intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vai trò và vị trí của Phật giáo trong đời sống chính trị Nhật Bản thời cổ - trung đại

Chia sẻ: ViHitachi2711 ViHitachi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

87
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thế kỉ VI được các nhà nghiên cứu xem là mốc Phật giáo chính thức du nhập vào Nhật Bản. Được sự nâng đỡ của chính quyền, Phật giáo đã phát triển nhanh chóng và thu hút được đông đảo các tầng lớp cư dân trong xã hội Nhật Bản. Bài viết tập trung phân tích để chỉ ra vai trò và vị trí của Phật giáo trong đời sống chính trị Nhật Bản thời cổ - trung đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vai trò và vị trí của Phật giáo trong đời sống chính trị Nhật Bản thời cổ - trung đại

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br /> Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2, pp. 110-115<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0017<br /> <br /> VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CỦA PHẬT GIÁO<br /> TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ NHẬT BẢN THỜI CỔ - TRUNG ĐẠI<br /> Trần Nam Trung<br /> <br /> Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> Tóm tắt. Thế kỉ VI được các nhà nghiên cứu xem là mốc Phật giáo chính thức du nhập<br /> vào Nhật Bản. Được sự nâng đỡ của chính quyền, Phật giáo đã phát triển nhanh chóng và<br /> thu hút được đông đảo các tầng lớp cư dân trong xã hội Nhật Bản. Sự phát triển mạnh mẽ<br /> của Phật giáo ở Nhật Bản là điều kiện thuận lợi để tôn giáo này không ngừng phát huy ảnh<br /> hưởng sâu rộng của nó trong đời sống chính trị Nhật Bản. Bài báo này sẽ phân tích để chỉ<br /> ra vai trò và vị trí của Phật giáo trong đời sống chính trị Nhật Bản thời cổ - trung đại.<br /> Từ khóa: Nhật Bản, thời kì cổ - trung đại, Phật giáo, vai trò và vị trí.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> Nghiên cứu về tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng ở Nhật Bản thời cổ - trung đại đã thu<br /> hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Qua các công trình ấy, các<br /> tác giả đã ít nhiều đề cập đến vai trò, vị trí của tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng trong các<br /> lĩnh vực văn hóa, chính trị, tư tưởng... ở Nhật Bản. Nhà nghiên cứu I Shida Kazuyoshi khi đánh giá<br /> về vai trò của Phật giáo đối với văn hóa Nhật Bản cho rằng Phật giáo có vị trí còn lớn hơn cả Nho<br /> giáo và Âm dương đạo [2;122]. George Sansom ví Phật giáo như con chim thần kì mang đến đất<br /> Nhật những nhân tố mới mà tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc Nhật chưa đủ sức làm được [6;101].<br /> Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Kim nhìn nhận Phật giáo là phương tiện quan trọng nhất trong việc<br /> truyền tải văn minh Trung Hoa vào Nhật Bản [3;42]. Kitagawa trong công trình nghiên cứu về tôn<br /> giáo Nhật Bản bước đầu chỉ ra mối quan hệ và vị trí của Phật giáo trong đời sống chính trị Nhật<br /> Bản [4;19].Tác giả Phan Hải Linh khi nghiên cứu về trang viên cho rằng Phật giáo đã trở thành<br /> một trong ba thế lực phong kiến lớn nhất trong xã hội Nhật Bản [5;78]. Tác giả Dương Ngọc Dũng<br /> nhận định mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị ở Nhật là sợi chỉ xuyên suốt minh họa cho sự<br /> hình thành bản lai diện mục của tất cả các tôn giáo ở đây [1;59]... Tuy nhiên, chưa có tác giả nào<br /> nghiên cứu một cách hệ thống về vai trò và vị trí của Phật giáo trong đời sống chính trị Nhật Bản<br /> thời cổ - trung đại. Trên cơ sở kế thừa thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, tác giả bài báo<br /> sẽ cố gắng làm rõ hơn vấn đề này.<br /> <br /> Ngày nhận bài: 15/12/2015. Ngày nhận đăng: 10/3/2016<br /> Liên hệ: Trần Nam Trung, e-mail: halantrung@gmail.com<br /> <br /> 110<br /> <br /> Vai trò và vị trí của Phật giáo trong đời sống chính trị Nhật Bản thời cổ - trung đại<br /> <br /> 2.<br /> 2.1.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị Nhật Bản thời cổ - trung đại<br /> <br /> Từ khi chính thức du nhập (thế kỉ VI) đến thế kỉ XIX, Phật giáo đã thiết lập mối quan hệ<br /> chặt chẽ với chính quyền Nhật Bản và để lại những ảnh hưởng nhiều mặt trong đời sống chính trị<br /> của quốc gia này. Thông qua việc tham gia vào đời sống chính trị đất nước, Phật giáo đã thể hiện<br /> vai trò quan trọng trong đời sống chính trị Nhật Bản.<br /> Thứ nhất: Phật giáo là nhân tố quan trọng để thống nhất quốc gia và củng cố chính quyền<br /> phong kiến Nhật Bản trong những thời kì lịch sử nhất định. Vai trò này của Phật giáo nổi bật nhất<br /> trong các thế kỉ VI - VII, khi Nhật Bản đang cố gắng xây dựng một nhà nước phong kiến trung<br /> ương tập quyền theo mô hình Trung Quốc và thời Mạc phủ Tokugawa, khi Phật giáo được sử dụng<br /> như một phương tiện quan trọng để chống lại Thiên Chúa giáo và kiểm soát người dân một cách<br /> chặt chẽ. Sở dĩ Phật giáo trở thành nhân tố để thống nhất Nhật Bản là do bối cảnh lịch sử của nước<br /> Nhật cùng với sức mạnh tự thân của tôn giáo này quyết định. Vào thế kỉ VI, tổ chức bộ máy nhà<br /> nước của Nhật Bản còn hết sức lỏng lẻo mà bản chất chỉ là sự tập hợp của các tiểu quốc nhỏ. Trong<br /> khi đó, sức mạnh của Trung Quốc và các nước trên bán đảo Triều Tiên ngày càng tăng khiến Nhật<br /> Bản vừa ngưỡng mộ, vừa lo ngại khi nhận thấy sự yếu kém của mình. Tín ngưỡng đa thần của các<br /> thị tộc lúc đó là cơ sở cho việc duy trì tình trạng phân tán và trở thành lực cản lớn đối với việc xây<br /> dựng nhà nước thống nhất tập quyền. Trong bối cảnh đó, các nhà lãnh đạo cấp tiến đã nhận thấy:<br /> muốn thống nhất đất nước thì trước hết phải thống nhất về tín ngưỡng và Phật giáo với những ưu<br /> thế so với tín ngưỡng bản địa (tư tưởng triết lí sâu sắc, giáo lí kinh điển đồ sộ và lễ nghi hấp dẫn)<br /> đã được giới cầm quyền Nhật Bản lựa chọn trở thành chất keo để thống nhất tín ngưỡng khi đó.