intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vấn đề phản ánh hiện thực trong truyện nói trạng Ba Phi – từ góc nhìn thể loại

Chia sẻ: ViTomato2711 ViTomato2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

32
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này nhằm mục đích khẳng định: Truyện Ba Phi thuộc loại truyện nói trạng (nói khoác) là một thể loại truyện dân gian có tính quốc tế, có đặc điểm thi pháp và hoàn cảnh diễn xướng riêng so với truyện trạng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vấn đề phản ánh hiện thực trong truyện nói trạng Ba Phi – từ góc nhìn thể loại

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 1 (26) - Thaùng 1/2015<br /> <br /> <br /> VẤN ĐỀ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC TRONG<br /> TRUYỆN NÓI TRẠNG BA PHI – TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI<br /> <br /> HUỲNH VŨ LAM (*)<br /> <br /> T M TẮT<br /> T uy dâ P ấ ổb ã ượ ớ u úý o ờ<br /> qu bằ ều ô ì sâu sắ . N ều k o o ằ uy P uộ<br /> ể oạ uy dâ oặ ó ù oạ ớ uy ạ ; ồ ờ ẫ e y u<br /> ả o ú ặ ể ộ du qu k ó ề uy P .<br /> Tuy s uk e o ườ k ô P ó ậ u<br /> u ù ủ uy ạo ườ k ô ả ó s ậ . N ư ậy ó ả ộ<br /> o ộ du uy P ả k ô y ằ<br /> í k : uy P uộ oạ T uy ó ạ ( ó k o ) ộ ể oạ<br /> uy dâ ó í qu ó ặ ể o ả d ướ so<br /> ớ uy ạ . Từ ó ũ s dẫ ộ quả ả k ô ả<br /> ặ ể ủ oạ uy ó k o ặ b o uy P .<br /> óa: uy ó Tạ uy ườ ờ s b ả ể oạ .<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Ba Phi tall tales, which were studied as the joke of inteligent person in Vietnamese folk<br /> es d s o s ew o s we e o s de ed o des be e ous e fe.<br /> However, the audience have not believed what Ba Phi told is true because it was<br /> performed just for laugh. So, this paper would like to address that tall tale is an<br /> international genre with specific poetics and context for perfomance. Therefore, Ba Phi<br /> e w s o e of e os o u es e sou V e does e d o<br /> describe a true life.<br /> Keywords: tall tales, jokes, real life, context, genre<br /> <br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ(*) qua đời, toàn bộ những câu chuyện ấy đã<br /> Truyện Ba Phi là một trong những loại được cộng đồng cư dân vùng Nam Bộ<br /> truyện dân gian phổ biến ở Nam Bộ, và truyền miệng và được nhiều người sưu<br /> được biết đến trong phạm vi cả nước. Lúc tầm, ghi chép và in thành sách, phổ biến<br /> đầu, cách gọi bác Ba Phi xuất phát từ tình rộng rãi từ Nam chí Bắc. Tuy nhiên, cho<br /> cảm của bà con nhân dân vùng Cà Mau đến nay, trong việc nghiên cứu truyện Ba<br /> dành cho ông Nguyễn Long Phi sống vào Phi, theo chúng tôi, cần xem lại hai vấn đề<br /> khoảng những thập niên đầu của thế kỉ XX, tưởng chừng như đã được chứng minh là<br /> với những câu chuyện kể phổ biến khắp đúng: phản ánh hi n th c phong phú trong<br /> vùng Cà Mau – Hậu Giang. Sau khi ông những câu chuyện nói khoác do Ba Phi kể<br /> và vi c phân loại truy n Ba Phi. Đối với<br /> (*)<br /> ThS, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM<br /> <br /> 85<br /> vấn đề thứ nhất, hầu như ai cũng đồng ý trong luận văn Thạc sĩ tìm hiểu về những<br /> rằng truyện Ba Phi miêu tả hiện thực phong công trình nghiên cứu truyện dân gian Nam<br /> phú vùng rừng U Minh và hầu như không Bộ từ năm 1 7 đến thời điểm hiện tại, cho<br /> ai nghi ngờ hay đặt câu hỏi ngược lại rằng, rằng “hầu hết các nhà nghiên cứu khi tiếp<br /> liệu có chắc chắn không khi cho rằng có sự cận truyện Ba Phi đều có chung một nhận<br /> nói thật trong một truyện nói khoác? Trong xét về nội dung của truyện là phản ánh<br /> suy nghĩ của chúng tôi, có lẽ vấn đề không thiên nhiên và con người đất Mũi. Qua đó,<br /> đơn giản như vậy. Đối với vấn đề phân truyện ậ s u ó ủ<br /> loại, việc xếp truyện Ba Phi vào truy n và sự hào phóng của con người vùng đất<br /> trạng hay loại truy n nói trạng (nói khoác) ấy” [23, tr. 2]. Nhận định nêu trên không<br /> cho đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác hề là một sự khái quát vô cớ vì tác giả đã<br /> nhau. Nguyên nhân là ở các nhà nghiên liệt kê hơn 10 công trình nghiên cứu về<br /> cứu tự suy diễn hay nằm ở đặc trưng thể truyện Ba Phi và tìm thấy điểm chung về<br /> loại? Việc tiếp cận từ đặc trưng thể loại sẽ nội dung của truyện Ba Phi là sự phản ánh<br /> trả lời cho những câu hỏi nêu trên. thiên nhiên phong phú của vùng đất Nam<br /> NỘI DUNG Bộ, cụ thể là Cà Mau. Có thể nhắc đến<br /> 1. ruyện Ba P i tr ng m t c c hàng loạt cách diễn đạt ý tưởng ấy kiểu<br /> n à ng iên cứu như: “những đặc sản, trù phú, giàu có của<br /> 1.1 Truyện Ba Phi hình thành trong một vùng đất”[28], “cảnh vật trong truyện<br /> thời gian ông Nguyễn Long Phi sinh sống Ba Phi đa dạng về chủng loại, giàu có về số<br /> và làm việc ở vùng cực Nam của Tổ quốc. lượng” [27], “thiên nhiên độc đáo giàu có<br /> Những câu chuyện ông kể chủ yếu ở dạng của U Minh đã ùa vào truyện Ba Phi, tạo<br /> truyền miệng và vẫn tiếp tục lưu hành cho nguồn truyện này một sức sống tươi<br /> trong dân gian dù khi ông đã vắng bóng rói” [21], “mô típ cọp-sấu của truyện kể<br /> trên cõi đời. Sau ngày thống nhất đất nước, bác Ba Phi nằm trong chủ đề thiên nhiên<br /> nhiều nhà văn đã sưu tầm và nhiều nhà khắc nghiệt của buổi đầu khai phá vùng đất<br /> nghiên cứu đã tiến hành đánh giá qua nhiều Nam Bộ” [26], “phản ánh sự phong phú,<br /> bài báo, luận văn đại học và cả thạc sĩ. giàu có của vùng đất phương Nam” [24],<br /> Thậm chí, ngày 28/11/2002 thành phố Cà “tiếng cười dí dỏm trước thiên nhiên trù<br /> Mau còn tổ chức hội thảo khoa học phú” [15] … Sự đa dạng trong cách thể<br /> “Truy P V o dâ N hiện nhưng ý tưởng thì chỉ có một (miêu tả<br /> Bộ” thu hút hơn 30 bài tham luận. Điều hiện thực như là nội dung của truyện) là<br /> này cho thấy sức ảnh hưởng và giá trị điểm cơ bản của những nhận định nêu trên.