới đời sống của mình.
Đối với lĩnh vực truyền thông, tuỳ từng loại hình, ứng dụng các nghiên cứu ý
kiến công chúng với các mục đích khác nhau. Chẳng hạn những người quản
lý báo chí thì kết quả của nghiên cứu là cơ sở để đánh giá hiệu quả của tờ báo,
chương trình phát thanh, truyền hình... Với những nhà quảng cáo, kết quả
nghiên cứu là cơ sở để quyết định đưa quảng cáo vào chương trình nào.
Công cụ nghiên cứu ý kiến công chúng chủ yếu là mẫu điều tra, các cuộc
phỏng vấn, một bản câu hỏi điều tra và các trang thiết bị cần thiết để thống kê.
Ngày nay trong các cuộc điều tra, phiếu câu hỏi ngày càng phức tạp do các nhà
nghiên cứu chuyển từ câu hỏi đơn giản kiểu trưng cầu ý kiến sang dùng các
phiếu câu hỏi để đo đạc tất cả các tham số của công luận. Ngoài ra, còn nhiều
phương pháp nghiên cứu ý kiến công chúng như thông qua mạng lưới cộng tác
viên, phương pháp quan sát, phỏng vấn, phương pháp phân tích nội dung.
1.2. TRUYỀN THÔNG VÀ MỐI LIÊN HỆ VỚI DƯ LUẬN XÃ HỘI
1.2.1. Truyền thông – quá trình truyền thông
1.2.1.1. Khái niệm chung về truyền thông
Theo từ điển tiếng Anh, từ truyền thông có nghĩa “Communication”, là
sự truyền đạt, thông tin, thông báo, giao tiếp, trao đổi, liên lạc, giao thông…
Thuật ngữ truyền thông có nguồn gốc từ tiếng Latin: “commune”, có nghĩa là
chung hay cộng đồng. Nội hàm của nó là nội dung, cách thức, con đường,
phương tiện để đạt đến sự hiểu biết lẫn nhau, giữa cá nhân với cá nhân, cá
nhân với cộng đồng, xã hội. Nhờ truyền thông giao tiếp mà con người tự
nhiêm trở thành con người xã hội.
Truyền thông là một hoạt động gắn liền với lịch sử phát triển của loài
người. Đó là điều kiện để tạo nên những mối quan hệ xã hội giữa người với
16
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
người. Thiếu truyền thông, giao tiếp, con người và xã hội loài người khó hình
thành và phát triển.
Tùy theo những góc độ tìm hiểu và nghiên cứu khác nhau, có rất nhiều
khái niệm khác nhau về “truyền thông”. Chẳng hạn như Frank Dance năm
1970 trong công trình nghiên cứu của mình về “khái niệm cơ bản về truyền
thông” đã nêu ra 15 định nghĩa truyền thông của các tác giả trên nhiều góc độ
khác nhau. Ngoài những quan niệm của Frank Dance, còn có nhiều quan niệm
khác về truyền thông, chẳng hạn như: Truyền thông là quá trình truyền thông
tin giữa các cá nhân với nhau. Cũng có quan niệm cho rằng Truyền thông là
quá trình trong đó một cá nhân (người truyền tin) truyền những thông điệp với
tư cách là những tác nhân kích thích (thường là những ký hiệu ngôn ngữ) để
sửa đổi hành vi của những cá nhân khác (chính là những người nhận tin).
Truyền thông xảy ra khi người A truyền thông điệp B qua kênh C đến
người D với hiệu quả E. Đó là quá trình trao đổi thông điệp giữa các thành
viên hay các nhóm người trong xã hội nhằm đạt sự hiểu biết lẫn nhau…
Từ những định nghĩa trên, cho thấy tính phức tạp, tính đa dạng của
truyền thông. Khái niệm truyền thông bao hàm một ý nghĩa hết sức rộng lớn.
Truyền thông là sự cố gắng tạo lập ra sự hiểu biết chung của con người, với
mục đích làm thay đổi nhận thức và hành vi. Truyền thông khác với thuật ngữ
“Các phương tiện truyền thông đại chúng” (Mass Media hay Mass
Commubication), bao gồm: Sách, báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, phim tài
liệu, Internet… Các phương tiện truyền thông đại chúng là một kênh của truyền
thông. Đó là kênh quan trọng và có hiệu quả nhất của quá trình truyền thông.
Giáo trình “Cơ sở lý luận báo chí - truyền thông” đã đưa ra một khái
niệm chung về truyền thông như sau: “Truyền thông là một quá trình liên tục
trao đổi hoặc chia sẻ thông tin, tình cảm, kỹ năng nhằm tạo sự liên kết lẫn
nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vi và nhận thức”.
17
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Định nghĩa trên cho thấy truyền thông là một quá trình, nó không phải
là một việc làm nhất thời hay xảy ra trong một khuôn khổ thời gian hẹp. Quá
trình này mang tính liên tục, vì nó không kết thúc ngay sau khi chuyển tải nội
dung cần thiết, mà còn tiếp diễn sau đó. Đó là quá trình trao đổi giữa cả bên
cho và bên nhận.
Từ khái niệm trên còn cho thấy truyền thông phải dẫn đến sự hiểu biết
lẫn nhau, yếu tố này cực kỳ quan trọng đối với mục đích và hiệu quả của
truyền thông. Truyền thông phải đem lại sự thay đổi trong nhận thức và hành
vi, nếu không mỗi việc làm sẽ trở nên vô nghĩa.
1.2.1.2. Khái niệm truyền thông dưới góc độ xã hội học
Dưới góc độ nghiên cứu xã hội học, có thể hiểu truyền thông đại chúng
là toàn bộ những phương tiện của các thiết chế xã hội, nhằm đảm bảo phổ
biến thông tin trên quy mô đại chúng, được thực hiện bằng các hoạt động phát
thanh, truyền hình, hệ thống in ấn và phát hành sách, báo tới những nhóm
công chúng lớn.
Truyền thông tồn tại từ khi có con người, nhưng chỉ gần đây mới được
nghiên cứu về mặt khoa học. Lý luận thông tin đóng vai trò quan trọng trong
nghiên cứu truyền thông. Truyền thông được nghiên cứu theo lý luận ngôn
ngữ học tâm lý, việc hiểu ngôn ngữ gắn liền với cơ chế tri giác. Xã hội học
quan tâm tới tác động của cấu trúc xã hội, quan hệ xã hội trong quá trình
truyền đạt, tiếp nhận thông tin.
Xã hội học quan niệm truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội,
gồm 3 yếu tố: Đại chúng là các tầng lớp công chúng, là những người nhận
thông tin từ các phương tiện của truyền thông đại chúng; Các nhà truyền
thông và hoạt động truyền thông; các phương tiện truyền thông đại chúng
được phân tích như một thiết chế xã hội. Thông qua quá trình truyền thông,
nhằm chuyển tải thông tin.
18
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Sự phát triển của xã hội học cho thấy, ngay từ đầu, hiện tượng truyền
thông đã ở vị trí trung tâm. Nó được xem là khái niệm cơ bản của xã hội học.
Người ta nhận rõ ý nghĩa quan trọng của truyền thông đối với quá trình xã hội
hóa con người cũng như việc hình thành và phát triển các cộng đồng người.
Khái niệm truyền thông được sử dụng ở nhiều lĩnh vực. Theo nghĩa
rộng nhất, nó là sự tạo ra mối liên hệ giữa các đối tượng có thể mang bản chất
sự sống hay không. Khái niệm này không chỉ ứng dụng cho các quy trình hóa
học, các trường lực vật lý, các quá trình tâm lý mà còn cho các phương thức
hành vi trong xã hội.
1.2.1.3. Yếu tố cơ bản của quá trình truyền thông
Trong quá trình truyền thông, có các yếu tố cơ bản sau: Nguồn thông
tin; Thông điệp; Mạch truyền (Kênh); Người tiếp nhận.
Nguồn (Source), hay còn gọi là người gửi thông tin, đây là yếu tố khởi
nguồn của một quá trình truyền thông. Đó là một cá nhan nói, viết, vẽ, hay
làm động tác. Yếu tố khởi xướng có thể là một nhóm người, một tổ chức
truyền thông như các cơ quan báo chí.
Thông điệp (Message), là yếu tố thứ hai của quá trình truyền thông.
Thông điệp có thể bằng tín hiệu, ký hiệu, mã số, bằng văn bản, sóng trên
không trung… hoặc bằng bất cứ tín hiệu nào mà người ta có thể hiểu được,
trình bày ra một cách có ý nghĩa. Điều quan trọng là ngôn ngữ phải được diễn
tả bằng thứ ngôn ngữ mà người cung cấp và người tiếp nhận đều hiểu được.
Có thể là ngôn ngữ giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày, ngôn ngữ kỹ thuật
trọng khoa học kỹ thuật, hay ngôn ngữ văn học nghệ thuật…
Mạch truyền, hay còn gọi là Kênh là yếu tố thứ 3 cấu thành quá trình
truyền thông. Thông qua Mạch truyền, làm cho người ta nhận biết thông điệp
bằng các giác quan. Mạch truyền là cách thể hiện thông điệp để con người có thể
19
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
nhìn thấy, hoặc nghe thấy thông qua các thể loại hình ảnh, trực quan, qua các
phương tiện nghe, nhìn, đọc; Hoặc những dụng cụ khác như: sờ, nếm, ngửi…
Người tiếp nhận, hay còn gọi là nơi tiếp nhận là yếu tố thứ tư của
truyền thông. Đó là những người nghe, người xem, người giải mã, người giao
tiếp. Đối tượng tiếp nhận có thể là một người, một nhóm người, một đám
đông thành viên của một tổ chức hay của đông đảo công chúng.
Quá trình truyền thông còn có những yếu tố khác, đó là yếu tố “phản
hồi” (Feedback); yếu tố “Nhiễu” do vật lý hay do khách quan.
1.2.1.4. Quá trình truyền thông
Nghiên cứu về quá trình truyền thông, có thể chia thành hai giai đoạn
như sau: Quá trình A - Nguồn (source) có thể là một người, một tổ chức, một
cơ quan chuyển một thông điệp cho đối tượng trong đó chứa đựng những
thông tin mã hoá (encode) là tìm tòi một hệ thống tín hiệu ngôn ngữ học nào
đó diễn đạt nội dung thông điệp. Thông điệp (message) là những thông tin
thực sự được chuyển theo một mạch truyền (chanel) này hay kênh khác đến
đối tượng.
Quá trình B: Giải mã (decode), là quá trình từng cá nhân bằng con
đường riêng của mình làm rõ ràng, rành mạch thông điệp được chuyển đến.
Mỗi thông điệp chuyển đến có thể được chấp nhận và hiểu biết theo nhiều
cách khác nhau, tuỳ thuộc vào kiến thức, thái độ của người tiếp nhận và cũng
tuỳ thuộc vào người cung cấp và nội dung thông điệp.
Nơi nhận (destination), người nhận (receiver) là điểm cuối cùng giải mã
thông điệp, có quá trình và sự tích luỹ của người tiếp nhận.
Phản hồi (feeback) là dòng chảy thông tin mà những bước đi từ thông
tin gốc đến nơi tiếp nhận và ngược lại. Nhưng nó chỉ được thực hiện với điều
kiện người tiếp nhận giải mã được thông tin và người cung cấo thông tin có
những thông tin thích hợp với hiện tại. Phản hỏi là khoá cạnh quan trọng nhất
20
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
của quá trình truyền thông, là công cụ cho phép nối hau đường truyền thông
lại với nhau. Nó không còn tồn tại hoặc bị cản trở khi một trong hai bộ phận
truyền thông bị vô hiệu quá hoặc với sự chống lại của bộ phận tiếp nhận. Một
hạn chế của truyền thông là có thể xảy ra hiện tượng không phản hồi.
Yếu tố “phản hồi” là sự tác động ngược trở lại từ nơi tiếp nhận, cụ thể
khi công chúng khi tiếp nhận thông tin trong quá trình truyền thông. Đây chính
là vấn đề mà đề tài đang tập trung nghiên cứu, bởi dư luận xã hội chính là phản
hồi của công chúng trong quá trình truyền thông. Muốn định hướng được dư
luận xã hội thì phải nghiên cứu những phản hồi của công chúng, từ đó nắm bắt,
phân tích và mới đưa ra được những giải pháp định hướng đúng đắn, phù hợp
và thực tế. Hiểu biết được đối tượng truyền thông là một yếu tố hết sức quan
trọng để tạo nên hiệu quả trong quá trình truyền thông. Đối tượng của truyền
thông chính là con người. Mỗi người có thể trả lời, đáp ứng thông điệp của
người khởi xướng tuỳ theo xu hướng, thái độ, trình độ học vấn, địa vị xã hội
của riêng họ. Vì vậy, biết đối tượng không phải là đơn giản. Nó đòi hỏi người
truyền thông phải đi sâu vào bản chất, nhu cầu, nghiên cứu kỹ đối tượng dùng
chính ngay ngôn ngữ của đối tượng để làm giảm bớt những “rào cản” đến mức
thấp nhất.
Quá trình truyền thông là quá trình trao đổi thông tin hai chiều, đây là
một chu trình khép kín. Quá trình truyền thông giữa con người bao giờ cũng
diễn ra trong môi trường xã hội, xác định rõ giữa những người khởi xướng và
người tiếp nhận. Để truyền thông đạt hiệu quả, kinh nghiệm của người khởi
xướng và người tiếp nhận có giá trị đặc biệt khi tiến hành. Thông điệp muốn
truyền thông phải qua các bước mã hoá, truyền đi tiếp nhận và giải mã. Mỗi
thông điệp chuyển từ người khởi xướng đến người tiếp nhận thường giảm độ
chính xác và cường độ, nên phải tìm cách tăng thêm sức mạnh cho thông
21
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
điệp. Mỗi thông điệp được người tiếp nhận nghiên cứu và chỉ biết được sức
mạnh, hiệu quả của nó khi người tiếp nhận có thông tin phản hồi.
1.2.1.5. Phân biệt truyền thông đại chúng và thông tin đại chúng
Truyền thông đại chúng là thuật ngữ chỉ quá trình truyền đạt thông tin:
tri thức, tin tức, giá trị tinh thần, những chuẩn mực đạo đức pháp lý một cách
rộng rãi... Quá trình truyền thông chủ yếu thông qua các phương tiện truyền
thông đại chúng như: Báo chí, truyền hình, điện ảnh, phát thanh, sách, quảng
cáo, Internet, băng đĩa hình, âm thanh v.v...
Như vậy, truyền thông đại chúng bao gồm cả thông tin đại chúng;
thông tin đại chúng là nòng cốt, là lực lượng chủ yếu của truyền thông.
Truyền thông là một dạng căn bản của hành vi con người trong xã hội “Đó là
cơ chế để các liên hệ của con người tồn tại và phát triển”
Ngày nay, các phương tiện truyền thông đại chúng có vai trò hết sức to
lớn trong đời sống xã hội, nó tham gia ngày càng tích cực vào hoạt động tổ
chức, quản lý xã hội.
1.2.1.6. Các phương tiện truyền thông đại chúng
Phương tiện truyền thông đại chúng là phương thức chuyển tải thông
tin tới công chúng, bao gồm:
- Sách: là loại hình sản phẩm truyền thông đại chúng không định kỳ,
được chế tác bằng in ấn và nhằm chuyển tải tri thức của con người. Có các
loại sách: Sách chuyên biệt, sách tra cứu, sách chuyên khảo, sách giáo khoa,
sách thương mại, sách tôn giáo…
- Các ấn phẩm báo: Là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội dung
thông tin mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội. Có các
hình thức báo ngày (nhật báo), báo tuần, nguyệt san, bán nguyệt san, một
tháng và hai – ba tháng. Tính thời sự trong nội dung thông tin của các ấn
phẩm này được hiểu là sự phản ánh nhanh những sự kiện trong xã hội và thiên
22
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
nhiên, đây cũng là những vấn đề, sự kiện được cả xã hội quan tâm. Sản phẩm
báo chí được phát hành rộng rãi, song đối với từng loại hình báo, tạp chí đều
có một đối tượng xác định. Do những đặc điểm đặc của mình, báo chí là
phương tiện truyền thông nhanh và hiệu quả nhất. Trong những năm gần đây,
với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, báo điện tử (internet) đã
xuất hiện ở Việt Nam và phát triển một cách nhanh chóng không ngờ. Với tốc
độ thông tin và lượng thông tin phong phú, báo điện tử đang dần chiếm ưu thế
so với các loại hình báo khác.
- Bản tin: Là một ấn phẩm ra định kỳ hoặc không định kỳ, nhằm
chuyển tải những nội dung về một loại thông tin nhất định, có tính chất nội
bộ, không bày bán trên thị trường. Bản tin cũng sử dụng các phương pháp
chuyển tải thông tin như báo chí, nhưng không phải là một dạng báo chí được
Luật Báo chí điều chỉnh.
- Phát thanh: Là một trong những loại hình truyền thông đại chúng,
trong đó nội dung thông tin được chuyển tải bằng âm thanh. Âm thanh trong
phát thanh bao gồm lời nói, âm nhạc, các loại tiếng động làm nền hoặc minh
họa cho lời nói bằng những âm thanh nhân tạo và âm thanh tự nhiên của cuộc
sống. Thuật ngữ phát thanh bao gồm cả hai loại hình nhở trong đó là phát
thanh qua làn sóng điện và truyền thanh qua hệ thống dây dẫn. Tuy nhiên,
trong lịch sử của phát thanh thì loại hình thứ nhất là căn bản, là yếu tố quan
trọng nhất làm nên chất lượng và sức mạnh to lớn của phát thanh, có thể
chuyển thông tin đến gần như bất cứ đâu. Phát thanh có khả năng to lớn trong
việc cung cấp thông tin cho công chúng một cách nhanh nhất so với loại hình
truyền hình và báo.
- Truyền hình: Là một loại hình phương tiện truyền thông đại chúng
chuyển tải thông tin bằng hình ảnh động và âm thanh. Nguyên nghĩa của nó là
vô tuyến truyền hình. Với sự kết hợp giữa âm thanh và truyền hình, mang lại
23
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
cho con người cảm giác về một cuộc sống rất thật như đang hiện diện trước
mắt. Nếu lấy mục đích làm tiêu chí để xem xét, người ta có thể chia truyền
hình thành các loại: truyền hình thương mại, truyền hình giáo dục, truyền hình
công cộng… Nếu lấy kỹ thuật làm tiêu chí thì có thể thấy truyền hình có hai
loại hình chính là truyền hình sóng và truyền hình cáp. Truyền hình sóng ra
đời trước, được thực hiện theo nguyên tắc kỹ thuật: hình ảnh động và âm
thanh được mã hóa dưới dạng các tín hiệu sóng và phát vào không trung. Do
vậy, truyền hình sóng phục vụ cho các đối tượng công chúng, không có khả
năng đáp ứng nhu cầu hay dịch vụ cá lẻ.
Truyền hình cáp ra đời nhằm khắc phục những hạn chế trên của truyền
hình sóng, đáp ứng tốt hơn những nhu cầu, dịch vụ cá lẻ mà truyền hình sóng
không thực hiện được. Truyền hình cáp thực hiện theo nguyên tắc tín hiệu
được truyền trực tiếp qua cáp nối từ đầu phát đến từng máy thu hình.
- Điện ảnh: là nghệ thuật của những hình ảnh động, được ghi lại trên
phim nhựa (hoặc băng từ, đĩa CD và gần đây là kỹ thuật số), sau đó chiếu lên
màn ảnh hoặc màn hình, đem lại ảo giác giống như cuộc đời thực. Nghệ thuật
điện ảnh gồm 4 nhóm thể loại phim sau: Phim thời sự - tài liệu; phim khoa
học; phim hoạt hình; phim truyện.
- Quảng cáo, tuyên truyền, cổ động: Thực chất là phương pháp truyền
thông tin từ người có nhu cầu quảng cáo, tuyên truyền qua các phương tiện
truyền thông đại chúng đến với đông đảo người trong xã hội. Trong xã hội
hiện đại, người ta bắt gặp quảng cáo ở khắp nơi, dưới mọi hình thức, bằng
mọi phương tiện và không thể thiếu trong đời sống. Đó là các chương trình
quảng cáo trên đài phát thanh, truyền hình, trên báo, tạp chí, biển hiệu, pano,
áp phích, băng-rôn, biển hiệu ngoài trời, sự trưng bày… Ngoài ra hình thức
tuyên truyền miệng cũng là một phương tiện truyền thông đại chúng.
24
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
1.3. BÁO CHÍ LÀ PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG CÓ
HIỆU QUẢ NHẤT VÀ CÓ TÁC ĐỘNG MẠNH MẼ TỚI DƯ LUẬN XÃ HỘI
1.3.1. Mối quan hệ biện chứng giữa TTĐC và DLXH
Mác từng nói: sản phẩm của TTĐC là DLXH. Thực tế hoạt động của
TTĐC, cho thấy các phương tiện TTĐC hướng đến việc hình thành DLXH, đồng
thời hệ thống này cũng là kênh thể hiện DLXH. TTĐC và DLXH có mối quan hệ
biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, nhằm hướng tới một sự công bằng, dân
chủ, công khai minh bạch.
Các phương tiện TTĐC là nơi phát đi các nguồn thông tin tới công
chúng (nhóm xã hội lớn), là căn cứ của việc hình thành nên DLXH. Nhưng,
các phương tiện TTĐC không chỉ tạo nên DLXH, mà những thông tin phản
hồi từ DLXH có tác động ngược trở lại tới hoạt động TTĐC. Phản hồi là
những “dòng chảy” của thông tin ngược lại từ nơi tiếp nhận (là nhóm công
chúng). Thông tin phản hồi chỉ hình thành khi người nhận giải mã được thông
tin từ nguồn. Phản hồi là yếu tố quan trọng của quá trình truyền thông, tạo nên
sự khép kín của quá trình truyền thông.
Mối quan hệ giữa báo chí và công chúng trong việc hình thành và thể
hiện DLXH mang tính chất biện chứng. Một mặt các phương tiện TTĐC
nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu ngày càng tăng của công chúng, mặt khác, bản
thân công chúng lại đặt ra yêu cầu mới đối với hoạt động của hệ thống này.
DLXH được tạo ra dưới tác động của các phương tiện TTĐC qua các kênh.
Thông qua các kênh đó, bằng con đường giao tiếp, bằng hoạt động thảo luận
về nội dung và các thông tin mà công chúng tiếp nhận được để hình thành
DLXH.
Với tác động của hệ thống TTĐC, DLXH diễn ra tuần tự: Công chúng
tiếp nhận những vấn đề được báo chí gợi ý hoặc đề xuất; Bằng cách đăng bài
của các chuyên gia am hiểu về một chủ đề nào đó, nhằm kích thích lợi ích xã
25
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
hội về chủ đề đó. Việc trình bày các quan điểm khác nhau trong cách nhìn
nhận đánh giá để tạo nên cơ sở cho tranh luận; Tiến hành tranh luận trên
phạm vi đại chúng, tạo thành DLXH.
1.3.2. Báo chí là kênh thông tin quan trọng trong quá trình truyền thông
Như đã phân tích ở trên, để có thể thực hiện được quá trình truyền
thông, phải thông qua các phương tiện, gọi là phương tiện TTĐC. Các
phương tiện TTĐC bao gồm: sách, báo, phát thanh, truyền hình, phim tài liệu,
báo điện tử internet… đó là kênh quan trọng nhất của quá trình truyền thông.
Quá trình truyền thông thông qua các loại hình báo chí, cho thấy báo chí trở
thành phương tiện của toàn dân, nhờ đó, mỗi liên hệ giữa cá nhân và xã hội
thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng trở nên chặt chẽ và phức
tạp hơn. Với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ
vào xã hội, báo chí có khả năng và vai trò rất lớn trong việc hình thành và
định hướng dư luận xã hội. Báo chí là phương tiện tạo dư luận xã hội và định
hướng dư luận xã hội có hiệu quả nhất bằng khả năng thông tin kịp thời, sinh
động và phong phú các sự kiện hiện tượng tới đông đảo công chúng.
Báo chí không chỉ truyền đạt thông tin về mọi lĩnh vực, mà còn là diễn
đàn của nhân dân, có khả năng thu hút, tập hợp quần chúng nhân dân. Nhân
dân có thể phát biểu ý kiến, tâm tư nguyện vọng của mình về các vấn đề trong
xã hội. Bởi báo chí có chức năng thông tin 2 chiều, nhiều chiều, do đó vai trò
hình thành và định hướng dư luận trong quá trình truyền thông là hết sức to
lớn.
1.3.3. Mối quan hệ biện chứng giữa báo chí và DLXH
Mối quan hệ giữa báo chí và DLXH là mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, như
hình với bóng. Cơ sở của mối quan hệ này chính là sự quan tâm của công
chúng trong mỗi thông điệp, mỗi bài báo, mỗi ấn phẩm báo chí nói chung.
26
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Thứ nhất: Báo chí có vai trò khơi nguồn cho DLXH. Trước hết, báo chí
có tác động mạnh mẽ vào ý thức quần chúng, tác động vào DLXH bằng những
thông tin, bài báo sản phẩm cụ thể.
Thứ hai: Báo chí có vai trò phản ánh DLXH. Báo chí không chỉ hình
thành DLXH, đồng thời đây cũng là kênh thể hiện DLXH rất hiệu quả. Để thực
hiện được vai trò đó, hệ thống truyền thông đại chúng nói chung và hệ thống báo
chí nói riêng có các nhiệm vụ: Làm tăng cường và phát triển dân chủ hóa các
mặt của đời sống xã hội. Tổ chức và động viên nhân dân tham gia vào hoạt động
quản lý xã hội; Thông tin cho nhân dân về tình trạng xã hội, về các vấn đề bức
xúc xã hội, nhất là những vấn đề mang tính cấp bách; Tác động lên các thiết chế
xã hội và đề xuất phương án hành động; Hình thành DLXH về một vấn đề nào
đó, nhằm thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển của thực tế đó; Xây dựng lòng tin,
thế giới quan và ý thức quần chúng; Điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã
hội, làm tăng cường tính tích cực chính trị - xã hội của quần chúng.
Phản ánh DLXH trực tiếp, bằng cách in các bức thư của người đọc,
người nghe, người xem, hoặc lời phát biểu của đại diện các tầng lớp công
chúng trên các trang báo hoặc trên sóng phát thanh, truyền hình. Cho in trên
báo, hoặc phát trên sóng phát thanh và truyền hình các bài phát biểu của đại diện
các tầng lớp nhân dân, hoặc các tổ chức, đoàn thể xã hội về một chủ đề nào đó,
có kèm theo lời bình của cộng tác viên hoặc của Ban biên tập… Trên cơ sở
nghiên cứu, tập hợp, phân tích các ý kiến về một vấn đề nào đó, các nhà báo
viết bài và cho in, hoặc phát trên sóng phát thanh, truyền hình…
Sự phản ánh DLXH của báo chí càng kịp thời, sâu sát và đầy đủ bao nhiêu
thì báo chí càng sinh động và hấp dẫn bấy nhiêu. Tuy nhiên, phản ánh DLXH
đòi hỏi nhà báo vừa phải nhạy cảm, vừa phải tỉnh táo, có phương thức cụ thể để
tránh khỏi rơi vào đơn điệu khô cứng, áp đặt hoặc tự nhiên chủ nghĩa.
27
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Thứ ba: Báo chí và TTĐC có vai trò định hướng và điều hoà DLXH,
điều hoà tâm lý, tâm trạng xã hội. Đây là vai trò có ý nghĩa quyết định hiệu
quả tác động cảu báo chí. Dù khơi nguồn, phản ánh như thế nào, cuối cùng
báo chí cũng thực hiện chức năng định hướng DLXH, tức là định hướng nhận
thức, hướng dẫn nhận thức và định hướng tư tưởng cho nhân dân.
Định hướng không chỉ là yêu cầu của nhà báo, nhà truyền thông, mà
còn là yêu cầu khách quan của công chúng cần thống nhất nhận thức, thái độ
và hành vi của quần chúng nhân dân trong đời sống xã hội.
Sự tác động, định hướng của báo chí đối với DLXH là rất toàn diện, hệ
thống này không chỉ tỏ rõ vai trong các đợt vận động chính trị, tuyên truyền những
chủ trương chính sách lớn, mà còn đi sâu vào những hiện tượng thường ngày, nhất
là các hiện tượng mang tính cấp bách, đột xuất. Điều đó, được biểu hiện cụ thể ở
những vấn đề như: Tập hợp sức mạnh đại đoàn kết dân tộc ủng hộ chủ trương,
đường lối của Đảng, đấu tranh với cái xấu, cái ác, vạch trần những âm mưu đen tối
của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam, bảo vệ Đảng, bảo
vệ chế độ; Việc nghiên cứu báo chí trong việc tạo ra dư luận xã hội và định hướng
dư luận trong điều kiện cơ chế thị trường, hội nhập toàn cầu là hết sức quan trọng.
Thứ tư: Cùng với DLXH và bằng DLXH, báo chí thực hiện chức năng giám
sát xã hội. Báo chí vừa là cơ quan ngôn luận, là công cụ thể hiện quyền lực chính trị
của Đảng và Nhà nuớc, vừa là diễn đàn dân chủ thể hiện quyền lực của nhân dân và
là công cụ của nhân dân giám sát các hoạt động kinh tế – xã hội.
Thứ năm: DLXH được coi là đối tác của báo chí. Báo chí không chỉ tạo ra
DLXH mà DLXH cũng tác động trở lại tới hoạt động này, thông qua những
thông tin phản hồi trong quá trình truyền thông. Một mặt, DLXH là đối tượng
tác động, đối tượng phản ánh, đối tượng điều chỉnh của báo chí; mặt khác,
DLXH là nguồn dữ liệu phong phú vô tận của báo chí. Càng gắn chặt với
DLXH, phản ánh đầy đủ diện mạo DLXH thì báo chí càng sinh động, hấp
28
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
dẫn. Do đó, việc nghiên cứu, nắm bắt DLXH, phát huy vai trò thực tế của
DLXH trong đời sống xã hội thông qua báo chí, truyền thông có ảnh hưởng
rất lớn tới sự biến đổi ý thức xã hội.