<br /> Việc du nhập Phật giáo vào Nhật Bản không những góp phần củng cố sự thống nhất tín ngưỡng<br /> quốc gia mà còn dẫn đến sự ra đời của nhà nước tập quyền theo mô hình Trung Quốc. Đây là sự<br /> kiện có ý nghĩa rất lớn, đánh dấu bước chuyển đổi của mô hình nhà nước Nhật Bản từ liên minh<br /> của các tiểu quốc sang nhà nước tập trung thống nhất. Sau khi cải cách Taika được thực hiện năm<br /> 646, cùng với Thần đạo và Nho giáo, Phật giáo tiếp tục được chính quyền ủng hộ và sử dụng như<br /> một phương tiện để củng cố sự thống nhất nhân tâm của cư dân trong nước. Các tông phái Phật<br /> giáo thời Nara, Heian; Thiền tông thời Kamakura đều trở thành Phật giáo trấn quốc, gắn bó và<br /> phục vụ cho chính quyền. Trong lịch sử Nhật Bản, chưa có thời kì nào mà Phật giáo lại gắn bó mật<br /> thiết đồng thời cũng bị chính quyền kiểm soát chặt chẽ như thời Tokugawa. Với việc ban hành chế<br /> độ đàn gia (danka seido) quy định mọi người dân phải đăng kí hộ khẩu tại một ngôi chùa ở địa<br /> phương và vĩnh viễn không được rời bỏ nơi cư trú của mình nếu không được phép của vị sư Trụ trì<br /> ngôi chùa đó, Phật giáo đã bị Mạc phủ biến thành cánh tay đắc lực của nhà nước nhằm kiểm soát<br /> và khống chế người dân trong trật tự mà chính quyền mong muốn. Chế độ đàn gia là một trong<br /> những nhân tố đã góp phần duy trì, củng cố sự thống trị của chính quyền Mạc phủ Tokugawa trong<br /> gần 3 thế kỉ.<br /> Thứ hai: Phật giáo là một thế lực lớn, tham gia vào các cuộc đấu tranh để tranh giành<br /> quyền lực ở Nhật Bản. Cùng với sự hình thành và phát triển của chế độ phong kiến Nhật Bản, Phật<br /> giáo cũng không ngừng mở rộng ảnh hưởng và trở thành một thế lực phong kiến lớn. Chính sách<br /> nâng đỡ của nhà nước là một trong những nguyên nhân chính tạo điều kiện để Phật giáo tăng cường<br /> thế lực và can dự ngày càng sâu hơn vào các hoạt động của chính quyền. Sức mạnh của nhiều tông<br /> phái Phật giáo vốn bắt nguồn từ quyền sở hữu của nó đối với hệ thống trang viên rộng lớn. Ngay<br /> trong giai đoạn đầu hình thành chế độ trang viên ở Nhật Bản, các chùa lớn như Todaiji (Đông Đại<br /> tự), Daianji (Đại An tự), Horyuji (Pháp Long tự)... thông qua các con đường khác nhau đã nắm<br /> trong tay hàng loạt những trang viên lớn nhỏ. Theo nghiên cứu của Phan Hải Linh, chùa Đông Đại<br /> 111<br /> <br /> Trần Nam Trung<br /> <br /> có hơn 100 sở lãnh với tổng diện tích hơn 4000 ha; chùa Đông có khoảng 70 sở lãnh, tổng diện<br /> tích hơn 2000ha; chùa Hưng Phúc có 150 sở lãnh, tổng diện tích khoảng 2700 ha [5;144]. Để bảo<br /> vệ trang viên của mình, các chùa đã tự vũ trang, làm xuất hiện tầng lớp tăng binh đông đảo. Tầng<br /> lớp này cùng với Samurai được xem là anh em song sinh trong lịch sử Nhật Bản thời trung thế. Số<br /> lượng tăng binh của các chùa lớn nhiều thời điểm lên đến hàng vạn người và thực sự là một đối thủ<br /> đáng gờm của cả triều đình, Mạc phủ cũng như các thế lực phong kiến hùng mạnh khác. Là một<br /> thế lực phong kiến lớn, trong bối cảnh xã hội Nhật Bản thường xuyên khủng hoảng, các tông phái<br /> Phật giáo đã bị lôi kéo vào trong vòng xoáy của các cuộc đấu tranh, xung đột để tranh giành quyền<br /> lực. Từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XVI, rất nhiều cuộc xung đột vũ trang giữa lực lượng Phật giáo<br /> với lực lượng của triều đình, Mạc phủ và giữa các tông phái Phật giáo với nhau đã xảy ra. Nhiều<br /> khi, với thế lực của mình, các chùa lớn đã buộc triều đình hay Mạc phủ phải nhân nhượng trước<br /> những yêu sách của nó. Tất nhiên, trong nhiều trường hợp khác, triều đình hay Mạc phủ đã tấn<br /> công, đàn áp và gây ra rất nhiều