<br /> truyện Ba Phi trong vốn văn hóa dân gian Vượt lên mức độ các bài báo, năm<br /> Nam Bộ không chỉ trên thực tiễn mà còn 1998, luận văn Thạc sĩ với đề tài Truy n<br /> trong khoa học nghiên cứu văn hóa dân trạ P ”[13] đã được bảo vệ thành<br /> gian. Cụ thể ở một số quan điểm như sau: công. Trong đó, nội dung truyện Ba Phi<br /> Năm 200 , Nguyễn Thị Ngọc San, được trình bày ở ba vấn đề chính: (1) phản<br /> <br /> <br /> 86<br /> ánh sự giàu có của Nam Bộ, niềm tự hào Mục tiêu ấy nằm trong đặc trưng thể loại<br /> về sự giàu có của U Minh, ngợi ca sự thông Truyện nói trạng. Như vậy, cái gọi là “phản<br /> minh của con người ở vùng đấy ấy; (2)Với ánh hiện thực phong phú” vùng Cà Mau<br /> dạng đề tài mở đất: khắc họa thiên nhiên chẳng qua là ý nghĩ của nhà nghiên cứu<br /> hoang dã, ca ngợi bản lĩnh con người; (3) Văn học dân gian hơn là người nghe Ba<br /> đề tài đánh giặc: tiếng cười châm biếm đả Phi kể. Một lí do khác gây ra những nhận<br /> kích kẻ thù xâm lược, phản ánh bức tranh định như vậy là do cách xác định thể loại<br /> tổng thể về thiên nhiên và con người vùng truyện Ba Phi.<br /> đất phương Nam. [theo 23, tr.54]. Dù có 1.2. Về thể loại, trong các công trình<br /> nhiều khía cạnh khác được khám phá nghiên cứu truyện Ba Phi vừa nêu, các tác<br /> nhưng vấn đề chính xuyên suốt mà luận giả khi thì gọi là “truyện trạng”, khi thì gọi<br /> văn theo đuổi vẫn là phản ánh hiện thực là “truyện kể”, “truyện dân gian” hay<br /> phong phú của thiên nhiên vùng U Minh. “truyện cười”. Bùi Mạnh Nhị gọi truyện Ba<br /> Nhìn đại để, ngoại trừ công trình của Phi là “truyện trạng” và ông có lưu ý rằng:<br /> Vũ Ngọc Khánh [17] chỉ bàn về tiếng cười, truyện trạng Ba Phi, khác với truyện trạng<br /> hầu hết các ý kiến bàn về truyện Ba Phi Quỳnh hay Xiển Bột và cũng không giống<br /> đều thừa nhận yếu tố phản ánh hiện thực ở truyện Vĩnh Hoàng [21]. Lê Thị Diệu Hà<br /> như là nội dung cơ bản, và theo một vài tác cũng gọi là truyện Trạng Ba Phi trong suốt<br /> giả, là nội dung hàng đầu. Tuy nhiên, trong luận án [13]; nhưng lại tập trung nhiều vào<br /> thực tiễn và trên văn bản, truyện Ba Phi là nội dung có tính truyền thuyết (mở cõi và<br /> truyện nói dóc, nói khoác, nói để vui, để đánh giặc) và tính cổ tích (châm biếm, đả<br /> đánh lừa người nghe. Người nghe truyện kích) hơn là tiếng cười có tính chất “trạng”<br /> Ba Phi bị cuốn hút vào những chi tiết rất của Ba Phi. Mở rộng ra các công trình sưu<br /> hấp dẫn và đan cài trong lối xây dựng tầm, nhóm tác giả Nguyễn Giao Cư - Phan<br /> truyện độc đáo. Nhưng kết thúc thì không Diên Vỹ - Sơn Hà, trong lời nói đầu của<br /> ai tin vào câu chuyện Bác Ba kể mà chỉ có quyển sách K o V dâ<br /> tiếng cười, bởi vì họ biết rằng mình bị lừa. V N - uy ó ạ đã thừa nhận<br /> Trong một vài truyện có ghi lại câu nói của rằng "nói trạng" là cách nói hoạt bát, khôi<br /> Ba Phi: “Không tin hỏi bả coi” như một hài, thường sử dụng “thế thậm xưng" khi<br /> minh chứng cho thấy rõ thái độ của người nói và dùng cả cách nói khoác. Về việc lí<br /> nghe đối với lời kể. Như vậy, người nghe giải đưa truyện Ba Phi vào chung với<br /> đã không tin vào cái nội dung của câu Trạng Quỳnh, Xiển Bột …, các tác giả<br /> truyện thì những gì truyện ấy miêu tả cũng viết: "Đưa truyện cười Ba Phi vào truyện<br /> sẽ không được tin tưởng. Cho nên hiện trạng, chúng tôi hy vọng bạn đọc sẽ có<br /> thực mà Ba Phi miêu tả không phải để những so sánh lí thú giữa các cách cười của<br /> cung cấp thông tin cho người đọc và càng dân gian ba miền và nhận ra sự phát triển<br /> không muốn người đọc tin. Hiện thực đó của thể loại này". [11, tr. ]. Từ đó cho<br /> chỉ là cái cớ để đạt một mục tiêu khác. thấy: tài liệu này lấy tên là uy ó ạ<br /> <br /> <br /> 87<br /> nhưng (ngoại trừ truyện Ba Phi) lại đưa rất ườ ấy ộ kể kể ạ<br /> nhiều uy ạ vào đó với dung lượng s o ấ bổ uy dâ<br /> cả vài trăm trang sách. Nguyên nhân là do gian"[30].<br /> việc hiểu nội hàm khái niệm truyện nói Do đó, sự khác biệt và đặc thù của<br /> ạ và truyện ạ chưa được sử dụng truyện Ba Phi đã có ý kiến lưu tâm nhưng<br /> nhất quán. chưa đi vào trọng tâm của đặc trưng truyện<br /> Trong một hướng đi khác, nhiều tác nói trạng, chẳng hạn cách nhìn nhận sau<br /> giả đã tìm thấy sự tương đồng của truyện đây:<br /> các làng cười xứ Bắc và truyện Ba Phi ở Phân tích kỹ, ta sẽ thấy chuyện trạng<br /> Nam Bộ. Nếu như ở các làng cười xứ Bắc, Vĩnh Hoàng có màu sắc gần gũi với loại<br /> Quảng Trị và một số vùng khác, việc nói chuyện Ba Phi ở miền Nam. Cái cười ở đây<br /> trạng và kể truyện trạng là tập quán của không mang tính chất chua chát, giễu đời<br /> cộng đồng, gồm nhiều người có khả năng mà là tiếng cười khỏe khoắn, hồn nhiên của<br /> thực hiện thì truyện Ba Phi đặt trong bối người lao động. Tuy vậy, như trên đã nói,<br /> cảnh văn hóa Nam Bộ, chỉ có duy nhất ông chuyện Ba Phi là chuyện phịa, chúng<br /> Ba Phi là nổi bật. Tác giả Ngô Duy Hưng k ô sử d b ó ạ<br /> đã miêu tả thói quen nói trạng ở vùng Vĩnh d o s ư ấu o o<br /> Linh, Quảng Trị rất hấp dẫn: "N ườ ủ í ưở ượ . Trong chuyện Ba Phi<br /> buô ” u bấ ú o bấ kể ỗ cũng có những chuyện mà biện pháp rất<br /> o k ô kể uổ kể ì giống chuyện trạng như chuyện “Nếp dẻo”,<br /> ư. N ườ b o í k ểu y dù chuyện “Ếch U Minh” nhưng đó chỉ là số<br /> b ũ ả ườ k ì k ì … N ườ ít, không tạo thành màu sắc chủ đạo [32].