1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
NGUYỄN THỊ VÂN
VẬN DỤNG GIÁ TRỊ HỢP LÝ ĐỂ HOÀN THIỆN
VIỆC LẬP VÀ TRÌNH BÀY BÁO CÁO TÀI CHÍNH
CHO CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NIÊM YẾT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI – 2020
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
NGUYỄN THỊ VÂN
VẬN DỤNG GIÁ TRỊ HỢP LÝ ĐỂ HOÀN THIỆN
VIỆC LẬP VÀ TRÌNH BÀY BÁO CÁO TÀI CHÍNH
CHO CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NIÊM YẾT
CHUYÊN NGÀNH: KẾ TOÁN
MÃ SỐ: 9.34.03.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS,TS. Đoàn Vân Anh
2. TS. Lê Văn Liên
HÀ NỘI - 2020
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi
phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Xác nhận của Ngƣời hƣớng dẫn khoa học 1 Nghiên cứu sinh
PGS.TS Đoàn Vân Anh Nguyễn Thị Vân
Xác nhận của Ngƣời hƣớng dẫn khoa học 2
TS. Lê Văn Liên
4
LỜI CẢM ƠN
Luận án này được hoàn thành là kết quả của những nỗ lực nghiên cứu bền bỉ,
nghiêm túc của tác giả sau ba năm học tập, nghiên cứu cùng với sự giúp đỡ cả về vật
chất và tinh thần, những lời động viên vô cùng đáng quý của gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp.
Trước hết, tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô Khoa Kế toán Học viện
Tài chính, các nhà khoa học, các đồng nghiệp đã luôn nhiệt tình cung cấp cho tôi tài
liệu chuyên môn bổ ích cũng như các ý kiến đóng góp vô cùng quý giá để tôi hoàn
thành Luận án này. Đặc biệt, tôi vô cùng biết ơn hai thầy, cô hướng dẫn là PGS.TS
Đoàn Vân Anh và TS. Lê Văn Liên đã giúp tôi có định hướng nghiên cứu rõ ràng và tư
duy khoa học vững vàng trong suốt thời gian thực hiện luận án này.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn các công ty chứng khoán, các nhà đầu tư,
các kiểm toán viên, các thẩm định viên về giá, các nhà nghiên cứu đã dành thời gian
cho các cuộc phỏng vấn, hoặc trả lời phiếu khảo sát, quý vị đã góp phần đã tạo điều
kiện giúp đỡ để tôi có được những dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu của Luận án.
Trân trọng cảm ơn!
5
6
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Viết tắt
Tiếng Việt
Tiếng Anh
AASB
Hội đồng chuẩn mực kế toán Úc
Australia Accounting
Standard Board
Financial statement
BCTC
Báo cáo tài chính
CMKT
Chuẩn mực kế toán
Accounting Standard
CTCK
Công ty chứng khoán
Stock company
DN
Doanh nghiệp
Enterprise
GTHL
Giá trị hợp lý
Fair value
HCA
Kế toán theo giá gốc
History Cost Accounting
IFRS
Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
International Financial
Reporting Standards
IASB
Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế
International Accounting
Standard Board
IAS
Chuẩn mực kế toán quốc tế
International Accounting
Standards
TSCĐ
Tài sản cố định hữu hình
Tangible Asset
TTCK
Thị trường chứng khoán
Stock market
VAS
Chuẩn mực kế toán Việt Nam
Vietnam Accounting
Standards
US GAAT Các nguyên tắc kế toán Mỹ được chấp
US. Generally Accepted
nhận
Accounting Principles
7
MỤC LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG I. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LẬP VÀ TRÌNH BÀY BÁO
24
CÁO TÀI CHÍNH THEO GIÁ TRỊ HỢP LÝ
1.1. Khái quát chung về hệ thống Báo cáo tài chính
24
1.1.1. Khái niệm Báo cáo tài chính
24
1.1.2. Mục đích, tác dụng của hệ thống Báo cáo tài chính
25
1.1.3. Các yếu tố và nội dung của Báo cáo tài chính
28
1.2. Tổng quan về giá trị hợp lý và việc ghi nhận và trình bày thông tin
35
các yếu tố của Báo cáo tài chính
1.2.1. Sự hình thành và phát triển mô hình giá trị hợp lý trong kế toán
35
1.2.2. Các phương pháp xác định giá trị hợp lý
49
1.2.3. Ghi nhận các yếu tố của Báo cáo tài chính theo giá trị hợp lý
53
1.3. Nguyên tắc, phương pháp lập và trình bày Báo cáo tài chính theo giá
55
trị hợp lý
1.3.1. Nguyên tắc lập và trình bày Báo cáo tài chính theo giá trị hợp lý
55
1.3.2. Phương pháp lập và trình bày các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính
55
theo giá trị hợp lý
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến lập và trình bày Báo cáo tài chính theo
61
giá trị hợp lý
1.5. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới khi vận dụng giá trị hợp
64
lý và bài học cho Việt Nam
1.5.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới đối với vận dụng giá trị
64
hợp lý khi lập và trình bày Báo cáo tài chính
1.5.2. Bài học kinh ngiệm cho Việt Nam khi lập và trình bày Báo cáo tài
74
chính theo giá trị hợp lý
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG GIÁ TRỊ HỢP LÝ KHI
77
LẬP VÀ TRÌNH BÀY BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG
TY CHỨNG KHOÁN NIÊM YẾT CỦA VIỆC NAM
2.1. Khái quát chung về các công ty chứng khoán niêm yết của Việt
77
Nam
8
2.1.1. Quá trình hình thành, phát triển công ty chứng khoán niêm yết của
77
Việt Nam
2.1.2. Khái quát đặc điểm kinh doanh của các công ty chứng khoán chi
86
phối đến việc lập và trình bày Báo cáo tài chính theo giá trị hợp lý
2.2. Thực trạng vận dụng giá trị hợp lý khi lập và trình bày Báo cáo tài
93
chính của các công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam
2.2.1. Khái quát chung
93
2.2.2. Thực trạng lập và trình bày các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính theo
96
giá trị hợp lý tại các công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam
2.3. Đánh giá thực trạng
106
2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc vận dụng giá trị hợp lý khi lập và
110
trình bày Báo cáo tài chính cho công ty chứng khoán tại Việt Nam
2.4.1. Về yếu tố thị trường hoạt động
110
2.4.2. Yếu tố văn hóa
111
2.4.3. Yếu tố nhân sự
112
2.4.4. Về trình độ quản lý
112
2.4.5. Về khả năng áp dụng
113
2.4.6. Về sức ép của các tổ chức quốc tế
113
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN LẬP VÀ TRÌNH BÀY
115
BÁO CÁO TÀI CHÍNH CHO CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NIÊM
YẾT CỦA VIỆT NAM KHI VẬN DỤNG GIÁ TRỊ HỢP LÝ
3.1. Định hướng phát triển của các công ty chứng khoán niêm yết của
115
Việt Nam
3.1.1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán
115
3.1.2. Định hướng phát triển công ty chứng khoán
115
3.2. Yêu cầu hoàn thiện về lập và trình bày Báo cáo tài chính cho các
118
công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam khi vận dụng giá trị hợp lý
3.3. Các giải pháp hoàn thiện lập và trình bày Báo cáo tài chính cho các
120
công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam khi vận dụng giá trị hợp lý
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp lý của Việt Nam về lập và
120
trình bày Báo cáo tài chính khi vận dụng giá trị hợp lý
3.3.2. Hoàn thiện về việc đo lường các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính
129
9
3.3.3. Hoàn thiện về việc ghi nhận chênh lệch đánh giá lại các chỉ tiêu
132
trên Báo cáo tài chính sau khi xác định theo giá trị hợp lý tại các công ty
chứng khoán niêm yết
3.3.4. Hoàn thiện việc lập và trình bày thông tin trên Báo cáo tài chính
133
3.4. Lộ trình áp dụng
139
3.5. Đánh giá tính khả thi và phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam
140
3.5.1. Về khả năng áp dụng giá trị hợp lý ở Việt Nam
140
3.5.2. Về khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc áp dụng giá trị hợp lý
141
3.6. Điều kiện thực hiện được giải pháp
144
3.6.1. Về thị trường
144
3.6.2. Về nguồn nhân lực, vật lực
146
3.6.3. Về sự hợp tác giữa cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp
148
3.6.4. Về công tác đào tạo, tuyên truyền
149
151
KẾT LUẬN
153
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
10
CÁC PHỤ LỤC
1
Phụ lục 01 Danh sách các công ty chứng khoán niêm yết
2
Phụ lục 02 Danh sách các chuẩn mực kế toán Việt Nam
4
Phụ lục 03 Danh mục các chuẩn mực kế toán
5
Phụ lục 04 Danh mục các đối tượng khảo sát, phỏng vấn
6
Phụ lục 05 Giới thiệu tóm tắt về Chuẩn mực báo cáo tài chính số 13 đo lường giá trị hợp
lý
9
Phụ lục 06 Phiếu khảo sát sử dụng để khảo sát các công ty chứng khoán niêm yết
Phụ lục 07 Phiếu khảo sát sử dụng để khảo sát các kiểm toán viên và thẩm định giá viên 17
23
Phụ lục 08 Phiếu khảo sát sử dụng để khảo sát các nhà đầu tư
29
Phụ lục 09 Phiếu khảo sát sử dụng để khảo sát các nhà nghiên cứu, giảng viên
35
Phụ lục 10 Kết quả khảo sát các công ty chứng khoán niêm yết
40
Phụ lục 11 Kết quả khảo sát các kiểm toán viên và thẩm định viên về giá
44
Phụ lục 12 Kết quả khảo sát các nhà đầu tư
49
Phụ lục 13 Kết quả khảo sát các nghiên cứu viên và các chuyên gia Bộ Tài chính
53
Phụ lục 14 Hộp thông tin
Phụ lục 15 Trích dẫn báo cáo tài chính của công ty chứng khoán SSI
11
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số thứ tự
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1
Kết quả hoạt động kinh doanh chính của CTCK Việt Nam giai
82
đoạn 2014-2017
Bảng 2.2
Hoạt động kinh doanh của các công ty chứng khoán
86
12
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
Số thứ tự
Tên biểu đồ
78
Biểu đồ 2.1
Số lượng CTCK Việt Nam qua các năm
80
Biểu đồ 2.2
Số lượng CTCK niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt
Nam
80
Biểu đồ 2.3
So sánh số lượng CTCK niêm yết so với các công ty
chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam
82
Biểu đồ 2.4
Doanh thu, lợi nhuận của CTCK Việt Nam
83
Biểu đồ 2.5
Cơ cấu doanh thu của các công ty chứng khoán trong năm
2017
83
Biểu đồ 2.6
Doanh thu từ các nghiệp vụ trong CTCK qua các năm
85
Biểu đồ 2.7
Doanh thu, lợi nhuận năm 2017 của một số CTCK niêm yết
hàng đầu ở Việt Nam
101
Biểu đồ 2.8
Việc ghi nhận và trình bày các chỉ tiêu tài sản liên quan đến
giá trị hợp lý trên BCTC
103
Biểu đồ 2.9
Việc ghi nhận và trình bày các chỉ tiêu nợ phải trả liên quan
đến giá trị hợp lý trên BCTC
104
Biểu đồ 2.10 Việc ghi nhận và trình bày các chỉ tiêu doanh thu liên quan
đến giá trị hợp lý trên BCTC
105
Biểu đồ 2.11 Việc ghi nhận và trình bày các chỉ tiêu chi phí liên quan
đến giá trị hợp lý trên BCTC
131
Biểu đồ 3.01 Khuôn mẫu xác định GTHL
13
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Báo cáo tài chính (BCTC) là sản phẩm của kế toán tài chính, là đầu ra của hệ
thống thông tin kế toán tài chính. Mục đích của BCTC là cung cấp thông tin tài
chính hữu ích về doanh nghiệp (DN) cho những người quan tâm và sử dụng BCTC.
BCTC là nguồn thông tin quan trọng trong việc ra quyết định đầu tư.
Theo xu hướng chung của nền kinh tế toàn cầu, hầu hết các nước đều áp
dụng thông lệ quốc tế về kế toán và được các nước sử dụng như một ngôn ngữ
chung để đo lường, ghi nhận và trình bày thông tin BCTC DN. Thông lệ quốc tế về
kế toán như chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS)/chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
(IFRS), giá trị hợp lý (GTHL) được sử dụng ngày càng nhiều trong đo lường, ghi
nhận và trình bày thông tin các yếu tố của BCTC như IAS 16 – TSCĐ hữu hình;
IAS 36 – Suy giảm giá trị tài sản; IAS 38 – Tài sản vô hình; IAS 40 - Bất động sản
đầu tư; IFRS 2 – Thanh toán trên cơ sở cổ phiếu; IFRS 9 – Xác định giá trị công cụ
tài chính; IFRS 07 - Thuyết minh về công cụ tài chính; IFRS 05 - Tài sản nắm giữ
để bán và hoạt động kinh doanh không liên tục; … việc áp dụng GTHL trong kế
toán buộc các DN phải cập nhật thường xuyên sự thay đổi giá trị tài sản, nợ phải trả
dựa trên cơ sở thị trường, theo đó BCTC sẽ cung cấp thông tin về tình hình tài sản,
nợ phải trả thực có của DN trên BCTC phù hợp với thời điểm công bố thông tin.
Đây là những thông tin vô cùng quan trọng và hữu ích cho chính DN và các đối
tượng sử dụng thông tin ở bên ngoài DN. Dựa theo các khuôn mẫu này, BCTC DN
sẽ cung cấp thông tin toàn diện, đúng đắn, kịp thời và có tính so sánh về toàn bộ
tình hình tài chính DN, theo đó nhà đầu tư có đầy đủ hơn các thông tin tài chính
của DN nói riêng và thông tin về thị trường vốn nói chung, chất lượng thông tin cao
hơn, tính minh bạch rõ ràng hơn sẽ làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư trong việc
đưa ra quyết định kinh tế. Bên cạnh đó, các thông tin trên BCTC có tính so sánh sẽ
giúp cho các nhà đầu tư giảm chi phí trong việc xử lý thông tin kế toán.
Ở Việt Nam hiện nay, nguyên tắc “GTHL” đã được đưa vào trong quy định
của Luật Kế toán (sửa đổi) số 88/2015/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 20
tháng 11 năm 2015, nhưng hiểu và vận hành kế toán theo GTHL vẫn là vấn đề rất
14
mới và khó đối với Việt Nam. Thực tế hiện nay, hầu hết các DN đều sử dụng giá
gốc cho việc ghi nhận và trình bày BCTC trên cơ sở tuân thủ quy định của 26
chuẩn mực kế toán (CMKT) Việt Nam (VAS) và hướng dẫn của Thông tư
200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014.
Riêng đối với các công ty chứng khoán (CTCK), từ năm 2017 bắt đầu áp
dụng GTHL khi ghi nhận, đo lường và trình bày BCTC theo hướng dẫn của Thông
tư 210/2014/TT-BTC và Thông tư 334/2016/TT-BTC. Các thông tư này đã bước
đầu tiếp cận GTHL cho các tài sản tài chính, đã có quy định về việc ghi nhận
GTHL của tài sản tài chính tại thời điểm lập BCTC, tuy nhiên những quy định của
Việt nam về lập và trình bày BCTC DN nói chung và các CTCK niêm yết nói riêng
vẫn còn tồn tại khoảng cách đáng kể so với những quy định khuôn mẫu của quốc tế
do Việt Nam còn thiếu quá nhiều các quy định khuôn mẫu về GTHL áp dụng cho
các đối tượng đã phát sinh liên quan đến các loại giao dịch như thanh toán bằng cổ
phiếu, công cụ tài chính, tổn thất tài sản…Bên cạnh đó, những CMKT đã ban hành
và các thông tư hướng dẫn kế toán thì chưa có quy định cụ thể liên quan tới việc
đánh giá lại tài sản và nợ phải trả theo GTHL tại thời điểm lập báo cáo, đặc biệt
vấn đề hạ tầng thông tin cho việc xác định GTHL của tài sản và nợ phải trả ở Việt
Nam còn nhiều giới hạn bởi những yếu tố thuộc về thị trường hoạt động, các kỹ
thuật định giá chưa được nghiên cứu và hoàn thiện để phù hợp thông lệ quốc tế. Sự
thiếu đồng bộ trong các chính sách của nhà nước đã gây khó khăn cho DN trong
các vấn đề về kế toán. Do đó, việc xác định GTHL và ghi nhận, trình bày thông tin
các yếu tố trên BCTC theo GTHL ở các DN nói chung và tại các CTCK niêm yết
của Việt Nam nói riêng hiện nay còn nhiều điều bất cập, hệ quả làm suy giảm tính
trung thực, hợp lý của BCTC và chưa phù hợp với khuôn mẫu IAS/IFRS.