tổn thất cho lực lượng của phía Phật giáo. Cũng cần lưu ý là, thông<br /> thường chỉ có các chùa sở hữu nhiều trang viên rộng lớn thì mới có đủ điều kiện để tự vũ trang,<br /> duy trì được một lực lượng tăng binh lớn và phát triển thành thế lực phong kiến. Các chùa thuộc<br /> loại này thường là của Thiên Đài tông, Chân Ngôn tông và Thiền tông. Tuy nhiên, nhiều chùa mặc<br /> dù không sở hữu các trang viên rộng lớn, nhưng do thu hút được đông đảo tín đồ (các chùa thuộc<br /> Tịnh Độ tông, Nhật Liên tông, Tịnh Độ Chân tông) nên thế lực cũng rất lớn. Sức mạnh cuộc nổi<br /> dậy Pháp Hoa của tín đồ Nhật Liên tông năm 1532 và cuộc nổi dậy Nhất Hướng của tín đồ Tịnh<br /> Độ Chân tông năm 1488 là những minh chứng tiêu biểu. Như vậy, nguồn sức mạnh của các tông<br /> phái Phật giáo có thể khác nhau, song Phật giáo Nhật Bản thời trung đại đã trở thành “một trong<br /> ba thế lực phong kiến lớn nhất trong xã hội mà các sử gia Nhật Bản thường gọi là Kemon (quyền<br /> môn)” [5;78]. Việc các thế lực Phật giáo tham gia trong các cuộc đấu tranh để tranh giành quyền<br /> lực khiến cho tình trạng bất ổn xã hội càng thêm trầm trọng. Từ khía cạnh này mà nói, Phật giáo<br /> Nhật Bản nhiều khi lại trở thành nhân tố mang tính tiêu cực đối với trật tự xã hội.<br /> Thứ ba: Cá nhân các nhà sư, thông qua hoạt động và mối quan hệ của họ có ảnh hưởng lớn<br /> đến đời sống chính trị đất nước. Ảnh hưởng của các tông phái Phật giáo trong đời sống chính trị<br /> trước hết thông qua hoạt động cụ thể của cá nhân các nhà sư của tông phái đó. Khi du nhập vào<br /> Nhật Bản, để có thể tồn tại và phát triển thuận lợi trong điều kiện Thần đạo đã có vị trí vững chắc<br /> thì sự nâng đỡ của nhà nước đối với Phật giáo có ý nghĩa rất quan trọng. Muốn giành được sự ủng<br /> hộ từ chính quyền thì con đường gần nhất và hiệu quả nhất là thu phục lòng tin của giới cầm quyền.<br /> Các nhà sư Nhật ngay từ những buổi đầu, với tài năng và tâm huyết của mình đã làm rất tốt điều<br /> này. Nhờ sự ủng hộ của chính quyền, Phật giáo đã nhanh chóng có được vị trí chính thức ở Nhật<br /> Bản. Nhiều nhà sư được các Thiên hoàng, Tướng quân và các lãnh đạo cao cấp của chính quyền<br /> kính trọng và tin tưởng. Trong thời Asuka và Nara, các học vấn tăng được triều đình liên tục gửi<br /> sang Trung Quốc du học và khi về nước đã có nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước<br /> và phát triển Phật giáo. Công lao của các nhà sư đối với đất nước đã được ghi nhận, bằng chứng<br /> là ngay từ thế kỉ VII, nhà nước đã coi Phật giáo là quốc giáo. Các nhà sư như Nguyên Phương,<br /> Đạo Kính trước khi phạm tội từng được triều đình trọng vọng và có ảnh hưởng lớn tới mức có thể<br /> khuynh đảo cả triều đình cuối thời Nara. Thời kì Heian, xuất hiện hai nhân vật có tầm ảnh hưởng<br /> rất lớn trong toàn bộ lịch sử Phật giáo Nhật Bản là Không Hải và Tối Trừng. Hai nhà sư này đều<br /> nhận được sự tin tưởng và kính trọng của các Thiên hoàng nên đã được phép lập ra Chân Ngôn<br /> tông và Thiên Đài tông, hai tông phái có thế lực và ảnh hưởng lớn trong hàng loạt tông phái Phật<br /> giáo Nhật Bản. Sau khi mất, hai ông được triều đình phong danh hiệu Đại sư, danh hiệu cao