<br /> o ì ớ u( ợ ồ o ) Cách phân tích này chưa làm rõ các<br /> ũ buô ” u ể ườ . …Nó e o khái niệm cái cười, yếu tố phóng đại và bịa<br /> ậ ườ ó . N b đặt nên nhận định có phần thiếu tính toàn<br /> ô dâ ồ b ód diện. Nếu hiểu tiếng cười là mục đích, bịa<br /> ặ u o ũ ó uy ể đặt (nói khoác, nói trạng) là một cách nói,<br /> u kể ả ớ í .M ạ ở Vĩ một lối diễn đạt và phóng đại là một kĩ thuật<br /> L ô b k sô G o L í của lối nói bịa đặt thì truyện nói trạng Vĩnh<br /> ù k ểu y" [31]. Còn Ba Phi thì hoàn Hoàng và truyện Ba Phi hoàn toàn giống<br /> toàn ngược lại: "T ãy ưở ượ ó nhau về cơ chế. Hư cấu nhưng dựa trên cái<br /> ộ ô dâ ạ u â ú có thật chứ không thể hoàn toàn phịa ra,<br /> ờ o ướ ể b uồ ề ồ â theo kiểu người Nam Bộ có câu: “nói dóc<br /> y ượu kể uy ạ mà có căn”. Cái khác biệt của truyện Ba Phi là<br /> ườ dâ ở ợ k ô b ì tính cá nhân chưa tập hợp thành cộng đồng.<br /> uy ạ ặ ì ắ Nhìn chung, qua việc tìm hiểu và trích<br /> ều k qu ( e uy dẫn một số công trình nghiên cứu truyện<br /> T u Rù P ú ). Lâu dầ uy dân gian Ba Phi, có hai vấn đề nổi bật cần<br /> <br /> <br /> 88<br /> được xem xét và nhìn nhận lại: nội dung Hoàng Tiến Tựu khi viết giáo trình cho<br /> phản ánh hiện thực và đặc trưng thể loại sinh viên, trong phần truyện cười, có đề<br /> của truyện Ba Phi. Tuy là hai nhưng thực cập đến khái niệm truyện trạng với ba nét<br /> chất yêu cầu giải quyết chỉ có một: đặc nghĩa: những giai thoại về nh ng ông<br /> trưng thể loại. Khi đã xác định được đặc trạng nổi ti ng có thực hoặc được coi là có<br /> trưng thể loại thì các vấn đề xung quanh nó thực; những giai thoại hài hước về nh ng<br /> về nội dung và nghệ thuật cũng sẽ được ông trạng; những mẩu giai thoại hài hước<br /> giải quyết như một hệ quả tất yếu. về các nhân vật nổi ti ng ở các địa phương<br /> 2. Đi tìm một c c i u t l ại (gồm những người có thật và những người<br /> ruyện nói trạng do nhân dân phong tặng). Đồng thời, theo<br /> 2.1. Truyện nói trạng được nhiều nhà tác giả, truyện trạng còn có nghĩa là truyện<br /> nghiên cứu Việt Nam bàn đến từ rất sớm, nói khoác (hay nói phét) [35, tr.98]. Triều<br /> khi mà nền folklore học Việt Nam được đặt Nguyên [22] sau khi phân tích nội dung<br /> những viên gạch đầu tiên. Tuy nhiên số của một quyển sách tập hợp các truyện nói<br /> phận của truyện nói trạng không êm đềm vì trạng ở Vĩnh Hoàng (Vĩnh Linh, Quảng<br /> nó phải chịu cảnh chung chạ với các loại Trị), cho rằng: “nói trạng” là một kiểu nói<br /> khác hoặc bị ghép vào với tư cách là một gần nghĩa với nói khoác và nói phét trong<br /> phần phụ thuộc của một thể loại lớn hơn. thói quen ngôn ngữ dân gian, nên truyện<br /> Chẳng hạn, một trong những tài liệu cơ bản nói trạng là loại truyện dùng lối nói khoác,<br /> về văn học dân gian là cuốn V c dân nói phét để tạo tiếng cười; nhưng cần hết<br /> gian Vi t Nam [16] do Đinh Gia Khánh sức lưu ý, tính "trạng" của loại truyện này<br /> chủ biên, tuy có bàn đến truyện cười nhưng không được nhầm lẫn với loại truyện trạng<br /> không nhắc đến truyện loại trạng hay về các nhân vật thông minh (Trạng Quỳnh,<br /> truyện nói trạng. Hay gần đây nhất, năm Xiển Bột, ...). Đồng thời, tác giả cũng xác<br /> 2012, quyển G o ì V c Dân gian định ba đặc điểm quan trọng của truyện nói<br /> Vi t Nam [33] của trường Đại học Sư phạm trạng: cấu trúc, ngôn ngữ truyện và ngôi<br /> Hà Nội thì trong tiểu loại truyện cười kết kể, trong đó, việc chỉ ra ngôi th nhất của<br /> chuỗi có nhắc đến các ông trạng chứ lời kể trong tất cả các truy n nói trạng là<br /> không nói đến loại truyện nói trạng. Đỗ một luận điểm khoa học có giá trị.<br /> Bình Trị cho rằng các truyện trạng là thể Có thể nói, quan niệm của Đỗ Bình Trị<br /> loại có tính quốc tế và không thuộc loại có nét riêng so với những hướng nghiên<br /> truyện cười về bản chất, mặc dù về hiệu cứu khác là tách biệt truyện cười và truyện<br /> ứng thì truyện trạng và truyện cười có "tiếp trạng ra thành hai thể loại gần như khác<br /> điểm" là gây cười, nên những truyện như hẳn nhau, xác định truyện trạng có tính<br /> Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Thằng Cuội, Ba quốc tế, và đưa truyện ó ạ vào cùng<br /> Phi, v.v thuộc “kiểu truyện về nhân vật nhóm với truyện về những nh n ật<br /> thông minh trong truyện cổ tích sinh hoạt” thông minh của thể loại cổ tích. Còn cách<br /> [34, tr.247] chứ không phải truyện cười. định nghĩa của Hoàng Tiến Tựu có một<br /> <br /> <br /> 89<br /> điểm đáng lưu tâm là ông dùng khái niệm ườ kể ề ều ì ấy bằ<br /> “giai thoại” nói về các nhân vật nổi tiếng là ó ạ s và truyện nói khoác có<br /> nòng cốt của loại truyện trạng. Khái niệm mối liên hệ với truyền thuyết về người anh<br /> trạng vừa nêu có tính chất nước đôi, vừa hùng. Từ điển Cambridge Advanced<br /> nói về các nhân vật thông minh vừa chỉ Learners Dictionary & Thesaurus ©<br /> những truyện nói khoác. Quan điểm này Cambridge University Press2 trên internet<br /> cũng xét truyện Ba Phi vào chung với loại định nghĩa “tall tale” khá đơn giản: “là một<br /> truyện về các nhân vật địa phương nổi câu chuyện hoặc một cách diễn đạt khó tin<br /> tiếng và gần với giai thoại nhưng lại tách bởi vì nó qu ấ dẫ và qu ú ”. Trên<br /> nó với truyện nói khoác, tức là coi truyện trang web của một nhà nghiên cứu ở Hoa<br /> Ba Phi không thuộc kiểu truyện nói trạng. Kỳ, “tall tales” được định nghĩa: là truyện<br /> Còn quan điểm của Triều Nguyên thì rất rõ ư ã và ả í3, d ây ườ do phóng<br /> ràng về hai thể loại cũng như cấu trúc thi đại, khoa trương, được phổ biến ở Hoa Kỳ<br /> pháp. vào thời kì mới bắt đầu khai phá.