Để vận hành được nguyên tắc “GTHL” trong thực tiễn kế toán ở Việt Nam,
đảm bảo phù hợp với thông lệ chung của quốc tế, qua đó triển khai được quy định
của Luật kế toán Việt Nam, đưa nguyên tắc “GTHL” vào thực tiễn cuộc sống thì
việc nghiên cứu cơ sở lý luận, điều kiện, phương pháp vận dụng “GTHL” khi lập và
trình bày BCTC trở thành một vấn đề cấp thiết. Đề tài lựa chọn khách thể nghiên
cứu là các CTCK niêm yết của Việt Nam bởi CTCK có danh mục tài sản và danh
mục đầu tư chủ yếu là các tài sản đang được niêm yết trên TTCK do đó việc yêu
15
cầu các CTCK phải lập và trình bày BCTC theo GTHL là tất yếu vì thông tin trên
BCTC cung cấp thông tin cho nhà đầu tư sát với thị trường. Đây là đối tượng đang
bắt buộc áp dụng GTHL trong ghi nhận và trình bày thông tin BCTC và hiện đang
gặp rất nhiều những khó khăn, bất cập trong các vấn đề của kế toán khi áp dụng
GTHL. Việc lập và trình bày BCTC của CTCK niêm yết của Việt Nam khi vận
dụng GTHL còn nhiều hạn chế do còn thiếu rất nhiều các quy định pháp luật liên
quan đến việc xác định GTHL, việc ghi nhận và trình bày các BCTC theo GTHL
tại Việt Nam. Ngoài ra, việc xác định GTHL và ghi nhận các yếu tố trên báo cáo
theo GTHL ở các công ty này còn nhiều điều bất cập cần hoàn thiện.
Từ những lý do trên, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài "Vận dụng GTHL để
hoàn thiện việc lập và trình bày BCTC cho công ty chứng khoán niêm yết của
Việt Nam" để nghiên cứu, nhằm hoàn thiện việc lập và trình bày BCTC cho CTCK
niêm yết của Việt Nam trong điều kiện áp dụng GTHL, đảm bảo phù hợp với
khuôn mẫu chung của quốc tế về kế toán.
2. Tổng quan nghiên cứu về áp dụng giá trị hợp lý và việc lập và trình
bày Báo cáo tài chính doanh nghiệp
2.1 Nghiên cứu về áp dụng giá trị hợp lý trong kế toán
Vấn đề áp dụng GTHL trong kế toán được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và
có nhiều bình luận đa chiều về vấn đề này.
Omiros Georgious (40) có một nghiên cứu về các đề xuất của nhà hoạch định
vào giữa thế kỷ 19 đến năm 2005 để thiết lập một cơ sở xác định giá trị cho việc lập
BCTC. Kế toán theo giá gốc áp dụng phổ biến cho giai đoạn những năm 1940 đến
những năm 70 và sau đó là việc xác định giá trị hỗn hợp kết hợp giá thị trường trở
nên phổ biến. Mặc dù nguyên tắc kế toán GTHL đã được hợp pháp hóa áp dụng
rộng rãi, mọi người cho rằng có được như vậy là do có cơ sở xác định giá trị hỗn
hợp trước đó.
Theo Peter William (41), nền tảng của CMKT là từ nguyên tắc giá gốc sang
nguyên tắc GTHL theo đó quyết định của nhà đầu tư dựa theo dòng tiền trong
tương lai. Báo cáo theo giá gốc đã được thay thế bằng báo cáo theo “giá trị hỗn
hợp”. Tác giả khẳng định rằng cơ sở giá trị hỗn hợp chứ không phải là cơ sở giá
gốc và cơ sở giá hiện hành sẽ trở thành phổ biến cho BCTC bắt đầu từ thế kỷ 19.
16
Christian Laux (22) khủng hoảng tài chính gần đây là một trong những
nguyên nhân dẫn đến một cuộc tranh luận mạnh mẽ về ưu điểm và nhược điểm của
kế toán GTHL (FVA). Cuộc tranh luận này đưa ra thách thức lớn đối với sự phát
triển FVA và mở rộng áp dụng kế toán theo GTHL ra các lĩnh vực khác. Tác giả
nhấn mạnh 4 vấn đề quan trọng cần xem xét từ các tranh luận này: Thứ nhất là có
hiểu nhầm về kế toán GTHL; Thứ hai là trong thời gian khủng hoảng tài chính,
không có quy định rõ ràng về việc áp dụng FVA trong CMKT IFRS hay US
GAAP; Thứ ba là kế toán theo giá gốc (HCA) không phải là cách để giải quyết các
vấn đề tồn tại; Thứ tư là các vấn đề áp dụng GTHL và các vấn đề tranh cãi.
FVA là yếu tố quan trọng trong cuộc khủng hoảng tài chính và làm cho các
tổ chức tài chính ở Mỹ và toàn thế giới trở nên tồi tệ. Tuy nhiên, những người ủng
hộ FVA cho rằng kế toán theo GTHL không phải chịu trách nhiệm của cuộc khủng
hoảng, nó không phải là cơ sở xác định giá trị duy nhất đối với giá trị tài sản.
Tác giả cho rằng việc giảm các thuyết minh về FVA theo bản chất của nó
không tuân thủ tuyệt đối như công bố của US GAAP hay IFRS đối với FVA. Cả
hai hệ thống chuẩn mực đều cho phép có sự khác biệt so với giá thị trường trong
một số trường hợp cụ thể. Tác giả khẳng định áp dụng FVA trong thực tế như việc
ban lãnh đạo DN có thể sử dụng loại giá khác so với giá trị thị trường một cách cố
ý để tránh khoản lỗ hoặc tổn thất. HCA có hàng loạt các vấn đề và đối với các tài
sản cụ thể, thiếu thông tin minh bạch dẫn đến các vấn đề trở nên tồi tệ hơn trong
thời gian khủng hoảng. Tác giả nhấn mạnh cần nhiều nghiên cứu để trả lời câu hỏi
liệu giá thị trường bị chi phối bởi các thẩm định giá viên trong khủng hoảng này
không và nhiều bằng chứng về FVA có tác động bởi các định giá viên đối với tài
sản.
Vera Palea (43) cho rằng BCTC theo GTHL cung cấp thông tin hữu ích đối
với người sử dụng BCTC. Báo cáo theo GTHL được kỳ vọng để đảm bảo sự minh
bạch của BCTC theo đó sẽ tạo ra thông tin kế toán có giá trị cao hơn và khả năng
tốt hơn của thị trường tài chính để phản ánh giá trị thực tế của DN. Việc sử dụng
rộng rãi BCTC theo GTHL sẽ tăng số lượng thông tin cá nhân ra công chúng do đó
dẫn đến việc phân bổ nguồn lực và thông tin về vốn hiệu quả hơn.
Tác giả đã phác họa nền tảng mang tính lý thuyết cho việc thông qua, cung
17
cấp bằng chứng về tính hiệu quả đối với nhà đầu tư và nhấn mạnh các vấn đề còn
đang tranh cãi. Nó hữu ích đối với các tài liệu về BCTC theo GTHL bằng cách hệ
thống hóa các vấn đề lý thuyết và các bằng chứng thực tế do đó sẽ đưa ra bức tranh
toàn cảnh về vấn đề này. Trong hai thập kỷ gần đây, kế toán theo GTHL đang trong
xu thế được coi trọng hơn. Điều này đánh dấu một sự khởi đầu quan trọng so với kế
toán truyền thống của những thế kỷ trước trong việc ghi chép sổ sách theo giá gốc.
Kế toán giá gốc bị phản đối chủ yếu dựa trên cơ sở rằng kế toán giá gốc không
phản ánh giá trị thực tế hoặc không định giá được giá trị thuần một cách cập nhật
nhất. Kết quả là, hội đồng CMKT quốc tế (IASB) dù chậm nhưng đã liên tục
chuyển từ báo cáo theo giá gốc sang báo cáo theo GTHL.
Hiện nay, mô hình BCTC vẫn đang bao gồm sự hòa trộn giữa giá gốc và
GTHL. Tuy nhiên, hầu hết những nhà xây dựng chuẩn mực đã nhận ra rằng kế toán
theo GTHL cần được duy trì và dường như sẽ trở thành nền tảng báo cáo chủ chốt
cho kế toán tài chính trong tương lai. Theo như cách nhìn nhận này, một ví dụ là
Chuẩn mực IFRS số 9 - Công cụ tài chính đã đưa ra cách xác định GTHL của các
công cụ tài chính. Cơ sở khoa học cho việc lựa chọn này là nên sử dụng GTHL thì
các BCTC sẽ cung cấp thông tin hữu ích nhiều hơn cho các quyết định của nhà đầu
tư.
Theo IASB, những nhà đầu tư và những người cho vay cần các thông tin mà
sẽ giúp họ tính toán được số lượng, vòng quay và tình trạng thay đổi của các dòng
tiền thuần trong tương lai đối với DN (IASB, 2010 OB3). Trong bối cảnh như vậy,
sử dụng kế toán theo GTHL sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin hữu
ích để tiên đoán được khả năng của các công ty sản sinh ra các dòng tiền như thế
nào từ những nguồn lực chủ yếu đang có. GTHL cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc giảm thiểu sự mất cân đối trong việc cung cấp thông tin cho các DN và
các nhà đầu tư.
Cựu chủ tịch của IASB, ông Tweedie, lý giải lý do mở rộng GTHL như sau:
Trong một thời gian dài, các khoản thu nhập đã nỗ lực được “làm đẹp” để chỉ cho
các nhà đầu tư một xu hướng đi lên vững chắc của lợi nhuận. Trong khi cách tiếp
cận này cung cấp một mô hình đơn giản và dễ hiểu, nó dường như không đồng nhất
với thực tế. Các DN có lợi ích công chúng là các DN đa ngành nghề, vận hành
18
chuỗi các hoạt động rộng lớn và chịu các áp lực và sự thay đổi bất thường của thị
trường một cách đa dạng. Kế toán nên phản ánh những sự thay đổi bất thường và
những rủi ro này. Điều này cho thấy là sự tin tưởng GTHL đang gia tăng, khi mà
những giá trị này có thể được xác định một cách đáng tin cậy.
Kế toán theo GTHL phản ảnh tình hình thị trường hiện tại của công ty, tạo
nên mối liên hệ của nó với sự hữu ích của các quyết định (Cheng, 2009). Tuy
nhiên, nhiều người khác cho rằng giá gốc vẫn tạo ra nền tảng đo lường logic nhất
cho các BCTC, vì vậy nó sẽ thận trọng và đáng tin cậy hơn (Godfrey et al, 2010).
GTHL có lợi thế là nó cung cấp một thước đo về hiệu quả của khoản đầu tư.
Tuy nhiên, nghiên cứu đã đưa ra nghi ngờ về khả năng thật sự GTHL cung cấp
thông tin liên quan cho nhà đầu tư, những người phản đối GTHL thì ủng hộ các
BCTC theo giá gốc. Trên thực tế, giá gốc là hữu ích cho nhà đầu tư vì 2 lý do chính
sau: nó dựa trên giao dịch thực tế chứ không phải là có khả năng; và nó cung cấp
cho nhà đầu tư thước đo các nguồn lực thực sự chi ra để có được khoản đầu tư.
Do vậy, tranh luận về đo lường trong kế toán luôn luôn giằng co giữa việc
lựa chọn giữa GTHL và giá gốc, giữa cách cũ khi cung cấp thông tin trung thực
hơn về tình hình hoạt động thực tế cho dù nó không phải luôn đáng tin cậy với cách
mới theo quan điểm bảo thủ hơn, đáng tin cậy hơn và cũng theo ý đồ của ban quản
lý hơn.
Tác giả đề xuất những tranh luận trên cần phải điều chỉnh lại và không nên
cân nhắc việc lựa chọn giữa GTHL và giá gốc. Lựa chọn giữa giá gốc và giá hợp lý
là việc phải loại bỏ một trong 2 mục tiêu đã được quy định trong khuôn mẫu của
IASB.
Hệ thống báo cáo và xác định giá trị song song có thể giải pháp song song
cho các tranh luận này. Giá gốc và GTHL là cung cấp hai loại thông tin khác nhau
và đều có tác dụng cho nhà đầu tư. Tại thời điểm mua, GTHL và giá gốc trong hầu
hết các trường hợp là như nhau nhưng chúng thường khác nhau ở các kỳ sau. Sau
ngày mua, kế toán theo giá gốc và kế toán theo GTHL cung cấp các thông tin khác
nhau. GTHL rất cần khi xếp loại các lựa chọn đầu tư mang tính cạnh tranh nhau.
Báo cáo DN đã đầu tư để mua tài sản hết bao nhiêu thì không có đủ thông tin, vì nó
không có nhiều thông tin về chất lượng khoản đầu tư. Để đánh giá chất lượng
19
khoản đầu tư đó, người sử dụng cần biết khoản đầu tư đó sẽ mang lại lợi nhuận bao
nhiêu trong tương lai. Với suy nghĩ thận trọng về sự đáng tin cậy của các ước tính
về GTHL, báo cáo theo GTHL cung cấp thông tin hữu ích cho nhà đầu tư về lợi
nhuận kỳ vọng từ các khoản đầu tư.
Mặt khác, chỉ có GTHL thì không thể giúp nhà đầu tư đánh giá được thỏa
đáng về ban giám đốc DN đối với số tiền vốn mà họ bỏ ra. Trên thực tế, người sử
dụng BCTC sẽ không biết ban giám đốc đã chi tiết hết bao nhiêu nguồn lực để có
được GTHL đó. Do đó, giá gốc sẽ hữu ích và kiểm soát được các quyết định vì nó
phản ánh số tiền đã phải chi ra. Trong cùng một khoảng thời gian xác định, hai đơn
vị khác nhau sở hữu một nguồn lực như nhau thì sẽ có cùng GTHL như nhau nhưng
GTHL không thể cung cấp thông tin cho nhà đầu tư biết DN đã thanh toán số tiền
khác nhau cho cùng một tài sản như nhau. Để đánh giá hiệu quả về ban giám đốc,
thông tin GTHL là không đủ. Người sử dụng cũng cần biết giá gốc của khoản đầu
tư.
Tóm lại, bài báo này cho rằng giá gốc và GTHL không nên coi là đối thủ của
nhau mà cả hai đều rất hữu ích. Nếu cố chọn chỉ một trong 2 thì rất khó cho người
sử dụng BCTC có được đầy đủ thông tin hữu ích cho việc ra quyết định. Vì lý do
này, hệ thống báo cáo và xác định giá song song sẽ là giải pháp tốt nhất khi đánh
giá hiệu quả đầu tư. So sánh các sự kiện trong tương lai (ví dụ GTHL) với các sự
kiện trong quá khứ (ví dụ là giá gốc) sẽ giúp người sử dụng BCTC đánh giá các hoạt
động kinh doanh đã đạt được và hoạch định các hoạt động trong tương lai và các mục
tiêu để ra quyết định.
Các nghiên cứu khoa học là nguồn thông tin rất tốt cho những người soạn
thảo chuẩn mực và làm chính sách vì việc lập BCTC thường rất phức tạp, rất khó
và rất rộng. Các nghiên cứu khoa học có thể cung cấp các giải pháp tốt, nó có thể
giúp những người soạn thảo chuẩn mực và những người hoạch định chính sách, tìm
ra các giải pháp tốt cho các vấn đề đang nghiên cứu và cung cấp thêm các bằng
chứng cho các vấn đề đang tranh cãi. Với quan điểm đó, mục đích của nghiên cứu
này nhằm thảo luận về tác dụng của GTHL đối với người sử dụng BCTC bằng cách
mô tả cơ sở lý thuyết cho việc áp dụng GTHL và cung cấp bằng chứng về tác dụng
của GTHL cho nhà đầu tư. Nghiên cứu này còn đưa ra các đề xuất cho những
20
người soạn thảo chuẩn mực và những người làm chính sách.
GTHL của tài sản và nợ phải trả phản ánh điều kiện thị trường hiện hành và
do đó, cung cấp thông tin kịp thời tăng tính minh bạch. Ngược lại, những người
phản đối cho rằng GTHL không đáng tin cậy và dễ gây hiểu sai lệch đối với những
tài sản nắm giữ lâu dài hoặc nắm giữ đến ngày đáo hạn. Giá đó có thể bị bóp méo
do thị trường hoạt động không hiệu quả, các vấn đề về tính thanh khoản; và giá hợp
lý dựa trên cơ sở không đáng tin cậy. Nhiều tình huống thực tế được phản ánh về tính
đáng tin cậy về các ước tính GTHL và do đó trong các cuộc tranh luận đề cập trở lại kế
toán theo giá gốc.
Nghiên cứu này đề xuất giá gốc và GTHL không nên trở nên đối thủ của
nhau vì chúng phục vụ các mục đích khác nhau. Giá gốc cung cấp cho nhà đầu tư
về thông tin về giá phí khoản đầu tư, trong khi GTHL đưa ra cách đo lường giá trị
mà ban giám đốc kỳ vọng thu được từ khoản đầu tư. Nghiên cứu này cho rằng cả
giá gốc và GTHL đều cần vì chúng cùng cung cấp thông tin hữu ích cho nhà đầu
tư. Kết luận chung là các nhà soạn thảo chuẩn mực nên xem xét và thảo luận về
việc áp dụng hệ thống báo cáo và đo lường song song.