nhất<br /> và sớm nhất trong lịch sử Phật giáo Nhật Bản. Thời Kamakura và Muromachi, các Thiền sư được<br /> giới võ sĩ trọng vọng. Nhiều Thiền sư tham gia vào việc hoạch định chính sách của chính quyền,<br /> 112<br /> <br /> Vai trò và vị trí của Phật giáo trong đời sống chính trị Nhật Bản thời cổ - trung đại<br /> <br /> thậm chí trở thành cố vấn của Tướng quân, tiêu biểu như trường hợp của Thất Đế Đại Sư Mộng<br /> Song Sơ Thạch. Thời Tokugawa, mặc dù chính quyền đề cao Tống Nho hơn Phật giáo, nhưng ảnh<br /> hưởng của các nhà sư đối với giới lãnh đạo đất nước vẫn rất lớn. Các nhà sư Sùng Truyền, Thiên<br /> Hải đã tích cực tham gia các hoạt động chính trị, ngoại giao và được tôn xưng là Hắc Y Tể Tướng.<br /> Cũng có trường hợp, hoạt động của cá nhân nhà sư đã gây ra những tác động tiêu cực làm ảnh<br /> hưởng xấu tới hình ảnh của giới Phật giáo, song nhìn một cách tổng quát, các trường hợp tiêu cực<br /> chỉ là thiểu số. Trong lịch sử Phật giáo Nhật Bản thời trung đại, có rất nhiều nhà sư đã trở thành<br /> tấm gương cho tinh thần xả thân vì đạo pháp và dân tộc. Bằng tài năng, tâm huyết của mình, các<br /> nhà sư ấy đã có ảnh hưởng lớn đối với bộ phận lãnh đạo đất nước, để lại những dấu ấn sâu sắc<br /> trong đời sống chính trị Nhật Bản thời phong kiến.<br /> <br /> 2.2.<br /> <br /> Vị trí của Phật giáo trong đời sống chính trị Nhật Bản thời cổ - trung đại<br /> <br /> Trong đời sống chính trị Nhật Bản, sự gắn bó, kết hợp giữa Thần đạo, Phật giáo và Nho<br /> giáo rất chặt chẽ, vì thế để chỉ ra vị trí của Phật giáo thật không đơn giản và tất yếu phải đặt trong<br /> tương quan so sánh với Thần đạo và Nho giáo. Rõ ràng là trước khi Phật giáo, Nho giáo du nhập<br /> vào Nhật Bản, tín ngưỡng bản địa đã có vị trí rất quan trọng trong đời sống chính trị đất nước khi<br /> nó đề cao vai trò của dòng họ Thiên hoàng như là dòng họ có sứ mệnh vĩnh viễn cai trị thế gian với<br /> tư cách là hậu duệ của nữ thần Mặt Trời. Trong thực tế lịch sử, có nhiều thời điểm tuy Thiên hoàng<br /> không có thực quyền nhưng về nguyên tắc, địa vị chính thống của Thiên hoàng là không thể thay<br /> đổi. Vị trí của Thần đạo trong bộ máy chính quyền đạt đến đỉnh cao vào thế kỉ VII khi Jinggykan<br /> (Thần kì Quan), cơ quan phụ trách các nghi lễ Thần đạo được xếp ngang hàng với Daijokan (Thái<br /> Chính Quan, gồm 8 bộ, đảm đương việc chính sự), đây là điều mà cả Phật giáo hay Nho giáo chưa<br /> khi nào đạt tới. Tuy nhiên, cùng với sự suy yếu của nhà nước luật lệnh, địa vị của Thần kì Quan<br /> trong bộ máy chính quyền cũng suy giảm dần và sau đó bị loại bỏ. Cơ quan này chỉ được phục hồi<br /> trở lại khi cuộc duy tân Minh Trị diễn ra năm 1868. Trong khi đó, vị trí của Phật giáo trong đời<br /> sống chính trị Nhật Bản ngày càng gia tăng, nhất là từ thế kỉ VIII, khi tôn giáo này đạt tới vị thế<br /> như là quốc giáo của Nhật Bản. Khi Phật giáo, Nho giáo cùng nền văn hóa tiên tiến của đại lục<br /> truyền đến Nhật Bản, nó đã gây ra những biến động lớn trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa,<br /> xã hội của quốc gia này. Cùng với Thần đạo, Phật giáo và Nho giáo được tiếp nhận để tạo ra cấu<br /> trúc đa tôn giáo nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng một hệ thống chính trị trung ương tập quyền.