1.4. CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI
TRUYỀN THÔNG
1.4.1. Khái quát về cơ chế thị trường ở nước ta
Cơ chế thị trường là cơ chế kinh tế tất yếu, vì chỉ thông qua cơ chế thị
trường mới liên kết được các nhà sản xuất riêng lẻ vào hoạt động kinh tế của quốc
gia. Cạnh tranh là tất yếu để tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Đặc tính cạnh
tranh của kinh tế thị trường đã mở rộng biên độ cũng như tính chất hoạt động sống
mới, phá bỏ quan hệ đặc quyền, đẳng cấp giữa các cá nhân, tạo cho mỗi cá nhân
môi trường cạnh tranh tự do, làm cho mỗi thành viên xã hội bình đẳng với nhau
theo nguyên tắc “giỏi thắng, kém thua” trên tất cả các lĩnh vực hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Sự hình thành quan hệ bình đẳng đã tạo điều kiện và thời cơ cho mọi
thành phần và đơn vị kinh tế. Sự tự do kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo tiêu chí con người với tư cách động
lực và mục tiêu đã giải phóng, phát huy cao độ tiềm lực và khả năng của cá nhân
cũng như toàn thể nhân dân lao động; nó có ý nghĩa to lớn trong việc kích thích,
mở rộng tiềm năng sáng tạo của con người, của mọi thành phần kinh tế.
Mỗi đơn vị kinh tế là một chủ thể tự do, tự chủ kinh doanh theo pháp
luật. Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong
việc làm sống động thị trường. Tiền tệ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế. Đồng tiền được phát huy đầy đủ chức năng của mình, đồng tiền quốc gia
từng bước hòa nhập đồng tiền quốc tế. Thị trường quốc gia là một thể thống
nhất, không thể chia cắt theo ranh giới hành chính và từng bước hội nhập thị
trường trong khu vực và quốc tế. Thị trường bao gồm không chỉ là thị trường
hàng hóa và dịch vụ, mà còn là thị trường các yếu tố sản xuất. Nhà nước điều
29
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
khiển thị trường thông qua hệ thống luật và chính sách, trong đó Luật
Tthương mại được xem như luật chơi cơ bản của thị trường.
Cơ chế thị trường là thành quả quan trọng và tất yếu nảy sinh từ luật
cung – cầu của nhân loại. Nó là yếu tố cân bằng bên trong giữa sản xuất và
tiêu dùng, tạo thành cơ chế điều chỉnh lợi ích của những nhóm xã hội khác
nhau. Cơ chế thị trường được hình thành trong mọi nền sản xuất hàng hóa.
Quan hệ chủ yếu xuyên suất cơ chế thị trường là hàng hóa và tiền tệ. Đồng
tiền vừa là phương tiện trao đổi, vừa là mục đích của quá trình trao đổi, nhằm
thu lại lợi nhuận tối đa. Đó cũng là nguyên nhân cơ bản của những biến đổi từ
sự tác động tới mọi mặt hoạt động trong đời sống xã hội.
1.4.2. Sự tác động của kinh tế thị trường tới hoạt động truyền
thông nói chung và báo chí nói riêng
Trong bất cứ nền kinh tế thị trường nào, tính hai mặt của kinh tế thị
trường là đặc điểm vốn có của nó. Bên cạnh những mặt tích cực, thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa cũng mang lại
không ít “tai họa” cho con người, cho xã hội và cho cả giới tự nhiên. Từ trước
đến nay, đối với tất cả các nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, việc kiếm
được nhiều tiền và thu được lợi nhuận tối đa thông qua cạnh tranh là mục đích
cao nhất của các nhà tư bản. Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, chứ hoàn toàn không chủ trương phát triển
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mặc dù thời gian mà chúng ta đi theo
hướng phát triển kinh tế thị trường còn ngắn, nhưng trong đời sống xã hội đã
xảy ra nhiều biến động, thay đổi tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường.
Bởi trong giai đoạn chuyển đổi là giai đoạn nhạy cảm nhất, rất dễ bị “tổn
thương”. Sự nhạy cảm đó có thể dẫn đến các khả năng và các trạng thái khác
nhau trong việc tiếp nhận những tác động nhiều mặt từ bên ngoài. Nền kinh tế
đang chuyển đổi của bất cứ quốc gia nào cũng đều nằm trong tình trạng tương
30
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
tự như vậy. Và, nền kinh tế Việt Nam đang ở giai đoạn chuyển đổi từ nền
kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp bước đầu chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó.
Chính tính chất chuyển đổi này, hay theo một nghĩa nào đó cũng có thể
nói là tình trạng “tranh tối tranh sáng”, đang cùng với tình trạng thiếu pháp luật
hoặc sự chưa hoàn chỉnh của pháp luật, của các công cụ quản lý và điều tiết của
Nhà nước làm cho các biến động trong nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực
truyền thông, báo chí, trở nên đáng lo ngại.
Ảnh hưởng lớn nhất tới truyền thông nói chung và báo chí nói riêng, đó
là sự cạnh tranh và tính dịch vụ về mọi mặt trong hoạt động truyền thông;
những biểu hiện suy thoái về đạo đức của một bộ phận những người làm báo.
Ở nước ta, tư nhân tham gia rất nhiều vào hoạt động truyền thông nói
chung. Tuy trong lĩnh vực báo chí, không có báo chí tư nhân, nhưng báo chí
cũng chịu tác động của kinh tế thị trường, luôn phải cạnh tranh lẫn nhau giữa
báo chí trong nước và báo chí nước ngoài. Kinh tế thị trường, đã thúc đẩy sự
phát triển các dịch vụ truyền thông (số lượng, loại hình truyền thông tăng lên
đáng kể). Sự phát triển của kỹ thuật, như việc sử dụng kỹ thuật vệ tinh đã dẫn
tới sự bành trướng quá mức các dịch vụ truyền thông. Sự quá tải về dịch vụ
truyền thông khiến cho các nhà cung cấp dịch vụ ngày càng “đấu tranh” để
giành giật công chúng, trong khi độc giả, khán giả, thính giả chỉ có một quỹ
thời gian và tiêu chí có hạn. Nhu cầu và yêu cầu của công chúng ngày một cao,
ngày càng khó tính hơn, tác động mạnh hơn và cũng không kiên định, gắn bó
vào một loại hình truyền thông nào. Do vậy, cuộc cạnh tranh đó diễn ra ngày
một gay gắt.
Báo chí là một hoạt động cơ bản của truyền thông và cơ chế thị trường
đã góp phần tạo ra xu hướng “thương mại hóa báo chí”. Tình trạng thương
mại hóa ở báo chí hiện nay đã và đang được nhắc nhở, phê phán, biểu hiện ở
31
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
những mặt tiêu cực. Tuy nhiên, cụm từ “thương mại hóa báo chí” có thể có
nhiều cách hiểu khác nhau. Bởi báo chí được coi là một loại hàng hóa, yếu tố
hàng hóa được thể hiện ở chỗ báo chí cũng hoạt động trong nền kinh tế thị
trường với các quy luật của giá cả, giá trị và bị quy luật cung – cầu chi phối,
nên nó cũng chịu sức ép của cạnh tranh trên “thị trường báo chí”, “thị trường
thông tin”. Báo chí được xác định khác so với các loại hàng hóa thông thường
ở chỗ nó không lấy lợi nhuận làm mục đích cao nhất, duy nhất mà đặt lợi ích
chính trị, văn hóa, tinh thần của xã hội lên hàng đầu. Lợi ích xã hội ở đây là
lợi ích của dân tộc, của đất nước và lợi ích của đa số người lao động.
Bằng những biểu hiện tiêu cực, thì “thương mại hóa báo chí” trong cơ
chế thị trường còn được hiểu là tình trạng xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng
phục vụ, xa rời chức năng, nhiệm vụ chính của tờ báo. Nội dung và hình thức
báo chạy theo thị hiếu tầm thường, cốt sao bán được càng nhiều càng tốt,
nhằm lấy số lượng bù đắp cho chi phí, hạn chế thất thu do số lượng phát hành
ít. Cụ thể, trên một bản in, nếu in với số lượng càng ít thì giá thành càng cao,
ngược lại, in càng nhiều, giá thành càng hạ. Để chạy theo số lượng phát hành,
một số tờ báo đã dùng nhiều cách làm báo nhằm câu khách. Phổ biến nhất
trong cách làm báo này là nhặt nhạnh nhiều vụ án để đăng tải. Trong mỗi số
báo, họ cho đăng tới 5-7 vụ án các dạng, khiến bạn đọc có ấn tượng nặng nề,
bi quan đối với xã hội. Trên thực tế, tình trạng gia tăng tội phạm là có thật,
song bức tranh toàn cảnh của xã hội ta không đúng như một số tờ báo phản
ánh. Cùng với những chuyện bạo lực giật gân, một số tờ báo dùng những
chuyện yêu đương, tình dục dưới nhiều dạng khác nhau để khêu gợi, câu
khách. Đó là những chuyện tình ái, ủy mị, mùi mẫn, rẻ tiền, những hình ảnh
gợi cảm; quảng cáo những dịch vụ thiếu lành mạnh… nhằm phục vụ thị hiếu
thấp kém của một bộ phận bạn đọc trẻ tuổi. Quan niệm của một số người biên
32
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
tập cho rằng đây chỉ là những mảng thư giãn, giải trí, coi nhẹ tác hại của các
bài báo đó.
Hay như gần đây, việc khai thác đời tư của những nhân vật nổi tiếng,
chính khách nước ngoài cũng là đề tài được báo chí khai thác nhiều nhằm thu
hút bạn đọc. Một đề tài khác được các báo khai thác để câu khách, đó là mê tín
dị đoan, trong đó “đời sống tâm linh” của con người được đề cập và bàn luận
nhiều nhất. “Tâm linh” và “ngoại cảm” có những biểu hiện trong thực tế khá
huyền ảo, có khi hầu như thuyết phục, song khoa học còn đang khám phá và lý
giải, chưa có kết luận rõ ràng. Nếu báo chí đi sâu vào lĩnh vực đang nghiên cứu
này với cách nhìn võ đoán thì dễ dẫn dắt bạn đọc vào mê cung của sự mơ hồ,
ảnh hưởng đến lòng tự tin của mỗi người và tinh thần lạc quan của xã hội.
Bên cạnh đó, do tác động “mặt trái” của kinh tế thị trường, có hiện
tượng phóng viên thông tin thiếu trung thực, bao che cho những đơn vị và cá
nhân làm ăn phi pháp, hoặc dùng báo chí như một công cụ đe dọa, tống tiền,
hoặc thực hiện thủ đoạn bịa đặt, nói xấu nhằm hủy hoại uy tín, chất lượng
hàng hóa của doanh nghiệp khác để cạnh tranh gian dối.
Một trong những biểu hiện nữa là tình trạng báo chí quảng cáo tràn lan,
không quan tâm tới chất lượng, độ tin cậy của mặt hàng quảng cáo, thậm chí coi
thường công chúng, miễn sao thu được nhiều nguồn kinh phí từ quảng cáo (như
đối với truyền hình, việc tận dụng quảng cáo quá nhiều 2-3 lần trong một tập
phim, vừa gây phản cảm, vừa tạo cảm giác khó chịu, bị coi thường của khán
giả).
Tuy nhiên, tất cả những hiện tượng nêu trên không thể quy một cách đơn
giản là hoàn toàn do kinh tế thị trường gây nên. Nhưng cũng có thể khẳng định
rằng, mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường, nhất là kinh tế thị trường chưa hoàn
thiện trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đã tạo nhiều cơ hội
và điều kiện cho những hiện tượng tiêu cực xã hội nảy sinh và phát triển.
33
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
1.5. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI
TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1.5.1. Làm rõ khái niệm “Định hướng”
Để hiểu được vấn đề định hướng, cần hiểu khái niệm từ “định hướng”.
Theo Từ điển Tiếng Việt 2008, từ “Định hướng” có nghĩa là xác định phương
hướng. Hiểu rộng hơn vấn đề định hướng dư luận xã hội trong hoạt động báo
chí nói riêng, truyền thông nói chung, thì “định hướng” ở đây có nghĩa là xác
định phương hướng cho dư luận công chúng theo một hướng nhất định, giúp
dư luận đi theo đúng hướng, có sự thống nhất, ổn định.
1.5.2. Tầm quan trọng của việc định hướng DLXH trong cơ chế thị
trường ở nước ta hiện nay
Việc định hướng dư luận cho công chúng trong cơ chế thị trường,
nhằm phát huy những mặt tích cực, đẩy lùi những mặt tiêu cực trong nhận
thức và hành động của công chúng. Mặt khác, giúp cho nền kinh tế phát triển
theo hướng tích cực, hạn chế bớt “mặt trái” của kinh tế thị trường.
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
tăng cường hội nhập quốc tế và bùng nổ thông tin hiện nay, hoạt động báo chí
là trận địa nóng bỏng trên mặt trận tư tưởng - văn hoá. Việc định hướng
DLXH trên truyền thông đại chúng nói chung và báo chí nói riêng đang đặt ra
nhiều thách thức to lớn.
Ở nước ta hiện nay, hoạt động báo chí có những biểu hiện chệch hướng
xã hội chủ nghĩa, làm giảm hoặc phản tác dụng thông tin tuyên truyền: không
ít trường hợp báo chí phản ánh, bình luận sai hiện thực, làm lộ bí mật quốc
gia; khuynh hướng “thương mại hoá” hoạt động báo chí ngày càng gia tăng;
rất nhiều tờ báo chỉ khai thác mặt trái, mặt tiêu cực nhưng lại không chú ý nêu
gương nhân tố mới, điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt. Có tờ báo đặt lợi ích
của mình lên trên hết, không tuân thủ đường lối kinh tế, đường lối đối ngoại
34
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
của Đảng và Nhà nước. Trong khi khai thác thông tin của các phương tiện
truyền thông đại chúng nước ngoài, vì “câu khách”, nên không cảnh giác chú ý
chọn lọc nên đã đưa những nội dung không phù hợp với bản sắc văn hóa dân
tộc, thậm chí tuyên truyền bạo lực, đồi truỵ, vô hình trung đã tiếp tay cho các
thế lực thù địch thực hiện âm mưu "Diễn biến hoà bình" bằng thông tin báo
chí... Do vậy việc tăng cường quản lý và nâng cao vai trò định hướng của
truyền thông và vô cùng cần thiết
Việc định hướng DLXH trong hoạt động truyền thông nói chung và
hoạt động báo chí nói riêng là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, vừa
mang tính cấp bách, vừa là quy luật khách quan của quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá X của Đảng đã khẳng định rõ: "báo chí phải đóng vai
trò quan trọng trong việc bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của
giai cấp công nhân, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những giá trị tốt đẹp trong
truyền thống văn hoá dân tộc, những tinh hoa văn hoá thế giới chiếm vị trí
chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội”.
Hiện nay sự phát triển của khoa học - công nghệ diễn ra như vũ bão,
các trào lưu tư tưởng cũng có điều kiện nở rộ và truyền bá rộng rãi đến mọi
nơi trên thế giới, mà nước ta cũng không phải là ngoại lệ. Bên cạnh những
trào lưu tư tưởng tiến bộ mà chúng ta có thể tiếp thu, chọn lọc, vận dụng thì
cũng có không ít những trào lưu tư tưởng phản tiến bộ, lỗi thời, bảo thủ hoặc
"cấp tiến" thái quá, thậm chí cả những tư tưởng phản động như "Diễn biến
hoà bình" mà các thế lực thù địch đang âm mưu sử dụng để chống phá nước
ta.
Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng ở nước ta, xuất hiện nhiều luồng
văn hóa, tư tưởng đan xen, ảnh hưởng không nhỏ tới mọi mặt đời sống xã hội
35
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
và đặc biệt là tư tưởng của quần chúng nhân dân. Sự hội nhập khiến cho các
mối quan hệ ngày càng trở nên phức tạp, khó lường. Hơn nữa, quá trình phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng đang bộc
lộ mặt trái của nó như đã phân tích ở trên với những hiện tượng tiêu cực ngày
càng gia tăng, khi lợi ích và “đồng tiền” được coi trọng, tất yếu sẽ nảy sinh
nhiều mâu thuẫn và tiêu cực, trong cả lĩnh vực tư tưởng… tất cả những điều
đó cần có sự định hướng đúng đắn, rõ ràng về tư tưởng, về lĩnh vực tinh thần
một cách đúng đắn, lành mạnh.
Hà Nội, là Thủ đô, là trung tâm đầu não chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội của cả nước, sau khi thực hiện Nghị quyết 15-QH XI về mở rộng địa giới
hành chính Thủ đô, dân số của Hà Nội mở rộng với hơn 6 triệu người, thêm
nhiều dân tộc và nền văn hóa đa dạng, bởi vậy, việc định hướng DLXH trên
hệ thống truyền thông cả nước nói chung và truyền thông của Thủ đô nói
riêng là việc làm hết sức cần thiết.
*
* *
Qua phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về DLXH, TTĐC và
báo chí trong truyền thông cơ chế thị trường, cho thấy mối quan hệ đan xen
giữa các phạm trù trên. Sự tác động của thị trường tới các hoạt động đời sống,
xã hội, trong đó có lĩnh vực truyền thông, báo chí là rất lớn. Trong khi đó, báo
chí là lực lượng chủ lực của truyền thông, có vai trò quan trọng trong việc
hình thành và định hướng DLXH. Bên cạnh đó, sự phát triển, giao lưu, hội
nhập đã ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng, tâm lý, nhu cầu thông tin của công
chúng… Do vậy, việc định hướng DLXH là hết sức cần thiết. Để định hướng
được cho công chúng, cần phải có sự định hướng cho hoạt động truyền thông,
cụ thể là cho hoạt động báo chí. Hà Nội là Thủ đô, là trung tâm đầu não chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nên diễn biến tâm lý, tư tưởng của các tầng lớp
36
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
công chúng là hết sức phức tạp; báo chí Hà Nội cũng không nằm ngoài sự vận
động, phát triển chung của hoạt động báo chí của cả nước, cũng chịu tác
động, ảnh hưởng từ cơ chế thị trường, từ những nhân tố bên ngoài và bên
trong.
Trong bối cảnh đó, DLXH cần được định hướng đúng đắn và báo chí
Hà Nội có vai trò to lớn trong việc định hướng DLXH cần được định hướng
rõ ràng, nhằm nâng cao chất lượng định hướng DLXH cho công chúng Thủ
đô.
37
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
CHƯƠNG II
THỰC TIỄN CỦA ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI TRÊN
HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG THỦ ĐÔ TRONG 5 NĂM
QUA (2004-2008) VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG HÀ NỘI NÓI
CHUNG VÀ BÁO HNM, ĐÀI PT-TH HN NÓI RIÊNG
Có thể nói, tính từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
và từ sau Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIII cho đến nay, hệ
thống truyền thông đại chúng của Thủ đô đã và đang đổi mới theo hướng tiến
bộ, tích cực, bước đầu đáp ứng từng phần đòi hỏi của công tác tư tưởng nói
chung và vấn đề định hướng dư luận nói riêng.
2.1.1. Khái quát về hệ thống thông tin đại chúng Hà Nội
2.1.1. 1. Về quy mô
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của hệ thống truyền thông đại
chúng của cả nước, hệ thống truyền thông đại chúng của Thủ đô sau hơn 20
năm đổi mới đã phát triển và dần hình thành một hệ thống mạng lưới thông
tin đại chúng khá hoàn chỉnh:
- Từ chỉ có hai tờ báo (Hà Nội Mới, Đài Phát thanh Hà Nội) những năm
đầu thế kỷ 21, nay Hà Nội đã có 12 tờ báo, 1 Nhà xuất bản tổng hợp, 14 bản
tin, 5 đài phát thanh huyện, hơn 570 đài truyền thanh xã, phường. Hệ thống
thông tin đại chúng Hà Nội có đủ loại hình: báo hình, báo nói, báo in và 3
báo, đài đã có báo điện tử. Mỗi báo đều xuất bản từ 2 đến 3 ấn phẩm, có báo
đài có tới 5 ấn phẩm.
Nhà xuất bản Hà Nội xuất bản gần 300 đầu sách mỗi năm. Đặc biệt, Đài
Phát thanh-Truyền hình Hà Nội mới đây đã có những bước phát triển nhanh
chóng, thời lượng phát thanh 18giờ30, thời lượng phát hình 18giờ30 mỗi ngày,
38
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
với 10 triệu lượt khán, thính giả, mở thêm truyền hình cáp, với 11.000 hộ dân
đã đăng ký lắp đặt, đã lắp đặt được 7000 đầu máy. Truyền hình Internet hoà
mạng toàn cầu, mỗi ngày có trên 100.000 người ở nhiều quốc gia truy cập;
đang triển khai lắp đặt thử nghiệm đài truyền thanh không dây ở một số xã,
phường.
2.1.1.2. Về xây dựng lực lượng những người làm báo
Đội ngũ những người làm công tác truyền thông nói chung, đội ngũ
những người làm báo Hà Nội nói riêng có sự lớn mạnh, cả về chất lượng và
số lượng. Các phương tiện kỹ thuật được đổi mới và tăng cường, phục vụ đắc
lực cho nhiệm vụ truyền thông.
Gắn với quá trình phát triển báo chí, các báo không ngừng xây dựng,
củng cố hoàn thiện phát triển đội ngũ những người làm báo từ gần 100 nhà
báo vào những năm 80, nay báo chí Hà Nội đã có hơn gần 600 cán bộ, phóng
viên chính thức và hợp đồng dài hạn, hầu hết đều có hai bằng đại học báo chí
và chuyên ngành; trình độ ngoại ngữ, trình độ tin học khá, đại bộ phận có
phẩm chất chính trị đạo đức tốt, yêu nghề, say sưa sáng tạo. Hàng chục cán
bộ, phóng viên đã đạt giải cao của Hội nhà báo Việt Nam. Hội Nhà báo Thành
phố và của các ngành đoàn thể Trung ương và Hà Nội.
2.1.1.3. Về chất lượng văn hoá, khoa học, giáo dục
Những năm gần đây, thông tin được mở rộng, công khai tới mọi tầng
lớp nhân dân. Hệ thống truyền thông của Thủ đô mà trực tiếp là hệ thống các
báo, đài, tạp chí, bản tin… của Hà Nội đã góp phần định hướng và tổ chức
thông tin phục vụ tốt công tác lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, phục
vụ tốt hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống tinh thần nhân dân Thủ đô.
Truyền thông đã hướng tới việc thông tin 2 chiều, giảm dần những thông tin
áp đặt, một chiều, giản đơn, hời hợt. Thông tin được chú trọng cả việc biểu
dương và phê phán, xây và chống; thông tin nhanh nhạy, kịp thời và cố gắng
39
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
đảm bảo tính chân thật, chính xác. Truyền thông đại chúng Thủ đô đã thực sự
đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, chống tham nhũng trong Đảng,
trong bộ máy chính quyền Thủ đô và ngoài xã hội. Mặt khác, truyền thông
Thủ đô cũng đã kịp thời biểu dương những điển hình tiên tiến và cổ vũ tích
cực cho nội dung xây dựng cuộc sống mới và con người mới.
Chất lượng định hướng chính trị, văn hoá, khoa học, giáo dục của hệ
thống báo chí Hà Nội trong những năm gần đây ngày càng nâng cao. Báo chí
bám sát tôn chỉ mục đích, định hướng của Trung ương và Thành uỷ, thể hiện
ngày càng sâu sắc vai trò là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và là
diễn đàn của nhân dân. Các báo đã dành tới 2/3 tin bài phản ánh về Thủ đô.
Đã tích cực tuyên truyền nhanh nhạy, kịp thời đường lối chủ trương của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; tăng cường tuyên truyền phân tích lý giải, các
chủ trương của Thành uỷ, HĐND, UBND Thành phố; phản ánh kịp thời ý
kiến, tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân Hà Nội; tích cực tuyên
truyền "người tốt, việc tốt", góp phần quan trọng vào việc tổng kết thực tiễn,
phổ biến kinh nghiệm của cơ sở về sản xuất, công tác và học tập, phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng và quản lý đô thị; tuyên truyền sâu sắc các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của Thủ đô.
Tuy nhiên, báo chí Hà Nội còn có những khuyết điểm, hạn chế tầm
cao, chiều sâu. Thông tin bình luận chưa nhanh nhạy, sắc sảo, tính chỉ đạo,
tính định hướng và tính đại diện công luận chưa nhanh, chưa sâu. Đấu tranh
chống những quan điểm, luận điệu phản động còn ít. Một vài tờ báo chưa
quan tâm tuyên truyền những vấn đề chính trị lớn của Thành phố và của cả
nước. Tuyên truyền người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến nhiều nhưng chưa
tập trung, chưa sâu, kém thuyết phục. Có tờ báo có biểu hiện xa rời tôn chỉ
mục đích và có hiện tượng một số tin bài rút tít giật gân, mô tả vụ án nhằm
40
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
“câu khách”. Nhiều báo có nhiều chuyên mục, chuyên đề, song còn trùng
lắp, chưa gây được ấn tượng sâu sắc.
Đội ngũ cán bộ, phóng viên nói chung vững về chính trị, có nhiều cố gắng
vươn lên, song số phóng viên có trình độ lý luận cao, kiến thức rộng, nghiệp vụ
sắc sảo không nhiều. Báo chí Hà Nội còn thiếu những cây viết giỏi, có tầm, ít
những cây bút viết về các thể loại xã luận, bình luận. Tuyệt đại bộ phận Tổng
biên tập, Phó tổng biên tập, Trưởng, Phó ban biên tập của báo, đài Hà Nội chưa
được bồi dưỡng đào tạo về công tác lãnh đạo, quản lý tờ báo, hoạt động chỉ dựa
vào kinh nghiệm. Đây là vấn đề hạn chế của báo chí nói chung và báo chí Hà
Nội nói riêng.
2.1.1.4. Về cơ sở vật chất và phương tiện hoạt động nghiệp vụ
Được sự quan tâm của Thành uỷ, UBND Thành phố và các cơ quan
chủ quản. Cơ sở vật chất và phương tiện hoạt động nghiệp vụ của các báo đã
có sự cải thiện đáng kể; bước đầu khắc phục được tình trạng nghèo nàn lạc
hậu. Các báo Hà Nội mới, Đài Phát thanh-Truyền hình, An ninh Thủ đô, Kinh
tế và Đô thị, Người Hà Nội, Lao động Thủ đô, Thể thao ngày nay, Nhà xuất
bản Hà Nội đã có cơ sở vật chất khang trang, phương tiện và quy trình làm
báo tương đối hiện đại. Báo Hà Nội mới, An ninh Thủ đô đã tự đầu tư xây
dựng trụ sở, mua sắm trang thiết bị bằng chính nguồn thu của báo.
Tổng thu nhập nhìn chung của cán bộ, phóng viên ở mức trung bình.
Báo Hà Nội mới đạt mức cao, Đài Phát thanh-Truyền hình, An ninh Thủ đô
đạt mức khá, còn lại đạt mức trung bình.
2.1.2. Vài nét khái quát Về Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội
và Báo Hà Nội mới
2.1.2.1. Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội
Đài Phát thanh - truyền hình Hà Nội được thành lập từ ngày
14/10/1954, từ hai trạm truyền thanh cố định thuộc Sở Văn hóa thông tin (cũ).
41
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Tổng số cán bộ phóng viên tính đến ngày 31/7/2008 trước khi hợp nhất là:
449 người, trong đó có 244 là biên chế. Từ ngày 1/8/2008, thực hiện việc hợp
nhất với đài PT-TH Hà Tây, bộ máy tổ chức, nhân sự của Đài có sự thay đổi.
Ban giám đốc gồm 6 đồng chí, đơn vị trực thuộc Đài gồm 40 đơn vị (Hà Nội
cũ là 26 và Hà Tây cũ là 14).
Các chương trình của Đài thu hút khoảng 10 triệu khán, thính giả;
truyền hình (18h30'/ngày); Phát thanh (18h30'/ngày); Truyền hình cáp có trên
50.000 thuê bao; Kênh HCATV (16h/ngày) do đài sản xuất và 22 kênh nước
ngoài; Báo điện tử và truyền hình Internet gồm: 18h30' truyền hình trực
tuyến; 18h30' phát thanh trực tuyến; Tạp chí truyền hình phát hành đều 1
tháng/kỳ.
Về phát thanh: 18h30’/24h; về truyền hình : 18h30’/24h. Có hơn 10 triệu
khán, thính giả trong nước và nước ngoài; truyền hình Internet: 18h30’ truyền
hình trực tuyến; 18h30’ phát thanh trực tuyến; truyền hình cáp (HCATV) phát
16h/ngày đã có trên 50.000 thuê bao.