<br /> 2.2. Từ thực tế nghiên cứu ở nước ta, Từ điển Bách khoa toàn thư về folklore<br /> nhìn ra thế giới mong tìm sự tương đồng và văn học định nghĩa “tall tale”: “là dạng<br /> nào đó để có thể so sánh và lí giải những<br /> mâu thuẫn của một loại truyện, chúng tôi ều oạ ườ u í ườ<br /> ù ư<br /> ở uy ó k o s ườ u ậ<br /> đã tìm thấy trong các thể loại folklore quốc ả ạ ủ o bộ âu uy .). Truy<br /> tế có một thuật ngữ là “tall tales”. Đi theo cập vào lúc 12:00AM, ngày 12/ /2014<br /> 2<br /> nhiều con đường khác nhau, trong đó có sử http://dictionary.cambridge.org/dictionary/british/a-<br /> dụng lợi thế từ mạng điện tử, người viết tall-tale: “a story or statement that is difficult to<br /> tìm thấy một số phân tích về khái niệm này believe because it is too exciting or interesting”,<br /> truy cập vào lúc :00 PM, 1 /10/2014.<br /> như sau: 3<br /> Trang web của bà SimSon tại địa chỉ:<br /> Theo trang web Wikipedia, khái niệm http://www.simpsonell.com/web-<br /> based.cfm?subpage=823938, truy cập vào lúc<br /> “tall tale” 1 là truyện nói khoác ủ ộ 11:2 AM, 1 /10/2014. “A tall tale is a story about a<br /> person who is larger than life -- or bigger than<br /> someone could really be in real life. These stories<br /> 1<br /> Trang web Wikipedia tại địa chỉ: involve a lot of exaggeration or hyperbole. This<br /> http://en.wikipedia.org/wiki/Tall_tale#Similar_tradi makes a tall tale very funny. When the United<br /> tions_in_other_cultures đã định nghĩa: States was just starting out as a country, people<br /> “Tall tales are often told in a way that makes the used to tell tall tales after a hard day's work. They<br /> narrator seem to have been a part of the story. They would tell these stories in the evening for relaxation<br /> are usually humorous or good-natured. The line and entertainment” (Mộ uy ó k o ộ<br /> between legends and tall tales is distinguished âu uy ề ộ ườ o ó d ườ so ớ<br /> primarily by age; many legends exaggerate the ườ k ó ể ồ ạ o ờ s ậ.<br /> exploits of their heroes, but in tall tales the N âu uy ó k o ườ<br /> exaggeration looms large, to the extent of becoming ều ó ó ạ oặ k o ư .C<br /> the whole of the story” (T uy ó k o ườ ó ó o ộ uy ó ạ ở ấ d<br /> ượ kể bằ ộ o ườ kể dườ ườ . Lú Hợ C ú qu Ho Kì ớ bắ ầu<br /> ư ở ộ ầ ủ âu uy . N ườ kể k ườ ườ kể uy ó ạ s u<br /> ườ u í b . Lằ â b ộ y . N ườ ườ kể<br /> uyề uy [ e e d] uy ó k o âu uy ấy o buổ ể ư ã<br /> ượ â ủ y u bằ u í ờ ; ả í)<br /> <br /> 90<br /> tự sự dân gian có tính khôi hài trong đó kí hiệu là ATU 1 7 -1 . Truyện nói<br /> thường sử dụng ó ó ạ dựa khoác có sự kết nối với truyền thuyết<br /> trên những câu chuyện có thực – trong (legend) ở các chi tiết phóng đại, với giai<br /> những ì u ấ , nhằm tạo ra thoại (anecdote) ở các các mô típ tạo tiếng<br /> một ò ừ . Có nhiều bối cảnh diễn cười và nó nằm ở lằn ranh giữa những gì<br /> xướng mà người kể đã bị phát hiện ra rằng sự thật và không phải sự thật. Truyện nói<br /> việc gây ấn tượng của họ là ó d " [20, khoác thường do ô kể, đặc biệt<br /> tr. 34]. Truyện nói khoác thường chứa thường gắn liền với nghề của “đàn ông”,<br /> đựng nhiều vấn đề hơn là những cách nói chẳng hạn như săn bắn. Truyện thường<br /> khoa trương bình thường và nó còn được kể ở ô ấ s í hoặc là có<br /> sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật như là liên quan đến các mối quan hệ họ hàng hay<br /> “hình tượng nghịch dị” để thu hút và làm những người quen biết. Thông thường có<br /> người nghe tiêu khiển. Đặc biệt, trong một tình trạng vẫn hay xảy ra là người kể<br /> truyền thống folklore Hoa Kỳ, truyện nói truyện (trong truyện nói khoác) sẽ uyể<br /> khoác có lúc gây hiểu nhầm với truyền âu uy ủ ì uy ề<br /> thuyết về người anh hùng (legend of the ườ ùng có khả năng thể hiện<br /> hero). Tuy nhiên truyện nói khoác và những hành động không tưởng một cách<br /> truyền thuyết có điểm khác biệt: truyền nhẹ nhàng. Thuật ngữ “Munchhausen tale”<br /> thuyết được tin tưởng là nghiêm túc và có trong tiếng Đức tương đương với khái<br /> thật còn truyện nói khoác là loại ưở niệm “truyện nói khoác” (tall tale) trong<br /> ượ ây ườ dù cả hai đều lấy những tiếng Anh.<br /> s k ó ậ để “thiết lập” cốt truyện. Qua các quan niệm trên, khái niệm<br /> Một số những truyện nói khoác nổi tiếng truyện nói khoác của folklore thế giới có<br /> của Hoa Kỳ (như Paul Bunyan, John một số điểm thống nhất bên cạnh những dị<br /> Henry, và Febold Fenoldson,…) là những biệt. Sự thống nhất là hầu hết đều cho rằng<br /> chuyện về những người có công khai phá, đó là một thể loại tự sự dân gian (truyện)<br /> mở cõi, mở đầu cho một ngành hay công sử dụng yếu tố cường điệu, phóng đại khoa<br /> việc có tác động đến nhiều người. trương để gây cười. Những yếu tố dị biệt<br /> Theo Từ ể b k o o ư góp phần bổ sung làm đa dạng cho sự<br /> G ee wood ề uy dâ uy thống nhất là: kể (bằng lời trong bối<br /> ổ í [12] thì “tall tales” là một truyện cảnh cụ thể), ườ kể (ở ngôi thứ nhất và<br /> gây cười, thường dựa trên sự phóng đại và là một phần của sự kiện), các s k được<br /> ượ kể ư s k o ó ó phản ánh (được coi là có thật), tạo<br /> ậ , truyện này còn được biết đến với cái hiệu ứng (đánh lừa, nói dối), í (thư<br /> tên “truyện nói dối” hay là “truyện khoác giãn, gây cảm hứng, thấy thú vị) và quan<br /> lác”. Trong bảng tra cứu các mô-típ và típ trọng nhất là mối qu của nó với các<br /> truyện thế giới, truyện nói khoác được ặ thể loại khác (ngang hàng với truyện cười<br /> ớ uy ườ uy ổ í và có và có khả năng chuyên hóa thành giai thoại<br /> <br /> <br /> 91<br /> và truyền thuyết). Đặc biệt, một số truyện truyền thuyết ở Việt Nam, vốn nặng chất<br /> nói khoác của Hoa Kì thường nói về quá lịch sử, cũng có những vùng chồng lấn khó<br /> trình khai phá, khẩn hoang vùng đất mới phân biệt như Võ Phúc Châu [10] đã từng<br /> với nhiều khó khăn. Người ta cường điệu chứng minh. Sự lân cận của truyện nói<br /> những câu chuyện xảy ra trong lao động để trạng với truyền thuyết nằm ở cốt truyện về<br /> xua tan nỗi vất vả. Và đặc biệt, hiệu ứng nhân vật khai phá được dân gian hóa theo<br /> đánh lừa, nói dối, và người nghe không tin xu hướng bình dị, đời thường. Nếu như<br /> vào sự thật câu chuyện được kể là thuộc trong truyền thuyết có những người anh<br /> tính tiêu biểu của loại truyện này dù chi tiết hùng lịch sử, những ông tổ nghề, những<br /> đời sống có thể xuất phát từ hiện thực. nhân vật thông minh vô danh, những người<br /> 2.3. Từ thực tế các công trình vừa được có công đối với cộng đồng,… thì trong giai<br /> khảo sát ở nước ta và trên thế giới, bằng thoại và truyện nói khoác cũng có một số<br /> những cứ liệu từ truyện Ba Phi và truyện kiểu nhân vật tương tự. Nếu như truyền<br /> trạng ở các làng cười, có thể đúc kết một thuyết sử dụng yếu tố phóng đại<br /> cách hiểu về truyện nói trạng (nói khoác) (exaggerations) thì cả hai thể loại còn lại<br /> như sau: cũng không bỏ qua trong quá trình kể<br /> - Truyện nói trạng thường là những câu truyện. Theo Linda Dégh [25], trong các<br /> chuyện của một người tự kể về những yếu khuynh hướng cấu thành truyền thuyết trên<br /> tố khác thường trong một bối cảnh cụ thể, folklore thế giới và Hoa Kỳ, ngoài khuynh<br /> đặt trong bối cảnh trực tiếp giữa người kể hướng sử ó còn có khuynh hướng<br /> và người nghe. Mục đích chính của truyện â hóa và tôn giáo hóa các sự kiện<br /> nói trạng là gợi sự thú vị, hứng khởi, và có thật hoặc được cho là đã diễn ra. Vì vậy,<br /> tiếng cười ở người nghe nhưng khó tin vì truyền thuyết không chỉ có cốt lõi lịch sử<br /> nói quá sự thật (bịa đặt) và người nghe biết và giai thoại, như một yếu tố tiền thể loại,<br /> mình bị đánh lừa. Để tạo nên tiếng cười trước khi chuyển hóa. Do vậy, giới nghiên<br /> đằng sau những sự kiện gần như (hoặc cứu folklore Hoa Kỳ đã có lí khi đặt truyện<br /> được cho là) có thật, người kể thường sử nói khoác gần và ngang hàng với truyền<br /> dụng cách nói phóng đại, khoa trương. thuyết và giai thoại dân gian với một điểm<br /> - Về vấn đề phân loại, truyện nói trạng phân biệt cơ bản là niềm tin vào câu<br /> đang được xem là m t tiểu loại tự sự d n chuyện được kể người nghe trong bối cảnh<br /> gian thu c thể loại truyện cười. Tuy diễn xướng. Truyền thuyết thì được tin là<br /> nhiên, ở việc phân loại này cần nói rõ một có thật, truyện nói khoác thì không tin vào<br /> số vấn đề vừa mang tính tập quán vừa sự thật, còn giai thoại thì nửa tin nửa ngờ.<br /> mang tính học thuật. Trong folklore thế Nếu giai thoại là do người khác kể thì<br /> giới, nhất là Hoa Kỳ, truyện nói khoác (tall truyện nói trạng là do bản thân người nói<br /> tales) được xem là một thể loại tự sự, có sự kể và đặt mình vào câu chuyện. Ở Việt<br /> giáp biên với giai thoại (anecdote) và Nam, truyện nói trạng không thể đặt chung<br /> truyền thuyết (legend). Giữa giai thoại và với truyền thuyết bởi yếu tố lịch sử hóa<br /> <br /> <br /> 92<br /> trong truyền thuyết quá đậm. Còn giai ãy ưỡ y k o dẻo dí ặ<br /> thoại, chỗ đứng của nó cũng không được ậu ãy o âu ú y ú ô ằ<br /> định vị riêng mà là một yếu tố phụ thuộc ư ó …) làm yếu tố hạt nhân để tạo nên<br /> vào truyền thuyết. Truyện nói trạng trong tình huống truyện. Người kể sẽ sử dụng các<br /> truyền thống văn học dân gian Việt Nam thủ pháp gây cười để triển khai mô típ<br /> được coi là m t tiểu loại c a truyện cười thành câu truyện. Trong truyện nói trạng có<br /> vì hiệu quả của nó là gây cười và tính 03 nguyên tắc gây cười chính là ưỡ<br /> thông minh của nhân vật. Nhưng nếu nói logic, và sử d y u .<br /> vậy thì sẽ có phần giống với thể loại uy Trong nguyên tắc ưỡ o lại bao<br /> ạ (hiệu ứng đánh lừa) hoặc uy ườ gồm hàng loạt các thủ pháp (tạo bất ngờ,<br /> (tạo tiếng cười). Do đó, yếu tố quan trọng phóng đại, tạo chuyện phi lí, gài bẫy, nói<br /> để phân biệt đặc trưng thể loại truyện nói nước đôi, đánh đồng người và vật, …). Ở<br /> khoác là cách c uyện ở ngôi t ứ n ất đây, việc mô tả tên các mô típ trong truyện<br /> s ít. Đó là chuyện của chính “tui” (nói nói trạng cũng là vấn đề cần xem lại vì<br /> trạng Vĩnh Hoàng) hoặc “qua” (kiểu của cách miêu tả ngẫu hứng không theo cấu<br /> Bác Ba Phi); kiểu như “qua thấy chuyện trúc chung mang tính quốc tế, không có<br /> như vầy, để qua kể cho chú em mày nghe, khả năng tham khảo. Chẳng hạn cách miêu<br /> …chú em mày hổng tin hả? hổng tin hỏi bả tả các mô típ kiểu như: “cọp sấu”, “chim<br /> coi!”. Ở Vĩnh Hoàng thì “Tui ngần tuổi này cá” [26], “chim”, “cá”, “rùa”, “rắn”, “trăn”,<br /> như tui ai mà nói đùa với eng, để tui kể eng “ăn ong” [14], …là những lối diễn đạt chưa<br /> nghe”. Yếu tố diễn xướng trong một bối hoàn toàn gọi là mô típ. Vấn đề này chúng<br /> cảnh nhất định (một nhóm vài người ngồi tôi sẽ trở lại trong một công trình khác.<br /> uống rượu, tiệc tùng thân tình, những lúc 3. N ìn lại truyện nói trạng Ba P i t<br /> nghỉ ngơi khi đêm về) làm cho cách kể đặc trưng t l ại<br /> theo ngôi thứ nhất có một tác dụng là tạo 3.1. Trước hết là vấn đề thiên nhiên<br /> cảm giác như thật, vì người nghe nghĩ đó là phong phú trong truyện nói trạng Ba Phi.