<br /> Điều này được thể hiện rõ nét ngay trong Hiến pháp 17 điều của Thái tử Shotoku năm 604. Trong<br /> sự kết hợp này, nếu Thần đạo củng cố cho địa vị hợp pháp vĩnh cửu của Thiên hoàng, Nho giáo<br /> cung cấp tư tưởng trung quân và cấu trúc của bộ máy nhà nước tập quyền thì Phật giáo được xem<br /> là sức mạnh để bảo vệ cho sự trường tồn của quốc gia. Nhà nghiên cứu Kitagawa đã nhận thấy “tôn<br /> giáo Nhật Bản rốt cuộc cũng tìm kiếm một “mô hình thần quyền vĩnh cửu” từ một luận thuyết về<br /> thể chế xã hội, tôn giáo, xã hội, và văn hóa...” [4;19]. Ông cũng chỉ rõ, về vấn đề này trong lịch<br /> sử Nhật Bản có ba thuyết chính là thuyết Ritsuryo vào thế kỉ VII - VIII; thuyết Tokugawa (1603 1868); thuyết Minh Trị (1868 - 1945). Trong thuyết Ritsuryo, có ba nguyên lí cơ bản: thứ nhất, sự<br /> phụ thuộc tương hỗ giữa Vương pháp với Phật pháp. Thứ hai, thuyết lưỡng Thần đạo - Phật giáo;<br /> thứ ba, niềm tin các vị Thần của Nhật Bản là hiện thân của các Phật và Bồ tát Ấn Độ. Hệ thống luật<br /> lệnh này, theo Kitagawa, mặc dù phải trải qua một vài thay đổi về hình thức nhưng hệ tư tưởng của<br /> nó vẫn được duy trì cho đến cuộc chiến tranh Onin (1467 - 1477). Khác với quan điểm về vương<br /> quyền thần thánh theo Thần đạo của Ritsuryo, trong học thuyết Tokugawa, cơ sở của vương quyền<br /> là dựa trên những nguyên lí Tống Nho. Tuy nhiên, trong học thuyết này, nguyên tắc về cơ cấu gồm<br /> Thần đạo và Phật giáo vẫn hoạt động và quan điểm các Thần Nhật Bản là hiện thân của các vị<br /> Phật và Bồ Tát Ấn Độ vẫn được tôn trọng [7;23]. Mặc dù Tống Nho được xem là nguyên tắc chỉ<br /> 113<br /> <br /> Trần Nam Trung<br /> <br /> đạo đường lối chính thức của quốc gia, song các tổ chức Phật giáo lại được chính quyền Tokugawa<br /> sử dụng như một lực lượng để kiểm soát dân chúng và bảo vệ cho chế độ. Khi cải cách Minh Trị<br /> diễn ra, biện pháp đầu tiên mà chính quyền tiến hành là giải tán mô hình lưỡng Thần - Phật già<br /> cỗi, tách Thần đạo ra khỏi Phật giáo và thành lập Thần đạo nhà nước. Đặc điểm của cải cách Minh<br /> Trị, theo Kitagawa “là kết hợp tạm thời ba yếu tố: (1) các giá trị và nguyên tắc Khổng giáo đã tạo<br /> ra tính hợp lí cho xã hội Tokugawa; (2) tư tưởng về Thiên hoàng thiêng liêng, dân tộc thần thánh,<br /> và sự thống nhất tổ chức hành chính tôn giáo và chính trị...; (3) tri thức và văn hóa mới du nhập<br /> từ phương Tây” [4;226]. Có thể thấy, cả Thần đạo, Phật giáo, Nho giáo đã gắn bó chặt chẽ với đời<br /> sống chính trị Nhật Bản trong nhiều thời kì lịch sử. Các nhân tố này vừa đấu tranh, vừa hợp tác,<br /> bổ sung cho nhau trong hệ thống chính trị quốc gia. Trong các nhân tố này, Thần đạo là tôn giáo<br /> gắn bó lâu dài và có vị trí quan trọng nhất trong đời sống chính trị Nhật Bản. Bên cạnh đó, Phật<br /> giáo và Nho giáo cũng nổi lên trong những thời kì nhất định. Không thể phủ nhận được một thực<br /> tế là việc tiếp nhận Phật giáo, Nho giáo đã dẫn đến sự chuyển đổi của mô hình nhà nước Nhật Bản<br /> trong các thế kỉ VI, VII. Mặt khác, từ thế kỉ VIII, khi nhà nước luật lệnh suy yếu thì vị trí ưu trội<br /> của Thần đạo cũng bắt đầu suy giảm và vị trí của Phật giáo dần được nâng cao. Từ thế kỉ VIII đến<br /> XIX, Phật giáo tỏ ra lấn lướt hơn Thần đạo trong các hoạt động có liên quan đến vấn đề chính trị.