Đài luôn bám sát các nhiệm vụ chính trị, trọng tâm công tác của Thành
phố Hà Nội và các sự kiện chính trị của đất nước, nhất là những sự kiện diễn
ra trên địa bàn Thủ đô. Đài luôn cố gắng đổi mới cách thức thể hiện các
chương trình sinh động, hấp dẫn, đạt hiệu quả cao trong công tác tuyên
truyền, định hướng dư luận nhân dân. Những cố gắng của Đài trong những
năm gần đây, được biểu hiện cụ thể: Đài định kỳ 6 tháng/lần tổ chức đánh giá
cấu trúc khung chương trình, mạnh dạn cắt bỏ những chuyên đề, chuyên mục
chất lượng thấp; tăng cường các thể loại phù hợp với thị hiếu và có khả năng
thu hút đông đảo khán, thính giả hiện nay. Điển hình như việc mở các sân
chơi truyền hình: “Đuổi hình bắt chữ”, “Vượt qua thử thách”, “Nào hãy mời
tôi vào nhà, Hộp đen”, “Sự lựa chọn thông minh”, “Đấu giá cuối tuần”… tăng
cường các chương trình tương tác, tọa đàm; Cải tiến một số Bản tin chứng
42
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
khoán, Bản tin an toàn giao thông… Từ năm 2006, chương trình thời sự của
Đài có thêm mục “Những vấn đề từ cuộc sống” với nhiều phóng sự mang tính
phát hiện, đi sâu tìm tòi những vấn đề mang hơi thở của cuộc sống, có tác
dụng tốt, được khán giả hoan nghênh. Hàng năm, Đài sản xuất tăng cường các
chương trình truyền hình trực tiếp, đạt chất lượng và để lại ấn tượng cho khán
giả. Trên sóng phát thanh của Đài cũng được mở thêm một số chương trình
mới như: “Hành trình cùng bạn”, “60 phút bạn và tôi”, “Cuộc sống quanh
ta”… là những chương trình tương tác, tư vấn về nhiều vấn đề trong cuộc
sống, được nhiều thính giả yêu thích và quan tâm theo dõi.
2.1.2.2. Báo Hà Nội Mới
Báo Hà Nội Mới, xuất bản số đầu tiên 24/10/1957. Trước thời điểm hợp
nhất, Báo có tổng số 162 cán bộ, phóng viên, trong đó có 45 biên chế; 90%
cán bộ phóng viên của báo có trình độ đại học; 45 đảng viên. Từ ngày
1/8/2008, sau khi hợp nhất với báo Hà Tây (cũ), tổng số cán bộ, phongsvieen
của báo là 240 người, trong đó, biên chế là 80, còn lại là phóng viên hợp
đồng; 80% cán bộ phóng viên của báo có chuyên ngành báo chí. Tính đến
tháng 3 năm 2008 báo có 6 ấn phẩm: Hà Nội mới hàng ngày phát hành 40.000
bản/kỳ; Hà Nội mới chủ nhật phát hành 2,6 vạn bản/kỳ; Hà Nội mới cuối
tuần: 1,4 vạn bản/ kỳ; Hà Nội mới tin chiều: trên dưới 2000 bản/kỳ; Hà Nội
ngàn năm: giữ ở mức 5 ngàn bản/ kỳ; Báo Hà Nội mới điện tử có khoảng
20.000 người truy cập/ngày. Phạm vi phát hành của báo chủ yếu ở Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Đến tháng 4/2008, ấn phẩm Hà Nội mới Tin chiều
được cho phép tạm dừng xuất bản do không đủ khả năng và điều kiện tiếp tục
xuất bản.
Báo HNM điện tử ra đời năm 2004, số lượng truy cập ngày một tăng,
trang điện tử tuy mới ra đời, nhưng tiệm cận được với xu thế báo chí hiện đại.
Báo HNM điện tử cập nhật thông tin nhanh nhạy, kịp thời, thông tin đa dạng,
nhiều chiều và rất phong phú. HNM điện tử đã và đang phát huy thế mạnh
43
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
của mình, trở thành diễn đàn của đông đảo bạn đọc ở Thủ đô, trong nước và
quốc tế trên nhiều lĩnh vực.
Trong những năm qua, báo HNM luôn bám sát tôn chỉ mục đích, thực
hiện đúng vai trò là tờ báo của Đảng bộ Thủ đô, tuyên truyền, định hướng cho
nhân dân Thủ đô về những chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
chính sách của Thành phố đến với nhân dân. Báo được đánh giá gần như
không bị thương mại hóa theo cơ chế thị trường. Với nhiều chuyên mục luôn
luôn thay đổi và một số chuyên mục truyền thống được duy trì, đã in sâu, để
lại ấn tượng trong bạn đọc của HNM nhiều năm qua.
2.2. ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI CỦA
ĐÀI PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH HÀ NỘI, BÁO HÀ NỘI MỚI HÀNG NGÀY
VÀ HÀ NỘI MỚI ĐIỆN TỬ
2.2.1. Phân tích phiếu điều tra xã hội học của công chúng về chất
lượng nội dung thông tin của các chương trình phát thanh, truyền hình
Hà Nội, báo HNM hàng ngày và HNM điện tử
2.2.1.1. Nhận định về công chúng Hà Nội
Điều tra công chúng được tiến hành với 500 phiếu phát ra, thu về 484
phiếu, đạt 96,8%, kết quả điều tra được tính theo tỷ lệ phần trăm. Thời gian
điều tra được tiến hành sau thời điểm Hà Nội thực hiện Nghị quyết 15 của
Quốc hội Khóa XI, về mở rộng địa giới hành chính Thủ đô, trên cơ sở hợp nhất
toàn bộ tỉnh Hà Tây, Huyện Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã của huyện
Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Đối tượng công chúng là cán bộ, nhân dân của Hà
Nội, Hà Tây (cũ) do địa phận Hà Tây cũ có điều kiện bắt sóng của đài PT-TH
HN và có đọc báo HNM. Còn một số ít công chúng ở huyện Mê Linh và có cả
một số ít công chúng của 4 xã của huyện Lương Sơn được điều tra, do họ ít có
điều kiện hoặc không có điều kiện theo dõi báo HNM và đài PT-TH HN.
Sau khi hợp nhất, công chúng của Hà Nội có sự thay đổi lớn, với tỷ lệ
nông dân và các dân tộc thiểu số tăng lên nhiều, do vậy trình độ học vấn, kiến
44
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
thức có sự khác nhau. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới sự tiếp nhận thông tin
và nhu cầu thông tin của công chúng nói chung. Trong số 484 công chúng trả
lời, thì có 65,5% là nam, 34,5% là nữ. Tuổi từ 30-50 chiếm 51,7 %, tuổi trên 50
chiếm 46,6% và tuổi dưới 30 chỉ chiếm 1,7%. Trong số đó, có 33,9% là cán bộ
công chức; 29% là nghề tự do, nông dân chỉ chiếm 1,1% và công nhân là 2,2%.
2.2.1.2. Điều tra về đánh giá nội dung thông tin và nhu cầu của công
chúng trong điều kiện kinh tế thị trường
Câu hỏi 1: Ông (bà) quan tâm và thường xuyên xem những chương
trình truyền hình nào dưới đây của Đài PT-TH Hà Nội?
TT CÂU HỎI Thỉnh thoảng Không xem Rất quan tâm
1. Chương trình thời sự 97,5 2,5 0
6,8 72,8 20,4 2. Đầu tư chứng khoán
64,9 31,5 3,6 3. Điểm báo tuần
17,9 78,3 3,8 4. Vòng quanh thế giới
15,8 9,5 5. Chuyên mục Tạp chí kinh tế 74,7
40,4 54,8 4,8 6. Chuyên mục Tạp chí Văn hoá – xã hội
28,0 60,0 12,0 7. Kinh tế ngoại thành
26,2 62,1 11,7 8. Diễn đàn kinh tế, doanh nhân
30,4 65,7 3,9 9. Khoa học, công nghệ thông tin
43,9 54,2 1,9 10. Dạo qua phố phường, dạo qua thị trường
63,9 35,2 0,9 11. An toàn giao thông
59,1 39,1 1,8 12. 1000 năm Thăng Long – Hà Nội
45,9 51,4 2,8 13. Văn nghệ, ca nhạc, phim truyện
36,6 59,4 3,0 14. Người tốt việc tốt
66,7 5,6 15. Các chương trình thể thao, giải trí, trò chơi 27,8
45
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
trên truyền hình
16. Giáo dục và đào tạo 55,9 43,2 0,9
17. Nhìn ra Thủ đô các nước 25,7 70,5 3,8
18. Đại đoàn kết toàn dân 41,1 44,9 14,0
19. Các chương trình dạy tiếng nước ngoài 49,0 2,0 49,0
20. Hộp thư truyền hình 35,2 54,6 10,2
Qua trả lời cho thấy, công chúng quan tâm nhất là các chương trình thời
sự trên sóng truyền hình Hà Nội, với 97,5% số người được hỏi, không có ai là
không quan tâm tới chương trình này. Tiếp đó có 64,9% quan tâm tới mục
điểm báo tuần. Điều này dễ lý giải, bởi mục Điểm báo tuần trên truyền hình
Hà Nội khá tổng hợp, thông tin được điểm chắt lọc từ nhiều báo khác, giúp
cho khán giả có thêm thông tin phong phú, đa dạng, khi họ không có thời gian
đọc báo. Có 63,9% là quan tâm tới thông tin về an toàn giao thông, bởi vấn đề
an toàn giao thông hiện đang là vấn đề xã hội rất bức bối. Ngoài ra, các
chương trình về 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, giáo dục đào tạo, cũng
chiếm hơn 50% số người được hỏi quan tâm.
Bên cạnh đó, chuyên mục Tạp chí kinh tế có 74,7% số người được hỏi
thỉnh thoảng xem; 72,8% thỉnh thoảng xem mục đầu tư chứng khoán. Những
thông tin kinh tế ngoại thành, diễn đàn kinh tế, doanh nhân, khoa học, công
nghệ thông tin, các chương trình thể thao giải trí, trò trơi trên truyền hình có
trên 60% số người được hỏi là thỉnh thoảng xem. Có 49% số người được hỏi
là không bao giờ xem các chương trình dạy tiếng nước ngoài.
Câu hỏi 2: Ông (bà) quan tâm và thường xuyên nghe những chương
trình phát thanh nào dưới đây của Đài PT-TH Hà Nội?
46
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
TT CÂU HỎI Thỉnh thoảng Không nghe Rất quan tâm
1 Tin trong nước và quốc tế 14,7 10,0 75,2
2 Nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới 35,0 46,0 19,0
3 Xây dựng Đảng 30,8 10,3 58,9
4 Giải đáp pháp luật 34,7 51,5 13,9
5 Xây dựng và quản lý đô thị 30,7 54,5 14,9
6 Khoa học và đời sống 27,6 12,2 60,2
7 ý kiến bạn nghe đài 27,3 53,5 19,2
8 Điều tra theo dấu thư 20,7 54,3 25,0
9 Hà Nội thanh lịch văn minh 35,7 48,0 16,3
10 Môi trường và tài nguyên 31,6 50,5 17,9
11 Hà Nội với cả nước, cả nước với Hà Nội 40,4 41,4 18,2
12 Trang ngoại thành 24,5 51,1 24,5
13 Các vấn đề xã hội 40,6 45,5 13,9
14 Vấn đề giao thông vận tải 33,7 45,9 19,4
15 Tri thức con người xưa và nay 33,7 50,5 15,8
16 Dinh dưỡng vệ sinh 14,7 60,0 25,3
17 Bản tin kinh tế 23,7 58,8 17,5
18 26,3 52,6 21,1 Các chương trình thanh niên, phụ nữ, Mặt trận…
32,3 19 Bản tin an toàn giao thông 52,1 14,6
20 Các chương trình văn hóa, thể thao, giải trí 29,5 54,5 15,9
Kết quả trên cho thấy 75,2% số người được hỏi rất quan tâm tới chương
trình phát thanh tin trong nước và quốc tế, tiếp đó là chương trình về xây
dựng Đảng (58,9%), các vấn đề xã hội (40,6%) và chương trình Hà Nội với cả
47
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
nước, cả nước với Hà Nội (40,4%). Có 60,2% thỉnh thoảng nghe chương trình
khoa học đời sống; 60% thỉnh thoảng nghe thông tin về dinh dưỡng vệ sinh và
có 25,3% là không bao giờ nghe chương trình này.
Điều này cho thấy có sự tương đồng nhất định với công chúng truyền
hình ở chỗ, tỷ lệ công chúng quan tâm tới tin tức thời sự trong nước, quốc tế;
về xây dựng Đảng chiếm tỷ lệ cao.
Câu hỏi 3: Ông (bà) thường nghe, xem các chương trình phát thanh và
truyền hình của Đài PT-TH Hà Nội vào thời gian nào trong ngày?
TT Buổi sáng Buổi tối Buổi trưa Buổi chiều Bất kể lúc nào Không bao giờ
Phát thanh 22,2 4,4 5,6 23,3 12,2 32,2
10,5 5,3 0,9 22,8 0 60,6 Truyền hình
Đối với cả phát thanh và truyền hình, khán thính giả thường nghe, xem
vào buổi tối. Phát thanh: 32,2%; truyền hình: 60,6% công chúng được hỏi. Tỷ
lệ khán, thính giả của phát thanh và truyền hình nghe, xem bất cứ lúc nào
cũng tương đối tương đồng, phát thanh là 23,3% và truyền hình là 22,8%. Tuy
nhiên, do đặc thù của từng loại phương tiện truyền thông giữa phát thanh và
truyền hình cũng có sự khác biệt trong vấn đề thu hút công chúng. Đối với
truyền hình, không có ai là không xem, nhưng đối với phát thanh thì có tới
12,2% công chúng được hỏi là không bao giờ nghe phát thanh.
Câu hỏi 4: Ông (bà) quan tâm thông tin trong chuyên mục nào dưới
đây của báo Hà Nội mới hàng ngày?
TT CÂU HỎI Bình thường Rất quan tâm Không quan tâm
1 Thời sự 5,8 92,5 0,8
2 Nông nghiệp – nông thôn 33,9 56,0 9,2
3 Kinh tế 47,3 50,9 1,8
48
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
4 Văn hoá – xã hội 55,3 42,1 2,6
5 Thể thao giải trí 19,0 72,4 8,6
6 Lao động việc làm 25,7 65,7 8,6
7 Chính trị - xã hội 70,3 28,0 1,7
8 Xã hội từ thiện 13,3 6,7 80,0
9 Bạn đọc 15,8 72,3 11,9
10 Thông tin quảng cáo 59,4 4,0 36,6
11 Phóng sự, ký sự 45,5 53,6 0,9
Cũng như đối với phát thanh và truyền hình, có tới 92,5% số người được
hỏi rất quan tâm tới thời sự, chỉ có 0,8% là không quan tâm. Bên cạnh đó, có 70%
công chúng được hỏi rất quan tâm tới vấn đề chính trị – xã hội và tiếp đó là những
thông tin văn hóa – xã hội, với 55,3%. Có 36,6% độc giả được hỏi không quan
tâm tới thông tin quảng cáo, chỉ có 4% là quan tâm tới thông tin này.
Câu hỏi 5: Ông (bà) quan tâm thông tin trong chuyên mục nào dưới
đây của báo Hà Nội mới điện tử?
TT CÂU HỎI Rất quan tâm Bình thường Không quan tâm
1 Thời sự Thủ đô và thời sự trong nước 16,3 6,1 77,6
2 Thời sự quốc tế 67,0 23,1 8,8
3 Tình hình chính trị Thủ đô và cả nước 65,6 26,7 7,8
4 53,9 39,3 6,7 Thông tin về kinh tế của Thủ đô và trong nước
5 Thông tin kinh tế thế giới 27,4 59,5 12,0
6 19,5 57,5 23,0 Thông tin về giá cả và các loại thị trường (chứng khoán, nhà đất, tiền tệ…)
7 Các thông tin tư vấn kinh tế, đầu tư 10,7 22,6 66,7
8 Văn hóa, y tế, giáo dục 43,7 46,0 10,3
49
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
9 Thể thao giải trí 10,6 70,6 18,8
10 Lao động việc làm 14,3 65,5 20,2
11 55,6 37,8 6,7
Các vấn đề xã hội (tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường, tham nhũng lãng phí, các điểm nóng xã hội…)
12 Chính sách, văn bản, thủ tục hành chính 40,9 48,9 10,2
13 27,6 63,2 9,2 Thông tin về quản lý trật tự đô thị và an toàn giao thông
14 Thông tin phản hồi của bạn đọc 21,0 65,4 13,6
15 Thông tin quảng cáo 0 55,4 44,6
Đối với báo HNM điện tử, những thông tin thời sự của Thủ đô, thời sự
trong nước là thông tin được quan tâm nhiều nhất, với 77,6% số người được
hỏi, tiếp đó là thông tin thời sự quốc tế. Những lĩnh vực chính trị, kinh tế, các
vấn đề bức xúc xã hội như tệ nạn xã hội, tham nhũng, ô nhiễm môi trường,
các điểm nóng… cũng thu hút hơn 50% số người được hỏi rất qua tâm. Trong
khi đó, thông tin quảng cáo thì 44,6%, chiếm tỷ lệ cao nhất số không quan
tâm và không có ai tỏ ra rất quan tâm tới những vấn đề quảng cáo trên HNM
điện tử. Đối với những thông tin tư vấn kinh tế, đầu tư, lao động việc làm,
thông tin phản hồi của bạn đọc… chiếm hơn 65% số độc giả được hỏi là ở
mức độ bình thường.
Câu hỏi 6: Những chuyên mục đó trên Đài PT-TH HN và báo HNM có
đáp ứng được nhu cầu thông tin của ông (bà) không?
TT CÂU HỎI Báo HNM Đài PT-TH HN
1 72,7 78,5 Đáp ứng được nhu cầu thông tin thời sự của Thủ đô
2 Có thêm thông tin, nâng cao hiểu biết tri thức 73,6 78,5
50
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
3 71,1 66,1 Có thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
4 68,6 60,3 Biết được thông tin về chủ trương, chính sách của Thành phố
5 56,2 58,7 Có thêm thông tin phục vụ công tác, hoặc công việc kinh doanh
6 Được giải trí 64,5 48,8
Những thông tin của các báo và của đài này khi được hỏi cho thấy cũng
phù hợp với đặc thù tuyên truyền của báo HNM và đài PT-TH HN – là những cơ
quan ngôn luận của Đảng bộ và chính quyền Thủ đô, cũng như phù hợp với thực
tế tuyên truyền ở hai báo, đài trên. Đối với báo HNM, 78,5% công chúng được
hỏi cho rằng đáp ứng được nhu cầu thông tin thời sự của Thủ đô, còn ở đài PT-
TH HN là 72,7%. Song, 78,5% số người được hỏi cho rằng những thông tin của
đài PT-TH HN đáp ứng nhu cầu có thêm thông tin, nâng cao hiểu biết tri thức,
còn đối với báo HNM thì là 73,6%. Do đặc thù là báo Đảng, không phải là báo
giải trí, nên chỉ có 48,8% cho rằng được giải trí khi đọc HNM.
Câu hỏi 7: Ông (bà) có nhận xét gì về ưu điểm, hạn chế của Đài PT-TH
HN và báo Hà Nội mới như thế nào?
TT CÂU HỎI Báo HNM Đài PT-TH HN
1. Thông tin chính xác, khách quan 71,9 71,1
2. Thông tin thiếu chính xác 5,0 3,3
3. 71,9 67,8 Thông tin có tính định hướng suy nghĩ, hành động của công chúng
20,7 19,0 4. Thông tin mang tính phản ánh, chưa có tính định hướng
41,3 42,1 5. Các thông tin về lĩnh vực kinh tế phong phú, đa dạng
51
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
6. 32,2 30,6 Các thông tin về kinh tế chỉ đáp ứng một phần nhu cầu
7. 18,2 13,2 Các thông tin về kinh tế còn ít, chưa đáp ứng được nhu cầu
8. 34,7 43,0 Tôn trọng ý kiến hồi âm của bạn đọc, bạn xem truyền hình
9. 9,1 10,7 Cơ quan báo chưa tôn trọng ý kiến của bạn đọc khi hồi âm các thông tin trên báo, đài
10. Ngôn ngữ dễ hiểu 55,4 47,9
11. 16,5 9,0 Ngôn ngữ viết trên các báo còn chưa chính xác
12. 38,0 Chương trình phát thanh, truyền hình hấp dẫn
13. 36,4 Chỉ có một số chương trình phát thanh, truyền hình có chất lượng
14. 11,6
Các chương trình phát thanh, truyền hình chưa thực sự thu hút khán thính giả, còn nghèo nàn, kém hấp dẫn
15. 66,4
Các chương trình truyền hình còn nặng về quảng cáo Về những nhận xét ưu điểm, hạn chế của báo HNM và đài PT-TH HN,
tỷ lệ công chúng cho rằng thông tin ở báo, đài chính xác, khách quan, thông
tin có tính định hướng công chúng cao. Đối với báo HNM là 71,9% và ở đài
PT-TH HN là 71,1 %. Chỉ có 5% (đối với báo HNM) và 3,3% (đối với đài
PT-TH HN) là cho rằng thông tin thiếu chính xác. Tuy nhiên, bên cạnh đó, có
tới 66,4% công chúng phê phán các chương trình truyền hình còn nặng về
quảng cáo. Nhiều ý kiến góp ý thêm, quảng cáo kéo dài, nhiều lần trong bộ
phim hay chương trình gameshow gây mất thời gian và phản cảm. Có những
quảng cáo lặp đi lặp lại nhiều lần, gây ức chế cho người xem.
52
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Những thông tin về tài chính, kinh tế của cả báo HNM và đài PT-TH
HN ít phong phú, đa dạng, bình luận không bằng một số báo, đài Trung ương
và báo, đài TP.Hồ Chí Minh. Thông tin của hai báo, đài trên vẫn còn nặng về
phản ánh đơn thuần, tính đấu tranh và phát hiện có nhưng còn hạn chế.
Câu hỏi 8: Theo ông (bà), với nền kinh tế thị trường, ông bà quan tâm
những thông tin nào dưới đây?
TT CÂU HỎI Rất quan tâm Bình thường Không cần thiết
1. Thời sự của Thủ đô và thời sự trong nước 1,9 98,1
2. Thời sự quốc tế 16,2 83,8
7,2 3. 92,8
Thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về các lĩnh vực đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội
12,8 4. 87,2 Thông tin chủ trương, chính sách của Thành phố về các vấn đề phát triển kinh tế
17,4 5. 82,6 Thông tin chủ trường của Thành phố về những vấn đề đời sống dân sinh
6. Thông tin về xây dựng, chỉnh đốn Đảng 18,3 80,7
7. 20,8 79,2
Thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề tôn giáo, dân tộc
8. Thông tin về cải cách các thủ tục hành chính 22,2 77,8
71,4 27,5 9. Thông tin về các vấn đề về sự phát triển kinh tế của Thủ đô và đất nước nói chung
34,4 55,6 10,0 10. Thông tin về những thị trường cụ thể (nhà đất, chứng khoán, ngoại tệ…)
54,8 45,2 11. Thông tin về trật tự xây dựng và quản lý đô thị
82,2 17,8 12. Thông tin về đấu tranh chống các thế lực thù địch và phản động
53
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
13. 52,6 47,4 Các thông tin về văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao
14. Thông tin về đấu tranh chống tiêu cực 18,3 81,7
59,2 40,8 15.
Thông tin về những gương người tốt việc tốt, tập thể tiêu biểu trong làm ăn, kinh doanh
48,3 50,6 16. Thông tin về khoa học, kỹ thuật, công nghệ thông tin
60,6 39,4 17. Các vấn đề liên quan tới quản lý đô thị, quy hoạch
42,3 53,3 18. Các vấn đề liên quan tới nông thôn, ngoại thành
19. Thông tin về giá cả thị trường 59,1 40,9
20. Thông tin quảng cáo 7,3 61,0 31,7
21. 25,9 74,1 Thông tin về tư vấn, đầu tư, kinh doanh…
22. Chống tham nhũng, lãng phí 21,4 78,6
Qua điều tra công chúng, cho thấy những thông tin về thời sự, chính trị,
chủ trương, chính sách, tôn giáo, các vấn đề xã hội… được công chúng rất
quan tâm. Cụ thể: quan tâm nhiều nhất là thời sự Thủ đô và thời sự trong
nước, với 98,1%. Những thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước về các lĩnh vực đời sống kinh tế, văn hóa xã hội chiếm tới 92,8%; Tiếp
đó là những thông tin về chủ trương, chính sách của Thành phố về phát triển
kinh tế, về những vấn đề đời sống dân sinh, về xây dựng chỉnh đốn Đảng và
đấu tranh chống tiêu cực đều chiếm trên 80% nhu cầu của công chúng khi
được hỏi. Ngoài ra, nhu cầu những thông tin về tôn giáo, cải cách hành chính,
thông tin về sự phát triển của Thủ đô và đất nước, chống tham nhũng lãng phí,
quản lý đô thị và quy hoạch…cũng chiếm tỷ lệ cao. Có 61% công chúng cho
54
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
rằng bình thường về nhu cầu thông tin quảng cáo và có 31,7% cho rằng không
cần thiết.
Câu hỏi 9: Xin Ông (Bà ) cho biết đôi điều về bản thân ?
CÂU HỎI TRẢ LỜI
Nam 65,5 1. Giới tính Nữ 34,5
2. Tuổi dưới 30 1,7
3. Tuổi từ 30 đến 50 51,7
Độ tuổi 4. Tuổi trên 50 46,6
5. Là cán bộ lãnh đạo và quản lý 29,6
6. Là công chức 33,9
7. Là công nhân 2,2
8. Là nông dân 1,1
9. Là trí thức 2,5 Nghề nghiệp 10. Đã nghỉ hưu 1,7
11. Nghề tự do 29,0
2.2.2. Đánh giá về một vài nội dung định hướng cụ thể trên báo
HNM hàng ngày, báo HNM điện tử, sóng phát thanh, truyền hình Hà Nội
từ năm 2004 đến tháng 8/2008
Từ năm 2004 đến hết quý 3 năm 2008, báo HNM và đài PT-TH HN đã
tích cực tuyên truyền, định hướng dư luận nhân dân trên mọi phương diện
hoạt động, đời sống xã hội. Gắn với nhiệm vụ trọng tâm của Thành phố trong
từng năm, như năm 2004: Thực hiện 3 Đề án lớn (“Cải cách hành chính”,
“Nâng cao hiệu quả kinh tế”, “Cải thiện môi trường xã hội”); năm 2005 tiếp
tục thực hiện 3 Đề án, đồng thời gắn với đẩy mạnh công tác giải phóng mặt
bằng các dự án; Năm 2006: Tiếp tục tuyên truyền đẩy mạnh giải phóng mặt
55
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
bằng, tăng cường quản lý trật tự đô thị, trật tự xây dựng; Năm 2007 – 2008,
thực hiện 5 nhiệm vụ trọng tâm của Thành phố và hai khâu đột phá. Với
những nhiệm vụ đó, các báo HNM, đài PT-TH HN đã xây dựng kế hoạch
tuyên truyền trong từng năm, góp phần giải thích, lý giải chủ trương của
Thành phố tới quần chúng nhân dân, góp phần định hướng có hiệu quả dư
luận nhân dân trên địa bàn. Dưới đây, xin điểm lại nội dung định hướng theo
nhóm vấn đề. Trong mỗi nhóm vấn đề xin chú trọng vào những nội dung có
tính chất tiêu biểu, điển hình trong nhiệm vụ định hướng dư luận của báo
HNM và đài PT-TH HN. Thông tin trên báo HNM hàng ngày và thông tin
trên báo HNM điện tử có nhiều thông tin trùng lặp; cũng như đối với đài PT-
TH HN, thông tin trên truyền hình, hầu như cũng là thông tin trên phát thanh,
do vậy, xin được gọi chung là báo HNM và đài PT-TH HN
2.2.2.1. Định hướng chính trị và các sự kiện lớn trên báo HNM và
đài PT-TH HN
- Tuyên truyền, định hướng chính trị:
Báo HNM, đài PT-TH HN luôn bám sát tuyên truyền các dịp kỷ niệm
lớn của Thủ đô và đất nước, những bài viết, chương trình phát trong dịp này
có giá trị giáo dục truyền thống sâu sắc. Từ năm 2004 – 2008, diễn ra không ít
những sự kiện lớn, kỷ niệm lớn: Kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Quân đội
nhân dân Việt Nam; 15 năm Ngày Quốc phòng toàn dân; Tuyên truyền về kỷ
niệm 50 năm Giải phóng Thủ đô; 50 năm giải phóng Điện Biên phủ (2004);
30 năm Giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước (2004); Kỷ
niệm 60 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 (2005); kỷ niệm 995
năm Thăng Long – Hà Nội (2005); kỷ niệm 60 năm ngày Toàn quốc kháng
chiến… Tại các đợt tuyên truyền kỷ niệm lớn, báo HNM và đài PT-TH HN đã
đăng phát nhiều bài về tư liệu lịch sử với ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa cách mạng
về một thời hào hùng của Thủ đô và đất nước. Bên cạnh đó còn ghi lại những
56
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
lời kể của nhân chứng lịch sử, liên hệ với cuộc sống hiện tại. Điều đó góp
phần giáo dục truyền thống sâu sắc cho quần chúng nhân dân, biết tôn trọng
những giá trị lịch sử, cố gắng phát huy truyền thống cha anh trong học tập, lao
động, sản xuất ngày nay. Kỷ niệm 90 năm ngày Cách mạng Tháng Mười Nga
vĩ đại, báo HNM và đài PT-TH HN có những bài viết nêu bật tầm vóc, ý
nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga đối với nhân dân lao động trên
toàn thế giới nói chung và đặc biệt là đối với cách mạng Việt Nam nói riêng.
Tiêu biểu như bài “Cách mạng Tháng Mười soi sáng con đường tiến đến kỷ
nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”; Đài PT-TH HN phát sóng phim
tài liệu về Cách mạng Tháng Mười Nga; đồng thời tường thuật trực tiếp các
cuộc mít tinh kỷ niệm, được dư luận hoan nghênh.
Đối với những ngày lễ kỷ niệm lớn như 50 năm ngày Giải phóng Thủ đô,
50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, trên báo HNM và đài PT-TH HN đều có
chuyên mục tuyên truyền riêng trong các dịp kỷ niệm. Riêng hướng tới kỷ niệm
1000 năm Thăng Long – Hà Nội, cả báo và Đài đề duy trì nhiều chuyên mục,
chương trình về Thăng Long Hà Nội, kéo dài cho đến ngày đại lễ vào năm 2010.