Về các nghiên cứu trong nước, Mai Ngọc Anh (4) cho rằng việc sử dụng
GTHL trong các CMKT là một bước đi cần thiết trước sự phát triển nhanh chóng
của nền kinh tế thị trường, sự phức tạp trong các quan hệ đầu tư, tài chính và nhu
cầu sử dụng thông tin tài chính. Tuy nhiên, tác giả cũng cho rằng không nên sử
dụng là một cơ sở định giá duy nhất cho mọi tài sản và nợ phải trả mà nên duy trì
mô hình kết hợp các cơ sở định giá khác nhau. Trong đó giá trị hợp lý được khuyến
khích áp dụng trong những điều kiện tồn tại thị trường hoạt động cho tài sản hoặc
nợ phải trả hoàn toàn giống về bản chất hoặc tương tự có thể so sánh. Đó là những
trường hợp mà giá trị hợp lý được xác định một cách đáng tin cậy, đảm bảo được
sự cân bằng hợp lý giữa yêu cầu "đáng tin cậy" và "thích hợp" của thông tin tài
chính.
Mai Ngọc Anh, Lưu Đức Tuyên (7) đã có nghiên cứu về việc áp dụng GTHL
trong hệ thống kế toán ở Việt Nam. Nghiên cứu đã trình bày tổng quan về GTHL
trong đó có khái quát lịch sử của GTHL; Các quan điểm về GTHL; Áp dụng GTHL
trong hệ thống kế toán DN; Kinh nghiệm áp dụng GTHL trong hệ thống kế toán tại
21
một số quốc gia trên thế giới. Đề tài đã phân tích về thực trạng các quy định hiện
hành về GTHL và áp dụng GTHL trong hệ thống kế toán DN ở Việt Nam. Ngoài
ra, đề tài đã đề xuất việc áp dụng GTHL trong hệ thống kế toán Việt Nam. Cụ thể
đề tài đã phân tích về bối cảnh chi phối đến khả năng áp dụng GTHL trong hệ
thống kế toán ở Việt Nam trong thời gian tới, đề xuất các quy định pháp lý về
GTHL trong hệ thống kế toán Việt Nam, đề xuất các giải pháp áp dụng GTHL ở
DN Việt Nam, khuyến nghị lộ trình và các điều kiện áp dụng GTHL trong hệ thống
kế toán Việt Nam.
2.2 Nghiên cứu về đo lường theo giá trị hợp lý trong kế toán
David Cairns (23) đã thực hiện điều tra việc xác định GTHL của 228 công ty
niêm yết trên TTCK Anh và Australia trong thời gian áp dụng IFRS năm 2005. Tác
giả đã so sánh giữa các công ty lựa chọn chính sách bắt buộc áp dụng GTHL hoặc
khuyến khích áp dụng GTHL. Yêu cầu bắt buộc áp dụng FVA liên quan đến các
công cụ tài chính (IAS 39) và thanh toán trên cơ sở cổ phiếu (IFRS 2) đã tăng khả
năng so sánh. Lựa chọn khuyến khích áp dụng GTHL liên quan đến bất động sản
(IAS 16) dẫn đến có nhiều sự khác biệt do nhiều công ty không áp dụng GTHL.
Lựa chọn sử dụng GTHL đối với các tài sản vô hình, tài sản hữu hình, bất động sản
đầu tư không được thực hiện bắt buộc, hoặc phải xác định giá trị liên tục. Tác giả
chỉ ra do cách tiếp cận quá thận trọng và thiếu sự khuyến khích tất cả các DN áp
dụng GTHL.
Việc so sánh giữa các công ty là vấn đề cổ đông rất quan tâm vì khả năng có
thể so sánh để có thông tin tài chính chất lượng cao. Liên quan đến quy định bắt
buộc áp dụng FVA, tác giả thấy rằng có sự tăng lên trong việc sử dụng GTHL đối
với công cụ tài chính và thanh toán bằng cổ phiếu dẫn đến việc tăng khả năng so
sánh giữa các công ty. Tăng việc sử dụng xác định GTHL sẽ là hữu ích đối với nhà
đầu tư. Tác giả cung cấp thông tin về việc những người lập BCTC được lựa chọn
chính sách theo hướng dẫn của IFRS và liên quan đến việc thông tin cho những
người tham gia thị trường vốn về việc áp dụng IFRS. Theo tác giả, đối với việc
được lựa chọn áp dụng xác định GTHL có thể xảy ra sai sót cố ý hoặc không cố ý
trong BCTC điều này có thể ảnh hưởng đến nhà đầu tư và nhà phân tích. Mặt khác,
việc sử dụng giá gốc nhiều dẫn đến có ít thông tin cập nhật được cung cấp điều này
22
có thể không phù hợp với nhu cầu có thêm thông tin liên quan của người sử dụng
BCTC.
Cain, Alexandra (21) đã tổng hợp các nghiên cứu thực tế: (1) Simon, giám
đốc công ty định giá cho rằng một vấn đề đối với GTHL là mọi người sử dụng khái
niệm này theo các cách khác nhau; (2) Anne Lockwood FCA, chủ phần hùn kiểm
toán công ty Crowe Horwath, cho rằng một trong những vấn đề chính của GTHL là
quá nhiều xét đoán khi sử dụng “có rất nhiều ước tính khi xác định GTHL. Nền
kinh tế thế giới luôn biến động làm cho GTHL tiếp tục vận động” . Tác giả rút ra
kết luận là có sự không nhất quán trong cách thức áp dụng GTHL khi kế toán bất
động sản của các DN; (3) Lynda Tomkins CA, chủ phần hùn công ty Ernst&Young
cho rằng kế toán có rất nhiều xét đoán. Lynda cho rằng điều này tạo ra rất nhiều
hiểu lầm về GTHL. Tomkins cũng cho rằng GTHL ghi nhận rằng với một số tài
sản, giá trị của nó sẽ chỉ được thực hiện đầy đủ trong tương lai khi bán nó. Nhiều
phương pháp xác định giá trị khác không phản ánh rủi ro tiềm tàng và tác động
dòng tiền gắn với tài sản. Một vấn đề khác liên quan đến GTHL là khi đã lựa chọn
thì sẽ sử dụng để xác định giá trị tài sản, rất khó để thay đổi phương pháp khác
hoặc quay trở lại phương pháp giá gốc. Tác giả cho rằng "có thể áp dụng phương
pháp tiếp tục (continuing use) để xác định giá trị tài sản, nhưng DN khác áp dụng
phương pháp sử dụng cao nhất và tốt nhất (highest and best use). Thực tế áp dụng
các chính sách kế toán ở các DN khác nhau đang gây ra sự khác biệt khi so sánh
việc định giá các loại tài sản giống nhau." Đây là vấn đề lớn đối với bất động sản
không giống tài sản tài chính.
Tác giả cho rằng "Đối với nền kinh tế không ổn định việc định giá trở nên
phổ biến ở mọi nơi. Liệu việc định giá thực sự phản ánh cách thức các đơn vị có ý
định sử dụng các tài sản của họ như thế nào."
Trong nước, Mai Ngọc Anh (8) đã làm rõ các vấn đề về mô hình tính giá
gốc, mô hình tính giá hiện hành và mô hình tính giá đầu ra (GTHL).Trong đó tác
giả đề cập việc sử dụng GTHL trong kế toán là một xu hướng tất yếu song phải
thận trọng, tránh việc lạm dụng GTHL trong việc thổi phồng kết quả kinh doanh và
làm đẹp BCTC của DN. Tác giả khẳng định phải nghiên cứu sử dụng các cơ sở tính
giá khác ngoài giá gốc và phải được thực hiện theo một lộ trình thận trọng. Tác giả
23
đề xuất vận dụng kết hợp các mô hình tính giá trong hệ thống kế toán Việt Nam với
nền tảng cơ bản là mô hình giá gốc, kết hợp với mô hình GTHL cụ thể như sau:
Một là, ở Việt Nam, mô hình giá gốc đã được áp dụng như một mô hình tính
giá duy nhất, quen thuộc đối với những người làm kế toán và sử dụng thông tin kế
toán. Vì vậy, việc thay thế mô hình giá gốc bởi các mô hình tính giá khác, trong đó
có mô hình GTHL cần phải được thực hiện theo một lộ trình thận trọng. Mặt khác,
GTHL mới được đề cập trong khuôn khổ pháp lý và thực tiễn kế toán Việt Nam,
cách tiếp cận và các kỹ thuật cụ thể của mô hình này còn khá xa lạ với những người
làm công tác kế toán và sử dụng thông tin tài chính. Do vậy, tác giả khuyến nghị,
Luật Kế toán, CMKT nên cho phép các đơn vị lựa chọn mô hình giá gốc hoặc mô
hình GTHL.
Hai là, từ lý thuyết và thực tiễn trên thế giới và Việt Nam đều khẳng định,
GTHL có nhiều ưu thế hơn so với giá gốc trong điều kiện thị trường vận hành một
cách hiệu quả. Tuy nhiên, GTHL cũng có nguy cơ bị lạm dụng dẫn đến phản ánh
sai lệch tình trạng và kết quả tài chính của đơn vị. Do đó, trong điều kiện các loại
thị trường đang trong quá trình hoàn thiện như Việt Nam, việc sử dụng mô hình
GTHL cần rất thận trọng theo hướng quy định cụ thể điều kiện để mô hình GTHL
có thể được áp dụng.
Ba là, thông tin tài chính trên cơ sở GTHL đặc biệt hữu ích với các chủ thể
sử dụng thông tin khi ra các quyết định liên quan đến TTCK. Phần lớn là các DN
nhỏ và vừa thực hiện công tác kế toán một cách tương đối đơn giản, chịu sự ảnh
hưởng mạnh mẽ của chính sách thuế. Vì vậy, việc áp dụng mô hình GTHL trong kế
toán nên đặt ra trước hết với các DN niêm yết trên các sở giao dịch chứng khoán.
Về ngắn hạn, chưa nên đặt ra vấn đề áp dụng GTHL đối với các DN nhỏ và vừa.
Bốn là, vận dụng kết hợp mô hình giá gốc và GTHL đối với các tài sản, nợ
phải trả khác nhau theo nguyên tắc: Các tài sản dài hạn mà giá cả thị trường ít biến
động thì ưu tiên áp dụng mô hình giá gốc. Các tài sản này có thể được đánh giá lại
theo GTHL với mỗi chu kỳ từ 3 - 5 năm khi có sự chênh lệch đáng kể giữa giá trị
thị trường và giá gốc của tài sản. Các tài sản sẵn sàng để bán và giá cả thường
xuyên biến động có thể được đánh giá định kỳ hàng năm theo mô hình GTHL nếu
GTHL có thể được xác định một cách đáng tin cậy.
24
Năm là, một trong những hạn chế khi áp dụng mô hình GTHL là mức độ tin
cậy của thông tin kế toán có nguy cơ bị suy giảm. Do vậy, cùng với việc cho phép
áp dụng mô hình GTHL trong đánh giá tài sản và nợ phải trả để trình bày trên
BCTC, khuôn khổ pháp lý kế toán cần nhấn mạnh đến các thuyết minh, giải trình
về điều kiện thị trường, cơ sở và phương pháp xác định GTHL. Việc công bố một
cách minh bạch cơ sở và phương pháp xác định GTHL vừa đảm bảo người sử dụng
hiểu thông tin tài chính của DN một cách đầy đủ và toàn diện, vừa đảm bảo thông
tin đó được thu nhận, xử lý theo phương pháp phù hợp, đáng tin cậy. Theo tác giả,
việc lựa chọn mô hình tính giá trong hệ thống kế toán ở mỗi quốc gia là rất quan
trọng trên cơ sở phù hợp điều kiện kinh tế, xã hội và đảm bảo hài hòa với hệ thống
kế toán các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nguyễn Thế Lộc (9) có quan điểm về tính thích hợp và tính đáng tin cậy
trong các quy định đo lường giá trị tài sản, nợ phải trả theo chuẩn mực BCTC quốc
tế có liên quan đến GTHL. Tác giả cho rằng GTHL ngày càng được sử dụng rộng
rãi trong việc xác định giá trị của các yếu tố trên BCTC trong những năm gần đây.
Việc sử dụng GTHL chỉ thích hợp và đáng tin cậy khi thông tin về GTHL của tài
sản hoặc nợ phải trả có thể đảm bảo cân đối được các đặc tính chất lượng của thông
tin cần có cũng như đáp ứng được yêu cầu thông tin hữu ích của các đối tượng sử
dụng BCTC.
2.3 Nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng khi áp dụng giá trị hợp lý
Một số nghiên cứu về những nhân tố ảnh hưởng khi áp dụng GTHL trong số
đó có Nguyễn Ngọc Lan (8) đã hệ thống hóa lý luận về các nhân tố ảnh hưởng đến
việc áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN. Luận án đã xây dựng và kiểm định
hệ thống các nhân tố thuộc nhận thức của các DN ảnh hưởng đến sự ủng hộ áp
dụng GTHL trong kế toán, cũng như mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố với
nghiên cứu điển hình tại các DN Việt Nam. Ngoài ra, có một số nghiên cứu về
nhân tố ảnh hưởng khi áp dụng GTHL trong đó Trần Văn Tùng (11) khẳng định
trong xu thế hội nhập, quốc tế hóa hiện nay các DN Việt Nam cần cung cấp được
BCTC (BCTC) phù hợp với thông lệ quốc tế, mà ở đó thông tin của tài sản và nợ
phải trả được yêu cầu trình bày theo nguyên tắc GTHL nhiều hơn là giá gốc.Tuy
nhiên, trên thực tế, GTHL lại được rất ít các DN Việt Nam vận dụng, chính điều
25
này đã cản trở quá trình tham gia vào thị trường vốn toàn cầu của các DN Việt
Nam, đánh mất lợi thế cạnh tranh trong mắt các nhà đầu tư quốc tế so với các DN
của một số quốc gia khác trong khu vực. Hiện nay tại Việt Nam, phương pháp giá
gốc vẫn là phương pháp cốt lõi được sử dụng để định giá và đo lường các đối tượng
kế toán được trình bày trong BCTC và chỉ có một số các quy định nhỏ có đề cập
đến khía cạnh GTHL. Trong khi đó, GTHL đã được áp dụng ở khá nhiều nước trên
thế giới và đã được chuẩn hóa thông qua việc ra đời của chuẩn mực BCTC quốc tế
IFRS 13. Tác giả đưa ra các nhân tố tác động đến việc vận dụng GTHL trong kế
toán, bao gồm:
- Về văn hóa, xã hội: Yếu tố này cũng được đề cập trong nhiều nghiên cứu
của các tác giả khác như Nguyễn Thu Hoài (2009), Vũ Hữu Đức (2010) trích dẫn
các nghiên cứu của Gray (1989), của Harrison, McKinnon (1986), của Geert
Hofstede(1980, 1984) đều khẳng định văn hóa là một nhân tố quan trọng ảnh
hưởng đến sự phát triển của kế toán.
- Về môi trường pháp lý và chính trị: Mô hình kinh tế quyết định các chính
sách kinh tế áp dụng bao gồm các chính sách về CMKT. Do yếu tố định hướng xã
hội chủ nghĩa, vai trò của kinh tế nhà nước là quyết định. Vì vậy, lợi ích và năng
lực của khu vực kinh tế nhà nước được chú trọng rất nhiều trong việc xây dựng các
chính sách kinh tế của Nhà nước.
- Về môi trường kinh doanh: Theo tác giả Nguyễn Thu Hoài (2009), một
trong những ý nghĩa quan trọng của việc vận dụng CMKT mà trong đó chủ yếu là
vận dụng kế toán GTHL, giúp cho thị trường vốn của quốc gia dễ dàng liên thông
với thị trường vốn của thế giới.
- Về trình độ người làm nghề kế toán: Theo nhiều nghiên cứu trước như của
He, TJ.Wong, Young (2012), Zehri & Chouaibi (2013), Bewley, Graham and Peng
(2013) thì đây không phải là nhân tố quan trọng nhưng tác giả vẫn đưa nhân tố này
vào xem xét trong trường hợp của Việt Nam, vì hệ thống đào tạo nghề nghiệp của
Việt Nam còn lỗi thời và chất lượng chưa cao.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu ở trên, tác giả đưa ra một số gợi ý nhằm
có thể vận dụng GTHL vào kế toán tại các công ty như sau:
Thứ nhất, đối với nhân tố vai trò của các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp:
26
Tăng cường vai trò quản lý, đào tạo bồi dưỡng chuyên môn cho người làm nghề kế
toán, đặc biệt là bồi dưỡng kiến thức về các mô hình định giá trong kế toán;
Thứ hai, đối với nhân tố trình độ nhân viên: Các trường đại học, tổ chức đào
tạo kế toán cần đi đầu trong việc bắt kịp xu hướng phát triển của GTHL để nghiên
cứu đưa vào chương trình giảng dạy cho sinh viên.
Thứ ba, đối với nhân tố môi trường văn hóa, xã hội: Chính phủ sử dụng các
công cụ pháp lý phù hợp để điều chỉnh, ban hành các văn bản pháp lý quy định,
hướng dẫn việc trình bày, công bố thông tin theo GTHL để tạo lập thói quen cho
DN. Các tổ chức quản lý và hiệp hội nghề nghiệp cần tăng cường tổ chức bồi
dưỡng kiến thức cho nhà đầu tư chứng khoán hiểu biết về việc sử dụng các thông
tin đo lường theo GTHL để phục vụ ra quyết định.