<br /> chuyện của bản thân người kể. Giống như trên thế giới, truyện nói trạng<br /> - Về mặt đặc trưng thể loại, theo Phan có bối cảnh gần với truyền thuyết. Ở truyền<br /> Thảo Ly [19], truyện nói trạng có cơ sở xã thuyết, sự kì thú đa dạng của tự nhiên có<br /> hội rất rõ ràng (cuộc sống nghèo khó, thể làm ngạc nhiên nhiều người, sự hiểm<br /> phong tục tập quán, lễ hội,…), có hệ đề tài nguy và gian khổ có thể làm nản lòng con<br /> đa số nói về sinh hoạt lao động ( , %), có người trong qua trình khai phá. Nhưng quá<br /> chủ đề chính là cười vui và châm biếm, có trình gian khổ để chinh phục và khai phá tự<br /> chức năng quan trọng là giải trí. Kết cấu nhiên ấy trở thành đối tượng của ề<br /> của kiểu truyện nói trạng đa số là truyện s ớ. Máu và nước mắt của người<br /> đơn và một ít truyện xâu chuỗi. Trong mỗi đi trước in dấu trong truyền thuyết buộc<br /> truyện thường gồm 03 phần, có thể sử dụng người đời sau phải tin và lưu giữ trong trí<br /> một hoặc hai mô típ (chẳng hạn: ủ óc. Ngược lại, đối tượng mà các câu truyện<br /> <br /> <br /> 93<br /> nói trạng phản ánh không phải là toàn bộ vùng, điều kiện đất đai canh tác còn rất khó<br /> thiên nhiên kì thú ấy mà chỉ là một phần khăn và khổ sở. Truyện Vĩnh Hoàng bộc lộ<br /> làm “bệ đỡ” cho những ý tưởng và tài năng đặc điểm này rất rõ: "Có lẽ cũng vì người<br /> của người kể để nói về cái khác. Việc miêu Vĩnh Linh xưa có cuộc sống vất vả, nghèo<br /> tả thiên nhiên trong truyện nói trạng không nàn, trong chiến tranh thì người già, trẻ con<br /> phải để người ta tin, mà là muốn người ta đi sơ tán hết, mẹ xa con, vợ xa chồng, đau<br /> ườ , muốn người ta ú và muốn người thương mất mát do chiến tranh, cái chết<br /> ta qu y s u k kể. Truyện Ba Phi có luôn cận kề …nên mới nảy sinh ra chuyện<br /> bối cảnh là thuở đi khẩn hoang, khai nói trạng, chuyện “buôn” nhau cho vui ,<br /> mương lập ruộng, lúc mà con người phải quên đi nỗi nhớ người thân, để lạc quan<br /> đối mặt và ứng xử với thiên nhiên hoàn vượt qua bom đạn chiến tranh chăng?"4.<br /> toàn xa lạ vùng Cà Mau, nhưng kể chuyện Do đó, chưa chắc thiên nhiên phong phú<br /> xong, bác Ba không muốn người ta phải như các nhà nghiên cứu đã nghĩ, nhưng có<br /> nhớ và tôn sùng cái thiên nhiên hay lịch sử một điều chắc chắn rằng mục đích Ba Phi<br /> khẩn hoang mà bác vừa kể. Sự giàu có của là nói dóc, chứ không phải khoe giàu.<br /> tự nhiên rừng U Minh không phải là mục 3.2. Giữa truyện trạng và truyện nói<br /> đích của câu chuyện. Mục đích câu chuyện trạng có những nét gần nhau, khó phân biệt<br /> là tạo ườ bấ ờ. Tự nhiên có thể nên nhiều người đã dùng một khái niệm<br /> phong phú nhưng sự lạ lùng và bất ngờ của miêu tả hai đặc trưng. Điều này không phù<br /> thiên nhiên trong truyện nói trạng là do hợp về mặt khoa học. Vì vậy, việc xác định<br /> người kể cố tình tưởng tượng và sắp đặt. ng i kể là đặc trưng quan trọng nhất để<br /> Vì vậy, khi cho rằng truyện Ba Phi dùng phân biệt giữa truyện nói trạng và truyện<br /> lối phóng đại sự việc để ca ngợi sự trù phú trạng; là một yếu tố hình thức có ý nghĩa<br /> giàu có của một vùng đất Nam Bộ là một quan trọng không chỉ trong việc phân loại<br /> cách nói mâu thuẫn vì bản chất của việc mà còn cả trong công tác nghiên cứu và<br /> nói khoác là không có thật. Do đó, truyện sưu tầm. K ở ngôi t ứ n ất không chỉ là<br /> Ba Phi không thể coi là truyện phản ánh lối diễn đạt về mặt hình thức mà còn là yếu<br /> sản vật trù phú vùng Nam Bộ vì sau khi tố đặc trưng thi pháp của truyện nói trạng.<br /> nghe xong câu chuyện thì không ai tin Bác Dù tạo tiếng cười từ những trò lừa, từ<br /> Ba nói cả. Ngược lại, trong một số hoàn những cách nói khoác hay phóng đại<br /> cảnh, việc nói khoác ấy lại che giấu một sự nhưng nếu ở ngôi t ứ ba thì đó không<br /> thật là những điều được nói đến rất nghèo phải là truyện nói trạng. Ngoài ra, thông<br /> nàn, thiếu thốn. Người ta nói vui để quên minh trong ứng xử với người khác và được<br /> đi cái khó, cái khổ trước mắt mà có hứng người khác ghi nhận, kể lại là một phẩm<br /> khởi và niềm tin để sống tiếp. Có thể U chất phổ biến và đặc trưng của các nhân<br /> Minh ngày xưa có nhiều sản vật nhưng<br /> cũng có thể là không hề phong phú như 4<br /> Nguồn: http://24htruyencuoi.com/tag/chuyen-<br /> cách nói của Ba Phi, thậm chí có một số trang-vinh-hoang truye cập vào lúc 3:00 PM, ngày<br /> 26/10/2014<br /> <br /> 94<br /> vật trạng. Còn thông minh trong ứng xử không hề, trái lại, nó vẫn còn tiếp nối đến<br /> với tìn t ế cuộc s ng với t ế giới tự hôm nay. Trong dân gian hiện đại, việc kể<br /> nhiên theo kiểu của riêng mình, tự mình truyện nói trạng vẫn tồn tại đây đó, nhưng<br /> nói lại cho người khác nghe là đặc trưng chưa được sưu tầm và hệ thống hóa. Nhờ<br /> bản chất của truyện nói trạng. Những nhầm vào mạng internet và các trang mạng xã<br /> lẫn, lừa gạt hay trạng thái vỡ lẽ ra đều xuất hội (như facebook - trang phổ biến nhất),<br /> phát từ nhân vật kể truyện- Bác Ba Phi. Do người ta vẫn thấy thỉnh thoảng có những<br /> đó, nếu việc kể hay phổ biến bằng bản in câu chuyện nói trạng được đăng tải. Đơn<br /> của các câu uy ó ạ mà sử dụng cử một trang facebook có tên là "Hộ<br /> ngôi thứ ba thì bản kể ấy chưa thật sự đạt Đ A" 7 y uầ ", tác giả của nó đã<br /> yêu cầu. Lúc đó, bản ghi chép ấy đã trở đăng tải nhiều câu truyện kiểu như nói<br /> thành giai thoại. Hiện nay bản kể của nhà trạng. Ví dụ một status (trạng thái, phát<br /> văn Anh Động và một số bản kể khác ghi ngôn) trong rất nhiều phát ngôn của tác giả<br /> lại truyện Bác Ba Phi nhưng biên tập ở này:<br /> dạ oạ ề P chứ không "T qu<br /> phải uy ủ P . Tình trạng này E dẫ buộ o e<br /> do người sưu tầm chưa xác định được đặc uyể ồ .<br /> trưng của truyện nói trạng. Nếu xác định Đ ượ ử ườ ì e ờ ờ<br /> được đặc trưng của uy ó ạ thì s e ỏ k ấy "2 o eo"<br /> đồng thời chúng ta cũng sẽ khẳng định kéo e ớ k ô ả "2 o ".<br /> rằng những chuyện ở Nam Bộ về Ông , Gờ ớ ạ ì ú dẫ<br /> Thủ Thiệm, Th'nênh Chaey, …là dạng ờ qu ấ ư ướ o ộ<br /> uy ạ vì nó kể bằng ngôi thứ ba về uồ eo.<br /> một người khác. Những nhân vật có thể nói T ô k eo ì eo ẫ ượ ớ<br /> khoác để đánh lừa nhưng được trần thuật ồ ề o .