Báo HNM và đài PT-TH HN đăng và phát nhiều ý kiến của cử tri
trước, trong các kỳ họp Quốc hội, HĐND Thành phố, đồng thời thông tin
phản hồi, trả lời những thắc mắc của cử tri về các vấn đề liên quan trên
địa bàn Hà Nội. Thường đài PT-TH HN có loạt ghi nhanh về ý kiến cử tri
đối với Quốc hội, với các kỳ họp HĐND Thành phố, ghi nhanh bên lề
Quốc hội, họp HĐND phỏng vấn đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND về
những vấn đề dư luận và cử tri quan tâm.
- Định hướng dư luận về những sự kiện lớn:
- Tuyên truyền về Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X:
57
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Báo HNM và đài PT-TH HN là hai cơ quan báo chí chủ lực của Thành
phố trong việc tuyên truyền về xây dựng Đảng; đặc biệt đã tuyên truyền đậm
nét về Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ X (2006). Với việc đăng, phát toàn
văn dự thảo báo cáo chính trị và lấy ý kiến góp ý toàn dân về Dự thảo văn
kiện Đại hội một cách dân chủ, công khai, được dư luận đồng tình hưởng ứng.
Công tác tuyên truyền được tổ chức trước, trong và sau Đại hội, với nhiều bài
viết tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Đảng bộ thành phố
Hà Nội, nhằm củng cố niềm tin cho nhân dân về vai trò lãnh đạo của Đảng.
Báo HNM, đài PT-TH HN đã đăng toàn văn Dự thảo báo cáo chính trị;
mở chuyên mục góp ý vào dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng X
trong chương trình thời sự và cả chuyên đề “Ý kiến bạn nghe Đài” của Đài
PT-TH HN với thời lượng 30 phút; chương trình “Những tiếng nói chân tình
và trách nhiệm góp ý vào dự thảo báo cáo Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X”.
Từ ngày 3/2/2006 – 10/3/2006, Đài đã phát hơn 90 ý kiến, 62 bài góp ý vào
Dự thảo báo cáo chính trị và thu hút được những ý kiến tâm huyết của các
tầng lớp nhân dân và bạn bè quốc tế vào Dự thảo. Các ý kiến đóng góp đưa ra
nhiều giải pháp phát triển toàn diện đất nước, trong đó tập trung vào các vấn
đề: Đấu tranh chống tham nhũng và xây dựng Đảng, vấn đề đảng viên làm
kinh tế tư nhân…
Ngay từ cuối tháng 3/2006, báo HNM và đài PT-TH đã mở chuyên
mục tuyên truyền đại hội; liên tục phát mục hiệu chương trình, tạo ấn tượng
sâu sắc. Hướng tới đại hội, trên báo HNM và đài PT-TH HN có nhiều bài
phản ánh không khí thi đua lao động sôi nổi của các ngành, các cấp trên địa
bàn Thủ đô. Một số bài tiêu biểu: “Về đích trước mục tiêu thiên niên kỷ”
(đăng trên báo HNM ngày 11/4/2006); bài “Đảng tin tưởng – hy vọng” đăng
trên báo HNM ngày 17/4/2006; bài “Phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện Nghị
quyết” trên báo HNM 25/4/2006… Đài PT-TH HN đã phát hàng trăm tin, 45
58
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
phóng sự phản ánh phong trào thi đua của các cấp các ngành và các tầng lớp
nhân dân. Có nhiều bài viết biểu dương tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững
mạnh; tuyên truyền về các đợt sinh hoạt Đảng, các kỳ họp của Trung ương và
Đảng bộ Thành phố. Bên cạnh đó, còn biểu dương những gương đảng viên tốt
ở cơ sở.
Trong ngày khai mạc Đại hội, báo HNM đã đăng xã luận “Đại hội của
trí tuệ đoàn kết và phát triển bền vững” (ngày 18/4/2006), cho thấy 76 năm
trôi qua, với bao thăng trầm của lịch sử, Đảng vẫn luôn đoàn kết một lòng,
muôn người như một, năng động, sáng tạo nắm bắt thời cơ, vượt qua thách
thức, quyết tâm đổi mới mạnh mẽ và toàn diện theo con đường CNXH, thực
hiện bằng được mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”, tự tin vững bước đi lên. Bài xã luận có ý nghĩa cổ vũ mạnh mẽ đối
với các tầng lớp nhân dân phấn đấu vì Đảng.
Có nhiều bài viết về thành tựu của đất nước và Thủ đô qua 20 năm đổi
mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua những bài viết mang tính tổng kết, đã
khẳng định những thành tựu thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng, sự quản
lý của Nhà nước, sự điều hành của Chính phủ, lòng tin và hành động cách
mạng của các tầng lớp nhân dân. Có thể điểm một số bài tiêu biểu đã đăng
trên báo HNM: Bài “Để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng” ( đăng
ngày 19/4/2006); bài “Nhìn lại 20 năm đổi mới: Độc lập tự chủ gắn với chủ
động hội nhập quốc tế” (đăng ngày 18/4/2006); bài “Danh dự của Đảng, lợi
ích của dân tộc” (đăng ngày 23/4/2006), khẳng định sự đúng đắn của toàn
Đảng, toàn dân ta trong quá trình thực hiện đổi mới.…
Đài PT-TH HN trong dịp tuyên truyền Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
đã phát 76 phim tài liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vị lãnh tụ tiền bối của
Đảng, thành tựu của đất nước, Thủ đô trong sự nghiệp đổi mới, giúp cho các
tầng lớp nhân dân nhận thức đúng đắn về ý nghĩa của sự kiện trọng đại này.
59
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
- Tuyên truyền định hướng về cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII:
Trước bầu cử, báo HNM và đài PT-TH HN đã phản ánh không khí sôi
động của Hà Nội và cả nước đối với cuộc cử. Sự kiện trọng đại này được
phản ánh đậm nét trên trang nhất của báo HNM, trang chủ báo HNM điện tử,
trên các chương trình thời sự chính trên sóng phát thanh, truyền hình của đài
PT-TH HN.
Báo HNM và đài PT-TH HN đã phản ánh các cuộc tiếp xúc giữa ứng
viên đại biểu Quốc hội với cử tri Thủ đô; ý kiến cảm nhận của cử tri về cuộc
bầu cử; thông tin về Luật Bỗu cử Quốc hội, thông qua đó giải thích quyền và
nghĩa vụ của công dân tham gia bầu cử… Những thông tin đó có tác dụng
định hướng cho người dân hiểu được quyền, nghĩa vụ của mình và nắm được
những thông tin về ứng viên đại biểu mà mình sẽ lựa chọn. Trong các chương
trình thời sự dịp này của đài PT-TH HN đã thông tin đậm nét các hoạt động
hướng tới cuộc bầu cử Quốc hội. Đài có nhiều bài tuyên truyền về không khí
chuẩn bị bầu cử ở những nơi tập trung những đối tượng đặc biệt, như dân vạn
chài, dân KT2, khu tập trung đông sinh viên, các bệnh viện lớn; đồng thời đài
đã đăng, phát những chuyên mục, khẩu hiệu tuyên truyền về bầu cử, nhằm cổ
động tới các tầng lớp nhân dân. Báo HNM dịp này có các bài tiêu biểu như
các bài: “Chất lượng đại biểu là yếu tố quyết định”, đăng trên báo HNM ngày
23/4/2007; bài “Chuẩn bị cho cuộc bầu cử Quốc hội khóa XII: Các ứng viên
bắt đầu thực hiện quyền vận động bầu cử” (đăng trên báo HNM ngày
4/5/2007); báo HNM ngày 10/5/2007 đăng ý kiến của nhiều cử tri Thủ đô về
cuộc bầu cử qua bài “Xin gửi gắm niềm tin và hy vọng”. Trên báo HNM ngày
19/5/2007, đã đăng bài “Hà Nội đã sẵn sàng cho ngày hội của toàn dân”,
thông tin cho nhân dân về những công việc chuẩn bị cho ngày bầu cử trên địa
bàn Thủ đô đã được hoàn tất… Cả báo HNM và đài PT-TH HN đã cập nhật
60
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
thông tin về công tác chuẩn bị bầu cử của Thành phố, phản ánh 14 quận,
huyện đã hoàn thành việc tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri với các ứng cử viên
đại biểu quốc hội; thông tin về tiểu sử 37 ứng cử viên của Hà Nội được niêm
yết công khai để mọi cử tri tìm hiểu, lựa chọn 21 đại biểu xứng đáng.
Trong ngày bầu cử, đài PT-TH HN đã xây dựng cầu truyền hình trực
tiếp gồm 3 điểm cầu, phản ánh khai mạc bầu cử, thời lượng cầu truyền hình
dài 120 phút. Trong chương trình thời sự, đài đã tăng thời lượng phản ánh
không khí của sự kiện trọng đại này. Đặc biệt, dịp này đài đã thực hiện 2 phim
tài liệu: “Hà Nội trước ngày bầu cử” và “Hà Nội tưng bừng trong ngày hội
lớn”. Báo HNM ngày 20/5/2007 có xã luận “Lá phiếu nhỏ, trách nhiệm và tự
hào lớn!”, ngày 21/5/2007, trên báo HNM có bài “Thắng lợi của niềm tin và
khát vọng vươn lên”; bài “Trọn vẹn ngày vui”; có những thông tin phản ánh
về việc báo chí nước ngoài đưa tin và bình luận về cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XII của Việt Nam… Những thông tin đó có tác dụng định hướng dư
luận một cách đúng đắn về bầu cử Quốc hội khóa XII.
- Tuyên truyền về Hội nghị cấp cao APEC 14 vào tháng 11/2006 và sự
kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Với nhiều sự
kiện nổi bật diễn ra trong Hội nghị và vai trò nước chủ nhà. Báo HNM, đài
PT-TH HN đã tích cực tuyên truyền về nỗ lực của các cấp các ngành trước,
trong và sau Hội nghị, góp phần giúp các Hội nghị thành công tốt đẹp và để
lại dấu ấn tốt về một Thành phố vì hòa bình trong bạn bè quốc tế. Báo HNM
ngày 21/3/2006, có bài “Phục vụ Hội nghị APEC 2006 tạo hình ảnh sâu đậm
về Việt Nam với Thủ đô”…
Báo HNM và đài PT-TH HN đã tuyên truyền đậm nét Tuần lễ cấp cao
APEC 2006, đặc biệt là Hội nghị các nhà lãnh đạo các nền kinh tế thành viên
APEC 14; nêu bật được chủ đề “Hướng tới một cộng đồng năng động vì sự
61
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
phát triển bền vững và thịnh vượng”. Báo HNM đã phản ánh dư luận báo chí
nước ngoài đánh giá cao về thành công APEC Việt Nam 2006.
Cùng với tuyên truyền về APEC 14, có các bài tuyên truyền về sự kiện
Việt Nam gia nhập WTO. Đài PT-TH HN đăng tin, bài về sự kiện này; báo
HNM ngày 6/11/2006 có bài “Việt Nam gia nhập WTO: Bước tiến một chặng
đường hội nhập”.
- Sự kiện mở rộng địa giới hành chính Thủ đô:
Trên Diễn đàn của báo HNM điện tử từ tháng 3/2008, báo đã mở chủ
đề “Đề xuất mở rộng địa giới hành chính Thủ đô”. Qua đó, đã thu hút hàng
trăm ý kiến của các tầng lớp nhân dân về vấn đề này. Có rất nhiều ý kiến khác
nhau, bên cạnh những ý kiến ủng hộ chủ trương mở rộng, có biết bao ý kiến
ngược lại, thậm chí thể hiện sự phản đối thẳng thắn đối với chủ trương này.
Báo HNM điện tử đã trích đăng những ý kiến ủng hộ chủ trương, trong đó có
phân tích về những lợi thế khi hợp nhất. Bằng việc đăng tải các ý kiến đó, góp
phần định hướng cho người dân về sự tất yếu của việc mở rộng địa giới hành
chính Thủ đô và sẵn sàng đón nhận sự kiện này.
Trong quá trình hợp nhất, nảy sinh rất nhiều tư tưởng đan xen. Báo chí
đã góp phần ổn định tư tưởng, động viên các tầng lớp nhân dân nỗ lực tiếp tục
phấn đấu vì sự phát triển của Thủ đô. Có nhiều bài viết thông tin các tổ chức
đảng, chính quyền, các sở, ngành, đoàn thể thực hiện tốt việc hợp nhất, nhanh
chóng ổn định tư tưởng tổ chức, để triển khai các nhiệm vụ của Thủ đô trong
giai đoạn mới. Có nhiều bài viết phản ánh tiềm năng, thế mạnh của Hà Nội
mới, nhằm cổ vũ động viên các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân phát
huy truyền thống văn hiến, anh hùng và thành tựu đổi mới, với xây dựng Thủ
đô phát triển toàn diện, thiết thực kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Báo HNM có các bài “Cuộc kiến tạo vĩ đại” (xã luận đăng ngày 1/8/2008);
62
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
bài “Quyết tâm xây dựng Thủ đô Hà Nội đáp ứng lòng mong đợi của nhân
dân cả nước”, bài “Kỷ nguyên lạc nghiệp”; bài “Náo nức tương lai”…
- Đấu tranh chống các thế lực thù địch:
Phê phán, lên án báo cáo sai trái, xuyên tạc sự thật tình hình tôn giáo
Việt nam của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, đã đưa ý kiến các chức sắc tôn giáo và
nhiều trí thức phản đối Báo cáo này và khẳng định: Tại Việt Nam không có đàn
áp tôn giáo, tù nhân tôn giáo; sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam được Nhà nước
tôn trọng. Báo HNM (22/9/2004) đưa ý kiến cựu đại tá Mỹ, ông A.Sanvageot,
cố vấn cao cấp của Hội đồng thương mại Việt Mỹ, phê phán chính sách của
Mỹ về vấn đề tôn giáo Việt Nam…
Tuyên truyền phản bác, phê phán, vạch trần sự xuyên tạc, bịa đặt thực
tế tình hình dân chủ, nhân quyền và tôn giáo tại Việt Nam của Hoàng Minh
Chính và các phần tử cơ hội chính trị theo phương châm: Vạch rõ sự xuyên
tạc về lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng những
hành động vi phạm luật pháp của Hoàng Minh Chính và đồng bọn. Khai thác
ý kiến của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là cựu chiến binh, thanh niên, sinh
viên, trí thức biểu thị sự ủng hộ Đảng, Nhà nước…
Báo HNM (10/11/2005) có bài “Sự dối trá bên sông Potomac” đưa tin
người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối quyết định sai trái của Bộ
Ngoại giao Mỹ tiếp tục đưa nước ta vào danh sách các nước “đặc biệt quan
tâm” về tự do tôn giáo.
- Tuyên truyền về Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”:
Kể từ khi Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” được phát động, Báo HNM và đài PT-TH HN đã tích cực tuyên truyền qua
việc mở chuyên mục riêng cùng nhiều bài viết tuyên truyền về tư tưởng, đạo đức
của Người, nhằm tuyên truyền sâu rộng tới các tầng lớp nhân dân về cuộc vận động
63
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
này. Báo HNM và đài PT-TH HN đăng, phát một loạt bài về tư tưởng, đạo đức của
Người. Những bài viết tiêu biểu trên báo HNM: Bài “Đấu tranh không khoan
nhượng với chủ nghĩa cá nhân” (HNM ngày 19/4/2007); bài “Chủ tịch Hồ CHí
Minh với chống bệnh quan liêu” (đăng trên báo HNM ngày 22/5/2007); báo HNM
ngày 6/11/2007 có bài “Đạo đức từ việc nhỏ nhất”, ca ngợi tấm gương của Người
từ những việc nhỏ hàng ngày, ai cũng có thể thực hiện được. Báo HNM ngày
13/9/2007 đăng bài “Người tốt, việc tốt làm theo lời Bác Hồ dạy”. Đài PT-TH
tường thuật các cuộc thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh từ cấp cơ
sở tới Thành phố, có ý nghĩa giáo dục cao. Báo HNM và đài PT-TH HN phản ánh
việc “làm theo” tấm gương đạo đức của Người trong các cấp, các ngành, các cơ
quan đơn vị. Tiêu biểu như bài “Mỗi cán bộ chiến sĩ công an phải lấy tấm gương
đạo đức của Bác để tự sửa mình” (HNM ngày 16/8/2008); bài “Ngành giáo dục Hà
Nội với cuộc Vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”:
Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học” (HNM ngày 27/8/2008)… Tất cả
những bài viết đó, có tác dụng dấy lên phong trào học tập và làm theo một cách
thiết thực, cụ thể và hiệu quả.
2.2.2.2. Thông tin và định hướng về lĩnh vực kinh tế
Sự kiện nổi bật về phát triển kinh tế nước ta là việc Việt Nam được
công nhận là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
vào năm 2006. Báo HNM, đài PT-TH HN đã có nhiều bài viết về sự kiện này,
giúp cho công chúng Thủ đô nắm và hiểu rõ hơn về bản chất, diễn biến sự
kiện. Báo HNM và đài PT-TH HN có nhiều bài viết phân tích về những thời
cơ, thách thức và giải pháp cho nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng như
doanh nghiệp Việt Nam nói riêng khi hội nhập WTO. Bài “Việt Nam gia nhập
WTO: Thị trường kinh doanh bất động sản sẽ chuyên nghiệp hơn”; bài “Việt
Nam chính thức gia nhập WTO: Các doanh nghiệp vào cuộc thế nào?” đăng
trên báo HNM ngày 15/11/2006 đã phân tích về những khó khăn, thách thức
64
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
đối với doanh nghiệp Việt Nam khi bước vào “bước ngoặt” của nền kinh tế đất
nước. Trong bài viết này cũng đã phân tích và có tác dụng định hướng cho
doanh nghiệp Việt Nam phải chủ động đáp ứng những gì có liên quan đến việc
gia nhập WTO từ phía đối tác, rà soát, hoàn thiện các văn bản, văn kiện liên
quan; tuyên truyền rộng rãi những nội dung cam kết gia nhập WTO để doanh
nghiệp nắm rõ. Bài “Xu hướng phát triển các doanh nghiệp thời kỳ hậu WTO”,
đăng trên báo HNM ngày 27/11/2006 đã dự báo cho các doanh nghiệp, để các
doanh nghiệp cần phải tích cực thay đổi phương thức sản xuất kinh doanh cho
phù hợp với xu hướng, yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới; Đài PT-TH HN tháng
9/2006 có bài “Công nghiệp ô tô Việt Nam hội nhập quốc tế”…
Nhiều bài phân tích thị trường lao động Việt Nam khi gia nhập WTO,
tiêu biểu như bài “Đời sống, việc làm của người lao động sau gia nhập WTO
những thực tế dự báo – trách nhiệm của doanh nghiệp hay người lao động?”
đăng trên báo HNM ngày 13/9/2006.
Đài PT-TH HN từ 1/7-30/9/2006 đã tổ chức tuyên truyền đậm cho vận
động Quốc hội Mỹ sớm thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn
(PNTR) cho Việt Nam (với 32 tin, 16 phóng sự phát thanh, truyền hình). Báo
HNM, đài PT-TH HN đã tuyên truyền về cam kết của Chính phủ Việt Nam
gia nhập WTO, cảm nghĩ của các tầng lớp nhân dân Thủ đô, các nhà doanh
nghiệp, cán bộ quản lý trước vận hội mới của đất nước, khẳng định sự đúng
đắn của chủ trương hội nhập để phát triển đất nước.
Gắn với tuyên truyền thực hiện Đề án “Nâng cao hiệu quả kinh tế” của
Thành phố (năm 2004), các báo, đài trên duy trì phản ánh thành tựu kinh tế –
xã hội của Thủ đô và đất nước từng năm. Trong đó có đánh giá, nêu nguyên
nhân những hạn chế và chủ trương, phương hướng, giải pháp phát triển.
Từ năm 2004-2007, báo HNM và đài PT-TH HN đã tuyên truyền đậm
nét về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn Thành phố. Đây là
65
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
chủ trương lớn của Nhà nước và Thành phố, nhằm chuyển đổi phương thức
quản lý kinh tế đối với doanh nghiệp, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
các doanh nghiệp. Có nhiều bài viết mang tính chỉ đạo, ví dụ như bài “Tiếp
tục đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa”, phỏng vấn Phó chủ tịch UBND Thành
phố về tiến trình cổ phần hóa, bài học kinh nghiệm và biện pháp nhằm thúc
đẩy nhanh quá trình này (đăng trên báo HNM 29/7/2004). Báo HNM ngày
11/6/2007, đăng bài “Cổ phần hóa phải công khai minh bạch”, phân tích việc
minh bạch trong vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp không chỉ thúc đẩy quá
trình cổ phần hóa được nhanh, mà còn giúp cho việc cổ phần hóa được hiệu
quả thực sự; bài “Doanh nghiệp nhỏ và vừa khó tiếp cận nguồn vốn ngân
hàng: Vì sao?” đăng trên báo HNM ngày 11/11/2006 phân tích, đó là do việc
thiếu minh bạch tài chính trong cổ phần hóa doanh nghiệp, đồng thời nêu lên
những nhận định của các chuyên giá ngành tài chính – ngân hàng cũng như ý
kiến của nhiều nhà đầu tư.
Vấn đề thị trường, giá cả được các báo, đài thường xuyên cập nhật, từ
việc nêu chủ trương của Nhà nước và Thành phố liên quan đến chính sách giá
cả, thị trường, cho đến những biến động thị trường… Những thông tin về tăng
giá của những mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, điện, thuốc tây, giá vật liệu
xây dựng… là những thông tin hết sức nhạy cảm với công chúng. Ví dụ, Báo
HNM (14/5/2004) và HNM điện tử có bài “Đi tìm nguyên nhân giá thép tăng
đột biến thời gian qua”, bài báo không chỉ phản ánh đơn thuần, mà còn tìm
hiểu nguyên nhân của sự tăng giá đột biến. Chỉ trong vòng vài tháng năm
2004, 10 công ty sản xuất theo thuộc Tổng công ty thép điều chỉnh tăng giá
thép từ 5,6 đến 12 lần. Các doanh nghiệp đã tăng giá một cách tuỳ tiện, gián
bán thép do doanh nghiệp tự quy định. Nguyên nhân do giá thép nhập khẩu
tăng và do sự đầu cơ của một số nhà phân phối trong nước; báo HNM ngày
21/3/2006 có bài”Giá điện phải đảm bảo cạnh tranh sản phẩm, tiết kiệm và
66
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
công bằng xã hội”; bài “Những tác động của việc tăng giá điện” đăng trên báo
HNM ngày 22/3/2006; Báo HNM ngày 23/11/2006 có bài “Thẩm định
phương án giá bán điện 2006 – 2010: Xem xét từ nhiều góc độ”…
Việc tuyên truyền của báo HNM và đài PT-TH HN về các thị trường
như: Thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường vàng, ngoại
tệ, đã góp phần nâng cao nhận thức cho người dân, giúp nhân dân có thông tin
và có sự lựa chọn trong quyết định đầu tư ở các thị trường nói trên. Bản tin
Kinh tế, tài chính của Đài PT-TH HN và các trang kinh tế của báo HNM đã
giúp nhân dân có thêm hiểu biết, nhất là đối với những thị trường sơ khai như
thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, có những bài viết đưa ra nhiều giải
pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán, tiêu biểu như bài “Vì
sao các doanh nghiệp chưa mặn mà với việc lên sàn giao dịch ở Trung tâm
chứng khoán Hà Nội” phát trên sóng phát thanh và truyền hình tháng 3/2006.
Trong những tháng đầu năm 2008, với sự biến động thất thường trên thị
trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, báo HNM,
đài PT-TH HN đã có những bài viết, thông tin về chủ trương của Chính phủ,
góp phần ổn định tư tưởng của nhà đầu tư.
Đặc biệt, từ năm 2007, với sự tăng giá đột biến của các mặt hàng tiêu
dùng, lương thực thực phẩm cũng đã được báo HNM, đài PT-TH HN phản
ánh thường xuyên. Đài PT-TH HN phản ánh trong các bản tin thời sự, bản tin
chuyên đề về kinh tế… Bên cạnh việc phản ánh sự biến động của giá, nhiều
bài viết tuyên truyền về sự nỗ lực của các cấp, các ngành trong việc ổn định
giá cả, kiềm chế lạm phát, điều đó có tác dụng góp phần ổn định tư tưởng cho
nhân dân, nhất là vào những dịp cuối năm. Báo HNM ngày 9/11/2007, có bài
“Bình ổn thị trường trong những tháng cuối năm” đã đưa ra những giải pháp,
chủ trương của các cấp các ngành trong kiềm chế việc gia tăng của giá cả.
Những vấn đề về buôn lậu, gian lận thương mại cũng được “phanh
phui” trước công luận. Báo HNM (18/11/2004) có bài “Khám phá đường dây
67
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
làm giả giấy tờ, hợp thức hoá xe có nguồn gốc bất hợp pháp đặc biệt nghiêm
trọng”, cho biết các đối tượng của vụ án đã thực hiện hành vi làm giả hồ sơ
đăng ký xe với số lượng lớn, diễn ra trong thời gian khá dài.
Ngoài ra, nhờ có những thông tin giải thích, có tính định hướng của báo
HNM và đài PT-TH HN cùng các cơ quan báo chí khác, nên những chủ
trương như tăng giá kinh doanh nước sạch, tăng giá cước xe buýt từ 1/4/2005
đã được dư luận nhân dân đồng tình ủng hộ.
Chuyên mục “Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh” của báo HNM
và chuyên mục “Người tốt, việc tốt” của Đài PT-TH HN đã giới thiệu nhiều
cá nhân, tập thể đơn vị sản xuất kinh doanh, khắc phục mọi khó khăn vươn
lên làm ăn có hiệu quả như ngành công nghiệp, xây dựng, ngân hàng, cơ
khí…
2.2.2.3. Thông tin định hướng lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục
- Văn hóa:
Mùa xuân, mùa của lễ hội, do vậy bên cạnh việc thông tin về những lễ
hội truyền thống với nhiều trò dân gian, báo HNM và đài PT-TH HN còn tích
cực tuyên truyền phê phán những phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu, những
thói mê tín dị đoan… Nhằm giúp cho nhân dân có những cái nhìn đúng đắn
hơn về thế giới tâm linh, về những chiêu lừa đảo, kiếm lời của những thành
phần lợi dụng tâm linh để làm tiền.
Nổi bật trong năm 2007, sự kiện “Thánh vật sông Tô Lịch” và “Đàn xã
Tắc” trên một số báo của Trung ương đã thật sự gây hoang mang cho người
dân xung quanh khu vực này. Song, với vai trò là báo, đài của Thủ đô, nơi có
sông Tô Lịch và Đàn xã tắc, báo HNM, HNM điện tử và đài PT-TH HN đã có
những bài thông tin, trong đó có phân tích, nêu lên ý kiến của các nhà khoa
học, góp phần định hướng tư tưởng, tâm lý cho người dân Hà Nội, nhất là
68
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
những người dân sống quanh khu vực này. Báo HNM ngày 23/4/2007 đã có
bài “Chuyện Thánh vật ở sông Tô Lịch”.
Trong lĩnh vực văn hóa, từ năm 2005, các báo HNM, đài PT-TH HN có
những chuyên mục, chương trình tuyên truyền, cổ vũ nhân dân xây dựng nếp
sống văn hóa, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh. Trong đó, các
chuyên mục của báo HNM và đài PT-TH HN như “Hà Nội của chúng ta”,
“Xứng danh Thủ đô anh hùng”, “Hà Nội phố”, “Hà Nội ngàn năm văn
hiến”… thường xuyên tuyên truyền, giáo dục về những giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp, thanh lịch của người Tràng An, nhằm giáo dục nhận thức và
phát huy những giá trị đó trong đời sống hiện đại.
Qua đó, giúp công chúng – là những người dân sống trên địa bàn Hà
Nội hiểu hơn và sẽ có ý thức hơn trong việc phấn đấu với những giá trị văn
hóa tốt đẹp vốn có của người Hà Nội. Bài “Trao đổi về nét văn hóa Hà Nội
thanh lịch, văn minh” phát trên sóng truyền hình Hà Nội (tháng 8/2006) được
xem là một trong những bài có tác dụng tuyên truyền, định hướng tốt về giá
trị văn hóa này.
Công tác bảo tồn phát huy giá trị văn hóa của di tích lịch sử, nổi bật từ
năm 2004 đến nay là sự kiện phát hiện di tích Hoàng thành Thăng Long trên
đường Hoàng Diệu. Có nhiều bài viết, giới thiệu với công chúng về lịch sử
của di tích này và nêu lên những trăn trở của nhân dân trong việc bảo vệ phần
lộ thiên của Hoàng Thành. Bên cạnh đó, báo HNM và đài PT-TH HN trong
các chuyên mục về Thăng Long – Hà Nội, còn có nhiều bài viết, chương trình
về việc bảo tồn giá trị khu phố cổ Hà Nội.
- Y tế:
Trong lĩnh vực y tế, nổi bật lên là vấn đề y đức. Bên cạnh những bài
viết, biểu dương gương tập thể, cá nhân cán bộ, y bác sĩ tiêu biểu trong việc
chăm sóc bệnh cho nhân dân. Đặc biệt, qua các đại dịch lớn, có nhiều y, bác
69
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
sĩ, tập thể bệnh viện được biểu dương về tinh thần dũng cảm, không quản ngại
khó khăn, tận tình cứu chữa bệnh nhân mắc dịch; phản ánh sự quan tâm và
những nỗ lực của ngành y tế Thủ đô trong việc kiểm soát và khống chế dịch
bệnh trên địa bàn Hà Nội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có những tiêu cực
trong ngành y được phản ánh thẳng thắn.
Trong những năm gần đây, sự xuất hiện và lây lan của nhiều loại dịch
bệnh ở người và gia cầm hết sức nguy hiểm, ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý
và cuộc sống của cả cộng đồng, như H5N1, cúm gia cầm, tiêu chảy cấp, các
dịch cúm, sốt theo mùa… Báo HNM và đài PT-TH HN đã tích cực tuyên
truyền về tình hình diễn biến của dịch bệnh và các biện pháp phòng chống.