Thứ tư, đối với nhân tố môi trường pháp lý: Bộ Tài chính cần tạo hành lang
pháp lý phù hợp cho sự phát triển của GTHL ở Việt Nam. Xây dựng và ban hành
CMKT về “Đo lường GTHL” nhằm thống nhất các khái niệm về GTHL, phương
pháp đo lường GTHL tương tự như CMKT quốc tế IFRS 13.
Thứ năm, đối với nhân tố môi trường kinh doanh: Đẩy nhanh hoạt động cổ
phần hóa DN nhà nước, góp phần tạo “sân chơi” bình đẳng cho các DN, đồng thời,
phát triển TTCK, thị trường vốn thu hút đầu tư nước ngoài, tạo động lực phát triển
cho nền kinh tế và nâng cao môi trường kinh doanh.
2.4 Nghiên cứu về việc lập và trình bày các chỉ tiêu trên báo cáo tài
chính theo giá trị hợp lý
Lê Hoàng Phúc (3) đã phân tích rõ những vấn đề lý luận về cơ sở lý luận về
BCTC DN trong đó nêu rõ về bản chất của BCTC, đặc điểm chất lượng và các
nhân tố tác động đến BCTC, nội dung BCTC. Tác giả đã hệ thống hóa các yếu tố
của BCTC theo Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), các nội dung của
BCTC theo IAS/IFRS, các nội dung BCTC DN tại Mỹ, Pháp và Trung Quốc. Tác
giả đề cập đến việc áp dụng CMKT quốc tế đối với BCTC tại các quốc gia và kinh
nghiệm cho Việt Nam trong đó trình bày tóm tắt quá trình phát triển và khái quát
nội dung của CMKT quốc tế, thực trạng áp dụng CMKT quốc tế đối với BCTC tại
các nước Mỹ, Pháp và các nước liên minh Chấu Âu, Trung quốc và một số quốc
gia Đông Nam Á.
27
Tác giả đã đánh giá thực trạng hệ thống BCTC DN Việt Nam. Trong đó tác
giả tóm tắt quá trình phát triển của hệ thống BCTC doanh nghiệp Việt Nam. Tác
giả trình bày về hệ thống BCTC DN Việt Nam hiện hành trong đó có phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống BCTC DN. Tác giả đã đánh giá thực trạng và vấn
đề cần giải quyết đối với hệ thống BCTC DN Việt Nam trong đó có đối chiếu một
số nội dung của hệ thống BCTC theo quy định của Việt Nam với IASB, có thu thập
một số ý kiến của DN, nhà đầu tư và chuyên gia về hệ thống BCTC hiện hành. Tác
giả đã xác định những vấn đề cần giải quyết đối với hệ thống BCTC DN Việt Nam
hiện nay như cơ sở định giá, đặc điểm chất lượng và nguyên tắc lập BCTC chưa
được quy định rõ ràng và đầy đủ, thiếu tính đồng bộ. Nhiều nội dung của Luật Kế
toán có liên quan đến BCTC đã không còn phù hợp, hệ thống báo cáo, một số nội
dung, khoản mục trên BCTC chưa đầy đủ, hoặc chưa phù hợp với chuẩn mực và
thông lệ quốc tế.
Trong các giải pháp dài hạn, tác giả đề cập đến định hướng sử dụng GTHL
trong định giá các yếu tố của BCTC trong đó tác giả có đưa ra nguyên tắc và lộ
trình sử dụng GTHL trong định giá các yếu tố của BCTC DN Việt Nam. Tác giả
nhấn mạnh nền kinh tế thị trường Việt Nam, TTCK Việt Nam còn khá non trẻ,
nhiều dữ liệu tham chiếu chưa có, do vậy, nếu áp dụng ngay toàn bộ theo CMKT
quốc tế sẽ ảnh hưởng đến tính đáng tin cậy của thông tin được định giá theo GTHL.
Do vậy, việc sử dụng GTHL cần tính toán phù hợp với đặc điểm kinh tế của từng
giai đoạn. Tuy nhiên, nếu quá chú trọng đến điều kiện áp dụng mà thận trọng quá
mức sẽ dẫn đến sự nửa vời, lạc điệu trong quá trình hội nhập. Từ đó, việc xác định
một lộ trình hợp lý cho việc áp dụng GTHL trong định giá các yếu tố của BCTC
DN là vô cùng cần thiết. Tác giả có đưa ra lộ trình theo 2 giai đoạn: giai đoạn 1
(2014 - 2016) điều chỉnh Luật Kế toán, cập nhật hệ thống CMKT Việt Nam có liên
quan đến GTHL, ban hành CMKT Việt Nam VFRS 13 – Xác định GTHL. Giai
đoạn 2 (2017 - 2020) đưa VFRS 13 vào áp dụng một cách toàn diện nên phải ban
hành một số hướng dẫn về việc sử dụng VFRS 13, hoàn chỉnh một hệ thống thị
trường năng động (active market), đồng bộ và minh bạch hành lang pháp lý về kinh
doanh. Tác giả đề xuất về định hướng ghi nhận và báo cáo nguồn lực tri thức DN
trên BCTC cụ thể xây dựng phương pháp xác định các tài sản tri thức của DN dựa
28
trên ba tiêu chuẩn định tính được nêu trong IAS 38. Cuối cùng, tác giả đề xuất về
định hướng ghi nhận và báo cáo trách nhiệm xã hội DN trên BCTC trong đó tác giả
có đề cập đến quy định các nội dung áp dụng đối với nợ phải trả về môi trường và
dự phòng tổn thất tại IAS 37 – các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng và
IFRS 3 - Hợp nhất kinh doanh.
Dương Thị Thảo (1) đã khái quát lý luận về GTHL trong kế toán DN, nghiên
cứu các qui định về GTHL trong kế toán quốc tế, của một số nước có nền kinh tế thị
trường phát triển và của một số nước có đặc điểm kinh tế tương tự như Việt Nam,
ngoài ra luận án đã nghiên cứu các qui định về GTHL trong kế toán Việt Nam hiện
nay, từ đó rút ra các ưu, nhược điểm, hạn chế nhằm đưa ra một số giải pháp nhằm
hoàn thiện các qui định này tại Việt Nam.
Thực trạng quy định về sử dụng GTHL trong chế độ kế toán DN Việt Nam
hiện nay: Tác giả trình bày khái quát quá trình hình thành và phát triển cơ sở kế
toán xác định giá trị trong kế toán Việt Nam; Thực trạng các quy định về sử dụng
GTHL trong kế toán DN tại Việt Nam hiện nay trong đó tác giả đề cập đến việc sử
dụng GTHL tại thời điểm ghi nhận ban đầu. Tác giả khẳng định CMKT và chế độ
kế toán Việt Nam chưa có một quy định nguyên tắc thống nhất nào về việc áp dụng
GTHL sau ghi nhận ban đầu. Tác giả liệt kê việc xác định giá trị đối với từng loại
tài sản và nợ phải trả sau ghi nhận ban đầu của các khoản mục trên Bảng cân đối kế
toán; Về việc ghi nhận chênh lệch phát sinh do biến động của GTHL tác giả đề cập
đến sự biến động của GTHL được thể hiện thông qua báo cáo lãi lỗ thông qua
chênh lệch tỷ giá và dự phòng. Trong phần này tác giả khẳng định cơ sở giá gốc
được xem là nền tảng của đo lường kế toán trong nhiều năm qua và kế toán giá gốc
đã thực hiện rất tốt chức năng cung cấp thông tin hữu ích và đáng tin cậy cho người
sử dụng tuy nhiên trong xu hướng phát triển và hội nhập, cơ sở giá gốc bộc lộ nhiều
hạn chế, cần xem xét sử dụng GTHL tại Việt Nam phù hợp với tình hình thực tế
nhằm cung cấp thông tin tài chính minh bạch hơn.
Tác giả đưa ra một số giải pháp hoàn thiện các quy định về sử dụng GTHL trong
chế độ kế toán DN hiện nay trong đó có phân tích sự cần thiết với nền kinh tế Việt
Nam hiện nay.
29
2.5 Kết luận rút ra và khoảng trống nghiên cứu
Qua nghiên cứu các công trình nghiên cứu có liên quan đến việc áp dụng
GTHL cho thấy các công trình nghiên cứu đã công bố của các nhà khoa học trong
nước và nước ngoài đã góp phần quan trọng vào việc khẳng định vai trò của việc áp
dụng GTHL trong kế toán. Ở Việt Nam hầu hết các DN đều sử dụng giá gốc cho
việc ghi nhận và trình bày BCTC. Các DN có lợi ích công chúng như Ngân hàng,
bảo hiểm, các tập đoàn lớn, các DN niêm yết khác vẫn đang công bố BCTC theo
giá gốc nên nhà đầu tư còn chưa có đầy đủ thông tin phù hợp cho việc ra quyết định
đầu tư. Việc xác định GTHL ở Việt Nam là rất khó khăn vì thiếu thông tin từ thị
trường.
Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, các công trình nghiên cứu về áp dụng
GTHL ở Việt Nam đã công bố còn có một số khoảng trống nghiên cứu cần thiết để
áp dụng GTHL ở Việt Nam. Cụ thể:
- Việc ghi nhận và trình bày các yếu tố của BCTC của DN theo GTHL còn
chưa có quy định tại các văn bản pháp quy do đó, cần nghiên cứu đề xuất cơ sở
pháp lý để đưa vào áp dụng trong thực tế. Chưa có các nghiên cứu đề xuất các giải
pháp cụ thể cho việc lập và trình bày các chỉ tiêu trên BCTC của DN bị ảnh hưởng
như thế nào khi áp dụng GTHL.
Đối với Việt Nam, khái niệm GTHL là vấn đề rất mới mẻ. Việc xác định
GTHL cho các khoản mục trình bày trên BCTC còn rất khó khăn vì thiếu thông tin
trên thị trường. Các kỹ thuật định giá tài sản và nợ phải trả cần được nghiên cứu và
hoàn thiện theo thông lệ quốc tế.
- Chưa có các nghiên cứu về khả năng xác định GTHL đối với với các tài
sản và nợ phải trả trong điều kiện của Việt Nam như thế nào.
- Chưa có các nghiên cứu về các nhân tố tác động khi áp dụng GTHL trong
kế toán. Đặc biệt ảnh hưởng trong việc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư trên
TTCK, các giải pháp khắc phục những tác động đó khi lần đầu tiên áp dụng GTHL.
- Chưa có nghiên cứu về kinh nghiệm của các nước khi triển khai áp dụng
GTHL trong kế toán. Những kinh nghiệm của các nước đối với công tác chuẩn bị
cho việc áp dụng GTHL là rất cần thiết cho Việt Nam tránh những vướng mắc,
những khó khăn các nước đã gặp phải khi triển khai.
30
Đề tài sẽ tiếp tục triển khai các nội dung sau để bổ sung một phần các
khoảng trống đã xác định ở trên, cụ thể:
- Làm rõ về lý luận cơ bản về việc lập và trình bày BCTC cho DN theo
GTHL và khái quát chung về hệ thống BCTC, khái quát về GTHL, nguyên tắc,
phương pháp lập và trình bày BCTC.
- Phân tích thêm về các yếu tố ảnh hưởng đến lập và trình bày BCTC và
cung cấp các kinh nghiệm của một số nước trên thế giới khi vận dụng GTHL và bài
học cho Việt Nam.
- Phân tích và đánh giá thực trạng vận dụng GTHL khi lập và trình bày
BCTC của các CTCK niêm yết của Việt Nam, đề tài sẽ đi sâu đánh giá quy định
pháp lý Việt Nam về lập và trình bày BCTC trong đó có Luật Kế toán, hệ thống
CMKT Việt Nam và các hướng dẫn kế toán áp dụng cho CTCK.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các tồn tại về khung pháp lý, về việc đo
lường các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính, về việc ghi nhận chênh lệch đánh giá lại
các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính sau khi xác định theo giá trị hợp lý tại các CTCK
niêm yết và đề xuất các mẫu biểu báo cáo tài chính phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Đề xuất lộ trình áp dụng trong ngắn hạn và trong dài hạn và phân tích về
tính khả thi khi áp dụng GTHL ở Việt Nam và điều kiện để thực hiện các giải pháp
tập trung vào các điều kiện về thị trường, về khuôn khổ pháp lý, về nguồn nhân lực,
về sự hợp tác giữa cơ quan quản lý nhà nước và DN, về công tác đào tạo, tuyên
truyền trong cộng đồng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu về lý luận cơ bản về lập và trình bày báo cáo tài chính
theo giá trị hợp lý. Cụ thể nghiên cứu về tổng quan về giá trị hợp lý và những chi
phối đến việc ghi nhận và trình bày thông tin các yếu tố của BCTC; Nguyên tắc lập
và trình bày BCTC theo GTHL; Các yếu tố ảnh hưởng đến lập và trình bày BCTC
theo GTHL; nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong khu vực đã áp dụng
GTHL khi lập và trình bày BCTC, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam;
Thứ hai, nghiên cứu về thực trạng vận dụng GTHL khi lập và trình bày
BCTC của CTCK niêm yết của Việt Nam;
31
Thứ ba, nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện lập và trình bày BCTC cho
CTCK niêm yết của Việt Nam khi vận dụng GTHL. Cụ thể nghiên cứu về yêu cầu
hoàn thiện về lập và trình bày BCTC cho các CTCK niêm yết của Việt Nam khi
vận dụng GTHL; các giải pháp hoàn thiện, lộ trình áp dụng, đánh giá về tính khả
thi và phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam và điều kiện để thực hiện các giải pháp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các nguyên tắc ghi nhận
các khoản mục trên BCTC, phương pháp lập và trình bày BCTC trên cơ sở vận
dụng GTHL trong kế toán.
- Phạm vi nghiên cứu:
+Về không gian: Đề tài thực hiện nghiên cứu BCTC của một số CTCK niêm
yết trên TTCK của Việt Nam để khảo sát việc lập và trình bày BCTC của các công
ty này, đồng thời xem xét khả năng vận dụng nguyên tắc GTHL ở Việt Nam khi lập
và trình bày BCTC. Đề tài không nghiên cứu đến các CTCK của Việt Nam niêm
yết trên TTCK ở nước ngoài.
+ Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu BCTC riêng của một số CTCK
niêm yết trên TTCK Việt Nam mà không nghiên cứu BCTC hợp nhất và các báo
cáo khác của những công ty này.
Đề tài nghiên cứu các thông lệ kế toán quốc tế liên quan đến GTHL được
vận dụng khi lập và trình bày BCTC, không bao gồm các thông lệ kế toán quốc tế
liên quan đến các lĩnh vực khác.
+ Về thời gian nghiên cứu: Các dữ liệu của luận án tập trung cho giai đoạn
từ 2014 - 2018.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp thu thập dữ liệu
- Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp: Đó là những dữ liệu chưa qua xử lý,
được thu thập lần đầu, và thu thập trực tiếp từ các đơn vị của tổng thể nghiên cứu
thông qua các cuộc điều tra thống kê.
Trong luận án, nghiên cứu sinh (NCS) đã sử dụng các mẫu điều tra bằng
hình thức gửi mail các câu hỏi soạn trước cho các CTCK niêm yết, các kiểm toán
viên, thẩm định viên về giá, các chuyên gia nghiên cứu, các chuyên gia thuộc Bộ
32
Tài chính, nhà đầu tư và phỏng vấn trực tiếp một số cá nhân. Đối với CTCK niêm
yết, NCS gửi phiếu khảo sát cho kế toán trưởng. Đối với các kiểm toán viên, NCS
gửi phiếu khảo sát cho các kiểm toán viên trực tiếp tiến hành kiểm toán các CTCK,
Đối với các chuyên gia nghiên cứu, NCS gửi phiếu khảo sát gửi cho các chuyên gia
nghiên cứu liên quan đến các CTCK. NCS đã gửi 172 phiếu khảo sát cho các DN
và cá nhân thu về được 130 phiếu và thực hiện phỏng vấn sâu 10 cá nhân (Phụ lục
04) hộp thông tin (Phụ lục 14).
NCS đã sử dụng phương pháp thiết kế bảng câu hỏi gồm một tập hợp các
câu hỏi và các câu trả lời được sắp xếp theo logic nhất định. Bảng câu hỏi được
thiết kế thành 4 mẫu phiếu: Một mẫu phiếu câu hỏi gửi cho các CTCK niêm yết;
Một mẫu phiếu câu hỏi gửi cho các nhà đầu tư; Một mẫu phiếu câu hỏi gửi cho các
kiểm toán viên, các thẩm định viên về giá; Một mẫu phiếu câu hỏi gửi cho các
chuyên gia, các nhà nghiên cứu thuộc cơ quan quản lý nhà nước. Bảng câu hỏi
được thiết kế nhằm mục đích khảo sát ý kiến của một số CTCK niêm yết, các kiểm
toán viên, thẩm định viên về giá, nhà đầu tư và các chuyên gia nghiên cứu thuộc cơ
quan quản lý nhà nước về GTHL và việc áp dụng GTHL trong việc lập và trình bày
các chỉ tiêu trên BCTC để diễn giải, so sánh, phân tích, nhằm tạo ra cơ sở tham
khảo hữu ích cho những nhận định, đánh giá hệ thống BCTC của CTCK niêm yết
trên TTCK Việt Nam trong mối quan hệ với đăc điểm, yêu cầu của quá trình pháp
triển.
- Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp: Là dạng dữ liệu được công bố trong
các báo cáo hay website công bố (Dữ liệu đã qua tính toán và xử lý).
Trong luận án, NCS đã thu thập dữ liệu thứ cấp bao gồm các tài liệu sau:
+ BCTC của các CTCK niêm yết;
+ Hệ thống CMKT Việt Nam;
+ Hệ thống CMKT quốc tế;
+ Các báo cáo thường niên của Ủy ban chứng khoán về tình hình hoạt
động của các CTCK;
+ Các tài liệu hội thảo, hội nghị;
+ Báo cáo của Ngân hàng thế giới;
+ Các bài báo đăng trên các tạp chí về việc áp dụng GTHL ở Việt Nam
33
và các nước.
Đề tài đã phân loại, đánh giá và chọn lọc nhiều tài liệu nghiên cứu
chuyên sâu trong và ngoài nước, các quy định, thông lệ quốc tế, kinh nghiệm các
quốc gia.... và các thông tin thứ cấp có liên quan đến GTHL và BCTC của công ty
niêm yết để tiến hành phân tích, tổng hợp, làm rõ những vấn đề lý luận về BCTC
và về GTHL, mô tả, làm rõ những vấn đề còn tồn tại của hệ thống BCTC của
CTCK hiện hành và xác định vấn đề cần giải quyết, phương hướng và giải pháp
thực hiện.
5.2 Phương pháp xử lý dữ liệu
- Phương pháp xử lý dữ liệu sơ cấp: Sau khi tiến hành khảo sát, phỏng vấn,
NCS đã phân loại các thông tin thu được theo từng mục nội dung và hệ thống hóa
các dữ liệu thu thập được theo các bảng biểu và sơ đồ.
- Phương pháp xử lý dữ liệu thứ cấp: Sau khi thu thập các tài liệu thứ cấp,
NCS đã tiến hành phân loại theo các dạng: Tài liệu cung cấp các cơ sở lý thuyết, tài
liệu báo cáo thường niên, tài liệu tham khảo dạng hội thảo, hội nghị và các BCTC
của các CTCK niêm yết. Việc phân loại sẽ giúp cho NCS đưa ra những nội dung cơ
bản của từng loại tài liệu để làm căn cứ phân tích. Sau đó NCS tiến hành phân tích
dữ liệu và trình bày kết quả: Đưa ra các đánh giá tổng quát, đánh giá chung với các
thống kê, mô tả. Đưa ra các biểu đồ, bảng biểu, hình vẽ minh họa dựa trên số liệu
thu thập được. So sánh mối liên hệ giữa các đại lượng để đưa ra những đánh giá sâu
hơn và rút ra kết luận.
5.3 Phương pháp phân tích dữ liệu
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp được sử dụng để hệ thống
hóa cơ sở lý luận, đưa ra nhận xét về hệ thống BCTC của CTCK niêm yết và việc
áp dụng GTHL khi lập và trình bày BCTC của các CTCK niêm yết, quá trình áp
dụng GTHL khi lập và trình bày BCTC ở các quốc gia và kinh nghiệm cho Việt
Nam.
- Phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để mô tả những đặc tính cơ bản
của dữ liệu thu thập được từ nghiên cứu về CTCK niêm yết trên thị trường Việt
Nam. Thống kê mô tả cung cấp những thông tin thu thập được theo các hình thức
như sau:
34
+ Biểu diễn dữ liệu bằng các đồ thị mô tả dữ liệu hoặc giúp so sánh dữ
liệu;
+ Biểu diễn dữ liệu thành các bảng số liệu tóm tắt về dữ liệu.
- Phương pháp thống kê so sánh được sử dụng để đối chiếu các dữ liệu thu
thập được. Ví dụ, hệ thống BCTC của CTCK niêm yết ở Việt Nam với hệ thống
BCTC theo quy định của IASB, việc áp dụng GTHL ở Việt Nam với thông lệ quốc
tế.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đề tài đã khái quát những vấn đề lý luận chung về GTHL và áp dụng GTHL
khi ghi nhận, lập và trình bày BCTC DN, thu thập các kinh nghiệm quốc tế khi áp
dụng GTHL.
Đề tài cũng khái quát các qui định hiện hành về việc lập và trình bày BCTC
cho các CTCK niêm yết của Việt Nam khi vận dụng GTHL, xác định các tồn tại,
vướng mắc trong thực tế khi áp dụng GTHL tại các CTCK niêm yết của Việt
Nam.
Đề tài đưa ra các giải pháp để hoàn thiện các quy định về việc lập và trình
bày BCTC cho các CTCK niêm yết khi vận dụng nguyên tắc GTHL dựa theo
thông lệ kế toán quốc tế.
Đề tài đề xuất các điều kiện cần thiết của nền kinh tế để có cơ sở xác định
GTHL của tài sản, nợ phải trả để ghi nhận trên BCTC.
Việc hoàn thiện lập và trình bày BCTC cho CTCK không chỉ có ý nghĩa về
mặt lý thuyết mà nó có ý nghĩa thực tiễn trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin đa
dạng của người sử dụng BCTC của CTCK trong điều kiện nền kinh tế hội nhập.
7. Đóng góp mới của luận án
Nghiên cứu này có những đóng góp mới sau:
(i) Tổng hợp những nghiên cứu lý luận về GTHL và việc ghi nhận, lập và
trình bày BCTC của DN theo GTHL.
(ii) Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong khu vực đặc biệt là kinh
nghiệm của Hàn Quốc khi chuyển từ áp dụng giá gốc sang GTHL và rút ra bài học
áp dụng cho Việt Nam.
35
(iii) Phân tích thực trạng áp dụng GTHL khi lập và trình bày BCTC của các
CTCK niêm yết ở Việt Nam, nhận diện các vấn đề tồn tại cần giải quyết.
(iv) Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến
việc áp dụng GTHL ở Việt Nam và các giải pháp để hoàn thiện những tồn tại khi
vận dụng GTHL để trình bày BCTC của các CTCK niêm yết trên TTCK ở Việt
Nam.
8. Kết cấu của luận án:
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, luận án có 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về việc lập và trình bày Báo cáo tài chính theo
giá trị hợp lý.
Chương 2: Thực trạng vận dụng giá trị hợp lý khi lập và trình bày Báo
cáo tài chính của các công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện lập và trình bày Báo cáo tài chính cho
công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam khi vận dụng giá trị hợp lý.
36
CHƢƠNG I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LẬP VÀ TRÌNH BÀY BÁO CÁO TÀI CHÍNH
THEO GIÁ TRỊ HỢP LÝ
1.1 Khái quát chung về hệ thống Báo cáo tài chính
1.1.1 Khái niệm Báo cáo tài chính
Có nhiều cách thức khác nhau trong việc tiếp cận BCTC. Khi xem xét dưới
góc độ khoa học kế toán, thì BCTC được xem là kết quả của phương pháp tổng hợp
- cân đối. Khi xem xét dưới góc độ các yếu tố của một hệ thống thông tin kế toán
thì BCTC được xem là đầu ra của hệ thống này, được xử lý và cung cấp bởi quy
trình kế toán tài chính. Khi đề cập đến lợi ích của người sử dụng thì BCTC là
nguồn cung cấp thông tin tài chính hữu ích cho việc ra quyết định kinh tế v.v... Vì
vậy, khó có thể đưa ra một khái niệm duy nhất về BCTC.
Theo Ủy ban soạn thảo CMKT quốc tế tại các IFRS (33- 35) thì BCTC là
sản phẩm của kế toán tài chính, là đầu ra của hệ thống thông tin kế toán, phản ánh
theo một cấu trúc chặt chẽ tình hình tài chính, kết quả tài chính của DN. BCTC
cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, kết quả tài chính và các luồng tiền của
DN, đáp ứng yêu cầu của số đông những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết
định kinh tế, nó cũng cho thấy kết quả quản lý của ban giám đốc đối với các nguồn
lực được ủy thác cho họ (IASB, 2012). Theo đó, BCTC trình bày thông tin về tài
sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, doanh thu, thu nhập, chi phí, luồng tiền từ hoạt
động kinh doanh, luồng tiền từ hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Hệ thống
BCTC gồm: Báo cáo tình hình tài chính, Báo cáo thu nhập toàn diện, Báo cáo vốn
chủ sở hữu, Báo cáo lưu chuyển tiền và Thuyết minh BCTC. BCTC được lập ra để
đáp ứng nhu cầu của tất cả đối tượng sử dụng nói chung, chứ không nhằm đáp ứng
nhu cầu thông tin cụ thể của một đối tượng sử dụng nào.
Theo Luật Kế toán Việt Nam thì BCTC là hệ thống thông tin kinh tế, tài chính
của đơn vị kế toán được trình bày theo biểu mẫu quy định tại CMKT và chế độ kế
toán.
37
Theo Viện kiểm toán viên công chứng Hoa kỳ (AICPA) thì Hệ thống BCTC
là những báo cáo về quá trình hoạt động của nhà quản lý, về tình hình đầu tư trong
kinh doanh và những kết quả đạt được trong kỳ báo cáo. Hệ thống BCTC phản ánh
sự kết hợp của những sự kiện được ghi nhận, những nguyên tắc kế toán và những
đánh giá của cá nhân, mà trong đó những đánh giá và nguyên tắc kế toán được áp
dụng có ảnh hưởng chủ yếu đến việc ghi nhận các sự kiện. Những đánh giá đúng
đắn tùy thuộc vào khả năng và sự trung thực của người lập báo cáo, đồng thời phụ
thuộc vào sự tuân thủ đối với những nguyên tắc kế toán đã được chấp nhận rộng
rãi”.
Theo 2 tác giả Bryan Carsberg và Suan Dev thì Hệ thống BCTC được thiết
kế để trình bày những kết quả của những nghiệp vụ và những sự kiện xảy ra trong
quá khứ và là kênh truyền đạt thông tin chính của những hoạt động quản lý với thế
giới bên ngoài.
Nhìn chung, các khái niệm trên về BCTC được đề cập dựa trên nhiều cách
tiếp cận khác nhau nhưng đều có điểm chung đó là BCTC phản ánh tổng quát tình
hình tài chính, tình hình và kết quả hoạt động, tình hình lưu chuyển tiền, các thông
tin chung khác cho các đối tượng sử dụng liên quan.
Theo “Giáo trình nguyên lý kế toán” của Học viện tài chính thì BCTC là một
bộ phận của hệ thống báo cáo kế toán, là sản phẩm của quy trình kế toán. BCTC là
nguồn tài liệu quan trọng cung cấp thông tin chung cho các đối tượng sử dụng.
BCTC được công bố công khai cho các đối tượng sử dụng và liên quan đến lợi ích
hợp pháp của các bên, do vậy thông tin trên BCTC phải đảm bảo hiệu lực pháp lý
và BCTC thường được quy định thống nhất bắt buộc.
1.1.2 Mục đích, tác dụng của hệ thống báo cáo tài chính
Về mục đích của hệ thống báo cáo tài chính: Mục đích BCTC là cung cấp
các thông tin về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền của một
DN, đáp ứng nhu cầu hữu ích cho số đông những người sử dụng trong việc đưa ra
các quyết định kinh tế. Để đạt mục đích này BCTC phải cung cấp những thông tin
của một DN về: Tài sản; Nợ phải trả; Vốn chủ sở hữu; Doanh thu, thu nhập khác,
chi phí, lãi và lỗ; Các luồng tiền; Các thông tin cần thuyết minh.
38
Theo Khuôn khổ của việc lập, trình bày BCTC (Framework) do Ủy ban soạn
thảo CMKT quốc tế (IASB) xác định mục đích BCTC là cung cấp các thông tin tài
chính về đơn vị giúp ích cho các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng, chủ nợ để ra
quyết định về việc cung cấp các nguồn lực cho đơn vị. Những quyết định đó liên
quan tới việc mua, bán hoặc nắm giữ vốn chủ sở hữu, các công cụ nợ, và cung cấp
hoặc thanh toán các khoản vay, các khoản tín dụng khác.
BCTC cung cấp thông tin về nguồn lực kinh tế và nghĩa vụ nợ của đơn vị
báo cáo cũng như các thông tin về ảnh hưởng của các giao dịch và sự kiện khác do
sự thay đổi của các nguồn lực, và nghĩa vụ nợ đó. Các thông tin trên giúp ích cho
người sử dụng báo cáo trong việc đưa ra các quyết định để cung cấp các nguồn lực
cho đơn vị.
BCTC cung cấp thông tin về bản chất và giá trị của các nguồn lực kinh tế và
các nghĩa vụ nợ có thể giúp người sử dụng xác định những mặt mạnh và mặt yếu về
tình hình tài chính của đơn vị báo cáo. Những thông tin đó có thể giúp người sử
dụng BCTC đánh giá tính thanh khoản, khả năng thanh toán nhu cầu bổ sung
nguồn lực tài chính và cách thức huy động nguồn lực tài chính của đơn vị báo cáo.
Thông tin về thứ tự ưu tiên trong việc thanh toán nghĩa vụ nợ hiện tại giúp người sử
dụng BCTC dự đoán cách thức sử dụng các dòng tiền trong tương lai để thanh toán
các nghĩa vụ nợ đó.
BCTC cung cấp thông tin về kết quả kinh doanh của đơn vị báo cáo giúp
người sử dụng BCTC hiểu được lợi ích đơn vị thu được từ việc sử dụng các nguồn
lực kinh tế. Thông tin về lợi ích đơn vị thu được giúp đánh giá hiệu quả và năng lực
sử dụng các nguồn lực của đơn vị báo cáo. Thông tin về sự thay đổi và các yếu tố
cấu thành của lợi ích thu được cũng rất quan trọng, đặc biệt trong việc đánh giá sự
không chắc chắn của các dòng tiền trong tương lai. Thông tin về kết quả kinh
doanh trong quá khứ của đơn vị báo cáo và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của Ban
lãnh đạo là hữu ích trong việc dự đoán những lợi ích thu được trong tương lai từ
việc sử dụng nguồn lực kinh tế đơn vị báo cáo.
BCTC cung cấp thông tin về các dòng tiền của đơn vị trong kỳ giúp người sử
dụng BCTC đánh giá khả năng tạo ra các dòng tiền thuần trong tương lai. Các
thông tin này chỉ ra cách thức thu và chi tiền, vay và trả nợ, cổ tức bằng tiền hoặc
39
phân phối lợi nhuận bằng tiền cho nhà đầu tư, và các yếu tố khác có thể ảnh hưởng
đến tính thanh khoản, khả năng thanh toán của đơn vị. Thông tin về các dòng tiền
giúp người sử dụng hiểu rõ các hoạt động của đơn vị báo cáo, đánh giá các hoạt
động tài chính và đầu tư, đánh giá tính thanh khoản, khả năng thanh toán và giải
thích các thông tin về kết quả kinh doanh của đơn vị báo cáo.
Các thông tin cung cấp trong BCTC giúp người sử dụng dự đoán được các
luồng tiền trong tương lai và đặc biệt là thời điểm và mức độ chắc chắn của việc tạo
ra các luồng tiền và các khoản tương đương tiền.
Tóm lại, mục đích của BCTC là cung cấp thông tin tài chính hữu ích về DN
cho các đối tượng sử dụng trong đó chủ yếu là nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng, người
cho vay và các chủ nợ khác trong việc đưa ra quyết định về việc cung cấp nguồn lực
cho DN.
Về tác dụng của hệ thống báo cáo tài chính:Theo giáo trình kế toán tài chính
của đại học Thương mại (12) Thông tin trong các BCTC có tác dụng quan trọng
trong công tác quản lý, giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin đề ra các quyết
định kinh tế kịp thời và hiệu quả. Cụ thể:
- Đối với các nhà quản lý DN:
Thông tin trên BCTC giúp cho các nhà quản lý DN đánh giá được thực trạng
tài chính, tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của DN sau một thời kỳ. Từ
đó, các nhà quản lý có thể phân tích tìm nguyên nhân, đưa ra các biện pháp khắc
phục tồn tại và các quyết định kinh doanh ngắn hạn, dài hạn phù hợp với xu hướng
phát triển của DN. Mặt khác việc công bố công khai các thông tin trê BCTC định
kỳ về tình hình hoạt động của DN sẽ giúp các nhà quản lý DN cạnh tranh và thuyết
phục các nhà đầu tư, các chủ nợ về khả năng kinh doanh có hiệu quả cao, hạn chế rủi
ro để tìm nguồn vốn.
- Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước:
BCTC cung cấp thông tin cần thiết giúp cho việc thực hiện chức năng quản
lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. Cụ thể: giúp các cơ quan tài chính kiểm
tra đánh giá tình hình sử dụng vốn của các DN nhà nước, kiểm tra việc chấp hành
các chính sách quản lý tài chính tại các DN; giúp các cơ quan thuế kiểm tra việc
chấp hành luật thuế, các chính sách về thuế, làm cơ sở để xác định chính xác số
40
thuế phải nộp, đã nộp, được khấu trừ, được miễn giảm… của DN; giúp cơ quan
quản lý đăng ký kinh doanh kiểm tra tình hình thực hiện giấy phép kinh doanh của
DN (kinh doanh đúng ngành nghề, mặt hàng đã đăng ký; quản lý và sử dụng lao
động…); giúp cơ quan thống kê tổng hợp số liệu theo các chỉ tiêu kinh tế để đánh
giá mức tăng trưởng kinh tế của quốc gia, xác định GDP, xây dựng chính sách kinh
tế vĩ mô…
Đối với các chủ nợ, nhà đầu tư, nhà cung cấp, khách hàng và các đối tác
khác:
BCTC cung cấp những thông tin cần thiết giúp họ đánh giá thực trạng tài
chính, khả năng thanh toán, hiệu quả kinh doanh, chính sách phân phối lợi nhuận…
để có những quyết định kinh doanh đúng đắn, hiệu quả.
1.1.3 Các yếu tố và nội dung của báo cáo tài chính
Về các yếu tố và ghi nhận các yếu tố của Báo cáo tài chính: Thông thường,
BCTC phản ánh ảnh hưởng về mặt tài chính của các giao dịch và các sự kiện khác
bằng cách tập hợp chúng vào các nhóm có cùng đặc điểm kinh tế và được gọi là các
yếu tố của BCTC.
Xác định và ghi nhận các yếu tố của BCTC là một nội dung quan trọng của
khuôn mẫu lý thuyết về BCTC.
Các yếu tố của BCTC liên quan trực tiếp đến báo cáo thay đổi tình hình tài
chính và kết quả hoạt động kinh doanh của một DN bao gồm:
- Các yếu tố liên quan trực tiếp đến việc xác định tình hình tài chính trong
Báo cáo tình hình tài chính là tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu.
- Các yếu tố liên quan trực tiếp đến việc xác định kết quả kinh doanh trong
Báo cáo thu nhập toàn diện là thu nhập, chi phí và lợi nhuận.
Các yếu tố trực tiếp phản ánh tình hình tài chính là tài sản, nợ phải
trả và vốn chủ sở hữu
- Tài sản là “nguồn lực được kiểm soát bởi DN như là kết quả của các sự
kiện trong quá khứ và từ đó mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai”.
Khái niệm “lợi ích kinh tế tương lai” bao hàm ý nghĩa “dịch vụ tiềm tàng”
trong tài sản mà DN sẽ sử dụng, hoặc trở thành dòng tiền vào của DN trong tương
lai.
41
Khái niệm “kiểm soát” bảo đảm khả năng DN sẽ thu được lợi ích kinh tế từ
tài sản, cũng như giới hạn những người khác sử dụng lợi ích kinh tế đó, trừ khi phải
trả một khoản chi phí nhất định cho DN. Khái niệm “kết quả của một sự kiện trong
quá khứ” nhấn mạnh đến việc DN đã có quyền tiếp cận và kiểm soát lợi ích kinh tế
tương lai của tài sản.
Một tài sản được ghi nhận trên BCTC khi có khả năng thu được lợi ích
kinh tế trong tương lai, và giá trị của nó có thể xác định một cách đáng tin cậy.
- Nợ phải trả là nghĩa vụ hiện tại của DN phát sinh từ các sự kiện trong quá
khứ mà việc thanh toán sẽ làm giảm lợi ích kinh tế của DN.
Khái niệm “nghĩa vụ hiện tại” đề cập đến trách nhiệm phải thực hiện một
hành động một cách chắc chắn. Điều này thông thường gắn với một trách nhiệm
pháp lý, trừ một số trường hợp khác, chẳng hạn, việc thực hiện một trách nhiệm
mang tính đạo lý hoặc tập quán. Khái niệm “thanh toán” và “làm giảm lợi ích kinh
tế” liên quan đến việc chuyển giao lợi ích kinh tế của DN. Khái niệm “phát sinh từ
các sự kiện trong quá khứ” nhấn mạnh nợ phải trả là kết quả từ các giao dịch trong
quá khứ hoặc các sự kiện khác trong quá khứ.
Một khoản nợ phải trả được ghi nhận trên BCTC khi gần như chắc chắn
làm giảm lợi ích kinh tế để thanh toán nghĩa vụ hiện tại, và nợ phải trả có giá trị có
thể xác định một cách đáng tin cậy.
Tài sản và nợ phải trả có thể được phân loại theo tính chất hoặc chức năng
của chúng nhằm trình bày thông tin một cách hữu ích nhất đến người sử dụng cho
mục đích ra quyết định kinh tế.
- Vốn chủ sở hữu là giá trị vốn của đơn vị, được tính bằng số chênh lệch
giữa giá trị tài sản của đơn vị trừ (-) nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu gồm vốn đầu tư của chủ sở hữu, lợi nhuận sau thuế chưa
phân phối, các quỹ được trích từ lợi nhuận sau thuế chưa phân phối.
Các yếu tố trực tiếp phản ánh kết quả hoạt động là thu nhập và chi phí
- Thu nhập là tổng giá trị các lợi ích kinh tế đơn vị thu được trong kỳ kế
toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường và các hoạt
động khác của đơn vị, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu, không bao gồm khoản
góp vốn của cổ đông hoặc chủ sở hữu.
42
Thu nhập của DN bao gồm doanh thu và thu nhập khác. Trong đó doanh thu
phát sinh từ những hoạt động kinh doanh bình thường của DN, còn thu nhập khác
thì có thể không phát sinh từ những hoạt động kinh doanh bình thường.
Khái niệm thu nhập của IASB thể hiện quan điểm tiếp cận dựa trên tài sản và
nợ phải trả, trong đó thu nhập đặt nền tảng trên sự tăng lên của tài sản hay giảm đi
của nợ phải trả. Doanh thu và thu nhập khác đều phản ánh sự tăng lên về lợi ích
kinh tế, do vậy không có sự khác nhau về bản chất. Thu nhập được ghi nhận “khi
có sự gia tăng lợi ích kinh tế tương lai liên quan đến sự tăng lên của tài sản hay
giảm xuống của nợ phải trả đã xảy ra, và có thể xác định một cách đáng tin cậy”.
- Chi phí là sự giảm về lợi ích kinh tế trong kỳ do giảm tài sản hay gia tăng
nợ phải trả, làm giảm vốn chủ sở hữu, nhưng không bao gồm phân phối các khoản
cho chủ sở hữu.
Chi phí bao gồm chi phí phát sinh từ hoạt động kinh doanh bình thường và
các khoản chi phí khác. Chi phí được ghi nhận khi có sự giảm lợi ích kinh tế tương
lai liên quan đến sự giảm xuống của tài sản hay tăng lên của nợ phải trả đã xảy ra,
và có thể xác định một cách đáng tin cậy.
Về nội dung của hệ thống Báo cáo tài chính: Để thực hiện vai trò cung cấp
thông tin hữu ích cho người sử dụng, trên cơ sở các nguyên tắc, các tiêu chuẩn chất
lượng, các yếu tố và ghi nhận các yếu tố, BCTC phải chứa đựng nội dung để phục
(1) Báo cáo tình hình tài chính;
(2) Báo cáo thu nhập toàn diện;
(3) Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu;
(4) Báo cáo lưu chuyển tiền;
(5) Bản Thuyết minh BCTC;
(6) Báo cáo tình hình tài chính tại thời điểm bắt đầu của kỳ so sánh gần nhất
vụ cho việc phản ánh thông tin. Hệ thống BCTC đầy đủ gồm:
khi DN áp dụng hồi tố chính sách kế toán hoặc thực hiện việc điều chỉnh hồi tố đối
với một số khoản mục trên BCTC, hoặc khi DN thực hiện phân loại lại các khoản
mục trên BCTC.
Nội dung của các BCTC bao gồm:
(1) Báo cáo tình hình tài chính
43
Đây là một bộ phận quan trọng của BCTC, dùng để phản ánh thực trạng tình
hình tài chính của DN, được thể hiện thông qua các thông tin về nguồn lực do DN
kiểm soát, cơ cấu tài chính, tính thanh khoản, khả năng thanh toán.
Các thông tin tối thiểu trên Báo cáo tình hình tài chính phải bao gồm các
khoản mục trình bày các số liệu sau:
(1) Nhà cửa, máy móc và thiết bị;
(2) Bất động sản đầu tư;
(3) Tài sản vô hình;
(4) Tài sản tài chính;
(5) Các khoản đầu tư;
(6) Tài sản sinh học;
(7) Hàng tồn kho;
(8) Các khoản phải thu;
(9) Tiền và các khoản tương đương tiền;
(10) Tài sản được phân loại là nắm giữ để bán và các nhóm tài sản chờ thanh
lý được phân loại là nắm giữ để bán;
(11) Các khoản phải trả người bán và phải trả khác;
(12) Các khoản dự phòng;
(13) Các khoản nợ phải trả tài chính;
(14) Các khoản phải trả thuế thu nhập hiện hành và tài sản thuế thu nhập hiện
hành;
(15) Khoản phải trả thuế thu nhập hoãn lại và tài sản thuế thu nhập hoãn
lại;
(16) Các nghĩa vụ nợ phải trả có liên quan đến các nhóm tài sản chờ thanh lý
được phân loại là giữ để bán;
(17) Vốn chủ sở hữu và các quỹ dự trữ thuộc về các chủ sở hữu.
Đối với các DN có hoạt động kinh doanh đặc thù như chứng khoán, ngân
hàng, bảo hiểm sẽ có bổ sung thêm một số chỉ tiêu đặc thù cho phù hợp với hoạt
động đặc thù đó.
(2) Báo cáo thu nhập toàn diện
Báo cáo thu nhập toàn diện (còn gọi là Báo cáo lợi nhuận tổng hợp) trình
44
bày lãi lỗ và thu nhập tổng hợp khác trong kỳ, thể hiện khả năng tạo ra lợi nhuận từ
các nguồn lực đã được đầu tư. Những thông tin trên Báo cáo lợi nhuận tổng hợp
cung cấp thông tin hữu ích cho người sử dụng trong việc xem xét lợi nhuận tạo ra
trong mối quan hệ với doanh thu và chi phí, từ đó đánh giá khả năng tạo ra lợi
nhuận của DN.
Báo cáo thu nhập toàn diện trình bày các thông tin về Lãi lỗ; Tổng thu nhập
tổng hợp khác; Tổng cộng lợi nhuận trong kỳ bao gồm lãi lỗ và thu nhập tổng hợp
khác. Trong đó:
Phần thông tin về Lãi/Lỗ bao gồm các khoản mục trình bày các số liệu trong
kỳ về: Doanh thu kinh doanh, doanh thu tài chính và thu nhập khác; Các chi phí
kinh doanh, chi phí tài chính; Thu nhập hay chi phí phát sinh từ chênh lệch giữa giá
trị ghi sổ và GTHL tại ngày phân loại lại tài sản và nợ phải trả tài chính; Chi phí
thuế; Lãi/lỗ trong năm.
Phần thông tin về thu nhập tổng hợp khác bao gồm các khoản mục sau:
những thay đổi trong chênh lệch đánh giá lại TSCĐ; Lãi và lỗ phát sinh từ việc
chuyển đổi BCTC của hoạt động nước ngoài; Lãi lỗ từ việc đánh giá tài sản tài
chính sẵn sàng để bán; Lãi và lỗ được ghi nhận đối với công cụ phòng ngừa rủi ro
dòng tiền; Thuế thu nhập liên quan đến thu nhập tổng hợp khác.
(3) Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu
Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu cung cấp thông tin về sự thay đổi vốn chủ
sở hữu của DN, phản ánh sự tăng, giảm giá trị của tài sản thuần trong kỳ, bao gồm
các thông tin sau:
- Tổng lợi nhuận tổng hợp của một kỳ;
- Tác động của việc áp dụng hồi tố hoặc điều chỉnh hồi tố lên từng thành
phần của vốn chủ sở hữu; và
- Đối chiếu giữa giá trị đầu kỳ và cuối kỳ cho từng thành phần của vốn chủ
sở hữu và thuyết minh riêng các thay đổi phát sinh từ:
+ Lãi lỗ (hoạt động kinh doanh);
+ Thu nhập tổng hợp khác.
Như vậy, thay đổi trong vốn chủ sở hữu của DN từ đầu đến cuối kỳ báo cáo thể
hiện sự tăng lên hoặc giảm đi của tài sản thuần trong kỳ. Trừ những thay đổi do các
45
giao dịch với chủ sở hữu với tư cách là chủ sở hữu (như góp vốn, mua lại cổ phần
của đơn vị và cổ tức) và chi phí giao dịch liên quan trực tiếp đến những giao dịch
này, báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu trong kỳ trình bày tổng thu nhập và chi phí,
kể cả thu nhập và chi phí khác, tạo ra từ các hoạt động của DN trong kỳ.
(4) Báo cáo lƣu chuyển tiền
Báo cáo lưu chuyển tiền cung cấp cơ sở để người sử dụng đánh giá khả
năng tạo ra tiền và các khoản tương đương tiền của DN và nhu cầu sử dụng các
dòng tiền này của DN.
Báo cáo lưu chuyển tiền trình bày lưu chuyển tiền trong một kỳ được phân
loại theo hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính.
- Luồng tiền từ hoạt động kinh doanh là luồng tiền phát sinh từ các hoạt
động tạo ra doanh thu chính của DN hoặc hoạt động khác không phải là hoạt động
đầu tư hay tài chính. Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh “là một chỉ số quan
trọng xác định mức độ hoạt động của DN, đánh giá khả năng tạo ra nguồn tiền để
thanh toán nợ, duy trì hoạt động, trả cổ tức, tiến hành các hoạt động đầu tư mới mà
không cần viện đến các nguồn tài trợ bên ngoài”. DN có thể trình bày lưu chuyển
tiền từ hoạt động kinh doanh theo một trong hai phương pháp: phương pháp trực
tiếp hoặc phương pháp gián tiếp.
Một số nội dung lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh, gồm:
+ Tiền thu được từ việc bán hàng, cung cấp dịch vụ;
+ Tiền thu được từ doanh thu khác (tiền thu bản quyền, phí, hoa hồng và các
khoản khác trừ các khoản tiền thu được được xác định là luồng tiền từ hoạt động
đầu tư và hoạt động tài chính);
+ Tiền chi trả cho người cung cấp hàng hóa và dịch vụ;
+ Tiền chi trả cho người lao động về tiền lương, tiền thưởng, trả hộ người
lao động về bảo hiểm, trợ cấp...;
+ Tiền chi trả lãi vay;
+ Tiền chi nộp thuế thu nhập DN;
+ Tiền thu do được hoàn thuế;
+ Tiền thu do được bồi thường, được phạt do khách hàng vi phạm hợp đồng
kinh tế;
46
+ Tiền chi trả công ty bảo hiểm về phí bảo hiểm, tiền bồi thường và các
khoản tiền khác theo hợp đồng bảo hiểm;
+ Tiền chi trả do bị phạt, bị bồi thường do DN vi phạm hợp đồng kinh tế.
- Luồng tiền từ hoạt động đầu tư là luồng tiền phát sinh từ việc mua hoặc
thanh lý các tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác. Việc công bố tách biệt lưu
chuyển tiền của hoạt động đầu tư là quan trọng vì nó thể hiện được quy mô của các
khoản đầu tư tạo ra thu nhập và dòng tiền tương lai.
Một số nội dung lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư, gồm:
+ Tiền chi mua sắm hoặc tiền thu nhượng bán TSCĐ và tài sản dài hạn khác;
+ Tiền chi cho vay và mua các công cụ nợ; tiền thu hồi các khoản cho vay
hoặc bán các công cụ nợ;
+ Tiền thu chi của hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn (trừ hợp đồng cho
mục đích thương mại)…
- Luồng tiền từ hoạt động tài chính là luồng tiền phát sinh từ các hoạt động
làm thay đổi quy mô và thành phần của vốn chủ sở hữu và vốn vay, liên quan đến
việc huy động và hoàn trả các nguồn lực từ bên ngoài. Việc công bố tách biệt lưu
chuyển tiền của hoạt động tài chính là quan trọng vì điều này hữu ích cho nhận
định về xu hướng dòng tiền tài trợ của nhà cung cấp vốn cho DN.
Một số nội dung lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính, gồm:
+ Tiền thu từ phát hành cổ phiếu hoặc các công cụ vốn cổ phần khác;
+ Tiền chi thanh toán cho chủ sở hữu;
+ Tiền thu từ phát hành trái phiếu, giấy nợ và các khoản vay ngắn hạn hoặc
dài hạn khác;
+ Tiền chi thanh toán các khoản nợ; và
+ Tiền chi trả nợ thuê tài chính.