<br /> bằng giọng kể của người khác, được người K y ắ b uô eo"5.<br /> khác tôn vinh để tạo tiếng cười. Còn ở Câu truyện trên về mặt cấu trúc thì đã<br /> truyện Ba Phi thì lời kể của bác với cách đáp ứng yêu cầu một kiểu nói trạng. Nghĩa<br /> xưng "tui" hay “qua” và câu kết "hổng tin là, sử dụng lối nói phóng đại, tạo yếu tố bất<br /> hỏi bả coi" là một dấu ấn không thể nhầm ngờ, không tin được và tạo tiếng cười. Tuy<br /> lẫn. nhiên về mặt quy mô sự kiện và cách kể<br /> 3.3. Hiện tượng Ba Phi được nhiều chuyện thì có được coi là "truyện" hay chỉ<br /> người xem là “có một không hai”. Nghĩa là là "lời nói, một kiểu nói" hay không lại là<br /> khi bác mất, xem như loại hình này cũng một vấn đề. Thử so sánh "câu chuyện" nêu<br /> mai một. Vấn đề phổ biến, tiếp nối trong trên với một câu truyện nói trạng Vĩnh<br /> văn hóa dân gian cũng là một nội dung 5<br /> Trang facebook có tên “Hội đía 7 ngày trên tuần<br /> quan trọng. Vậy có thật sự đã mai một kiểu của tác giả Nguyễn Khắc Phục tại địa chỉ<br /> người như Ba Phi hay không? Câu trả lời là https://www.facebook.com/groups/1493602077561<br /> 615/?fref=ts truy cập lúc 11:00PM ngày 22/ /2014.<br /> <br /> 95<br /> Hoàng: ồ ì èo ú ừ ờ s<br /> râu đen trâu bạc ử u ớ ì ì qu s o<br /> - Đ ô ầ ôộ o bây ờ ạ ở y ì ã u<br /> eng? ư o k o ấu ì<br /> -Đ dư ề suý u ậ ó u â â ồ :<br /> ả ạ dư . -Ô ảy u o .<br /> -R ạ ậ dư e ó ạ Tu ừ ừ ườ ề ề:<br /> -L ì ư y ậy<br /> - Có ô ạ. y u u Nó ậy ư u ũ ã ấy<br /> k ô dư ượ . Tú u ớ bướ u k ỏ ô ấ. ã<br /> y o o ề .Tờ oạ u ượ :<br /> oạ ầ ạ dư ấy ô -Ô ó ở ạ o<br /> ô ộ bầy âu e ộ bầy âu bạ Tu qu y ạ ì ô ấ. T ờ ấ<br /> u ề ạ: Đ ô ả âu ô dư T ì k ô ả ô ấ<br /> u ó ”. Nạ o u bẻ ôộ o ộ o ù Nó b bằ bộ .<br /> b ồ ó ộ qu o ảy Nãy ờ u ã ư ó âu<br /> ô ỗ o ộ ôộ . N ư ấy có hay. [18]<br /> ạ âu ằ y ả N ì k Như vậy, nếu căn cứ vào chi tiết và<br /> ó o dư Dư e âu e cách kể, thì truyện ở Vĩnh Hoàng và của<br /> dư ấ âu bạ ư ú [22]. Ba Phi được coi là một "câu chuyện" hơn.<br /> Về dung lượng và chi tiết, truyện nói Tuy nhiên, cần phải thừa nhận một thực tế<br /> trạng làng Vĩnh Hoàng có mức độ nhiều là, các câu chuyện được kể lại đa phần là<br /> hơn, đa dạng hơn. Thế giới đời sống được do người khác ghi chép, tức là không phải<br /> miêu tả sinh động và hấp dẫn hơn bởi các trực tiếp chính nhân vật nói hoặc viết ra<br /> yếu tố khách quan được lựa chọn theo một (như trường hợp chuyện của tác giả trên<br /> kiểu có chủ ý và có tài năng ngôn ngữ. mạng xã hội). Vì vậy, yếu tố tài năng và<br /> Truyện "Mô đất biết bò" của Ba Phi thì chi vốn ngôn ngữ của người ghi chép cùng với<br /> tiết ít hơn nhưng vẫn là một câu truyện nói kiến thức về folklore sẽ quyết định phần<br /> trạng: lớn chất lượng của các bản kể mà chúng ta<br /> N ư k ờ ò u u ã đang xem xét. Người chép lại truyện Ba<br /> ã ồ . Đồ ướ ô Phi là nhà văn Anh Động, người sưu tầm<br /> k ô k âu ộ ỗ o ể truyện Vĩnh Hoàng là nhà nghiên cứu Võ<br /> ã . Tu ộ ò o qu Xuân Trang và một số người khác sau này,<br /> ộ ồ ớ ậ ừ ô ớ ặ ượ đều có học thức. Không thể phủ nhận rằng<br /> ộ ô ấ o ặ ướ việc thêm thắt chi tiết hay viết lại câu cho<br /> ừ y. Tu ể ồ đúng ngữ pháp và "tròn vành rõ chữ" là<br /> ồ .M o u ấy b u một khả năng phổ biến trong công tác sưu<br /> ấ ộ u u ừ bằ ó tầm và biên tập. Triều Nguyên cũng đã<br /> <br /> <br /> 96<br /> thấy và cảnh báo hiện tượng này: huống cũng như lời tương tác với độc giả<br /> "Nếu như việc sưu tầm văn vần, các khi kết thúc.<br /> chỉnh sửa nếu có của người sưu tầm khi Nếu căn cứ vào các đặc điểm trên thì<br /> công bố văn bản chỉ có thể nhận ra khi đối cả ba văn bản đều đáp ứng đặc điểm của<br /> sánh chúng với các văn bản tương tự hay một "truyện" nói trạng. Vì vậy, những câu<br /> các dị bản, thì “dấu ấn” của người sưu tầm truyện trên trang mạng xã hội nêu trên vẫn<br /> truyện kể trong việc kể lại câu chuyện được coi là một dạng truyện nói trạng. Nếu<br /> được nghe, để lại lắm khi khá rõ. Điều câu truyện nào được kể mà thiếu các yếu tố<br /> đáng quan tâm, là khi dựa vào đó để tìm đặc trưng cho loại truyện này thì nó chỉ là<br /> hiểu vấn đề, người nghiên cứu có thể bị sai một lối nói, một cách nói tương đương với<br /> lệch, nếu như dấu ấn kia không phù hợp phát ngôn trong giao tiếp hàng ngày. Từ đó<br /> (thật ra, hầu hết các dấu ấn của người sưu cho thấy, truyện nói trạng vẫn là một mạch<br /> tầm để lại trên văn bản đều lệch lạc). Sự ngầm chảy xuyên suốt trong lòng của dân<br /> không phù hợp này, trước hết, là với đặc gian từ trước đến nay, chỉ có điều ở phía<br /> trưng của thể loại được sưu tầm. Những Nam, dòng mạch này vẫn chưa thành một<br /> “chêm xen” tùy tiện của người sưu tầm làm cộng đồng, thiếu sự kết nối hay quy tụ lại.<br /> cho số văn bản được sưu tầm biến đổi, gây 3.4 Như một đặc điểm có tính văn hóa,<br /> khó khăn cho việc nhận dạng, xác định truyện nói trạng Ba Phi khác với các truyện<br /> chúng" [22]. nói trạng của một số vùng miền trên đất<br /> Do đó, không thể căn cứ vào chi tiết để nước ta ở hệ thống các chi tiết đời sống,<br /> quyết định đâu là lối nói trạng hay là một cách kể chuyện và cơ sở hiện thực của lối<br /> câu chuyện nói trạng mà phải căn cứ vào nói phóng đại, dù các yếu tố này cơ bản<br /> cấu trúc bề sâu, đằng sau những từ ngữ không phải là đặc trưng của loại truyện nói<br /> mới có thể xem xét để kết luận một cách có trạng. Đã có nhiều công trình nghiên cứu<br /> cơ sở. Điều này cũng là một nguyên tắc đề cao chất Nam Bộ trong việc lựa chọn<br /> của việc nghiên cứu văn học dân gian. Do chi tiết đời sống (cách dùng từ chỉ hình<br /> đó, để xác định đó có phải là một "câu dáng địa lí, phương ngữ chỉ các sản vật tự<br /> truyện" hay