Qua đó, giúp cho nhân dân có nhận thức đúng đắn về mức độ nguy hiểm của
dịch bệnh và có ý thức hơn trong chủ động phòng chống dịch bệnh.
Báo HNM và đài PT-TH HN có nhiều bài viết tuyên truyền về chủ
trương của các cấp, các ngành từ Trung ương tới Thành phố về cấm vận
chuyển, mua bán gia cầm; chủ trương kiểm soát kiểm dịch đối với gia súc gia
cầm; kiểm soát về vệ sinh môi trường sống và vệ sinh an toàn thực phẩm…
Có những bài có ý nghĩa thức tỉnh nhận thức của nhân dân và các ngành các
cấp như: Bài “Tăng cường cảnh giác với các dịch bệnh là vấn đề cấp thiết”
(đăng trên báo HNM ngày 8/8/2006). Qua sự tuyên truyền định hướng đó,
nhân dân có phần nâng cao hơn ý thức bảo vệ sức khỏe bằng nhiều biện pháp,
do vậy nhiều bệnh dịch trên địa bàn Hà Nội được ngăn chặn và đẩy lùi. Có
những bài viết mang tính “mệnh lệnh”, nhưng lại có ý nghĩa thuyết phục nhận
thức của nhân dân. Có rất nhiều bài viết tuyên truyền công tác phòng chống
dịch cúm gia cầm và cúm tuýp A H5N1 ở người (năm 2005).
- Giáo dục:
Báo HNM và đài PT-TH HN thường xuyên thông tin định hướng về
những chủ trương, chính sách của Nhà nước, của Thành phố trong lĩnh vực
70
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
giáo dục và đào tạo, như vấn đề học phí, cơ sở vật chất, các quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về thi cử, tổ chức học của các cấp… Đài PT-TH HN tháng
8/2006 có bài “Vấn đề phân ban Phổ thông trung học”, phân tích những ưu,
hạn chế và những bất cập nảy sinh trong thực hiện phân ban ở cấp phổ thông
trung học trên địa bàn Hà Nội;Vấn đề giáo dục được chú trọng tuyên truyền
đậm nét vào các dịp năm học mới và các mùa thi, giúp phụ huynh và học sinh
có thêm thông tin, như giới thiệu những nét mới trong các kỳ thi tuyển sinh,
các địa điểm thi tuyển, chủ trương phân ban ở cấp Trung học cơ sở...
Bên cạnh việc biểu dương những cá nhân, tập thể giáo viên và nhà trường
tốt, các báo đài trên còn phát hiện và phê phán những cá nhân, tập thể chưa tốt
trong ngành giáo dục, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo,
đồng thời giúp cho phụ huynh, học sinh có quyết định đúng đắn khi chọn trường.
Có nhiều bài viết đề cập tới những tiêu cực, hạn chế trong giáo dục, có
nhiều bài viết thẳng thắn phê phán về những sai phạm, chất lượng trong
ngành giáo dục và quản lý giáo dục. Báo HNM (22/11/2007) có bài “Chất
lượng giáo dục có phụ thuộc vào học phí?”, bàn về việc tăng học phí và học
phí cao ở một số trường dân lập, song chất lượng giáo dục thực tế không phù
hợp với học phí đó. Báo HNM ngày 2/8/2006 có đăng bài “Nói không với
bệnh thành tích trong giáo dục – cần làm và có thể làm được”; ngày
23/8/2006, báo HNM có bài “Đổi mới công tác thi đua để nói không với bệnh
thành tích trong giáo dục thật là mệnh lệnh của cuộc sống”. Có thể nói đây là
một trong những “căn bệnh trầm kha” của ngành giáo dục nhiều năm nay.
Việc chạy theo thành tích kéo theo nhiều tiêu cực trong giáo dục, thậm chí để
lại những hậu quả nghiêm trọng cho nhiều thế hệ học sinh.
Dịch vụ giáo dục khi mùa thi đến gần luôn là chủ đề nóng trong những
tháng hè, báo HNM và đài PT-TH HN có nhiều bài viết về vấn đề này. Tiêu
biểu với những bài: “Nóng bỏng mùa luyện thi” đăng trên báo HNM ngày
71
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
15/3/2007, cho biết các địa điểm luyện thi đang khởi động, song không được
kiểm soát, nên chất lượng luyện thi vẫn không như mong muốn của thí sinh và
phụ huynh. Báo HNM ngày 13/4/2006 đăng bài “Ba giảm ở các lò luyện thi”…
Vấn đề tuyên truyền giáo dục cho học sinh trong thời đại hiện nay,
không chỉ rèn chữ, mà còn cả rèn người, đặc biệt là giáo dục lối sống cho lớp
trẻ. Có thể điểm trên báo HNM (6/1/2004), có các bài “Giáo dục cái tôi trong
nhân cách trẻ”, bài “Các em cũng cần được lắng nghe”, đã đưa ra những
phương pháp giáo dục hoàn thiện cả nhân cách và học vấn của học sinh; nhiều
bài có tính giáo dục cho lứa tuổi học sinh, sinh viên về lối sống lành mạnh,
như bài “Để tuổi trẻ học đường nói không với ma túy” đăng trên HNM
26/6/2005, bài “Ngăn chặn đại dịch lắc phải thắt chặt tam giác: Nhà trường –
gia đình và xã hội” (HNM 25/6/2005)… những bài viết đã đưa ra nhiều giải
pháp có giá trị giáo dục lối sống cho giới trẻ.
2.2.2.4. Thông tin về các vấn đề xã hội
- Về cải cách hành chính:
Từ năm 2004, báo HNM và đài PT-TH HN đã thông tin về chỉ đạo của
Thường trực Thành ủy đẩy nhanh thực hiện quy chế “Một cửa” ở các cấp, các
ngành trên địa bàn. Từ chủ trương trên, các báo đài trên đã nêu lên những giải
pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ và chất lượng của cải cách hành chính. Có rất
nhiều bài viết trên báo HNM và đài PT-TH HN biểu dương những nơi làm
tốt, nơi làm chưa tốt trong cải cách hành chính, mà đặc biệt là tổ chức thực
hiện cơ chế “Một cửa”. Bài “Đã gần dân và thuận tiện cho dân hơn” đăng trên
báo HNM (19/7/2005) đã biểu dương một số quận làm tốt như Tây Hồ, Ba
Đình… Các báo, đài trên còn phản ánh những bất cập, hạn chế trong thực
hiện cơ chế “Một cửa” ở Hà Nội, như hệ thống văn bản pháp quy, pháp luật
đảm bảo cho bộ phận tiếp nhận hồ sơ hành chính chưa hoàn thiện, tính chất,
quy trình “Một cửa” chưa thể hiện rõ, việc bố trí tiếp nhận hồ sơ chưa hợp lý;
72
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
thái độ tinh thần thiếu trách nhiệm của một bộ phận cán bộ giải quyết thủ tục
hành chính xã, phường. Trên báo HNM (24/5/2004) có bài “Cải cách hành
chính: Tiến độ đang rất chậm”. Báo HNM (4/5/2006) đăng bài “Thực hiện đề
án của Thành ủy về cải cách hành chính, dân còn mong muốn nhiều hơn”,
thông tin về việc UBND Thành phố xây dựng chương trình tổng thể cải cách
hành chính đến năm 2010, trong đó nhấn mạnh 7 nhiệm vụ và 13 giải pháp,
chọn cải cách hành chính làm khấu đột phá. Nhưng trong thực tế, người dân –
đối tượng được hưởng lợi từ “cuộc cách mạng hành chính”, vẫn chưa thoát
khỏi cảnh bị “hành là chính”. Báo HNM ngày 10/9/2004 có bài “Cải cách
hành chính bắt đầu tư công sở”, phê phán thái độ thiếu văn hóa của một bộ
phận cán bộ nơi công sở trong giải quyết các thủ tục hành chính đối với dân;
báo HNM ngày 10/4/2007 có bài “Kiên quyết lập lại kỷ cương”, phản ánh tâm
tư của nhân dân về cải cách hành chính. Một phần lý do chưa làm nhân dân
hài lòng là do việc xử lý cán bộ vi phạm trong thời gian gần đây chưa đủ sức
răn đe.
Trong các chương trình thời sự của Đài PT-TH HN có nhiều phóng sự
ngắn về vấn đề này, các phóng sự được thực hiện chủ yếu ở các cấp chính
quyền xã, phường, sở ngành, những hạn chế, bất cập trong thực hiện công tác
cải cách hành chính cũng được thẳng thắn nêu ra. Tháng 7/2007, đài PT-TH
HN phát phóng sự ngắn trong chương trình thời sự, với chủ đề gặp chủ tịch
phường người dân phải có đơn. Phóng sự này phản ánh thực tế ở UBND
phường Yên Sở, quận Hoàng Mai, với sự phê phán thẳng thắn, đúng thực
trạng, được nhân dân hết sức hoan nghênh. Tháng 8/2006, đài PT-TH HN đề
cập nhiều về vấn đề này, tiêu biểu với các phóng sự: “Tình trạng quá tải ở các
phòng công chứng”; phóng sự “Công tác cải cách hành chính công nghệ
thông tin còn yếu”. Báo HNM ngày 17/6/2008 có bài “Internet hóa giải quyết
thủ tục hành chính: Dẫm chân tại chỗ đến bao giờ”, phản ánh vấn đề tin học
73
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
hóa, điện tử hóa nhằm rút ngắn thời gian làm thủ tục hành chính của người
dân là mục tiêu trong cải cách hành chính của Hà Nội đã được triển khai, song
cho đến nay hiệu quả vẫn chưa được như mong đợi…
Bên cạnh đó, còn có những bài viết mang tính tổng kết, rút kinh nghiệm
qua quá trình thực hiện, báo HNM (15/7/2004) có bài “Còn nhiều việc phải
làm”, bài báo cho biết: Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội có
42 cơ quan hành chính phải thực hiện quy chế “Một cửa”, tính đến hết quý
2/2004, toàn Thành phố đã có 41/42 đơn vị thực hiện quy chế này. Tuy nhiên,
trên thực tế thì kết quả và hiệu quả thực hiện có khoảng cách khá xa so với
yêu cầu. Bài báo cũng đã nêu lên những hạn chế và giải pháp khắc phục. Báo
HNM ngày 12/8/2004 có bài “Một cửa về xã”; có bài “Một cửa: Khâu quan
trọng trong cả quá trình” đăng trên báo HNM ngày 7/4/2004; bài “Mong “một
cửa” ngày càng hoàn thiện” đăng trên báo HNM ngày 8/9/2004. Báo HNM
ngày 19/6/2007 có bài “Cần nâng cao trách nhiệm của đơn vị chủ trì cơ chế
Một cửa”…
Trong lĩnh vực cải cách hành chính, báo HNM và đài PT-TH HN còn
thông tin về chủ trương của Thành ủy về việc thực hiện cải cách hành chính
một cách toàn diện, không chỉ có thực hiện cơ chế “Một cửa” mà còn phải thực
hiện cải cách ở các thủ tục hành chính, cán bộ thực hiện, công tác kiểm tra thực
hiện ở các cấp, các ngành. Đặc biệt, trong những năm qua, việc cải cách hành
chính chủ yếu liên quan đến vấn đề nhà đất, “sổ đỏ”, vấn đề thủ tục trong đầu
tư, kinh doanh, đó là những vấn đề dư luận hết sức quan tâm. Trong đó, tiến độ
cấp “sổ đỏ” được cho là trì trệ nhất trong cải cách hành chính. Sự thẳng thắn
của báo, đài khi phản ánh vấn đề này, được dư luận rất hoan nghênh. Tháng
3/2006, đài PT-TH HN phát phóng sự “Cần sớm tháo gỡ các vướng mắc trong
xét duyệt sổ đỏ”, phóng sự đã nêu lên những bất cập trong quá trình thực hiện
cấp “sổ đỏ”, nói lên những phiền toái, phức tạp mà người dân đang phải chịu;
74
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
đồng thời đề ra những giải pháp cùng tháo gỡ. Đài PT-TH HN tháng 8/2005
có bài “Giải pháp đẩy nhanh tiến độ cấp sổ đỏ ở quận Ba Đình”, đã phản ánh
những tiêu cực, dẫn đến chậm trễ tiến độ cấp “sổ đỏ” trên địa bàn quận Ba
Đình; bài “Vẫn còn tồn đọng hàng nghìn sổ đỏ” (đài PT-TH HN tháng
9/2007).
- Vấn đề môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm:
Vấn đề vệ sinh môi trường có rất nhiều bài viết, phản ánh về sự ô
nhiễm của môi trường sống, ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống, sức khỏe
của nhân dân. Báo HNM và đài PT-TH HN đã có nhiều phóng sự, bài viết về
tình trạng ô nhiễm, đồng thời đưa ra nhiều biện pháp khắc phục. Báo HNM
(22/5/2004) có bài “Ô nhiễm công nghiệp đeo đẳng môi trường thành phố”…
Đài PT-TH HN tháng 9/2006 có bài “Tình trạng ô nhiễm môi trường ở
Hà Nội” đã phản ánh thực trạng sự ô nhiễm của môi trường sống ở Hà Nội.
Đặc biệt là phản ánh về sự ô nhiễm bụi do các công trình xây dựng, ô nhiễm
nghiêm trọng ở nhiều sông, hồ trên địa bàn Hà Nội. Việc tuyên truyền đó
không chỉ nâng cao nhận thức từ phía lãnh đạo Thành phố, các cơ quan chức
năng, mà còn góp phần nhắc nhở ý thức cho người dân, cho các chủ đầu tư
các công trình xây dựng về việc giữ gìn vệ sinh môi trường và cảnh quan đô
thị.
Báo HNM ngày 12/9/2004 có bài “Quy hoạch hai bên sông Tô Lịch
thiếu đồng bộ, khuyến khích xả rác tràn lan”, phản ánh việc thực hiện gói thầu
xây kè bờ sông Tô Lịch không đồng bộ, chỉ kè 2 bên sông, không lát vỉa hè,
trở thành địa điểm cho những người thiếu ý thức xả rác. Bài “Xử lý hiện
tượng ô nhiễm nước tại ba hồ nội thành” báo HNM ngày 7/9/2004. Báo HNM
ngày 4/5/2007, đăng bài “Sản xuất sạch – giải pháp tốt khắc phục ô nhiễm
môi trường”, đã đưa ra giải pháp, với những cách thức thực hiện, nhằm góp
phần bảo vệ môi trường từ những cơ sở sản xuất kinh doanh. Chuyên mục
75
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
“Mỗi ngày một chuyện” và “Đường dây nóng” của báo HNM thường xuyên
thông tin, phản ánh lĩnh vực này.
Đài PT-TH HN có nhiều phóng sự về ô nhiễm bụi, sông hồ, nạn đổ
trộm phế thải ra đường, có ý cảnh báo các cơ quan chức năng và góp phần
nâng cao nhận thức nhân dân trong việc giữ gìn môi trường chung. Đài PT-
TH HN tháng 9/2004 có bài “Xử lý các vi phạm đổ đất, rác thải ra đường”.
Đài PT-TH HN tháng 5/2007, có bài “Thực trạng ô nhiễm môi trường ở các
ngõ xóm và khu dân cư lao động”, phản ánh thực trạng ô nhiễm do sinh hoạt
của chính những người dân. Những thông tin đó góp phần nhắc nhở người
dân hãy tự bảo vệ môi trường sống xung quanh mình… Báo HNM ngày
3/5/2005 có bài “Để môi trường Thủ đô không ô nhiễm”; bài “Nước thải –
một hiểm họa môi trường ở Hà Nội” (báo HNM ngày 7/5/2005) cho biết Hà
Nội có khoảng 500 nhà máy, xí nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn
thành phố, song chỉ có 40 cơ sở đầu tư hệ thống xử lý nước thải. Trên báo
HNM phản ánh tình trạng ô nhiễm tại nhiều khu dân cư: Bài “Tra tấn bởi rác”
(HNM ngày 10/6/2008); bài “Ô nhiễm môi trường tại một khu dân cư” (HNM
ngày 20/6/2008)
Hà Nội hiện đang xảy ra ô nhiễm bụi trầm trọng. Báo HNM và đài PT-
TH HN đã có rất nhiều bài viết phản ánh về thực trạng này, nêu lên được
những nỗi khổ của nhân dân khi phải sống trong những môi trường bị ô
nhiễm. Báo HNM, đài PT-TH HN cũng đã có những bài viết, chương trình
phóng sự ngắn về tình trạng ô nhiễm bụi ở Hà Nội, tuyên truyền về việc thực
hiện “Đề án giảm bụi của Thành phố”, ví như bài “6 tháng chống bụi chỉ là
khởi động” (đăng trên báo HNM ngày 13/7/2005); bài “Ô nhiễm bụi, nỗi khổ
đâu của riêng ai” đăng trên báo HNM ngày 6/2/2006; Trên báo HNM (ngày
11/6/2007) có bài “Người dân bức xúc vì khí ô tô, xe máy”;…
76
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm luôn là vấn đề nóng, bởi ngày càng
có nhiều người nhập viện và có nhiều trường hợp tử vong có nguyên nhân từ
thực phẩm không đảm bảo vệ sinh an toàn. Báo HNM ngày 22/3/2006 có bài
“Phòng ngừa ô nhiễm thực phẩm – giải pháp từ gốc”; bài “Hàng nghìn hecta
rau ở Thanh Trì - Hoàng Mai ô nhiễm: chưa đủ điều kiện về rau an toàn”; báo
HNM ngày 4/10/2007 có bài “Rau sạch… ơi là sạch”; bài “Chợ rau an toàn
bán rau thập cẩm: Nỗi buồn không chỉ một vùng rau” (HNM 13/6/2008), phản
ánh vùng rau an toàn Vân Nội đang dần bị mất thương hiệu và uy tín bởi tại
chợ rau không có sự tách bạch giữa rau an toàn và không an toàn… Báo
HNM và đài PT-TH HN phản ánh liên tục về an toàn vệ sinh thực phẩm, khi
ngày càng xuất hiện nhiều dịch bệnh nguy hiểm trên địa bàn Thành phố. Báo
HNM (ngày 22/8/2006), có bài “Đá bẩn – hiểm họa lơ lửng”. Ngày 2/6/2008,
báo HNM lại có bài “Thanh kiểm tra các cơ sở sản xuất nước đóng chai, nước
đá: Vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn diễn ra phổ biến”…
- Quản lý trật tự xây dựng và quản lý sử dụng đất đai:
Bên cạnh việc tuyên truyền chủ trương của Thành phố về quản lý trật
tự xây dựng và quản lý đô thị, báo HNM và đài PT-TH HN thường xuyên
phản ánh biểu dương những nơi thực hiện tốt và những nơi thực hiện chưa tốt
chủ trương trên của Thành phố. Việc đưa ra những hạn chế, nguyên nhân hạn
chế và những biện pháp khắc phục, giúp cho công tác quản lý trật tự xây dựng
và quản lý đô thị của Thành phố có nhiều chuyển biến tích cực. Chủ đề tuyên
truyền của báo, đài từng năm được gắn liền với nhiệm vụ công tác trọng tâm
của Thành phố, trong đó có vấn đề quản lý trật tự xây dựng, quản lý trật tự đô
thị được các báo, đài rất chú trọng tuyên truyền. Nổi bật trong năm 2006,
2007, với chủ trương xiết chặt quản lý trật tự xây dựng, các báo, đài đã
thường xuyên phát hiện và phê phán quyết liệt về những công trình sai phép
và không phép trên địa bàn Hà Nội, nhiều công trình bị xử lý nghiêm, tiêu
77
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
biểu như các vụ: 121-123 Bạch Mai của công ty Hương Lúa; số 6 Đào Duy
Anh; công trình nhà số 7 đường Thanh Niên; vụ xây dựng trái phép ở số 8
Đặng Dung, số 91 Lò Đúc… cùng các vụ vi phạm lớn nhỏ khác. Hầu hết các
công trình trên đều xây dựng sai phép, vượt quá số tầng so với giấy phép quy
định hoặc không có giấy phép xây dựng. Qua việc tuyên truyền mạnh mẽ về
vấn đề trên, giúp cho ý thức, nhận thức về chấp hành nghiêm các thủ tục quy
định của người dân được nâng lên, biểu hiện ở việc cấp giấy phép xây dựng
tăng lên từng năm, việc xử phạt, cưỡng chế đối với vi phạm giảm dần. Bài
“Thiếu quy hoạch, một nguyên nhân của các công trình sai phép, không phép”
đăng trên báo HNM ngày 5/4/2007 đã nêu lên một trong những nguyên nhân
của tình trạng xây dựng trái phép ở Hà Nội. Cũng trên số báo này có đăng bài
“Phương hướng khắc phục các vi phạm trật tự xây dựng trên địa bàn Thành
phố: Kiến quyết nhưng không cực đoan”, nhằm tuyên truyền về những giải
pháp, cũng như chủ trương của lãnh đạo Thành phố về việc khắc phục tình
trạng xây dựng trái phép trên địa bàn.
Báo HNM và đài PT-TH HN trong năm 2006, đã tích cực đấu tranh
chống tiêu cực trong quản lý đất đai trên địa bàn. Với một loạt bài đăng trên
HNM (6/11/2006) “Vi phạm trong quản lý, sử dụng đất rừng Sóc Sơn: Sai
phạm đã rõ”; bài “Vi phạm trong quản lý, sử dụng đất rừng Sóc Sơn: Tít mù
nó laị vòng quanh” (HNM 13/11/2006); bài “Xung quanh việc cấp đất giãn
dân ở xã Phù Linh, Sóc Sơn: Thành phố chỉ đạo một đường, xã bước một
nẻo?” (HNM 20/11/2004)… đã phê phán đấu tranh thẳng thắn những tiêu cực
trong quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn, được dư luận nhân dân hết sức
hoan nghênh.
Năm 2007, báo HNM và đài PT-TH HN đã góp phần thông tin, phản
ánh về những sai phạm trong quản lý đất công tại Công ty vườn Thú Hà Nội,
tạo dư luận lên án mạnh mẽ, buộc các chủ công trình trong khuôn viên Vườn
78
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Thú Hà Nội phải tự tháo dỡ. Về vụ việc này, báo HNM ra ngày 24, 27 và
28/11/2007 có loạt bài phản ánh, trong đó có nêu rõ những sai phạm của công
ty Vườn thú Hà Nội và chủ trương của Thành phố kiên quyết xử lý nghiêm.
- Định hướng trong vấn đề quy hoạch Thủ đô:
Đây là vấn đề được công chúng hết sức quan tâm, họ quan tâm vì quy
hoạch ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, môi trường, cảnh quan xung quanh
họ. Các báo và đài đã tuyên truyền về những chủ trương của Thành phố trong
vấn đề quy hoạch chi tiết, tổng thể Thủ đô, giới thiệu những nét mới trong
quy hoạch với việc xây dựng nhiều khu đô thị mới, trong đó nổi bật là quy
hoạch về một thành phố ven sông Hồng.
Vấn đề cải tạo các chung cư cũ nát, nguy hiểm trên địa bàn thành phố;
vấn đề quản lý chất lượng chung cư, nhà tái định cư… đây là những vấn đề cho
đến nay dư luận vẫn hết sức quan tâm. Bài “Giải pháp về quy chế nhà chung
cư” phát trên đài PT-TH HN tháng 3/2006 đã tuyên truyền cho người dân về
chủ trương, giải pháp của Thành phố về quản lý nhà chung cư. Báo HNM
(12/5/2005) có bài “Chất lượng chung cư bao giờ mới kiểm định?”. Báo HNM
ngày 20/2/2006 có bài “Xây dựng lại các khu chung cư cũ ở Hà Nội – năm
2006 sẽ thí điểm phương thức xã hội hóa”… Trong tháng 3/2006, đài PT-TH
HN đã phát loạt phóng sự tiêu biểu, xung quanh chất lượng chung cư: “Xây
nhà chung cư không sử dụng để xuống cấp”; phóng sự “Trả lại sự bình yên cho
làng sinh viên Hacinco”... Báo HNM ngày 10/5/2007 đăng bài “Nhà tái định
cư, chưa an cư đã hỏng”, đã phản ánh tình trạng xuống cấp nhanh chóng của
các khu tái định cư phục vụ giải phóng mặt bằng các dự án lớn.
Đặc biệt, các báo HNM, đài PT-TH HN còn thông tin, tuyên truyền về
vấn đề quản lý quy hoạch ở những khu phố mới mở, việc xử lý các nhà siêu
mỏng, siêu méo. Sự quy hoạch thiếu đồng bộ, làm xấu đi diện mạo của Thành
phố. Đài PT-TH HN tháng 2/2006 đã có bài “Quản lý xây dựng hai bên tuyến
79
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
đường Kim Liên - Ô chợ Dừa” đã phản ánh một trong những thực trạng cụ thể
trong vấn đề này. Tháng 3/2006, đài PT-TH HN có phóng sự “Cần quan tâm
tới kiến trúc cảnh quan xung quanh khu vực các cầu vượt nội đô”. Gần đây,
Báo HNM (19/6/2008): “Quy định quản lý kiến trúc hai bên đường, việc cũ
nhưng ngày càng nóng”, phản ánh việc thông qua dự thảo quan trọng của TP
Hà Nội nhằm siết chặt việc quản lý và xử lý công trình nhà siêu mỏng, siêu
méo, trên địa bàn Thủ đô, đặc biệt trong thời điểm hướng tới kỷ niệm 1000
năm Thăng Long – Hà Nội.
- Tuyên truyền an toàn giao thông:
Vấn đề an toàn giao thông được phản ánh liên tục trên báo HNM và đài
PT-TH HN. Hàng năm có hàng trăm tin, bài viết về an toàn giao thông trên
báo HNM và sóng phát thanh và truyền hình của đài PT-TH HN thông qua
các chuyên mục chính: Thời sự, chuyên mục “An toàn giao thông” (báo HNM
và đài PT-TH HN), “Bản tin an toàn giao thông”, “Chuyên mục vấn đề dư
luận”, “ý kiến bạn nghe đài”, chuyên mục “Thư và trả lời thư”, “Phổ biến giáo
dục pháp luật” (đài PH-TH HN). Từ năm 2007 đến nay, việc tuyên truyền về
trật tự an toàn giao thông được phản ánh đậm nét hơn.
Có nhiều bài viết, phóng sự về trật tự an toàn giao thông; tuyên truyền
chủ trương của Chính phủ, Thành phố, của ngành công an về các giải pháp
kiềm chế tai nạn và ùn tắc giao thông trên địa bàn. Việc tuyên truyền liên tục
và sâu rộng, góp phần nâng cao nhận thức của người dân khi tham gia giao
thông. Từ năm 2004 đến nay, tuyên truyền các chủ trương lớn về trật tự an
toàn giao thông, như Nghị quyết 13 của Chính phủ; Chỉ thị 02, 20 của UBND
Thành phố (năm 2008) về quản lý vỉa hè, lòng đường và quy định cấm bán
hàng rong trên nhiều tuyến phố của Hà Nội.
Trong chuyên mục An toàn giao thông của báo HNM và đài PT-TH
HN, các bài viết, chương trình không chỉ phản ánh những bất cập trong tổ
80
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
chức giao thông như: phân luồng, tín hiệu đèn giao thông… và đặc biệt là ý
thức của người tham gia giao thông, mà còn đề xuất rất nhiều giải pháp. Bài
“Vì sao tình trạng vi phạm trật tự giao thông gia tăng” (chuyên mục “ý kiến
bạn nghe đài”, đài PT-TH HN tháng 5/2007); bài “Làm gì để đảm bảo an toàn
giao thông” (chuyên mục “Vấn đề dư luận”, đài PT-TH HN tháng 1/2007)…
Đài PT-TH HN tháng 9/2006 có bài “Tình hình ùn tắc giao thông nội
thành”, phản ánh sự quá tải của các phương giao thông và ý thức chưa cao của
nhiều người khi tham gia giao thông. Trong tháng 9/2004, trên đài PT-TH HN
có loạt bài tuyên truyên an toàn giao thông: bài “Ghi nhận tuyến đường mẫu
tín hiệu giao thông Kim Mã - Cầu Giấy”; bài “Tổ chức giao thông ở các tuyến
đường xung quanh khu vực Hàng Đào - Đồng Xuân”… đã phản ánh về giao
thông Hà Nội trong tháng cao điểm về an toàn giao thông… Báo HNM ngày
22/3/2006 có các bài “Nhân đợt cao điểm bảo đảm trật tự an toàn giao thông,
bao nhiêu cao điểm cho vừa”, bài “Đảm bảo trật tự an toàn giao thông: không
chỉ là việc của cảnh sát”… đã tuyên truyền, giáo dục ý thức của mỗi người
dân khi tham gia giao thông; Bài “Trật tự an toàn giao thông – tập trung tuyên
truyền vào các trường học” đăng trên báo HNM ngày 22/3/2006 là một trong
những giải pháp quan trọng, bởi tỷ lệ học sinh, sinh viên vi phạm trật tự giao
thông là khá lớn. Bài “Kiềm chế, giảm thiểu tai nạn giao thông: Phải thực
hiện kiên quyết và đồng bộ các giải pháp mạnh”, đăng trên báo HNM ngày
19/4/2007; Báo HNM ngày 28/11/2007, có bài “Hạn chế phương tiện cá nhân
chống ùn tắc giao thông tại Hà Nội: Không thể dùng những giải pháp mang
tính áp đặt”. Báo HNM (18/9/2007) đăng bài “Giao thông Hà Nội càng gỡ
càng rối”; bài “Cần nâng cao ý thức người tham gia giao thông” (Chuyên mục
“ý kiến bạn nghe đài” đài PT-TH HN tháng 6/2007); bài “Giải pháp đồng
bộ,thực hiện quyết liệt” (đăng trên báo HNM 1/9/2008)…
81
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Với sự tuyên truyền, vận động người dân thực hiện tốt chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ về việc đội mũ bảo hiểm khi đi xe mô tô gắn máy, báo
HNM và đài PT-TH HN đã tuyên truyền chủ trương, tuyên truyền quá trình
thực hiện. Nhờ đó, ý thức chấp hành của người dân trong việc đội mũ bảo
hiểm khi đi mô tô, xe gắn máy đạt tỷ lệ rất cao. Đài PT-TH HN tháng 10/2007
có phóng sự “Hà Nội sau 3 tuần thực hiện đội mũ bảo hiểm”…
Đặc biệt, từ năm 2007, việc tuyên truyền về an toàn giao thông ở Hà
Nội gắn với chủ đề văn hóa giao thông, đây được xem như một tiêu chí của
người Hà Nội văn minh, thanh lịch. Báo HNM điện tử và đài PT-TH HN đã
mở diễn đàn về an toàn giao thông, thu hút khán, thính giả và độc giả tham
gia góp ý, nhằm góp phần nâng cao ý thức của người dân trong tham gia giao
thông và có những đóng góp với Thành phố, các ngành chức năng trong vấn
đề tổ chức giao thông trên địa bàn.