(5) Thuyết minh BCTC
Thuyết minh BCTC hướng đến các mục tiêu trình bày các thông tin về cơ sở
cho việc soạn thảo BCTC và các chính sách kế toán được sử dụng và thuyết minh
bất cứ thông tin nào đã được yêu cầu bởi các quy định khuôn mẫu nhưng chưa
được trình bày trên BCTC và cung cấp thêm về những thông tin không được trình
bày trên BCTC nhưng được xem là phù hợp cho việc hiểu rõ hơn về chúng.
47
Thuyết minh BCTC phải được trình bày một cách có hệ thống. Mỗi khoản
mục trong Báo cáo tình hình tài chính, Báo cáo thu nhập toàn diện, Báo cáo thay
đổi vốn chủ sở hữu và Báo cáo lưu chuyển tiền cần được đánh dấu dẫn tới các
thông tin liên quan trong Thuyết minh BCTC.
Nhằm hỗ trợ người sử dụng trong việc so sánh với báo cáo của DN khác,
- Báo cáo về sự tuân thủ các chuẩn mực BCTC;
- Tóm tắt những chính sách kế toán quan trọng được áp dụng;
- Các thông tin chi tiết về các khoản mục đã trình bày trên Báo cáo tình
thuyết minh BCTC được trình bày theo trình tự sau:
hình tài chính, Báo cáo lãi lỗ và thu nhập tổng hợp khác, Báo cáo thay đổi vốn chủ
- Các công bố khác, bao gồm:
sở hữu, Báo cáo lưu chuyển tiền.
+ Nợ tiềm tàng, các cam kết trong hợp đồng chưa được ghi nhận; và
+ Các công bố thông tin phi tài chính, ví dụ như mục tiêu và chính sách quản
trị rủi ro tài chính DN...
Ngoài ra, các nội dung sau cũng cần được công bố trong thuyết minh BCTC
gồm: thông tin về các giả định về tương lai và cơ sở chính cho sự không chắc chắn
của các ước tính được thực hiện vào cuối kỳ báo cáo khi các giả định hoặc ước tính
này có nhiều rủi ro sẽ gây ra các điều chỉnh trọng yếu tới giá trị được ghi nhận của
tài sản và nợ phải trả trong năm tài chính tiếp theo; các thông tin cho phép người sử
dụng BCTC đánh giá các mục tiêu, chính sách và quy trình quản lý vốn của DN;
các công cụ tài chính có quyền yêu cầu mua lại được phân loại là công cụ vốn; các
thông tin chi tiết về cổ tức.
1.2 Tổng quan về giá trị hợp lý và việc ghi nhận và trình bày thông tin các
yếu tố của Báo cáo tài chính
1.2.1 Sự hình thành và phát triển mô hình giá trị hợp lý trong kế toán
Nguyên tắc tính giá là một trong những nguyên tắc cơ bản, một trong những
căn cứ của tất cả lý thuyết kế toán. Sự phát triển của kế toán với các lý thuyết và
loại hình kế toán xuất phát từ những căn cứ khác biệt, trong đó có những nguyên
tắc tính giá khác nhau. Các nguyên tắc tính giá này là nền tảng để thiết lập các mô
hình tính giá và chi phối sâu sắc đến các thủ tục kế toán.
48
Campbell (38) là một trong những người đầu tiên đề cập đến vấn đề tính giá
đã định nghĩa “tính giá là sự phân bổ về số liệu để thể hiện quyền sở hữu vì luật
pháp chi phối quyền sở hữu này”. Quá trình tính giá tương tự như cách tiếp cận
khoa học về xây dựng và kiểm định các nguyên lý.
Nguyên tắc tính giá có ý nghĩa xác định loại giá chủ yếu mà một hệ thống kế
toán áp dụng để tính giá đại bộ phận các đối tượng kế toán. Đối với nhu cầu thông
tin chung của tất cả các đối tượng sử dụng được cung cấp thông qua hệ thống
BCTC, nguyên tắc tính giá phải đảm bảo tính tin cậy, sự nhất quán và so sánh, do
vậy nguyên tắc tính giá có xu hướng được quy định trong tập hợp các nguyên tắc
kế toán được chấp nhận chung của từng quốc gia. Các nguyên tắc tính giá các yếu
tố của BCTC được thể hiện thông qua việc xác định các cơ sở đo lường trong kế
toán.
Để tính giá các đối tượng kế toán, các lý thuyết cũng như thông lệ kế toán
đều dựa trên nguyên tắc giá gốc hoặc nguyên tắc giá thị trường. Mỗi nguyên tắc
đều phù hợp với logic của từng lý thuyết kế toán tương ứng. Tuy nhiên, trong thực
tiễn, sự vận dụng các nguyên tắc này có sự kết hợp. Trong giai đoạn đầu phát triển
kế toán, chưa hình thành những xu hướng cụ thể thì giá gốc và giá thị trường được
sử dụng thay thế nhau. Trong giai đoạn của loại hình kế toán tĩnh, giá thị trường
chiếm ưu thế gắn với nghĩa vụ công bố thông tin trong điều kiện giải thể, phá sản
đơn vị. Tuy nhiên, giá gốc vẫn được sử dụng trong các ghi chép kế toán tài chính.
Trong loại hình kế toán động, giá gốc là nguyên tắc tính giá phổ biến đồng thời có
sự kết hợp giá thị trường trong những điều kiện nhất định.
Cùng với sự phát triển của các lý thuyết và loại hình kế toán, đặc biệt là
trong những năm đầu của thế kỷ 20 đến nay, đã xuất hiện nhiều quan điểm khác
nhau về kế toán, trong đó trọng tâm là sự khác biệt trong quan điểm về các mô hình
tính giá của kế toán. Ngay cả việc phân biệt các mô hình tính giá khác nhau cũng
có nhiều quan điểm, theo tác giả Veron Kam, các mô hình tính giá tiêu biểu trong
sự phát triển của thông lệ và lý thuyết kế toán gồm: mô hình giá gốc (kế toán giả
định), mô hình giá hiện hành và mô hình giá đầu ra. Các quan điểm của một số học
giả khác cho rằng các mô hình tính giá được thể hiện thông qua các nguyên tắc tính
49
giá các đối tượng kế toán, dựa trên nền tảng xác định các cơ sở đo lường trong kế
toán, các nguyên tắc tính giá bao gồm giá gốc, giá hiện hành, giá đầu ra, GTHL.
(1) Giá gốc
Theo nguyên tắc này, việc xác định giá trị tài sản, nợ phải trả phải theo giá
trị thực tế tại thời điểm phát sinh. Nguyên tắc giá gốc yêu cầu việc tính giá đối với
tài sản hình thành được căn cứ trên số tiền hoặc tương đương tiền thực tế chi ra.
Trường hợp tài sản được hình thành từ một tài sản khác với tiền, thì chi phí được
đánh giá theo giá trị tiền tương đương với tài sản đó. Nguyên tắc này bảo đảm tài
sản của đơn vị phản ánh đúng với thực tế chi phí đã bỏ ra. Nợ phải trả được ghi
nhận theo số tiền thu được trong trao đổi nghĩa vụ hoặc một số trường hợp khác, số
tiền này được thể hiện bằng tiền mặt hoặc số qui đổi ra tiền dự kiến phải trả trong
một giao dịch bình thường.
Theo cuốn nguyên lý kế toán tái bản lần thứ 4 xuất bản năm 2000 cho rằng:
(+) Giá gốc liên quan đến việc ra quyết định vì ban giám đốc ra quyết định liên
quan đến các cam kết trong tương lai, họ cần dữ liệu về các giao dịch đã xảy ra. Họ
phải xem xét kết quả nỗ lực trong quá khứ và đo lường các kết quả đó theo giá gốc.
(+) Giá gốc được xác định căn cứ vào các giao dịch thực tế được ghi nhận đầy đủ.
Các tài liệu này chứng minh cho các số liệu được trình bày trên BCTC. Giá gốc
cung cấp bằng chứng cho việc xác định xem việc quản lý hiệu quả đạt được nhiệm
vụ như thế nào. (+) Kế toán phải đảm bảo về tính chính trực về số liệu trước khi bị
nhào nặn. (+) Những người làm kế toán truyền thống cho rằng không có bằng
chứng thuyết phục để chỉ ra rằng kế toán theo giá hiện hành và giá đầu ra là hữu ích
hơn so với thông tin theo giá gốc. Hầu hết các nghiên cứu chỉ ra rằng dữ liệu giá
hiện hành không cung cấp thông tin nhiều hơn so với dữ liệu theo giá gốc.
Tuy nhiên, nhược điểm của việc áp dụng giá gốc là giá gốc là giá quá khứ
nên thông tin trên cơ sở giá gốc sẽ không hữu ích đối với việc ra quyết định ở hiện
tại và tương lai. Cuốn nguyên lý kế toán tái bản lần thứ 4 cũng chỉ ra những nhược
điểm của áp dụng giá gốc, đó là giá gốc sẽ phóng đại thu nhập khi giá tăng bởi vì
nó bù trừ giá gốc với doanh thu hiện hành, dẫn đến việc giảm vốn vì vốn được định
nghĩa là khả năng của DN để sản xuất, giao dịch và hoạt động trong tương lai. Thu
nhập xác định theo giá gốc có thể đánh lừa ban giám đốc khi quyết định chia cổ tức
50
cho cổ đông cao hơn so với thu nhập thực sự. Có nhiều quyết định liên quan đến việc
ghi nhận, đánh giá và báo cáo thông tin mà theo đó kế toán theo giá gốc không đạt
được theo mục tiêu.
(2) Giá hiện hành
Năm 1961, Edwads and Bell đề xuất hệ thống kế toán theo giá hiện hành
trong cuốn sách Nguyên lý và cách xác định thu nhập DN (42). Cuốn sách đó lần
đầu tiên trình bày một cách hệ thống về kế toán theo giá hiện hành, đề cao đến việc
xem xét các quyết định của nhà quản lý để điều hành DN. Nhà quản lý thường đưa
ra 3 câu hỏi để triển khai các dự tính về các sự kiện trong tương lai (tại bất kỳ thời
điểm nào tài sản cần nắm giữ là bao nhiêu? Những tài sản đó theo hình thức nào?
Những tài sản đó được hình thành từ nguồn nào?) Các dự tính đó dựa trên các hoạt
động trong quá khứ. Do vậy, để ra quyết định liên quan đến việc triển khai các kế
hoạch liên quan, nhà quản lý cần định giá các quyết định trong quá khứ. Tính hữu
ích của thông tin kế toán cho mục đích này dựa trên khả năng so sánh của thông tin
với kế hoạch cụ thể trong một khoảng thời gian cụ thể. Nếu có sai sót được phát
hiện về các kế hoạch trước đây thì các sự kiện hoặc dự tính đó cần được sửa đổi.
Tài sản được ghi nhận theo số tiền hoặc số qui đổi ra tiền phải trả hoặc theo giá trị
của tài sản tương tự tại thời điểm mua lại. Nợ phải trả được ghi nhận theo số tiền
hoặc số tương đương tiền cần thiết để thanh toán các nghĩa vụ theo yêu cầu tại thời
điểm hiện hành.
Theo giá hiện hành, lãi của tài sản phi tiền tệ là lãi chưa thực hiện vì nó là
kết quả của giao dịch kinh tế thực tế phát sinh trong kỳ kế toán hiện hành và do đó
phải được ghi nhận nếu có bằng chứng đầy đủ và khách quan về việc thay đổi giá
cả. Đối với TSCĐ cho dù DN để sử dụng hay để bán thì giá thị trường của nó biến
động cũng bị ảnh hưởng. DN xác định thu nhập theo từng kỳ phải được dựa theo
các sự kiện đã phát sinh thực tế trong kỳ hiện hành đó chứ không dựa theo các sự
kiện có thể xảy ra.
Do các tiến bộ khoa học công nghệ nên các tài sản chủ yếu của DN phải
được thay thế một cách định kỳ. Việc phản ánh tài sản theo giá hiện hành một mặt
cho phép ghi nhận vào chi phí của DN mức khấu hao đảm bảo có thể tái đầu tư và
duy trì năng lực sản xuất kinh doanh ổn định của DN. Mặt khác, khi so sánh doanh
51
thu với chi phí tính theo giá hiện hành chỉ tiêu lợi nhuận phản ánh hiệu quả kinh
doanh thực sự của DN không chỉ trong ngắn hạn mà còn trong dài hạn.
Việc ghi nhận các khoản biến động kinh doanh trong kỳ xuất phát từ quan
điểm cho rằng khi giá hiện hành tăng tức là chi phí thay thế tài sản tăng, việc DN
đầu tư và nắm giữ tài sản tạo cho DN một khoản tiết kiệm chi phí mang tính cơ hội,
bản chất của khoản tiết kiệm chi phí cũng là một khoản thu nhập cơ hội. Khi có đủ
bằng chứng khách quan về biến động giá hiện hành thì các khoản này được ghi
nhận vào kết quả kinh doanh trong kỳ.
Một số quan điểm không ủng hộ giá hiện hành cho rằng nếu DN có ý định sử
dụng tài sản mà không bán tài sản đó thì việc thay đổi giá cả trên thị trường không
liên quan gì. Đối với DN, một TSCĐ đang sử dụng thì không có thêm giá trị nào
khi giá hiện hành của nó tăng lên. Người ta cho rằng kế toán theo giá hiện hành làm
biến tướng lợi nhuận hoạt động. Ngoài ra, nó mang tính chủ quan nhiều khi xác
định giá tăng lên. Nếu không có thị trường thực hiện thì cơ sở xác định giá hiện
hành của TSCĐ DN đang dùng phải là giá của tài sản mới dự kiến thay thế tài sản
cũ.
(3) Giá đầu ra
Kế toán giá đầu ra được kết hợp chủ yếu từ các nghiên cứu của Chambers
(1966, 1975), Sterling (1970) và MacNeal (1970).
Giá đầu ra là giá bán do giả định đơn vị bán đi một tài sản (không phải mua)
hoặc chuyển giao một khoản nợ phải trả (không phải giá nhận về hay thanh toán
khoản nợ). Hệ thống BCTC sử dụng giá bán trên thị trường để xác định tình hình
tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị được gọi là kế toán giá đầu ra.
Đề xuất kế toán giá đầu ra của Chambers dựa theo khái niệm về hành vi ứng
xử của các đơn vị. Khái niệm về hành vi ứng xử là việc xem đơn vị luôn luôn bố trí
tài sản cho mục đích có thể sử dụng tốt nhất. Ví dụ, đơn vị phản ánh tài sản dài hạn
chỉ khi giá trị hiện tại của dòng tiền thuần trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó
lớn hơn giá trị hiện tại của dòng tiền thuần dự kiến từ việc đầu tư thay thế của giá
đầu ra của tài sản. Do vậy, bất kỳ lúc nào DN đều phải xem xét liệu cơ hội thay thế
có đem lại hiệu quả cho tài sản có cao hơn so với việc bán tài sản đó. Đây là khái
niệm chi phí cơ hội có sử dụng giá đầu ra trong cơ sở xác định giá. Chambers cũng
52
băn khoăn về việc liệu quy mô đánh giá khác nhau cho các khoản mục khác nhau
thì không thể đặt cùng nhau được dẫn đến không có ý nghĩa về thực tiễn và ý nghĩa
về thương mại.
Nghiên cứu của MacNeal (1970) cho rằng trong thế kỷ 20, nhiều cổ đông
nắm giữ cổ phần chỉ dựa vào BCTC và truyền thông về các thông tin đối với các
công ty họ sở hữu. Do đó, kế toán trở nên rất quan trọng đối với cổ đông. MacNeal
cho rằng cổ đông không thể biết về giá trị hiện tại của các tài sản được trình bày
trên Bảng cân đối kế toán vì các tài sản đó được hạch toán theo giá gốc và cổ đông
không thể có những thông tin mà chỉ có những người trong nội bộ công ty mới có được.
Giải pháp lý tưởng là cần phải báo cáo tất cả lãi, lỗ và giá trị phải được xác định trong
một thị trường cạnh tranh.
Nghiên cứu của Sterling (1970) sử dụng mô hình đơn giản để chứng minh
rằng giá đầu ra là tốt hơn so với các loại giá khác. Giá đầu ra là thông tin duy nhất
liên quan đến tất cả các quyết định. Ngay cả khi có giả định cạnh tranh hoàn hảo và
giá cả ổn định, Sterling cho rằng giá đầu ra vẫn được coi là quan trọng nhất.
Trong mọi trường hợp, DN quan tâm đến việc bán tài sản đó hơn là việc sử
dụng hay mua tài sản đó vì DN có tài sản đó rồi. Do vậy giá hiện hành, giá mua tài
sản đó là giá không thích hợp. Khi khấu hao tài sản theo giá hiện hành thì phần
khấu hao tăng thêm hoặc giảm đi tính vào kết quả kinh doanh sẽ làm thay đổi thu
nhập trong kỳ.