chỉ là "một cách nói chuyện" nhiên chỉ có ở vùng Cà Mau…), trong việc<br /> thì nó phải đảm bảo các yếu tố sau: sử dụng cách kể chuyện (lối nói đậm chất<br /> - Có ít nhất một môtíp làm yếu tố nòng Nam Bộ, các từ ngữ vay mượn do giao<br /> cốt (chẳng hạn môtíp đánh lừa bằng lời nói thoa văn hóa giữa các dân tộc…), và trong<br /> dối, môtíp sử dụng nhầm đồ vật hay con cách lựa chọn những yếu tố hiện thực để<br /> vật sau đó mới phát hiện ra, hoặc mô-típ nói quá (hiện thực sẵn có và vốn đã phong<br /> nhận ra sự thật sau một thử thách hay hiểu phú, khác với các vùng miền khác là hiện<br /> nhầm, ...). thực ít phong phú). Tuy nhiên, yếu tố thứ<br /> - Có một điểm cao trào (thắt nút) và ba cũng chỉ là sự suy đoán dựa trên cứ liệu<br /> mở nút tạo sự bất ngờ bằng cách nói khoác. văn hóa và lịch sử. Yếu tố này có phần<br /> - Có những lời dẫn dắt giới thiệu tình thuộc về các giá trị được suy ra (do nghiên<br /> <br /> <br /> 97<br /> cứu chẳng hạn) chứ không phải là cái đích bối cảnh của những "nhóm người" cùng<br /> của bản thân câu truyện khi được kể. Mục sáng tác trong phạm vi địa phương, nhưng<br /> tiêu quan trọng nhất vẫn là gợi sự hứng cộng đồng vẫn tìm thấy cái chung trong cái<br /> thú, tò mò và tạo tiếng cười nơi người riêng, cái chất phổ biến bên cạnh cái đặc<br /> nghe. Truyện Ba Phi có những điểm tương thù Nam Bộ. Người ta vẫn cảm thấy thích<br /> đồng với các làng cười ở Việt Nam và cấu thú và dễ dàng cảm nhận tiếng cười vì nền<br /> trúc giống với một số truyện nói khoác ở tảng văn hóa trong truyện Ba Phi không xa<br /> miền Trung hay miền Bắc. Hệ thống môtíp lạ với tư duy người Việt.<br /> của truyện Ba Phi vẫn không có gì vượt KẾT LUẬN<br /> qua kiểu truyện nói trạng ở các làng cười Truyện nói trạng Ba Phi là một tiểu<br /> xứ Bắc. Sự khác biệt quan trọng là kiểu nói loại truyện cười, tương đồng với kiểu<br /> khoác ấy lại chỉ có Bác Ba Phi thực hiện để truyện trong các làng cười Việt Nam. Vì là<br /> ừ ộ ồ ườ e, còn ở Vĩnh truyện có mục đích gây cười nên ý nghĩa<br /> Hoàng và các làng cười khác thì người ta thực sự của truyện Ba Phi nằm ở việc tạo<br /> ừ u. Vì vậy, khi đánh giá cao hay yếu tố thú vị bất ngờ và tiếng cười sảng<br /> khen truyện Ba Phi mà chỉ khen sản vật khoái của người nghe biết mình bị lừa sau<br /> giàu có và phong phú là chưa trúng, khen khi kết thúc truyện. Truyện nói trạng Ba<br /> cái tài năng trong đầu một anh nông dân Phi có chức năng giải trí cho người nghe<br /> Nam Bộ là chưa hợp, khen cái lối nói sau những ngày lao động cực khổ, giúp họ<br /> chuyện đậm chất Nam Bộ là chưa tới. Nếu quên đi cái hiện thực khắc nghiệt. Do đó,<br /> muốn khen là phải tôn vinh sự hòa nhịp việc phản ánh hiện thực đời sống phong<br /> của một cá nhân bác Ba Phi, ở nơi cùng phú và đa dạng cũng có thể là một yếu tố<br /> trời cuối đất vào cái vốn văn hóa cười của kể truyện của thể loại này nhưng nó không<br /> cả dân tộc. Một người con Việt ở mảnh đất phải là đặc trưng, càng không phải là mục<br /> cực Nam của Tổ quốc vẫn bắt nhịp được đích của người kể. Nhìn nhận việc phản<br /> cái dòng chảy âm thầm của những làng, ánh hiện thực và lòng căm thù hay châm<br /> những xóm trên khắp quê hương đất nước biếm trong truyện nói trạng không chỉ đi<br /> trong việc nói trạng tạo tiếng cười. Những chệch hướng của đặc trưng thể loại mà còn<br /> câu truyện của Ba Phi tuy đơn lẻ, đầy cá không phù hợp với hoàn cảnh diễn xướng<br /> tính, không có những người đồng sáng tạo và mong đợi của người nghe.<br /> nhưng không đơn độc. Dù không có những<br /> <br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> 10. Võ Phúc Châu (200 ), “Bước đầu phân biệt Truyền thuyết và Giai thoại”, ì uậ<br /> V – Niên giám 2005, NXB Văn Hóa Sài Gòn & Hội nghiên cứu – Giảng dạy<br /> Văn học TP.HCM, Tp. HCM, tr.<br /> <br /> <br /> 98<br /> 11. Nguyễn Giao Cư - Phan Diên Vỹ - Sơn Hà (sưu tầm), (1 ), Kho V dâ<br /> V N - uy ó ạ , Nxb Đà Nẵng.<br /> 12. Donald Haase (2008), The Greenwood Encyclopedia of Folktales and Fairy Tales,<br /> Greenwood Press, London, p.942-943<br /> 13. Lê Thị Diệu Hà (1 ), T uy ạ P Luận văn Thạc sĩ Văn học, Trường Đại<br /> học KHXH&NV – Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh<br /> 14. Lê Thị Diệu Hà (1 ), “Mô típ truyện trạng Ba Phi trong văn học dân gian Nam Bộ,<br /> Việt Nam”, K y u Hộ K o – Khoa Sư phạm, Trường Đại học Cần Thơ,<br /> tr.153-157<br /> 15. Trần Hoàng (2002), “Những sắc thái độc đáo của tiếng cười dân gian Nam Bộ qua<br /> truyện kể Ba Phi”, Tạ íN ô số .<br /> 16. Đinh Gia Khánh (chủ biên), V dâ V N Nxb Giáo dục, Hà Nội<br /> 17. Vũ Ngọc Khánh, “Vị trí của truyện Ba Phi trong văn chương trào phúng Việt Nam”<br /> Tạ íV ó uậ được dẫn lại trong<br /> http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=2845 truy cập<br /> 12/15/2014 10:24:39 PM<br /> 18. Khoa Ngữ văn Đại học Cần Thơ (1 ), V dâ Đồ bằ sô Cửu<br /> Long, Nxb Giáo dục, Tp. HCM<br /> 19. Phan Thảo Ly (2010), Đặ ể uậ uy ườ V N Luận văn<br /> Thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Cần Thơ.<br /> 20. Mary Ellen Brown and Bruce A. Rosenberg (1998), Encyclopedia of folklore and<br /> Literature, ABC-CLIO,Inc., California, USA, p.643-645<br /> 21. Bùi Mạnh Nhị (1 ), “Truyện trạng Ba Phi – một hiện tượng Văn học dân gian độc<br /> đáo”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2, tr.3 -41<br /> 22. Triều Nguyên (2010) "Nói trạng Vĩnh Hoàng trong hệ thống truyện các làng cười<br /> Việt", Tạ íN u P ể số 2 (7 )<br /> 23. Nguyễn Thị Ngọc San (200 ), Tì ểu ô ì u uy dâ<br /> N ộ ừ 1 75 y luận văn Thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Cần Th
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2