Diễn đàn an toàn giao thông trên báo HNM điện tử đã thu hút hàng
ngàn ý kiến đóng góp của công chúng trong và ngoài nước về các giải pháp
nhằm cải thiện cho giao thông Hà Nội.
- Thông tin đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội:
Lĩnh vực này bao trùm lên các chuyên mục của cả báo HNM và đài PT-
TH HN, trong các chương trình, chuyên mục thời sự, chuyên mục văn hóa –
xã hội, Hộp thư truyền hình… Có thể nêu một số bài tiêu biểu: báo HNM
ngày 25/6/2005 có bài “Ngăn chặn đại dịch “lắc” phải thắt chặt tam giác: Nhà
trường – gia đình và xã hội”; báo HNM ngày 22/2/2006 có bài “Kim tiêm –
vũ khí nguy hiểm của bọn tội phạm”; bài “Biến tướng của mại dâm” (đăng
trên báo HNM ngày 18/2/2006); bài “Cần lắm những món ăn tinh thần lành
mạnh” đăng trên báo HNM ngày 14/8/2006. Vụ triệt phá đường dây buôn bán,
sử dụng ma túy ở Vũ trường New Century được báo HNM và đài PT-TH HN
phản ánh hiện tượng, sự việc, đồng thời biểu dương chiến công của lực lượng
82
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
công an trong việc triệt phá tụ điểm ăn chơi, buôn bán, sử dụng ma túy, mại
dâm nơi đây, được dư luận nhân dân hoan nghênh. Bên cạnh đó, cả báo HNM
và đài PT-TH HN cũng đã nêu lên những bài học trong quản lý trật tự xã hội,
đấu tranh với các tệ nạn xã hội trên địa bàn. Báo HNM ngày 3/6/2005 có bài
“Phòng chống tệ nạn bằng tình thương và trách nhiệm”; bài “Ngăn chặn tệ nạn
sử dụng ma túy tổng hợp: Trách nhiệm của xã hội và gia đình” (HNM
11/6/2005); báo HNM (25/8/2005) đã biểu dương lực lượng công an Hà Nội
trong công tác chống tệ nạn xã hội, qua bài “Mũi nhọn phòng chống ma túy”…
Đài PT-TH HN tháng 11/2006 đã phát sóng cuộc giao lưu phòng chống
AIDS và chương trình “Lắng nghe cơ thể bạn” về đề tài chống kỳ thị đối với
người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS; phản ánh hoạt động của các Trung tâm
tư vấn gia đình- xã hội. Những chương trình đó góp phần nâng cao nhận thức
và trách nhiệm của cả cộng đồng về HIV-AIDS.
- Thông tin định hướng về những vấn đề bức xúc xã hội:
Báo HNM và đài PT-TH HN có nhiều tin, bài xung quanh việc bãi thị ở
chợ Đồng Xuân (tháng 7/2004) về sự phản ứng của các tiểu thương đang
buôn bán ở chợ trước chủ trương điều chỉnh giá thuê của Công ty cổ phần
Đồng Xuân chưa hợp lý. Sau khi tìm hiểu và có những tin bài thông tin trên
báo, đài, góp phần giúp cho các tiểu thương ở chợ nắm được chủ trương giải
quyết về vấn đề này và giải tán bãi thị.
Nhiều vấn đề bức xúc của nhân dân được thông tin, giải đáp trong các
chuyên mục “ý kiến bạn đọc” trên báo HNM, đài PT-TH HN có các chuyên
mục phản ánh như “ống kính phóng viên” “Thư và trả lời bạn xem truyền
hình”, “ý kiến bạn nghe đài”… Từ năm 2004 đến hết tháng 8/2008, nổi bật với
một số vụ việc bức xúc như: Giải phóng mặt bằng các dự án đường Vành đai
II, đường Vành đai III đoạn qua Thanh Xuân, dự án nút Ngã Tư Sở, dự án Kim
Liên - Ô Chợ Dừa; Dự án xây dựng cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy… Báo HNM
83
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
và đài PT-TH HN đã thông tin, giải thích về chủ trương của Thành phố trong
triển khai dự án, đồng thời phản ánh những tâm tư nguyện vọng của nhân dân,
giúp thành phố nắm bắt và có nhiều điều chỉnh cho phù hợp với thực tế.
Đặc biệt thời gian gần đây, giáo xứ Thái Hà và Tòa Tổng giám mục Hà
Nội đã có những hoạt động đòi giao lại phần đất mà họ cho rằng thuộc quyền
sở hữu của nhà thờ. Cùng với việc liên tục gửi đơn thư khiếu nại tới các cấp
chính quyền Thành phố và Trung ương, một số linh mục đã kêu gọi giáo dân
tổ chức nhiều hoạt động tôn giáo trái pháp luật, phá hoại tài sản, xúi bẩy gây
rối trật tự công cộng tại 178 Nguyễn Lương Bằng - Đống Đa – Hà Nội và 42
Nhà Chung – Hoàn Kiếm – Hà Nội. Những việc làm này chẳng những vi
phạm pháp luật hiện hành, mà còn gây bất bình trong dư luận của những giáo
dân yêu nước và người dân Việt Nam nói chung và nhân dân Thủ đô nói
riêng. Cùng với báo chí, các phương tiện truyền thông đại chúng trên cả nước,
đài PT-TH HN và báo HNM, nhất là báo HNM điện tử đã kịp thời có những
thông tin phản ánh, phê phán những hành vi vi phạm pháp luật của những tổ
chức trên. Song song với những bài viết phê phán thẳng thắn, mạnh mẽ trên
sóng phát thanh, truyền hình của Đài PT-TH HN, báo HNM hàng ngày liên
tục có các bài viết thể hiện rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước và của Thành
phố về vấn đề này (Một loạt bài đăng liên tiếp trên báo HNM các ngày
4/9/2008, 8/9/2008, 10/9/2008, 11/9/2008: “Bóc trần mưu đồ thâm độc”; bài
“Ai chính trị hóa vụ việc”; bài “Không thể bào chữa cho việc làm sai trái coi
thường pháp luật”; bài “Vụ việc Thái Hà có lợi cho ai?”; bài “Không được
làm tổn hại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”; bài “Dư luận xã hội càng làm rõ
kẻ chủ mưu”; bài “Lời cảnh cáo nghiêm khắc” – HNM 22/9/2008; bài “Tâm
địa và khẩu khí” – HNM 25/9/2008). Đài PT-TH HN dành nhiều thời gian,
thông tin phản ánh đậm nét trong các chương trình thời sự chính và điển hình
là hơn 20 bài viết liên tiếp trên báo HNM điện tử đã thực sự là những luồng
84
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
định hướng kịp thời, liên tiếp tới nhân dân Thủ đô và cả nước trong đó có cả
giáo dân. Các bài viết đã lên án những hành động, lời nói quá khích, vi phạm
luật pháp Việt Nam, nhưng đồng thời vận động, giải thích, thuyết phục, định
hướng về tư tưởng, để nhân dân nói chung và bà con tôn giáo nói riêng hiểu
rõ bản chất sự việc, từ đó góp phần thay đổi nhận thức, hành vi của họ. Tuy
tiếp sau sự việc này, các hoạt động chống đối của các tổ chức tôn giáo trên sẽ
còn tiếp diễn hay ngừng, điều đó không ai có thể khẳng định, song những bài
báo đó đã góp phần khẳng định về quan điểm về vấn đề tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta, đồng thời đẫ cùng với hệ thống truyền thông đại chúng của cả
nước tạo nên dư luận cùng lên án đấu tranh chống lại những luận điệu của
những kẻ đang lợi dụng tôn giáo để gây rối, gây mất trật tự trị an.
2.2.3. Những sai phạm trên báo HNM và đài PT-TH HN đã bị xử lý
và nhắc nhở từ năm 2004 đến nay
- Đài PT-TH HN trong chương trình “Vượt qua thử thách”
(17/10/2004) có câu hỏi nêu lại vấn đề Ai là tác giả Quốc huy Việt Nam và
đưa ra đáp án không đúng với nội dung Thông báo số 42 của VPCP
(27/2/2004)
- Báo HNM (31/3/2005) có bài phỏng vấn ông Phạm Viết Đào (Thanh
tra viên Bộ VH-TT) xung quanh việc thu thuế đối với các đối tượng là nhà
văn, nhà báo, nhà giáo, nghệ sĩ, vận động viên thể thao… Trong phần trả lời
của ông Đào có một số nội dung và nhận định không chính xác. Ban Tuyên
giáo TW đã đề nghị báo HNM làm việc với Tổng cục Thuế để làm rõ và có
bài nói lại về vấn đề này.
- Ngày 11/3/2005, Thanh tra Bộ VH-TT (nay là Bộ TT-TT) đã quyết
định xử phạt hành chính đối với báo HNM vì đã gây ảnh hưởng xấu đối với
quan hệ đối ngoại khi cho đăng tin “Iran sẵn sàng thương lượng với Mỹ về
85
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
chương trình hạt nhân nhằm chứng tỏ việc nước này sử dụng công nghệ hạt
nhân chỉ nhằm phục vụ mục đích quân sự”, đúng phải là “dân sự”
- Báo HNM (13/5/2005) trên trang nhất đăng bức tranh cổ động hình
ảnh Hồ Chủ tịch của họa sỹ Hà Huy Chương chất lượng hình ảnh quá kém,
gây dư luận không tốt. Báo đã có lời xin lỗi tác giả và bạn đọc và đã tổ chức
kiểm điểm những người có trách nhiệm liên quan.
- Đài PT-TH Hà Nội trong chương trình Đuổi hình bắt chữ (30/7/2005),
đưa hình ảnh con chó chết, đố khán giả đoán chữ theo hình, đáp áp của hình
ảnh đó là “tử tuất”, nói về chế độ của những người quá cố được hưởng. Đây là
chi tiết thiếu cân nhắc, thiếu tính văn hóa.
- Báo HNM điện tử từ 10-15/8/2005 thông tin sai sự thật về việc diễn
viên điện ảnh Hàn Quốc Song Hye-kyo bị bắt vì mang thuốc lắc, gây ảnh
hưởng không tốt trong quan hệ đối ngoại.
- Báo HNM điện tử (4/2005) bị xử phạt hành chính vì những thông tin
sai tại thông tin: Kim ngạch nhập khẩu ô tô xe máy hai tháng đầu năm 2005
gần 3,8 tỷ.
- Báo HNM (29/9) có bài “Khắc phục hiệu quả thiệt hại do cơn bão số
7 gây ra”, do sơ xuất đã nhầm “hậu” thành “hiệu”, gây phản ứng trong dư
luận nhân dân, báo đã nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm.
- Báo HNM (9/9/2005), khi đưa tin tít lớn: “Việt Nam quyết định gửi
100.000 USD và sẵn sàng cử đội y tế hỗ trợ người dân Mỹ bị ảnh hưởng của
cơn bão Ca-tri-na”, nhưng ngay dưới tít lớn, lại rút tít nhỏ “Việt Nam yêu cầu
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước đặc biệt
quan tâm về tôn giáo”, thiếu sự nhạy cảm về chính trị, vô hình chung có sự
mặc cả chính trị khi tham gia cứu trợ nhân đạo.
- Đài PT-TH HN (18h40, ngày 12/8/2006), khi phát phóng sự ôn lại không
khí của Hà Nội những ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, đã đưa ý kiến
86
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
của một nhân chứng lịch sử. Nhân chứng này nói: “Ngày mười bảy tháng tám thì
thằng Khâm sai đại thần đã trốn mất rồi…”. Câu nói này đã gây phản ứng khá
quyết liệt từ gia đình của cụ Phan Kế Toại (là Khâm sai đại thần của chế độ Bảo
Đại) nhưng sau cách mạng, cụ Phan là Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Phó Thủ tướng
Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đài đã được yêu cầu xin lỗi gia đình cụ
Phan Kế Toại.
- Báo HNM trong 2 ngày 6-7/7/2006, đăng tin sử dụng tin của TTXVN
nhưng không dẫn nguồn, vi phạm bản quyền, đã được Bộ nhắc nhở.
- Đài PT-TH HN (trong 2 tuần đầu tháng 6/2006) trong chương trình
Đuổi hình bắt chữ, trong đáp án có dùng câu “Một lần nữa, thuốc lắc đã
mang chiến thắng về cho bạn” và thành ngữ “chân đất mắt toét”, ám chỉ và
miệt thị người nông dân, Bộ đã nhắc nhở.
- Báo HNM (10/5/2007) có đăng bài “Có một nữ doanh nhân”, viết về
ứng cử viên Đại biểu Quốc hội trước ngày bầu cử, Ban Tuyên giáo Trung
ương đã nhắc nhở đối với bài báo trên là vi phạm Luật Bầu cử Quốc hội.
- Báo HNM điện tử (13/8/2007), có bài “Bạo loạn kinh hoàng ở sân
Thanh Hóa (kèm hình ảnh đốt cờ của cổ động viên Thanh Hóa)”, mặc dù phê
bình những hành động quá khích, phi văn hóa, nhưng việc dùng từ “bạo loạn”
và đưa hình ảnh đốt cờ Tổ quốc là thiếu nhạy cảm chính trị, Bộ đã nhắc nhở.
2.2.4. Đánh giá về đội ngũ cán bộ, phóng viên của báo HNM và đài
PT-TH HN
Báo HNM và đài PT-TH HN là hai cơ quan có đội ngũ cán bộ, phóng
viên lớn nhất trong hệ thống báo chí Hà Nội. Đội ngũ cán bộ, phóng viên của
báo HNM và đài PT-TH HN phát triển có tính kế thừa, theo xu hướng ngày
càng trẻ hóa và được đào tạo chính quy, đúng chuyên môn nghiệp vụ, có nhiều
người có 2 bằng đại học. Hiện tại, lớp cán bộ từ 50-60 tuổi không nhiều, lớp
phóng viên trẻ chiếm số đông, nhiệt tình với nghề nghiệp.
87
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Tuy nhiên, có một số điểm đáng chú ý của phóng viên báo HNM và đài
PT-TH HN sau: ý thức chính trị chưa thật sự cao, có nhiều phóng viên ít quan
tâm tới việc học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết của Đảng, của Thành
phố. Điều đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhãn quan chính trị,
nhạy bén chính trị thấp. Tỷ lệ phóng viên thông thạo ngoại ngữ không nhiều
(nhất là phóng viên báo HNM). Trong cả báo HNM và đài PT-TH HN, tỷ lệ
phóng viên giỏi còn quá ít. Hầu hết những cây viết có tiếng những năm trước
đây đều chuyển sang làm công tác quản lý, hoặc vừa mới nghỉ chế độ, số cây
viết mới trẻ, có độ xông xáo nhưng chưa đủ độ sắc sảo. ở lĩnh vực xây dựng
Đảng là mảng đề tài quan trọng nhưng lại thiếu những cây viết có bản lĩnh.
Điều đáng chú ý, một số phóng viên trẻ nhưng ít năng động, sáng tạo,
ngại khai thác thông tin thực tế, nên bài vở bị khô cứng, ít sinh động. Có hiện
tượng phóng viên viết bài vì lợi ích kinh tế; xử lý thông tin cũng vì lợi ích cá
nhân, không tuân theo diễn biến khách quan của hiện tượng…
Sau khi mở rộng địa giới hành chính Thủ đô, sự hợp nhất giữa báo HNM
và báo Hà Tây (cũ); đài PT-TH Hà Nội với đài PT-TH Hà Tây (cũ) dẫn đến sự
chênh lệch về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về độ nhạy bén, sắc sảo giữa
phóng viên của báo, đài hai địa phương cũ Hà Nội và Hà Tây. Nhìn tổng thể,
chất lượng cán bộ, phóng viên của báo HNM và đài PT-TH HN có phần kém
đi.
2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA QUA VIỆC ĐỊNH HƯỚNG DLXH TRÊN
HỆ THỐNG BÁO CHÍ HÀ NỘI
1. Trong thời đại ngày nay, không có chiều cạnh nào của phát triển tách
rời hoạt động truyền thông. Hoạt động truyền thông chỉ có ý nghĩa khi nó kích
thích được lợi ích của đối tượng tiếp nhận, thuyết phục họ về mặt nhận thức, tạo
cho họ hành động chung. Từ ý nghĩa đó, người ta nhận thấy khả năng truyền bá
rộng lớn của hoạt động truyền thông trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển.
88
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Các phân tích về cơ chế từ tác động truyền thông đối với hành động của con
người cho thấy: bằng việc cung cấp thông tin, kiến thức, thông qua các kênh, hay
một con đường nào đó đến với đối tượng tiếp nhận, đối tượng tiếp nhận hiểu và
có khả năng làm theo sự chỉ dẫn của thông tin đã tạo nên hành động của các cá
nhân và các tập đoàn người. Do vậy, việc củng cố hệ thống truyền thông nhằm
làm tốt nhiệm vụ định hướng dư luận xã hội là vấn đề cấp bách.
2. Ngày 29/5/2008, kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XII đã thông qua Nghị
quyết mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội bao gồm cả diện tích, dân số
của cả tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã: Đông Xuân,
Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung của huyện Lương Sơn thuộc tỉnh Hòa Bình.
Toàn thành phố sau khi mở rộng, từ 1-8-2008 có 2 thành phố Hà Đông, Sơn
Tây; 9 quận, 18 huyện, với 577 xã, phường, thị trấn. Diện tích tự nhiên
334.470,02 ha, dân số 6.232.940 người. Do vậy, cơ cấu, trình độ học vấn và mức
sống của dân cư Thủ đô có sự biến đổi nhiều so với trước. Điều đó cũng tác
động lớn tới trình độ, nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng và việc định
hướng dư luận xã hội cho công chúng trên địa bàn Thủ đô khó khăn hơn trước.
3. Nhu cầu công chúng có sự thay đổi theo những tác động của kinh tế
thị trường. Những tác động của kinh tế thị trường và quy luật cung cầu, giá
cả… đã làm cho những cơ chế về đạo đức, lối sống, nhận thức cũng có nhiều
biến đổi theo. Người ta quan tâm nhiều hơn tới việc kiếm tiền; nhất là nhận
thức trong giới trẻ có những thay đổi đáng kể. Vì tiền mà một bộ phận thanh
niên sa ngã vào những con đường tệ nạn, hoặc có biểu hiện xa rời những giá
trị đạo đức tốt đẹp, xuất hiện những thị hiếu và nhu cầu hưởng thụ tầm
thường, ít tính giáo dục…
4. Báo, đài vẫn còn có hiện tượng thông tin sai sự thật, hoặc phản ánh sai
bản chất sự việc hiện tượng. Nội dung tuyên truyền có lúc còn một chiều, nặng
về phản ánh tình hình, đôi khi còn để mặt tiêu cực chi phối đời sống dư luận,
89
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
việc nêu các điển hình tiên tiến chưa đậm nét. Công tác cổ động nhiều khi còn
chung chung, chưa được sâu rộng đến cơ sở. Khả năng dự báo tình hình, kiến
nghị và đề xuất các giải pháp khả thi hiệu quả chưa cao. Tính tích cực của báo
chí trong đấu tranh với các thế lực thù địch, cơ hội, bất mãn có nhưng còn hạn
chế.
5. Trong khi mở rộng thông tin và đa dạng hóa thông tin, nhằm giúp
công chúng tiếp cận được đời sống phong phú,nhiều mặt của các dân tộc trên
thế giới, đã xuất hiện tình trạng thông tin thiếu chọn lọc.
6. Vấn đề quảng cáo trên truyền hình quá nhiều cho các sản phẩm, hàng
hóa nước ngoài; chất lượng của sản phẩm quảng cáo đôi khi không đúng với
thực tế sử dụng; quảng cáo quá dài, ngôn ngữ đơn điệu, sáo rỗng, trùng lặp
gây khó chịu cho người xem.
7. Tỷ lệ giữa bài viết biểu dương cái đúng, cái tốt, cái mới và phê phán
cái sai, cái xấu, cái lạc hậu chưa cân bằng. Người đứng đầu cơ quan báo chí
chưa thực sự coi trọng tính chiến đấu trên báo chí. Báo Hà Nội mới và Đài
Phát thanh – Truyền hình Hà Nội gần như chỉ có khen, tính chiến đấu còn hạn
chế, ít sự sáng tạo, còn né tránh nhiều vấn đề, do ngại “đụng chạm”.
8. Những thông tin đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình” còn hạn chế,
chưa có sự thường xuyên, trong khi các thế lực thù địch sử dụng tối đa vai trò
của truyền thông đại chúng, ngày đêm chống phá ta, thực hiện âm mưu này.
9. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí buông lỏng trách nhiệm của
mình trong công tác lãnh đạo, kiểm soát tin, bài… Giao việc cho phóng viên,
biên tập viên mà không có sự quản lý, giám sát công việc chặt chẽ. Tình trạng
này tuy không phổ biến nhưng vẫn tồn tại và không được nhìn nhận một cách
đúng đắn để có phương pháp khắc phục dứt điểm.
10. Cần nhận thức đúng vai trò của người tổng biên tập, vì Tổng biên
tập phải chịu trách nhiệm chung về tờ báo: Chịu trách nhiệm trước cơ quan
90
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
chủ quản về nhiệm vụ chính trị của tờ báo; Chịu trách nhiệm trước pháp luật
về mọi hậu quả thông tin do tờ báo đăng tải; Chịu trách nhiệm trước toàn thể
đội ngũ cán bộ, phóng viên, công nhân viên trong tòa soạn về mọi mặt của cơ
quan báo chí. Người ta thường nói Tổng biên tập là “linh hồn” của tờ báo,
ngoài trách nhiệm, Tổng biên tập còn là người tạo ra phong cách, bản lĩnh
chính trị, văn hóa và nghiệp vụ của tờ báo, hay nói cách khác, Tổng biên tập
là một trong những yếu tố quyết định chất lượng mọi mặt của cơ quan báo
chí. Trên thực tế, mặt yếu của các Tổng biên tập là chưa đáp ứng được yêu
cầu đổi mới, hiện đại hóa báo chí; chưa thích ứng với phát triển báo chí trong
kinh tế thị trường, chưa theo kịp đòi hỏi của thời đại bùng nổ thông tin.
Những ưu điểm, khuyết điểm của báo chí thời gian qua đều gắn với trách
nhiệm của Tổng biên tập.
11. Một bộ phận cán bộ làm báo không thường xuyên rèn luyện, trau
dồi nâng cao đạo đức nghề nghiệp, do đó đã có biểu hiện thoái hóa biến chất.
Có hiện tượng lợi dụng chức vụ, nghề nghiệp để tống tiền, hăm dọa người
khác vì mục đích vụ lợi. Với những nguyên nhân khác nhau, trong đó có cả
mục đích cá nhân, nhiều bài báo, tin tức được đưa ra thiếu chính xác, thiếu
phân tích, bình luận không khách quan, gây dư luận không tốt cho người
đọc,người nghe, người xem, gây tác hại xấu đến dư luận nhân dân.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ chưa được chú
trọng, do vậy chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh mẽ của báo chí, của khoa
học công nghệ thông tin, đặc biệt sự phát triển của công nghệ tin học, truyền
hình và công nghệ in.
12. Cần có sự nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng của báo chí
trong hoạt động truyền thông nói chung và trong vấn đề định hướng dư luận xã hội
nói riêng.
91
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
- Vai trò của công tác lãnh đạo chỉ đạo báo chí chưa được phát huy hết
hiệu lực. Chưa kiên quyết khắc phục các xu hướng “thương mại hóa” và các
biểu hiện tiêu cực khác trong hoạt động báo chí. Các cơ quan chức năng chưa
có quy chế phối hợp rõ ràng với cấp ủy, lãnh đạo các sở, ban ngành trong việc
quản lý đối với hoạt động báo chí. Phải nắm vững quyền lãnh đạo của Đảng đối
với báo chí, coi đây là nguyên tắc “bất di bất dịch”. Tăng cường công tác định
hướng báo chí trong cơ chế thị trường, để báo chí phát huy tốt việc tuyên
truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; ngăn chặn, khắc phục các
biểu hiện tiêu cực, trái với tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ, đạo đức của báo chí.
*
* *
Từ năm 2004 – tháng 8/2008, các báo HNM hàng ngày, HNM điện tử,
đài Phát thanh – truyền hình Hà Nội đã thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền,
góp phần tích cực trong việc định hướng dư luận, ổn định đời sống tư tưởng
cho nhân dân trên địa bàn Thủ đô. Việc tuyên truyền, khẳng định vai trò lãnh
đạo của Đảng ta sau 20 năm thực hiện đổi mới, với những thành tựu to lớn,
toàn diện, đã góp phần giúp cho quần chúng nhân dân phấn khởi, tiếp tục
phấn đấu trong nhiều năm tiếp theo. Tuy có nhiều cố gắng trong cải tiến,
thông tin tuyên truyền và định hướng, báo HNM và đài PT-TH HN còn hạn
chế ở một số điểm sau: Tính chiến đấu còn hạn chế; báo, đài đôi khi chưa
nhanh nhạy, chủ động nắm bắt thông tin, việc thông tin còn thụ động, có phần
ỷ lại vào sự chỉ đạo, dựa vào những thông tin sẵn có, ít đầu tư khai thác những
vấn đề dư luận quan tâm. Một số chương trình sân chơi truyền hình trên sóng
truyền hình Hà Nội do biên tập không kỹ, để lọt nhiều lỗi, gây phản ứng trong
dư luận nhân dân.
92
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
93
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHO VIỆC ĐỊNH HƯỚNG
DƯ LUẬN XÃ HỘI TRÊN HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG THỦ ĐÔ
TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
3.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
ĐỐI VỚI BÁO CHÍ KỂ TỪ ĐẠI HỘI IX CỦA ĐẢNG ĐẾN NAY
Đại hội lần thứ IX của Đảng chỉ ra nhiệm vụ của báo chí là “báo chí
xuất bản… làm tốt chức năng tuyên truyền thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước; phát hiện những nhân tố mới, cái hay, cái
đẹp trong xã hội, giới thiệu gương người tốt việc tốt, những điển hình tiên
tiến, phê phán các hiện tượng tiêu cực, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu
tranh với những quan điểm sai trái; coi trọng nâng cao tính chân thật, tính
giáo dục và tính chiến đấu của thông tin… Khắc phục khuynh hướng “thương
mại hoá” trong hoạt động báo chí, xuất bản. Nâng cao bản lĩnh chính trị, tư
tưởng, ý thức trách nhiệm, trình độ văn hoá và nghề nghiệp, phẩm chất đạo
đức của đội ngũ báo chí, xuất bản”.
Ở nhiệm kỳ khóa IX, tại Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung
ương đã ra Nghị quyết 16-NQ/TW “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư
tưởng, lý luận trong tình hình mới”, trong đó nhấn mạnh đến yêu cầu “nâng
cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền cổ động, báo chí – xuất bản,
văn hóa – văn nghệ, thông tin đối ngoại”. Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng ban
hành một số Chỉ thị, thông báo nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước đối với công tác báo chí. Trong đó, Thông báo 162
TB/TW (1/12/2004) của Bộ Chính trị “về một số biện pháp tăng cường quản
lý báo chí trong tình hình mới” có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với báo chí
nước ta.
94
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định “phát triển mạnh và nâng cao
chất lượng hoạt động thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản và
phát hành sách trên tất cả các vùng, chú ý nhiều hơn đến vùng sâu vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. Do vậy, báo chí luôn được sự quan tâm,
lãnh đạo chỉ đạo của Đảng.
Để nâng cao vai trò của các cấp uỷ Đảng trong cơ quan báo chí, Ban Bí
thư đã ban hành Quy định số 165-QĐ/TW (21/4/2006) Về chức năng, nhiệm
vụ của Đảng bộ, chi bộ cơ sở trong cơ quan báo chí. Tại Quy định này có
khẳng định “Đảng bộ, chi bộ cơ sở trong cơ quan báo chí là hạt nhân chính trị,
lãnh đạo cán bộ, đảng biên, biên tập viên, phóng viên và những người lao động
khác trong cơ quan thực hiện đúng quan điểm, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và tôn chỉ, mục đích của báo, đài, tạp
chí…”.
Ngày 2-6/7/2007, Hội nghị lần thứ V, Ban chấp hành Trung ương khóa X
đã thảo luận Đề án Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới và
đã ra Nghị quyết về “Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”,
Nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và hết sức cần thiết, kịp thời, đáp ứng
những đòi hỏi mới của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu và phát triển toàn
diện, mạnh mẽ. Hội nghị đã khẳng định “Báo chí tuy chỉ là một bộ phận của
công tác tư tưởng, nhưng lại là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong hoạt động
tư tưởng”.