<br /> Điều này bắt nguồn từ sức mạnh bản thân của Phật giáo cũng như những biến động lịch sử đem<br /> lại. Đánh giá về vị trí của Phật giáo trong lịch sử Nhật Bản, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trung<br /> thế là thời kì của Phật giáo, điều này cũng đúng với vị trí của Phật giáo trong đời sống chính trị<br /> Nhật Bản. Từ thời Tokugawa, tuy Phật giáo vẫn gắn bó chặt chẽ với chính quyền và có được quyền<br /> lực lớn, nhưng vị trí của nó đã sụt giảm so với Tống Nho khi chính quyền Mạc phủ lựa chọn Tống<br /> Nho là hệ tư tưởng chính thống của nhà nước. Chính vì vậy, nhiều ý kiến đánh giá, cận thế là thời<br /> kì của Tống Nho trong lịch sử Nhật Bản, đặc biệt trong lĩnh vực tư tưởng và chính trị. Như vậy,<br /> trong các thời kì lịch sử khác nhau, Thần đạo, Phật giáo và Nho giáo có những vị trí khác nhau<br /> trong đời sống chính trị Nhật Bản. Trước thế kỉ VI, vị trí độc tôn là của Thần đạo. Trong các thế<br /> kỉ VI, VII, Thần đạo vẫn có vị trí cao nhất trong bộ máy chính quyền, mặc dù Phật giáo và Nho<br /> giáo đã được tiếp nhận. Từ thế kỉ VIII đến thế kỉ XVI, trong khi ảnh hưởng và vị trí của Thần đạo<br /> trong lĩnh vực chính trị bị suy giảm thì vị trí của Phật giáo lại được nâng cao và duy trì sự lấn lướt<br /> so với Thần đạo trong nhiều thế kỉ. Từ thế kỉ XVII, Tống Nho lại vươn lên chiếm vị trí cao nhất<br /> trong chính quyền Mạc phủ. Sự đảo lộn diễn ra vào cuối thế kỉ XIX khi cuộc Minh Trị duy tân tiến<br /> hành và vị trí cao nhất của Thần đạo lại được phục hồi. Điều đáng chú ý là, trong đời sống chính<br /> trị Nhật Bản, giữa Thần đạo, Phật giáo và Nho giáo đã từng diễn ra các cuộc đấu tranh, song các<br /> cuộc đấu tranh ấy không dẫn đến việc thủ tiêu một tôn giáo nào. Nét chủ đạo nổi lên vẫn là sự điều<br /> chỉnh và kết hợp nhằm bổ khuyết cho nhau của các tôn giáo để cùng tồn tại trong cấu trúc chính<br /> trị được chính quyền định hướng. Nếu “mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị trong lịch sử văn<br /> hóa Nhật Bản là sợi chỉ xuyên suốt minh họa cho sự hình thành bản lai diện mục của tất cả mọi<br /> tôn giáo phát triển trên đảo quốc Phù Tang” [1;59] thì Phật giáo chính là một phần quan trọng của<br /> sợi chỉ màu lấp lánh này.<br /> <br /> 3.<br /> <br /> Kết luận<br /> <br /> Được sự ủng hộ của tầng lớp cầm quyền Nhật Bản, từ thế kỉ VI, Phật giáo đã chính thức<br /> được du nhập và nhanh chóng phát huy ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội Nhật Bản. Tồn tại<br /> và tác động tới xã hội Nhật Bản trong vòng 13 thế kỉ (tính từ thế kỉ VI đến thế kỉ XIX), Phật giáo<br /> đã để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống chính trị của xứ sở Phù Tang. Ảnh hưởng của Phật giáo<br /> trong đời sống chính trị Nhật Bản hết sức đa dạng và phức tạp, hàm chứa cả mặt tích cực lẫn mặt<br /> tiêu cực tùy thuộc vào bối cảnh lịch sử, bản thân các tông phái hay cá nhân các nhà sư. Dù ảnh<br /> 114<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
45=>0