Ngày 21/8/2007, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quyết định số
75-QĐ/TW, “Về việc ban hành Quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng,
kỷ luật cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí”, khẳng định: “Đảng thống nhất và
trực tiếp chỉ đạo công tác báo chí, đồng thời tăng cường quản lý Nhà nước đối
với báo chí; Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cơ quan báo chí”. Tại Quyết định này, quy định rất cụ thể về trách
95
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
nhiệm của cơ quan chủ quản báo chí, người đứng đầu cơ quan báo chí và các
tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm; quy định về khen thưởng, xử lý vi phạm;
miễn nhiệm đối với lãnh đạo của các cơ quan báo chí.
Năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số
219/2005/QĐ-TTg, phê duyệt “Chiến lược phát triển thông tin tuyên truyền
đến năm 2010”. Trong chiến lược có khẳng định việc “Xây dựng chiến lược
phát triển thông tin của mỗi quốc gia là một bộ phận quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Thành công hay thất bại của
một quốc gia tuỳ thuộc rất lớn vào khả năng làm chủ, chiếm được lợi thế
thông tin. Để bảo vệ quyền lợi thiết thực của mình trong các hoạt động chung
trên thế giới, các quốc gia hay tổ chức quốc tế đang nỗ lực tìm kiếm những
thông tin có giá trị nhất phục vụ cho mục tiêu hoạt động của mình. Trên thực
tế, thông tin đã từng được coi là yếu tố quyết định sự thành bại của một tổ
chức. V.I Lênin đã từng khẳng định: “Không có thông tin thì không có thắng
lợi trong bất cứ lĩnh vực nào, cả khoa học, kỹ thuật và sản xuất””. Phạm vi
thông tin được đề cập trong Chiến lược này chủ yếu là các loại hình thông tin
thuộc chức năng quản lý của ngành văn hoá thông tin, được xếp theo phương
thức thể hiện. Đó là: thông tin bằng chữ viết, thông tin bằng tiếng nói, thông
tin bằng hình ảnh và thông tin trên mạng internet (đa phương tiện).
Những văn bản Chỉ thị, Quyết định trên thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo
sát sao của Đảng đối với báo chí. Đó chính là sự chỉ đạo về mặt lý luận đối
với báo chí. Những lý luận đó được tổng kết từ thực tiễn hoạt động báo chí và
cũng chính là động lực để báo chí ta phát triển, đúng hướng.
Về phía Thành phố, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII đã chỉ rõ: Phát triển
hệ thống thông tin đại chúng, phục vụ tích cực, hiệu quả các nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội Thủ đô; nâng cao nhận thức tư tưởng, cập nhập thông
tin, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá lành mạnh của nhân dân. Làm tốt công
96
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý báo chí, xuất bản theo tinh thần Chỉ thị 22 của Bộ
Chính trị và Chỉ thị 25 của Thành uỷ (khoá XII) bảo đảm cho báo chí, xuất bản
thật sự là vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng của Đảng.
Nối tiếp những quan điểm chỉ đạo có tính lý luận và thực tiễn của
Thành uỷ từ các nhiệm kỳ trước, như Chỉ thị 25/CT/TU (năm 1997); Thông
báo số 167-TB/TU (2000) về nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo chí Thủ
đô vì sự nghiệp công nghiệp hóa; Thông báo số 186-TB/TU (2002) về một số
biện pháp xây dựng và củng cố đội ngũ cán bộ phóng viên báo đài Hà Nội;
Thông báo số 623-TB/TU (26/9/2005); Thông báo số 640 (14/11/2005). Gần
đây, Thành ủy đã ban hành Chương trình 23-CTr/TU (24/10/2007), đây là
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban
Chấp hành Trung ương Khóa X “về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí
trước yêu cầu mới”. Các văn bản trên đã đưa ra nhiều giải pháp mang tính chỉ
đạo toàn diện hệ thống báo chí Hà Nội.
Xác định tầm quan trọng của việc định hướng dư luận xã hội, ngày
7/5/2001, Thành ủy Hà Nội đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TU “Về phát triển
hệ thống mạng lưới nghiên cứu dư luận xã hội của Thành phố”, nhằm nghiên
cứu, nắm bắt và định hướng dư luận xã hội trên địa bàn Thành phố, trong đó
có dư luận báo chí.
3.2. YÊU CẦU, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG
NÓI CHUNG VÀ BÁO CHÍ HÀ NỘI NÓI RIÊNG TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
3.2.1. Những tác động khách quan từ bên ngoài tới hoạt động
truyền thông của nước ta
Tình hình chính trị, kinh tế thế giới diễn biến hết sức phức tạp, chứa
đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp
tác vừa có đấu tranh. Xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, nạn khủng
97
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
bố quốc tế … có những tác động mạnh mẽ đến thông tin, gây ra những thách
thức trong lĩnh vực thông tin.
Một số nước tư bản có tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ đã và đang
bành trướng trong lĩnh vực thông tin và truyền thông. Khái niệm "Chủ nghĩa đế
quốc thông tin" đang trở nên quen thuộc và được thường xuyên đề cập trên
nhiều tờ báo và tạp chí quốc tế. Hiện nay, các nước tư bản đó còn thi hành
chính sách độc quyền thông tin theo kiểu áp đặt, bắt các nước nhỏ hoặc kinh tế
yếu kém phụ thuộc vào nguồn tin của họ, trở thành khách hàng tiêu thụ thông
tin và lệ thuộc vào họ. Cuộc đấu tranh của các nước đang phát triển về một
"trật tự thông tin quốc tế mới" đã trở thành một bộ phận của cuộc đấu tranh
giành độc lập về kinh tế, chính trị, tiến bộ và công bằng xã hội.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin
tiếp tục phát triển với những bước tiến nhảy vọt sẽ đưa thế giới từ kỷ nguyên
công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và phát triển kinh tế tri thức. Sự hội tụ
giữa thông tin, viễn thông, tin học là một xu hướng quan trọng trong xu thế phát
triển thông tin trên phạm vi toàn cầu, tác động mạnh mẽ vào hoạt động truyền
thông và các phương tiện thông tin đại chúng.
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế là một xu thế khách quan vừa là quá
trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát
triển để bảo vệ lợi ích quốc gia. Các phương tiện thông tin đại chúng được mở
rộng, tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập văn hoá, đồng thời cũng đang diễn
ra cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia và
bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sử dụng triệt để hệ thống
thông tin đại chúng để chống phá, công kích các nước xã hội chủ nghĩa, trong
đó hòng phá hoại cả sự nghiệp cách mạng nước ta, ngày càng tinh vi và quyết
liệt hơn..v...v....
98
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
3.2.2. Tác động của sự biến đổi trong nước và những yêu cầu đối với
việc định hướng dư luận xã hội thông qua hệ thống truyền thông
Về lĩnh vực kinh tế: Sự chuyển đổi từ nền kinh tế cũ sang nền kinh tế
tồn tại lâu dài nhiều thành phần, từ chính sách kinh tế khép kín sang chính
sách kinh tế mở đã quy tụ được lòng dân Thủ đô, đáp ứng được nhu cầu phát
triển kinh tế của mỗi người dân, mỗi đơn vị sản xuất. Nhờ đường lối đổi mới,
sức sản xuất được giải phóng, những tiềm năng của đất nước, của địa phương,
của mỗi gia đình và mỗi con người được phát huy. Thành tựu của những năm
đổi mới vừa qua đã đem lại niềm tin của cán bộ và nhân dân Thủ đô vào sự
chuyển đổi cơ chế kinh tế. Song, nảy sinh sự phân hóa về thu nhập…
Hoà hập với kinh tế thế giới để phát triển kinh tế đất nước đó là đòi hỏi
tất yếu khách quan. Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế – xã hội cũng là
một tất yếu khách quan và Hà Nội cũng không ra ngoài quy luật đó. Song, để
giữ vững chính trị, ổn định tư tưởng khi hội nhập về kinh tế, cần thiết phải có
sự định hướng một cách rõ ràng.
Những biến đổi về mặt chính trị: Một số kẻ cơ hội, cực đoan đang
nhằm mũi nhọn công kích vào những yếu kém của Đảng, hạ thấp uy tín của
Đảng và Nhà nước ta. Vì thế, việc bảo vệ Đảng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội từ
mặt trận lý luận cũng như trong thực tế đang là vấn đề cốt yếu hiện nay.
Việc giữ vững chủ quyền quốc gia, giữ vững chế độ chính trị trong điều
kiện mở rộng giao lưu, quan hệ liên doanh, hợp tác kinh tế với nước ngoài
cũng trở thành mối quan tâm hàng đầu. Muốn phát triển kinh tế nhất thiết phải
ổn định chính trị, muốn ổn định chính trị phải giữ vững chủ quyền quốc gia.
Những biến đổi trong xã hội: Mặc dù có sự quản lý của Nhà nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa , nền kinh tế nước ta đang đứng trước một
mâu thuẫn lớn. Một mặt, sức lao động và mọi tiềm năng tài nguyên thực sự
được giải phóng khi nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường. Mặt khác,
kinh tế thị trường lại là môi trường thuận lợi làm nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội.
99
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Yêu cầu tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện công bằng xã hội luôn luôn
được Đảng và Nhà nước quan tâm. Tuy nhiên, mọi chủ thể trong kinh tế thị
trường đều lấy lợi ích kinh tế làm mục đích.
Do tác động của cơ chế thị trường mà có sự chênh lệch thu nhập giữa
các tầng lớp và các thành viên trong xã hội, xuất hiện phân hoá giàu nghèo
trong xã hội.
Vì lợi nhuận, nên xuất hiện nhiều hiện tượng gian lận thương mại, làm
hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, tham nhũng... Mọi người dân đều mong muốn
các cấp chính quyền xử lý kiên quyết với những hành vivi phạm pháp luật
trong thương mại, đây cũng là tư tưởng tiến bộ, tích cực ủng hộ đường lối đổi
mới đất nước của Đảng và Nhà nước.
Không chỉ sự phân hoá giàu – nghèo, mà nền đạo đức có nơi, có lúc
xuống cấp, hiện tượng thờ ơ ngại va chạm trước những hiện tượng côn đồ,
trộm cắp, lưu manh và nhiều tệ nạn khác.... thậm chí, thực sự chi phối con
người. Mặt khác, luật pháp của ta vừa thiếu, vừa không nghiêm. Những điều
đó đã tạo môi trường cho tệ nạn, tiêu cực phát triển.
Hà Nội trong cơ chế thị trường lại là nơi có thể tìm ra việc làm của
nhiều người lao động trong cả nước, trong khi só người thiếu việc làm ở đây
chiếm tỷ lệ cao. Số người từ nơi khác đến làm ăn sinh sống, số người lang
thang cơ nhỡ gia tăng, kéo theo nhiều tệ nạn xã hội.
3.3.3. Thách thức và yêu cầu đối với báo chí và những người làm
báo
Làm báo trong cơ chế thị trường rất dễ đi chệch hướng nếu không có
bản lĩnh chính trị vững vàng, hoặc động cơ thông tin trong sáng, sẽ dễ dàng sa
đà, chạy theo thoả mãn những thị hiếu tầm thường của một bộ phận bạn đọc,
thông tin giật gân câu khách, thậm chí vu khống, bịa đặt thông tin... “Xu
hướng thương mại hoá” báo chí theo hướng tiêu cực.
100
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện quyền tự do, bình đẳng
trong ngôn luận, song trong một bộ phận cán bộ đảng viên, bạn đọc Thủ đô
tâm trạng tư tưởng đang có những diễn biến phức tạp; giá trị đạo đức
truyền thống, lý tưởng cách mạng, niềm tin vào chủ nghĩa xã hội đang bị phai
nhạt; một bộ phận khá bất mãn, tiêu cực. Khi thực hiện thông tin về các đối
tượng này người làm báo phải tỉnh táo, nếu không dễ dàng thành kẻ tiếp tay
cho những luận điểm, hành vi chống đối luật pháp, cũng như đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước.
Trong cơ chế thị trường, mối quan hệ lợi ích cá nhân trở nên
phức tạp dẫn đến sự tranh chấp, mâu thuẫn, có những vụ việc kéo dài rất
khó khăn trong giải quyết. Nhà báo khi bảo vệ quyền lợi chính đáng của
nhân dân phải trung thực, khách quan, thận trọng. Nếu không, khi thông
tin sẽ làm phức tạp hoá thêm cho quá trình giải quyết của các cơ quan
pháp luật.
Hiện tượng bưng bít, mua bán thông tin là một thử thách lớn đối với
phẩm chất đạo đức của phóng viên. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường với quy luật vốn có là cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp đã
làm nảy sinh hiện tượng giữ bí mật trong thông tin, thậm chí bưng bít thông
tin...
Hiện tượng này trực tiếp gây khó khăn cho phóng viên khi chủ động
thâm nhập vào doanh nghiệp để khai thác tư liệu. Không ít trường hợp doanh
nghiệp ngăn cản phóng viên hoạt động bằng cách từ chối khéo với lý do khá
hợp lý, đó là để “bí mật thông tin kinh tế" trong cạnh tranh; đồng thời, với hiện
tượng trên đã xuất hiện không ít trường hợp “trao đổi”, thoả thuận ngầm hoặc
mua bán giữa phóng viên và tổ chức kinh tế hoặc cá nhân đang tranh chấp về
lợi ích hoặc vi phạm pháp luật. Các hiện tượng này đang là thử thách lớn đối
với bản lĩnh chính trị và nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của phóng viên.
101
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Chiến lược diễn biến hoà bình và nguy cơ xâm lược chính trị: “Diễn
biến hòa bình” là một hiện tượng thực tế - được tổ chức thực hiện có bài bản
trong khuôn khổ chính sách đối ngoại của Mỹ và các thế lực phản động quốc tế
khác. Nó là sự tiếp nối logic, hữu cơ với chiến lược, sách lược của họ trong thời
kỳ chiến tranh lạnh và trước đó. "Diễn biến hòa bình" là việc sử dụng các giải
pháp, các hình thức để tạo ra sự diễn biến từ từ, diễn biến bên trong, diễn biến
nội bộ… ở các nước xã hội chủ nghĩa theo hướng có lợi và phù hợp với mục
tiêu của các thế lực đế quốc phản động. Người ta đã sử dụng nhiều hình thức đa
dạng, như: ngoại giao nhân dân, du lịch, giao lưu văn hóa, đầu tư kinh tế, hợp
tác giáo dục đào tạo… Trong các hình thức trên, truyền thông đại chúng giữ vị
trí quan trọng hàng đầu. Đây là công cụ đầu tư đỡ tốn kém nhất, tác động
nhanh chóng và rộng khắp nhất, dễ được chấp nhận, đồng thời dễ tránh được
những rào cản hữu hình như hải quan, hàng rào biên giới, các định chế luật
pháp… Chính vì thế, người Mỹ đổ tiền vào để phát triển hệ thống truyền thông.
Trong vòng 2 thập kỷ 70 – 80, kinh phí dành cho tuyên truyền của Mỹ tăng 15
lần.
"Diễn biến hòa bình" là một âm mưu, thủ đoạn đấu tranh chính trị vô
cùng nguy hiểm và thâm độc. Sự phá hoại không bao giờ xuất hiện dưới bộ mặt
thật, rõ ràng mà bao giờ cũng xuất hiện dưới diện mạo khách quan, hữu nghị,
văn hóa và từ thiện. Càng phức tạp hơn nữa khi sự phá hoại và xây dựng hầu
như không thể phân biệt được từ cùng một hành vi cụ thể. Những tác hại sâu xa
của từng hành vi diễn biến hòa bình lại khuất lấp dưới nhiều tầng nấc chồng
chéo các mối quan hệ và trải qua một thời gian lâu dài mới có thể lộ diện.
Nhu cầu thông tin và được thông tin ngày càng lớn và đa dạng. Quốc
gia càng phát triển thì nhu cầu thông tin càng cao. Dân trí càng mở mang đòi
hỏi thông tin càng nhiều mặt. Như vậy, hoạt động cung cấp thông tin rộng rãi
102
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
về các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá vừa là mục tiêu
đồng thời cũng là phương tiện của sự phát triển.
Những thách thức đó đã đặt ra những yêu cầu và nhiệm vụ cấp bách
trong việc định hướng dư luận cho quần chúng nhân dân Thủ đô. Yêu cầu
đòi hỏi một mặt phải kiên quyết khắc phục những khuyết điểm, yếu kém để phát
triển, mặt khác phải bảo đảm tính hợp lý và cân đối giữa yêu cầu phát triển và
khả năng quản lý; giữa số lượng và chất lượng; giữa đa dạng và thống nhất; giữa
mở cửa hội nhập quốc tế và giữ vững định hướng, giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc. Để làm được như vậy, là phải nắm lấy công cụ truyền thông, dùng báo chí
để định hướng tư tưởng, định hướng dư luận một cách đúng đắn, kịp thời.
Báo chí là công cụ đắc lực của truyền thông, thông qua báo chí, không
chỉ truyền tải những thông tin nhanh nhạy, kịp thời tới công chúng mà còn là
diễn đàn để nhân dân phản ánh tâm tư, nguyện vọng, góp phần xây dựng
chính sách, pháp luật, đồng thời kiểm tra hoạt động của các cơ quan Nhà
nước, đấu tranh chống tiêu cực... Bên cạnh đó, cần coi trọng công tác nghiên
cứu thông tin dư luận xã hội phản ánh qua báo chí, để phân tích, xử lý thông
tin nhằm có giải pháp định hướng đúng đắn và kịp thời.
3.3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP ĐỊNH HƯỚNG DLXH TRÊN HỆ
THỐNG TRUYỀN THÔNG THỦ ĐÔ TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY
3.3.1. Phương hướng định hướng DLXH trên hệ thống truyền
thông Thủ đô
- Chủ động nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội thông qua các phương
tiện truyền thông đại chúng (chủ yếu là hệ thống báo chí). Báo chí phải được
coi như “nhiệt kế” chỉ “độ nóng” của dư luận xã hội về một hay nhiều vấn đề
(hoặc hiện tượng, quá trình xã hội) được nhiều người quan tâm trong một thời
điểm nhất định. Việc nắm bắt dư luận xã hội thông qua báo chí góp phần vào
việc dự báo “trạng thái” của dư luận xã hội. Nghiên cứu dư luận xã hội nhằm
103
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
xác định nhu cầu, sở thích của công chúng nói chung và của từng đối tượng
công chúng cụ thể về những hiện tượng xã hội, để có các biện pháp định
hướng dư luận xã hội được kịp thời.
- Đối với báo chí: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, lấy đường lối, quan điểm của Đảng làm cơ sở sáng tạo các tác phẩm báo
chí, thiết thực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi
mới, mở cửa, hội nhập, nhất là hoạt động báo chí trong cơ chế thị trường hiện nay,
các nhà báo càng phải nêu cao “trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà
báo”, thực hiện tốt nhiệm vụ định hướng dư luận cho công chúng. Tiếp tục quán
triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 22 của Bộ Chính trị (Khóa VIII) và
các văn bản chỉ đạo, quản lý báo chí của Trung ương, và của Thành phố.
- Củng cố, hoàn thiện hệ thống truyền thông, chú trọng hệ thống báo
chí, xuất bản – kênh truyền thông hiệu quả nhất. Cải tiến nội dung, hình thức,
nâng cao chất lượng, hiệu quả và giữ gìn bản sắc báo chí Thủ đô; hiện đại hoá
cơ sở vật chất.
- Tiếp tục quan tâm xây dựng hệ thống báo chí Hà Nội, nhằm tạo điều
kiện cho báo chí hoạt động đúng với tôn chỉ mục đích của mình trong điều
kiện môi trường pháp lý thuận lợi, với cơ sở vật chất và phương tiện hoạt
động nghiệp vụ ngày càng hiện đại, từng bước vững chắc tiến kịp với báo chí
các nước trong khu vực.
- Nâng cao chất lượng thông tin trên hệ thống truyền thông đại chúng,
mà trực tiếp là hệ thống báo chí của Thủ đô. Đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ
chính trị của mình, định hướng tư tưởng, dư luận đúng đắn, vùa góp phần vào
sự nghiệp phát triển của Thủ đô và đất nước, vừa đấu tranh chống thù trong
giặc ngoài, bảo vệ Thủ đô và bảo vệ đất nước.
- Tăng cường quản lý, chỉ đạo, quy hoạch lại hệ thống truyền thông nói
chung và báo chí nói riêng, kiên quyết chống các khuynh hướng và biểu hiện
104
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
tiêu cực ở các cơ quan báo chí của Hà Nội. Mở rộng thông tin đi liền với kỷ
cương, giữ nghiêm định hướng tuyên truyền trong hoạt động báo chí; phát
huy tối đa vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chủ quản theo Thông báo của
Thường trực Ban Bí thư. Chỉ đạo, định hướng kịp thời đối với những thông
tin, các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội mang tính nhạy cảm.
- Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, đặc biệt là
tổng biên tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ phóng viên, biên tập viên;
sớm hình thành đội ngũ phóng viên giỏi, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực
tiễn đặt ra trong điều kiện kinh tế thị trường.
- Đa dạng hoá các hình thức hoạt động thông tin từ cơ sở đến Thành phố,
trọng tâm là hệ thống truyền hình, phát thanh, nâng cao chất lượng tuyên truyền
miệng. Mở rộng và nâng cao chất lượng xuất bản; tăng cường quản lý nhà nước
đối với thị trường sách, báo, thông tin quảng cáo, các sản phẩm văn hoá.
3.3.2. Giải pháp định hướng DLXH trên hệ thống truyền thông
Thủ đô trong cơ chế thị trường
3.3.2.1. Về nội dung định hướng
a. Đảm bảo nội dung định hướng, mang tính nguyên tắc:
Tổ chức tuyên truyền kịp thời và sâu rộng các sự kiện lớn của Thủ đô
và đất nước, như các hội nghị Trung ương, của Đảng bộ Thành phố, kỳ họp
Quốc hội, họp Hội đồng nhân dân Thành phố.
Tuyên truyền về những nội dung cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng
và Bác Hồ, đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo; khẳng định
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và vị thế Việt Nam trên trường
quốc tế; nâng cao tình cảm cách mạng, tinh thần đại đoàn kết dân tộc; củng cố
ý chí xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, góp
105
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
phần đưa đất nước và Thủ đô phát triển nhanh và bền vững, nhất là sau khi
địa giới hành chính Thủ đô được mở rộng.
Tiếp tục phát hiện, cổ vũ, nhân rộng những điển hình tiên tiến trong
phong trào thi đua yêu nước, động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành
phần kinh tế, tích cực hưởng ứng các cuộc vận động “Toàn dân thi đua làm
kinh tế giỏi, từng nhà làm giàu cho mình, cho cộng đồng và cho đất nước”,
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, phong trào “Phát huy sáng
kiến, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế”… Tuyên
truyền đậm nét phong trào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thủ đô và đất
nước. Cổ vũ mạnh mẽ truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy cao độ
tinh thần tự lực tự cường, năng động, sáng tạo, vượt qua khó khăn, kiên trì
phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội của Thủ đô.
Tăng cường giáo dục về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân
tộc; giá trị truyền thống văn hóa của đất nước và Thủ đô ngàn năm văn hiến.
Qua đó, giáo dục truyền thống cho nhân dân Thủ đô, nhằm khơi dậy và phát
huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự hào, tự tôn dân tộc trong quá trình
xây dựng và phát triển Thủ đô.
Phản ánh, cổ vũ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, phát
huy tinh thần đoàn kết trong xây dựng và bảo vệ Thủ đô và đất nước. Kiên
quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, vu cáo Đảng và Nhà nước
ta của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Chủ động đấu
tranh chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của kẻ địch trên mặt trận tư
tưởng – văn hóa. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục về nhiệm vụ xây
dựng kinh tế và chủ quyền quốc gia đối với vùng biển đảo.
Tăng cường thông tin đối ngoại, truyền bá những thông tin, hình ảnh
Thủ đô và đất nước với đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè nhân dân thế giới.
Qua đó, giúp cho họ hiểu rõ hơn về những quan điểm, đường lối của Đảng,
106
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
chính sách của Nhà nước ta; những thành tựu to lớn của Thủ đô và đất nước;
những đóng góp xứng đáng của cách mạng Việt Nam đối với phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, góp sức thúc đẩy
cuộc đấu tranh vì hòa bình, phát triển và tiến bộ xã hội trên thế giới; tạo sự
đồng tình và tích cực ủng hộ, giúp đỡ của chính phủ và nhân dân các nước đối
với đất nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ động đấu tranh chống "Diễn biến hòa bình":
- Thông tin kịp thời, phong phú cho xã hội về các sự kiện, hiện tượng
và vấn đề nảy sinh trong nước cũng như trên thế giới, đáp ứng một cách tích
cực nhất nhu cầu nhận thức, thị hiếu thẩm mỹ và tình cảm của công chúng.
Phương hướng này nhằm nâng cao trình độ văn hóa và hiểu biết cho nhân
dân. Bởi ai chủ động cung cấp thông tin, người đó cũng nắm quyền chủ động
chi phối quy mô, tính chất thông tin và điều đó cũng có nghĩa là chủ động chi
phối các hiệu ứng xã hội của thông tin.
- Tăng cường thông tin mang tính giáo dục một cách có hệ thống và liên
tục, nhằm hình thành những nền tảng ý thức, tư tưởng, tình cảm tốt đẹp và
vững chắc trong nhân dân. Yêu cầu đặt ra là sự giáo dục phải đảm bảo cho
nhân dân có thái độ, ý thức hướng về những giá trị tích cực trong xã hội, biết
cảnh giác và chọn lọc, loại thải những thông tin tiêu cực hoặc nhằm mục đích
phá hoại.
- Tố cáo, vạch trần những âm mưu thủ đoạn đen tối, những luận điệu, hành
động, biểu hiện phá hoại của các thế lực phản động, nhằm đưa ra ánh sáng bản
chất xấu xa, vô nhân đạo. Qua đó, giúp nhân dân nhận thức đúng đắn, kịp thời các
vấn đề, các sự kiện, giúp họ có thái độ, hành vi đúng đắn và cách ứng xử hợp lý.
b. Đổi mới thông tin và cách thức thông tin, đáp ứng nhu cầu công chúng:
107
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Xuất phát từ thực tế hiệu quả tuyên truyền của truyền thông Thủ đô
cũng như cầu thực tế của công chúng trong điều kiện cơ chế thị trường hệ
thống báo chí Hà Nội cần chú ý những nội dung thông tin sau:
Thông tin tình hình thời sự của Thủ đô, của cả nước và quốc tế:
Đây là thông tin được công chúng quan tâm nhất. Trong đó, chú trọng
những thông tin mang tính đại chúng, có tác động, ảnh hưởng tới đời sống
kinh tế, xã hội, được quan tâm. Hạn chế những thông tin hội nghị đơn thuần,
những hội nghị nhỏ, ít mang tính đại chúng.
Đối với truyền hình, cần giảm bớt thông tin hội nghị giản đơn, cách đưa
tin cần sinh động, phối hợp với băng tư liệu, tạo sự sinh động, đỡ nhàm chán,
phản cảm đối với người xem. Cần có sự cân đối về tỷ lệ hội nghị trong một
chương trình thời sự.
Báo HNM và đài PT-TH HN, cần tăng cường những thông tin về ngoại
thành, nông thôn Hà Nội, đặc biệt là là địa phận Hà Tây cũ, Huyện Mê Linh
và 4 xã của Hòa Bình mới hợp nhất về Hà Nội, tránh sự thông tin lệch như
hiện nay.
Đối với Đài PT-TH HN chương trình thời sự cần thay đổi giờ, đáp ứng
được cả nhu cầu của công chúng ngoại thành. Giờ phát sóng thời sự hiện nay
là 18h30, nay có thể thay đổi thời gian phát sóng chương trình thời sự sau
chương trình tiếp sóng Đài Truyền hình Việt Nam.
Tăng cường những thông tin mang tính đấu tranh, chống các tệ nạn
xã hội, tham nhũng, quan liêu, chống các thế lực thù địch:
Đây là những thông tin mà các báo, đài Hà Nội thường né tránh, ngại
đụng chạm, hoặc chưa nhanh nhạy, sắc sảo trong chủ động khai thác. Trong
khi đó, cng chúng rất quan tâm tới vấn đề này, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới
sự phát triển, phồn vinh của Thủ đô nói riêng và của đất nước nói chung.
Thực tế đã cho thấy ở nhiều vụ vi phạm, tham nhũng, hay những vụ tệ nạn
108
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
lớn, ảnh hưởng tới lợi ích của cả cộng đồng, thường được thông tin đa dạng,
nhiều chiều trên các phương tiện thông tịn đại chúng, do vậy, báo chí và
những cơ quan quản lý, định hướng báo chí cần có những thông tin định
hướng rõ ràng, nhất quán, tránh mỗi báo thông tin một kiểu, từ đó mới có thể
thống nhất định hướng cho dư luận nhân dân về những vụ việc cụ thể.
Những thông tin về lĩnh vực kinh tế: Bên cạnh việc phát hiện biểu
dương những cá nhâ, tập thể làm ăn kinh doanh tốt, phê phán những cá nhân,
tập thể làm ăn phi pháp; hoặc phản ánh những sự kiện kinh tế của Thủ đô và
đất nước… Những bài viết về lĩnh vực tài chính, kinh tế cần có sự phân tích
sâu, có bình luận và đưa ra những giải pháp, nhận định, giúp cho công chúng
có cái nhìn đúng đắn về hiện tượng kinh tế, hiểu, nắm rõ và có những quyết
định đầu tư hiệu quả.
Tăng cường thông tin mang tính giáo dục truyền thống, giáo dục
thẩm mỹ, văn hóa, xã hội: Do thực tế tác động tư tưởng từ nhiều luồng, hơn
bất cứ công cụ tuyên truyền nào, báo chí có ưu việt hẳn về hiệu quả tuyên
truyền. Bài viết mang tính giáo dục truyền thống cần được tăng cường thường
xuyên, liên tục, có thể là những bài tư liệu lịch sử, lời kể của nhân chứng…
song phải gắn với cuộc sống hiện tại, nhằm giáo dục truyền thống cách mạng
cho công chúng trong thời đại nay.
Hạn chế hoặc thông tin có chọn lọc về những nền văn hóa phương Tây,
nhất là thời điểm hội nhập; Tăng cường những bài viết về nét văn hóa truyền
thống của dân tộc nói chung và của Hà Nội nói riêng, nhằm gìn giữ, bảo tồn
và phát huy truyền thống ấy trong thời đại mở cửa, hội nhập toàn cầu.
Nội dung chống âm mưu “Diễn biến hòa bình”: Cần ưu tiên chuyển
tải những nội dung thông tin cơ bản nhất nhằm vạch trần thực chất, nguồn
gốc, mục đích, đặc trưng, quá trình thực hiện của chiến lược “Diễn biến hòa
bình” của địch. Qua kênh phát thanh – truyền hình, cần ưu tiên chuyển tải
109
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
những nội dung thông tin chống “Diễn biến hòa bình” đa dạng, mới mẻ, mang
tính thời sự, với hình thức và phương thức sinh động, cụ thể…
Để một tác phẩm báo chí có tác dụng chống “Diễn biến hòa bình”, cần
phải đạt được hai khía cạnh: Đề cập tới chính các vấn đề mà phía kẻ thù dùng
để tuyên truyền hòng gây “Diễn biến hòa bình”. Cụ thể: Phải phản bác các
luận điểm, thái độ của kẻ địch hay vạch ra thực chất âm mưu trên các phương
tiện thông tin đại chúng của chúng. Tác phẩm phải có tác dụng khách quan,
nhằm xây dựng và củng cố tư tưởng của nhân dân, chẳng hạn như đánh giá về
bản chất của xã hội tư sản, về lý tưởng cộng sản, sự kiên định con đường xã
hội chủ nghĩa, tương lai đất nước.
Các bài báo có thể không trực tiếp đề cập với một tinh thần chiến đấu
rõ rệt đến các luận điệu của kẻ địch, song có được tác dụng tuyên truyền
chính diện quan điểm, đường lối của Đảng, đề cao sự nghiệp chính nghĩa của
nhân dân ta và thành tựu của đất nước trên mọi lĩnh vực, bao gồm cả các lĩnh
vực thường bị kẻ địch xuyên tạc…
Cần tập trung vào các nhóm vấn đề sau: Thứ nhất, bảo vệ chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự nghiệp cách mạng chính nghĩa của
nhân dân ta. Đây là những vấn đề chủ yếu trên bình diện lý luận và lịch sử.
Thứ hai, tuyên truyền về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và vấn đề
tự do dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, vì luận điệu thường xuyên, quen
thuộc của các thế lực thù địch là vu cáo Đảng Cộng sản Việt Nam trong các
vấn đề dân chủ và tự do, rằng ở Việt Nam không có dân chủ vì chỉ duy nhất
có một đảng cầm quyền. Thứ ba, bác bỏ những xuyên tạc, bóp méo của các
thế lực thù địch nhằm vào những thành tựu phát triển kinh tế – xã hội ở nước
ta trong những năm đổi mới và đường lối chính sách của Đảng. Thứ tư, Thẳng
thắn vạch trần thủ đoạn âm mưu “Diễn biến hòa bình” của kẻ địch đối với
Việt Nam cũng như những ý đồ xấu xa của chủ nghĩa đế quốc với các nước
110
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
khác. Thứ năm, phê phán tự do, dân chủ, nhân quyền tư sản. Vấn đề này,
không thụ động chờ khi kẻ địch tấn công rồi mới phản bác tự bảo vệ, mà báo
chí cần chủ động tấn công, vạch ra những khuyết điểm cơ bản của chính xã
hội tư bản, những mặt trái đằng sau những huênh hoang về tự do, dân chủ,
nhân quyền ở Mỹ và phương Tây.
Tránh thông tin quảng cáo tràn lan vì lợi nhuận, những thông tin
quảng cáo cần có chọn lọc và có đảm bảo về chất lượng hoặc tính chính xác
trong thông tin. Đối với phát thanh, truyền hình, quảng cáo không nên quá dài
và không nên lặp đi lặp lại cùng một nội dung quảng cáo trong cùng một
chương trình. Điều đó không chỉ gây nhàm chán, còn gây phản cảm đối với
khán, thính giả phát thanh, truyền hình.
3.3.2.3. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng đối với
báo chí trong cơ chế thị trường
Sự lãnh đạo và quản lý của các cơ quan chủ quản có ý nghĩa quyết định
tới sự phát triển của tờ báo. Vì vậy từng cơ quan chủ quản phải xây dựng được
“chiến lược phát triển" tờ báo của mình. Trong đó, xác định rõ tôn chỉ, mục
đích, phương hướng hoạt động trong từng tháng, quý; tổ chức bộ máy, nhân sự.
Đặc biệt là xây dựng đội ngũ Tổng biên tập, Phó tổng biên tập có đủ các tiêu
chuẩn quy định, có năng lực tổ chức quản lý nghiệp vụ báo chí giỏi. Xây dựng
quy chế làm việc với báo; kế hoạch phát hành; cơ sở vật chất và phương tiện
hoạt động nghề nghiệp, xây dựng về tổ chức Đảng, đoàn thể trong tờ báo v.v...
Củng cố và nâng cao chất lượng toàn diện của các cơ quan tham mưu
giúp Thành uỷ và UBND thực hiện tốt chức năng Đảng lãnh đạo tuyệt đối và
toàn diện hệ thống báo chí Thủ đô; UBND quản lý nhà nước về báo chí phát
thanh truyền thanh và truyền hình... trên địa bàn và tạo điều kiện thuận lợi cho
hệ thống thông tin đại chúng phát triển.
111
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Tăng cường lãnh đạo, quản lý đối với hoạt động báo chí trong điều
kiện kinh tế thị thị trường. Việc định hướng báo chí trong điều kiện kinh tế
thị trường phải nhằm hai mục đích cơ bản: Góp phần làm rõ những nội
dung, bản chất, xu hướng vận động phát triển của kinh tế thị trường ở nước
ta; hai là, báo chí phát huy vai trò tích cực phục vụ sự phát triển nền kinh tế
thị trường. Kiên quyết phòng ngừa, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực
của kinh tế thị trường đối với hoạt động báo chí. Cần xử phạt, kỷ luật
nghiêm những vi phạm Luật Báo chí do lợi nhuận.
Hoàn thiện môi trường pháp lý thuận lợi là điều kiện để hệ thống báo
chí Thủ đô thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Vấn đề đầu tiên là Thành
phố cần xây dựng một cách đồng bộ hệ thống chủ trương chính sách, các văn
bản pháp quy của Thành uỷ, UBND Thành phố về xây dựng, củng cố hoàn
thiện và phát triển hệ thống thông tin đại chúng, chỉ thị, thông tri và các kế
hoạch hướng dẫn theo tinh thần Chỉ thị 23-CT/TW, Chỉ thị 25-CT/TU của
Thành uỷ. Các văn bản pháp quy của UBND Thành phố theo tinh thần Nghị
định 51-CP/TTg. Đặc biệt là, có quy hoạch toàn bộ hệ thống thông tin đại
chúng của Hà Nội, trong đó có hệ thống báo chí theo hướng có đủ báo chí cần
thiết, tương ứng với yêu cầu nhiệm vụ của Thành phố. Đặc biệt, cần có quy
hoạch cho từng loại hình: báo in, bản tin, tạp chí; phát thanh-truyền hình Hà
Nội và phát thanh huyện, truyền thanh xã, phường theo hướng hiện đại hoá,
phát triển bền vững trong cơ chế thị trường hiện nay.
3.3.3. Đề xuất kiến nghị thực hiện giải pháp
3.3.3.1. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế cung cấp thông tin
Để có sự thông tin nhất quán, đúng định hướng trên hệ thống báo chí
nói riêng và hệ thống truyền thông nói chung, cần hoàn thiện cơ chế cung cấp
thông tin cho báo chí
Người tổ chức thông tin: Ban Tuyên giáo phối hợp với Văn phòng Uỷ
ban nhân dân Thành phố:
112
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
- Phải xây dựng được nội dung, chương trình kế hoạch thông tin định
kỳ hàng tuần; nội dung thông tin là các vấn đề phải phù hợp với nhiệm vụ
trọng tâm của Thành phố.
- Phải xây dựng được chế độ thông tin của các ngành trong đó quy định
định kỳ một số sở, ban, ngành liên quan nhiều đến đời sống nhân dân có trách
nhiệm phối hợp, báo cáo (khắc phục tình trạng một số ngành lảng tránh, hoặc
không muốn thông tin).
- Người chịu trách nhiệm thông tin là đại diện Uỷ ban nhân dân và thủ
trưởng sở, ban, ngành, quận, huyện, đơn vị, phải là người có trách nhiệm của
UBND Thành phố, quận, huyện, các sở, ban, ngành, đoàn thể.
- Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân Thành phố là cơ quan định hướng, chỉ đạo
thông tin trên báo chí. Người chịu trách nhiệm kết luận, định hướng phải là uỷ
viên Thường vụ Thành ủy, phụ trách Tuyên giáo. UBND Thành phố có trách
nhiệm chỉ đạo các cấp, các ngành và các cơ sở thường xuyên cung cấp thông
tin cho các báo thông qua Ban thông tin báo chí hàng tuần. Thực hiện tốt Luật
Báo chí về việc trả lời các vụ việc mà báo chí đã thông tin phản ánh.
3.3.3.2. Coi trọng việc định hướng thông tin từng thời kỳ
- Trong từng giai đoạn, từng thời kỳ, cần có kế hoạch chỉ đạo báo chí
thông tin định hướng cụ thể. Việc thông tin trong từng thời kỳ cần bám sát với
các nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ đó. Qua đó, nhằm thông tin cho công
chúng hiểu và nắm bắt được những nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ lớn của
Thành phố, của các cấp, các ngành trên địa bàn, đồng thời, thống nhất trong
tư tưởng, tâm lý của các tầng lớp nhân dân.
- Đối với những vụ việc, nhiệm vụ đột xuất xảy ra trên địa bàn, cần
được chỉ đạo và thông tin kịp thời cho báo chí, có thể tổ chức họp báo bất
thường hoặc thông tin bằng văn bản chỉ đạo tổng biên tập. Từ đó, giúp báo chí
113
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
thực hiện tốt chức năng định hướng dư luận xã hội một cách đúng đắn, kịp
thời, có như vậy mới có thể tạo sự thống nhất, đồng thuận trong nhân dân.
- Tránh thông tin bị động, không để dư luận nhân dân “hoang mang”,
mất định hướng.
3.3.3.3. Đề cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân của nhà báo,
nhất là tổng biên tập
Từng cơ quan báo chí phải có những quy chế rõ ràng trong việc giáo
dục, bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất đạo đức của người làm báo trong thời
kì kinh tế thị trường. Vì đây là một nội dung có ý nghĩa quyết định đến chất
lượng thông tin, hiệu quả chính trị-xã hội của các tác phẩm báo chí. Phải lấy
10 điều quy ước “trách nhiệm xã hội - nghĩa vụ công dân của nhà báo làm
tiêu chuẩn thi đua trong từng báo và toàn thể đội ngũ cán bộ phóng viên Hà
Nội. Có cơ chế, chính sách động viên, khen thưởng phóng viên có phẩm chất
đạo đức tốt, chuyên môn giỏi; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ “là người xung
kích trên mặt trận tư tưởng văn hóa của Thủ đô”.
Các cơ quan chủ quản cần chủ động xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt,
phóng viên các cơ quan báo chí vững mạnh, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
phẩm chất đạo đức tốt, lương tâm nghề nghiệp trong sáng, chuyên môn
nghiệp vụ giỏi, năng động sáng tạo, các tác phẩm báo chí có giá trị xã hội.
Trước hết là xây dựng đội ngũ tổng biên tập phải là người có đủ các tiêu
chuẩn: chính trị, đạo đức và nghiệp vụ báo chí do Nhà nước quy định.
Các cơ quan chủ quản xây dựng lộ trình quy hoạch toàn diện báo mình
ngắn hạn và dài hạn đến 2015 và chiến lược đến 2020, đặc biệt chú trọng quy
hoạch cán bộ chủ chốt của báo, đài mình theo Luật Báo chí. Có kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt về lý luận chính trị , năng lực lãnh đạo của cán
bộ chủ chốt báo mình. Tổ chức tốt công tác kiểm tra thực hiện sự lãnh đạo
114
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
của Đảng đối với các báo và phẩm chất, năng lực của cán bộ lãnh đạo chủ
chốt của các báo.
Mỗi cơ quan báo, đài hàng năm cần rà soát lại đội ngũ cán bộ, phóng
biên, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt của các
báo, đài và đội ngũ cán bộ, phóng viên giỏi. Có cơ chế khuyến khích phát huy
sức sáng tạo của phóng viên như khen thưởng, động viên kịp thời. Có hình
thức xử phạt nghiêm khắc đối với những phóng viên vi phạm Luật Báo chí.
3.3.3.4. Tăng cường bồi dưỡng chính trị, gắn với nâng cao nghiệp vụ,
chuyên môn
Để làm tốt công tác định hướng dư luận xã hội đúng đắn, hiệu quả, cần
có kế hoạch bồi dưỡng chính trị và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ
cán bộ, phóng viên của các báo, đài Hà Nội. Từng báo, đài phải có kế hoạch
và tiến hành rà soát đội ngũ cán bộ, phóng viên của báo mình. Từ đó xác lập
kế hoạch đào tạo, nhằm nâng cao trình độ, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ,
phóng viên về cả nhận thức chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, đảm bảo “vừa
hồng vừa chuyên”.
Thứ nhất: Giáo dục và bồi dưỡng lý luận cơ bản một cách có hệ
thống (về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh), trang bị cho
phóng viên thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học;
trên cơ sở đó, nâng cao tầm nhận thức, khả năng phản ánh, phân tích, lý giải
thuyết phục, chính xác, kịp thời các sự kiện chính trị kinh tế, văn hoá xã hội
mới nảy sinh phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước cũng như trên
thế giới.
Những kiến thức lý luận này là nền tảng giúp phóng viên không
ngừng bồi dưỡng niềm tin, lý tưởng, kiên định lập trường chính trị của
Đảng. Đồng thời, đó cũng là điều kiện cơ bản để phóng viên nhận thức đúng
115
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
đắn về nội dung, tính chất, đặc điểm, bản chất, ý nghĩa, tác dụng và tính tất
yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô và đất nước.
Thứ hai: Bồi dưỡng một cách cơ bản, hệ thống về quan điểm, đường
lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, về con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặc biệt là hệ thống quan điểm của Đảng,
hành lang pháp lý của Nhà nước về công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đát nước đã được Đảng, Nhà nước ta xây dựng, khẳng định
trong hơn 20 năm qua, Nghị quyết Đại hội X và các nghị quyết của BCH
Trung ương... Nhóm tri thức quan trọng này sẽ giúp cho phóng viên có quan
điểm đúng khi xem xét, phân tích, giải thích quá trình vận động của các cơ
sở và các hiện tượng xã hội; có căn cứ để tỏ rõ thái độ ủng hộ, biểu dương
các nhân tố tích cực, phê phán các biểu hiện tiêu cực và thực hiện thông tin
đúng định hướng của Đảng, Nhà nước; có điều kiện, cơ sở để tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn góp phần giúp Đảng, Nhà nước, Thành phố hoàn thiện các
chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh
quốc phòng.
Thứ ba: Bồi dưỡng, nâng cao trình độ nhận thức thực tiễn về quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô, cụ thể là hiểu biết sâu sắc nội dung
Nghị quyết Đại hội thứ XIV của Đảng bộ thành phố; các chương trình công
tác lớn của Thành uỷ, các chỉ thị, nghị quyết của Hội đồng nhân dân Thành
phố, các chủ trương, chương trình kế hoạch của các cấp, các ngành... Đây là
nhóm kiến thức đặc biệt quan trọng giúp cho phóng viên thâm nhập thực tiễn,
bám sát cơ sở, thông tin phản ánh được những sự kiện “nóng hổi” của quá
trình vận động, đổi mới ở Thủ đô. Sự tiếp cận các chủ trương của Thành phố
và thực tiễn sinh động của các cơ sở chẳng những tạo điều kiện cho phóng
viên thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích của báo chí địa phương mà còn góp
phần quan trọng vào việc đưa nghị quyết vào cuộc sống.
116
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Thứ tư: Bồi dưỡng nâng cao trình độ khoa học, ngoại ngữ giúp phóng
viên có khả năng tiếp cận được sự phát triển của khoa học, công nghệ nói
chung, công nghệ làm báo hiện đại của thế giới nói riêng: khuyến khích, tạo
điều kiện để phóng viên học tập, phấn đấu đạt đủ trình độ đại học về báo chí
và chuyên ngành và có trình độ ngoại ngữ cần thiết đủ để khai thác thông tin
và giao tiếp với phóng viên nước ngoài. Thực tế đã chứng minh sẽ không thể
có cây bút giỏi nếu chỉ dừng lại ở trình độ hiện tại. Những hạn chế trong
thông tin, bình luận của các báo đài chủ yếu do phóng viên thiếu hiểu biết về
ngành nghề chuyên môn...
*
* *
Để thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, của Thành ủy Thành
phố Hà Nội về phát triển hệ thống truyền thông nói chung và báo chí Hà Nội
nói riêng; để tăng cường nâng cao chất lượng định hướng DLXH trên hệ
thống truyền thông của Thủ đô, thông qua hệ thống báo chí, cần bám sát
những quan điểm của Đảng, của Thành phố Hà Nội đối với báo chí. Xác định
những yêu cầu, thách thức đối với hệ thống truyền thông nói chung và báo chí
Hà Nội nói riêng trong cơ chế thị trường, trong đó có những yếu tố bên ngoài
và bên trong, nhằm đưa ra những phương hướng, giải pháp định hướng
DLXH phù hợp với tình hình thực tiễn. Bên cạnh những nội dung tuyên
truyền, định hướng mang tính nguyên tắc, báo chí Hà Nội cần có những giải
pháp cụ thể, phù hợp với thực tế xu hướng, nhu cầu tâm lý của công chúng.
Để nâng cao chất lượng định hướng DLXH trên hệ thống truyền thông, trực
tiếp là hệ thống báo chí, cần có những giải pháp không chỉ định hướng cho
báo chí mà còn cần những giải pháp xây dựng lực lượng những người làm
báo. Đội ngũ những người làm báo Thủ đô cần được định hướng về mặt tư
117
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
tưởng, chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, nhằm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ
của mình. Ngoài ra, cần có những giải pháp nhằm phát triển toàn diện hệ
thống thông tin đại chúng của Thủ đô, góp phần thực hiện tốt hơn chức năng
nhiệm vụ định hướng DLXHình trong cơ chế thị trường, trong giai đoạn hiện
nay. Những kiến nghị đưa ra được cụ thể hóa, để những phương hướng, giải
pháp có tính khả thi.
118
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
KẾT LUẬN
Kể từ khi thực hiện chủ trương đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế từ cơ
chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự quản
lý của Nhà nước, đã đem lại cho đất nước ta một diện mạo mới. Bên cạnh đó,
sự mở cửa thông thương, mở rộng quan hệ, giao lưu quốc tế, việc phá bỏ
“hàng rào” cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam… đã càng thúc đẩy sự hội
nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam không nằm ngoài xu hướng toàn cầu hoá
trên các mặt đời sống kinh tế, xã hội. Sự đổi mới, hội nhập, toàn cầu hoá ảnh
hưởng tới các lĩnhvực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, tác động lớn tới đời
sống của các tầng lớp nhân dân. Song song với những ưu việt của nó, là rất
nhiều mâu thuẫn nảy sinh, không ít những tiêu cực xảy ra và ngày càng gia
tăng, nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ và toàn diện.
Qua quá trình chuyển đổi nền kinh tế hoạt động theo cơ chế mới – cơ
chế thị trường, đã bộc lộ sự tác động, ảnh hưởng tới nhiều mặt đời sống xã
hội. Trong đó, lĩnh vực tư tưởng, DLXH là lĩnh vực chịu tác động, ảnh hưởng
rất lớn. Sự tác động tới tư tưởng, DLXH cũng theo 2 chiều hướng tích cực và
tiêu cực. Nếu không có sự giám sát, định hướng rõ ràng sẽ dễ dẫn đến những
hậu quả nghiêm trọng.
Báo chí nước ta nói chung và báo chí Hà Nội nói riêng, có vai trò chủ
đạo trong hệ thống truyền thông đại chúng. Báo chí có tác động, ảnh hưởng
rất lớn tới việc hình thành và định hướng DLXH. Thủ đô là trung tâm đầu não
về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, là nơi diễn ra nhiều luồng tư tưởng
khác nhau, đồng thời cũng chịu nhiều tác động, ảnh hưởng từ cơ chế thị
trường, từ sự hội nhập, từ nhiều vấn đề trong và ngoài nước... Do vậy, việc
119
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
định hướng DLXH trên hệ thống truyền thông nói chung và hệ thống báo chí
nói riêng của Thủ đô là rất quan trọng.
Đảng, Nhà nước và Thành phố Hà Nội luôn coi trọng việc định hướng
DLXH thông qua hệ thống truyền thông, nhất là hệ thống báo chí. Song, sự
cần thiết và định hướng như thế nào đối với DLXH thông qua hệ thống truyền
thông, cụ thể là qua hệ thống báo chí ở Thủ đô là vấn đề không đơn giản và
hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường, nhất là trong giai đoạn hội
nhập sâu rộng như hiện nay.
Đề tài “Vấn đề định hướng dư luận xã hội trên hệ thống truyền
thông Thủ đô trong cơ chế thị trường” nghiên cứu những vấn đề lý luận về
DLXH, về truyền thông, báo chí, nêu lên mối quan hệ giữa chúng và vai trò
của truyền thông, báo chí trong quá trình hình thành và định hướng DLXH,
nhất là trong cơ chế thị trường. Việc nghiên cứu được thực hiện thông qua
khảo sát, đánh giá chất lượng nội dung thông tin, định hướng DLXH dưới hai
hình thức: Tổ chức nghiên cứu ý kiến công chúng về các chương trình, thông
tin của báo và của đài; phân tích đánh giá những nội dung cụ thể qua các bài
viết, chương trình. Qua đó, thấy được sự cần thiết, những vấn đề đặt ra đối
với việc định hướng DLXH trên hệ thống truyền thông Thủ đô.
Đề tài nghiên cứu quá trình định hướng DLXH trên 4 loại hình báo chí
(báo in, báo điện tử, phát thanh, truyền hình) ở 2 cơ quan báo chí của Hà Nội
là: Báo HNM và đài PT-TH HN, vì đây là 2 cơ quan báo chí lớn nhất của Hà
Nội, có tác động và ảnh hưởng lớn tới việc hình thành và định hướng DLXH
trên địa bàn Thủ đô. Thời gian nghiên cứu được giới hạn từ năm 2004 đến hết
tháng quý III/2008.
Bên cạnh việc khảo sát, nghiên cứu những thông tin tuyên truyền, định
hướng qua những bài viết, chương trình của báo HNM và đài PT-TH HN, đề
tài đã tiến hành khảo sát ý kiến công chúng đối với việc định hướng thông tin
120
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
của các báo, đài trên, đề tài còn nghiên cứu về xu hướng, nhu cầu thông tin
của công chúng trong cơ chế thị trường. Qua đó, đề tài đã tiến hành phân tích,
nghiên cứu đưa ra những giải pháp phù hợp với thực tiễn cho việc định hướng
DLXH trên hệ thống truyền thông của Thủ đô. Đồng thời, đề tài đề xuất kiến
nghị với Thành phố, với cơ quan chủ quản, với các cơ quan quản lý báo chí
(Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, Văn phòng UBND Thành phố, sở Thông
tin và Truyền thông, Hội nhà báo Thành phố) để thực hiện những giải pháp
đó, nhằm nâng cao chất lượng định hướng DLXH trong cơ chế thị trường trên hệ thống truyền thông của Thủ đô hiện nay.
121
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Thanh Bình, Báo chí truyền thông và kinh tế - văn hóa – xã hội
(NXB Văn hóa – Thông tin Hà Nội 2005)
[2] Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc, Mấy vấn đề đạo
đức trong điền kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay (NXB Chính
trị Quốc gia 2003)
[3] Vũ Hiền, Chống “Diễn biến hoà bình” trên các phương tiện thông tin
đại chúng (NXB Chính trị Quốc gia 2000)
[4] Vũ Đình Hoè, Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo và quản
lý (NXB Chính trị Quốc gia 2000)
[5] Võ Đại Lược, Kinh tế Việt Nam đổi mới và phát triển (NXB Thế giới
2007)
[6] Mai Quỳnh Nam, Những vấn đề xã hội học trong công cuộc đổi mới
(NXB Chính trị Quốc gia 2006)
[7] Trần Quang Nhiếp, Định hướng hoạt động và quản lý báo chí trong
điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay (NXB Chính trị Quốc
gia - 2002)
[8] Phan Quang, Về diện mạo báo chí Việt Nam (NXB Chính trị Quốc gia
2001)
[9] Nguyễn Văn Sanh, Giáo trình đại cương về xã hội học (NXB Tài chính
2008)
[10] Vũ Duy Thông, Mác – Ănghen – Lênin, Hồ Chí Minh bàn về báo chí
xuất bản (NXB Chính trị Quốc gia 2004)
[11] Lưu Minh Trị, Một số vấn đề về công tác tư tưởng và nghiên cứu dư
luận xã hội ở Hà Nội (NXB Chính trị Quốc gia 1997)
[12] Báo chí trong kinh tế thị trường (NXB Thông tấn 2003)
122
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
[13] Dự thảo Lịch sử báo chí Hà Nội 1905 – 2000 – BCĐ Kỷ niệm 1000
năm Thăng Long – Hà Nội, Hội Nhà báo Thành phố Hà Nội (NXB
Chính trị Quốc gia 2004)
[14] Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới (1986 - 2006) - Trường Đại học
KTQD (NXB Đại học Kinh tế quốc dân 2006)
[15] Luật Báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành (NXB Chính trị Quốc
gia 2006)
[16] Những vấn đề lý luận và phương pháp tâm lý học (NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội 2000)
[17] Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng - Ban Tư tưởng văn hoá
TW, Hội Nhà báo Việt Nam (NXB Chính trị Quốc gia 2004)
[18] Tư tưởng Hồ Chí Minh về Báo chí cách mạng – Ban Tư tưởng Văn hoá
Trung ương (Nhà xuất bản chính trị Quốc gia 2004)
[19] Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII Đảng bộ Thành phố Hà Nội -
2001
[20] Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ Thành phố Hà Nội -
2006
[21] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (NXB Chính trị Quốc
gia 2001
[22] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (NXB Chính trị Quốc
gia 2006)
[23] Tạp chí điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 12/2007
[24] Tạp chí điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 3/2006
[25] Tạp chí cộng sản số 14 (5/2002)
[26] Tạp chí cộng sản số 21 (11/2001)
[27] Tạp chí cộng sản số 22 (11/2001)
[28] Tạp chí cộng sản số 9 (5/2005)
123
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
[29] Tạp chí cộng sản số 12 (6/2004)
[30] Tạp chí cộng sản số 15 (8/2004)
[31] Tạp chí Người làm báo (3/2002)
[32] Tạp chí Người làm báo (4/2002)
[33] Tạp chí Xã hội học số 1 – 2008
[34] Tạp chí Xã hội học số 2 - 2001
- Các văn bản:
+ Chỉ thị 22 - Bộ Chính trị (17/10/1997)
+ Nghị quyết TW5, Khoá VIII về xây dựng nền Văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
+ Thông báo Kết luận số 162/TB-TW 1/10/2006 của Bộ Chính trị về một
số giải pháp tăng cường, lãnh đạo và quản lý báo chí trong tình hình
hiện nay
+ Thông báo Kết luận 41/TB-TW 1/2/2004 của Bộ Chính trị về một số
biện pháp tăng cường lãnh đạo, quản lý báo chí.
+ Quy định 75 QĐ-TW về bổ nhiệm, miễn nhiệm đội ngũ lãnh đạo cơ
quan báo chí
+ Quy định 165 QĐ-TW của Ban Bí thư (21/4/2006) về chức năng,
nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong cơ quan báo chí.
+ Nghị quyết Trung ương 5, Khoá X (5/2007) về công tác tư tưởng lý
luận cho báo chí trước yêu cầu mới.
+ Báo cáo số 34 BC/TTVH (ngày 4/1/2007) của Ban Tư tưởng Văn hoá
Trung ương, Sơ kết 2 năm thực hiện Thông báo Kết luận 162 – TB/TW của
Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo, quản lý báo chí.
+ Báo cáo số 43 CV/BCS (ngày 3/1/2007) của Bộ Văn hoá – Thông tin
về Sơ kết 2 năm thực hiện Thông báo kết luận số 162-TB/TW của Bộ
124
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí
Chính trị về một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình
hình hiện nay.
+ Quyết định 153 QĐ/TW (ngày 21/4/2008) của Ban Chấp hành Trung
ương, ban hành Quy chế phối hợp công tác giữa Ban Tuyên giáo Trung
ương với ban cán sự đảng, đoàn các bộ, ngành các cơ quan Trung ương
thuộc lĩnh lực tuyên giáo và các cơ quan liên quan.
+ Quyết định 155 QĐ/TW (ngày 23/4/2008) của Ban Chấp hành Trung
ương, ban hành Quy định về sự phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung
ương, Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông, Đảng đoàn Hội
Nhà báo Việt Nam và các cơ quan Đảng, Nhà nước trong công tác chỉ
đạo, quản lý báo chí.
+ Quyết định 157 QĐ/TW (ngày 29/4/2008) của Ban Chấp hành Trung
ương, ban hành Quy định về chỉ đạo, định hướng chính trị, tư tưởng,
nhất là đối với các vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm trong nội
dung thông tin của báo chí.