Theo MacNeal (1939) cho rằng các cổ đông không thể biết được giá hiện
hành của các tài sản ở công ty mà họ đã đầu tư. Cổ đông cần các thông tin từ báo
cáo lãi, lỗ và giá trị được xác định trên thị trường cạnh tranh. Nhưng không phải tất
cả tài sản đều có thị trường sẵn sàng. Do vậy, MacNeal cho rằng các tài sản có giá
thị trường (maketable assets) thì phải được xác định theo giá thị trường (giá đầu ra),
các tài sản không có giá thị trường nhưng có thể tính toán được (nonmarketable
reproducible assets) thì theo chi phí thay thế (replacement cost) và các tài sản
không có giá thị trường và không thể tính toán được (occasional nonmarketable,
nonreproducible assets) thì theo giá gốc. Tất cả các khoản lãi, lỗ đều được ghi nhận
vào báo cáo thu nhập cho dù đã thực hiện hay chưa.
53
Theo Chambers (1966) cho rằng về nguyên lý, tất cả các tài sản đều có giá
trị khi trao đổi (giá trị thị trường (market value)) và có giá trị sử dụng (value in
use). Giá trị thị trường cho biết khả năng của DN có thể mua tài sản nào đó và có
thể trả nợ tại một ngày cụ thể. Nó rất hữu ích cho DN trong quá trình hoạt động.
Giá đó do thị trường quyết định chứ không phải do chủ DN quyết định. Do vậy nó
rất khách quan và mọi người đều có thể hiểu được. Ngược lại, giá trị sử dụng về cơ
bản là giá trị được tính toán theo một thời điểm hiện tại. Nó là sự tin tưởng về
tương lai chứ không phải là thực tế hiện tại. Nó mang tính chủ quan của chủ DN.
Do vậy, nó mang tính chủ quan và mọi người không hiểu được nếu không được
giải thích đầy đủ. Nếu có đầy đủ kiến thức về tình hình tài chính thì sẽ sử dụng giá
thị trường.
Sterling (1970) cho rằng giá hiện tại của một mặt hàng DN đang kinh doanh
là thông tin quan trọng nhất liên quan đến tất cả các quyết định.
Tuy nhiên, theo Philip Bell (1971), ông cho rằng, các tài sản cụ thể được
mua về theo một kế hoạch hoạt động theo ý định cụ thể thì được ưu tiên xác định
giá theo kế hoạch hoạt động đó trước, còn các ý định khác khi sử dụng tài sản đó sẽ
được xem xét sau. Nhiệm vụ của kế toán là phải phản ánh theo giá xác định theo
mục đích ban đầu. Hoặc như Weston (trong cuốn sách Response to Evidence for a
Market Selling Price Accounting System) cho rằng kế toán theo giá đầu ra cung
cấp thông tin chỉ phù hợp khi DN có kế hoạch thanh lý tài sản đó. Nếu DN tiếp tục
sử dụng kinh doanh thì thông tin giá đầu ra không phù hợp.
(4) Giá trị hợp lý
Nền tảng lý thuyết cho GTHL là giá đầu ra (an exit price). GTHL là giá đầu
ra, đó là giá thị trường từ phía những người tham gia thị trường tại ngày xác định.
Với lịch sử phát triển của kế toán và cơ sở giá trị ghi sổ từ thời cổ đại cho
đến ngày nay, nhận thấy rằng cơ sở tính giá là một tiêu thức quan trọng bậc nhất để
giúp người quan tâm đến đối tượng kế toán hiểu được tình hình tài chính của đối
tượng đó. Trong hầu hết các trường hợp, giá cả thị trường được căn cứ để làm cơ sở
ban đầu ghi sổ kế toán. Khi đó, người ta có thể gọi giá cả thị trường là GTHL của
tài sản.
54
Trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21, có một sự thay đổi cơ bản trong BCTC ở
Mỹ. Sự thay đổi lớn là sự thay đổi kế toán theo phương pháp mua và đưa ra việc
kiểm tra tổn thất của lợi thế thương mại. Theo GAAP và IFRS đều yêu cầu người
mua phải phân bổ giá mua cho các tài sản và nợ phải trả được mua như tài sản tài
chính, tài sản hữu hình và tài sản vô hình theo GTHL của chúng. Nói chung, các tài
sản dài hạn đều được phân bổ ngoại trừ lợi thế thương mại phải đánh giá lại về suy
giảm giá trị.
Ngày nay, với đặc điểm của nền kinh tế hiện đại, DN có thể phá sản hoặc
trong quá trình hoạt động liên tục nhưng việc mua bán DN lại diễn ra thường
xuyên, không một quốc gia nào áp dụng chỉ đơn thuần mô hình kế toán tĩnh hoặc
mô hình kế toán động. Hầu hết các quốc gia đều áp dụng mô hình kế toán hỗn hợp,
kết hợp giữa kế toán tĩnh và kế toán động. Vì vậy, nguyên tắc giá phí được áp dụng
triệt để trong ghi nhận ban đầu. Nhưng thị trường biến đổi liên tục, giá tài sản và nợ
phải trả của DN cũng biến đổi liên tục, DN cũng thay đổi chủ sở hữu liên tục nhờ
sự phát triển của TTCK, nên sau khi ghi nhận ban đầu, nguyên tắc giá phí không
còn đáp ứng được đầy đủ nhu cầu hiểu biết về tình hình tài chính tại một thời điểm
của những người quan tâm. Cũng không thể dùng giá thị trường để đánh giá vì giá
thị trường biến đổi rất nhanh, từng ngày, từng giờ. Vì vậy, để đáp ứng được nhu
cầu của những người quan tâm đến tình hình tài chính DN, xuất hiện một loại giá
trị dùng để phản ánh trên BCTC, đó chính là GTHL. Trong nhiều trường hợp, giá
gốc được coi là GTHL, giá thị trường cũng được coi là GTHL. GTHL là một loại
giá áp dụng trong kế toán để người quan tâm có thể tin tưởng được tính minh bạch
của BCTC đó.
Trên thế giới, GTHL bắt đầu trở thành cơ sở tính giá trong kế toán từ cuối
những năm 1990. Thuật ngữ GTHL được giới thiệu lần đầu vào tháng 6 năm 2001
do FASB trong chuẩn mực BCTC (SFAS) 141- Hợp nhất kinh doanh và trong
chuẩn mực SFAS 142, lợi thế thương mại và chuẩn mực tài sản vô hình khác.
Trước khi có IFRS 13, IASB định nghĩa GTHL trong IAS 18 – Doanh thu
như sau: GTHL là giá trị tài sản có thể được trao đổi hoặc nợ phải trả được thanh
toán giữa các bên có đầy đủ hiểu biết trong các giao dịch ngang giá.
55
Năm 2011 IASB công bố chuẩn mực IFRS 13 – Xác định GTHL đã chính
thức được ban hành, hướng dẫn chi tiết về cách xác định GTHL trong hạch toán kế
toán. Theo IFRS 13 – Xác định GTHL của IASB thì khái niệm GTHL có sự thay
đổi theo đó GTHL là giá sẽ nhận được khi bán một tài sản hoặc được thanh toán
một khoản nợ phải trả trong một giao dịch có trật tự giữa các thành phần tham gia
thị trường tại ngày xác định.
(1) GTHL là giá nhận được để bán một tài sản hoặc thanh toán để chuyển
giao một khoản nợ phải trả trong một giao dịch thị trường có trật tự trong thị trường
chính (hoặc thị trường thuận lợi nhất) tại ngày đo lường dưới điều kiện thị trường
hiện tại (Tức là giá xuất) bất kể mức giá đó được quan sát trực tiếp hoặc được ước
tính sử dụng một kỹ thuật giá trị khác.
(2) GTHL được hiểu là số tiền có thể nhận được từ việc bán một tài sản hoặc
số tiền phải trả một khoản nợ mà hai bên tham gia giao dịch có sự hiểu biết lẫn
nhau, trong một thị trường công bằng, không bị ép giá.
NCS thấy rằng hầu hết các khái niệm đều có sự tương đồng khi đưa ra khái
niệm về GTHL, NCS ủng hộ khái niệm số 2 của các một số học giả vì NCS thấy
rằng khái niệm này rất rõ khi xác định GTHL của tài sản hoặc nợ phải trả khi trao
đổi giữa các bên tham gia giao dịch có sự hiểu biết lẫn nhau, trong một thị trường
công bằng, không bị ép giá.
Xác định GTHL dựa theo thông tin thị trường, không phải là giá trị riêng đối
với đơn vị. Các bên tham gia thị trường là người bán và người mua trên thị trường
thảo mãn các tiêu chí: Độc lập với nhau; Có kiến thức, Có hiểu biết hợp lý về tài
sản, nợ phải trả và giao dịch dựa trên các thông tin sẵn có; Có thể tham gia giao
dịch để mua tài sản hoặc nhận chuyển giao nợ phải trả; Sẵn sàng tham gia giao dịch
(có động cơ nhưng không bị bắt buộc hay cưỡng ép bằng cách khác để tham gia).
Xác định GTHL giả định rằng giao dịch bán tài sản hoặc chuyển giao nợ
phải trả được tiến hành trên thị trường chính. Trong đó, thị trường chính là thị
trường có khối lượng giao dịch và mức độ hoạt động lớn nhất.
Theo IASB, mục đích chính của BCTC là cung cấp thông tin hữu ích cho các
cổ đông, người cho vay và các tổ chức khác hiện hành và tương lai trong việc ra
quyết định về việc cung cấp nguồn lực cho DN. Do vậy, khi đánh giá chất lượng
56
thông tin GTHL, một câu hỏi đưa ra liệu các thông tin này có tác dụng đối với các
nhà đầu tư không. Mặc dù người sử dụng BCTC rất đa dạng nhưng cả FASB và
IASB đề nhằm đến những người tham gia thị trường vốn. Bởi vì nhà đầu tư là
những người rất cần thông tin từ BCTC và cổ đông cũng không thể thường xuyên
đặt những câu hỏi cho DN được. Ngoài ra vì nhà đầu tư là người cung cấp vốn cho
DN, BCTC phải đáp ứng được nhu cầu của không chỉ nhà đầu tư mà cả nhu cầu
của những người sử dụng khác. Vì vậy, nhu cầu của nhà đầu tư được xem xét là đại
diện tốt nhất cho tất cả những người sử dụng.
Vì lý do này, các nghiên cứu thực tế chủ yếu tập trung vào mối quan hệ giữa
giá tri hợp lý và giá cổ phiếu. Hầu hết các nghiên cứu về báo cáo theo GTHL đều
tập trung vào thị trường Mỹ vì báo cáo theo GTHL được áp dụng và khá phát triển
tại thị trường này và tập trung ở lĩnh vực ngân hàng, nơi có nhiều tài sản tài chính
và nợ phải trả tài chính được đánh giá theo GTHL.
Ngay từ khi GTHL chưa được định nghĩa rõ ràng là giá đầu ra, các quy trình
ước tính GTHL khi chưa có một thị trường năng động cũng như các khuôn mẫu về
phương pháp xác định, ghi nhận và trình bày thông tin theo GTHL chưa được quy
định rõ ràng thì cũng đã có rất nhiều các nghiên cứu về GTHL. Kết quả của các
nghiên cứu cho rằng GTHL liên quan đến các khoản mục khác nhau phụ thuộc vào
tính thanh khoản của các chứng khoán.
Barth (1994) và Ahmed và Takeda (1995) có nghiên cứu về công cụ tài
chính tập trung vào việc so sánh giữa GTHL và chi phí phân bổ (amortized cost).
Các tác giả đã khảo sát giá cả được sử dụng đối với các chứng khoán đầu tư của các
báo cáo lãi lỗ của ngân hàng. Hầu hết các chứng khoán đầu tư của ngân hàng là có
tính thanh khoản cao do đó GTHL là giá tương đối sát giá thực tế (likely to be
value- relevant). Barth (1994) tập trung nghiên cứu số liệu từ 1971 – 1990 của các
ngân hàng của Mỹ và phát hiện ra GTHL của chứng khoán đầu tư có liên đới với
giá cổ phiếu của ngân hàng. Sử dụng đúng dữ liệu đó, Barth và Landsman (1995)
và Barth (1995) khẳng định kết quả của Barth (1994) chứng minh các sai sót trong
khi tính toán giá hợp lý. Trên thực tế, xác định thu nhập thuần dựa theo GTHL
không ổn định so với xác định theo giá gốc. Ahmed and Takeda (1995) phản biện
lại cho rằng điểm yếu trong các phát hiện của Barth có bị bỏ qua sự thay đổi trong
57
giá trị của các tài sản thuần khác khi biến động lãi suất. Ahmed và Takeda thấy có
sự tăng đáng kể trong việc tính giá của các yếu tố do ảnh hưởng của lãi suất của
ngân hàng và việc thay đổi lãi suất trong năm liên quan đến lãi lỗ. Trong mô hình
giá thị trường, Petroni và Wahlen (1995) thay chứng khoán vốn và trái phiếu chính
phủ Mỹ có tính thanh khoản cao bằng trái phiếu DN có tính thanh khoản thấp hơn
và thấy rằng GTHL của chứng khoán vốn và trái phiếu chính phủ sát giá thực tế
hơn so với trái phiếu chính phủ do đó tác giả đề xuất GTHL của chứng khoán giao
dịch trên thị trường năng động đáng tin cậy hơn. Nelson (1996), Barth (1996) và
Eccher (1996), tiến hành kiểm tra các công cụ tài chính khác của ngân hàng từ năm
1992 và 1993 và thấy rằng GTHL của các chứng khoán là ngoài phạm vi của chi
phí phân bổ (amortized costs). Nelson (1996) cho rằng GTHL của các khoản tiền
cho vay, tiền gửi và các khoản nợ dài hạn của ngân hàng không sát với giá thực tế
(not value - relevant), trong khi đó, Barth (1996) thấy rằng GTHL của các khoản
tiền cho vay là sát với giá thực tế và Eccher (1996) thấy rằng giá trị của các khoản
tiền cho vay ở trong giới hạn. Cuối cùng, Venkatachalam (1996) nghiên cứu và
kiểm tra giá trị của các công cụ phái sinh và thấy rằng GTHL của công cụ phái sinh
là sát nhất với giá trị của thị trường vốn.
Sau khi ban hành chuẩn mực FAS 157, một số tác giả đã nghiên cứu các
nguồn thông tin về GTHL khác nhau. FAS 157 và IFRS 13 đều quy định đầu vào
của việc xác định giá đều phân ra 3 cấp độ của GTHL. Cấp độ 1 của GTHL được
xác định sử dụng giá thị trường có tính thanh khoản cao của các khoản mục xác
định được, đáng tin cậy hơn cấp độ 2 là cấp độ có GTHL được xác định sử dụng
các đầu vào có thể quan sát được của các khoản mục tương tự và cấp độ 2 đáng tin
cậy hơn cấp độ 3 xác định GTHL sử dụng các đầu vào không thể quan sát được do
DN tự xác định.
Sử dụng số liệu của tổ chức tài chính lớn, Kolev (2009) đã tìm ra mối liên hệ
quan trọng giữa giá chứng khoán với GTHL của tài sản thuần được đo lường sử
dụng cả 3 cấp độ đầu vào khi xác định GTHL. Tuy nhiên, các ước tính theo giá trị
gốc (mark- to - model estimates) thấp hơn so với GTHL theo giá thị trường cấp độ
1 (mark – to – market fair value) và cũng khác nhiều đối với các tài sản thuần theo
cấp độ 3. Nghiên cứu này cho rằng các nhà đầu tư phải biết rõ về các sai sót do ước
58
tính và do vậy giá trị của 3 cấp độ GTHL là cũng khác nhau. Goh (2009) cũng quan
sát sự thay đổi lớn về giá cả của tài sản theo GTHL ở các cấp độ khác nhau thì thấy
rằng tài sản ghi nhận theo giá gốc (mark- to - model) đối với các tài sản có tính
thanh khoản thấp có rủi ro thì thấp hơn so với tài sản ghi nhận theo GTHL. Họ
cũng thấy rằng giá cả của tài sản ghi nhận theo giá gốc (mark- to - model) giảm dần
trong năm 2008 do các tài sản này không có tính thanh khoản và có nhiều rủi ro. Sử
dụng báo cáo quý của một ngân hàng, Song (2010) tìm được bằng chứng rằng xác
định GTHL với các cấp độ 1, 2, 3 là rất gần với giá thực tế (value relevant) nhất
quán với các nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, tài sản ghi nhận theo cấp độ 3 được
định giá thấp hơn so với tài sản ghi nhận theo cấp độ 1, 2. Ngoài ra, các hệ số của
cấp độ 3 ít hơn cấp độ 1 điều đó có thể nói rằng, các nhà đầu tư không tin cậy tài
sản theo cấp độ 3.
Một số nghiên cứu tập trung vào khả năng dự đoán của kỹ thuật xác định giá
trị theo giá gốc (mark- to – model valuation techniques). Kim và Ritter (1999) đã
kiểm tra ước tính về khả năng của các yếu tố thị trường (market multiples) dựa theo
số liệu mang tính lịch sử và phát hiện rằng các ước tính này phải điều chỉnh nhiều
do có sự khác biệt về tốc độ phát triển và khả năng sinh lời. Maino and Palea
(2012) đã chứng minh rằng các giao dịch và các yếu tố thị trường (market
multiples) có xu hướng phóng đại giá trị thực tế. Các giao dịch thường chỉ là các
giao dịch thành công và các kỳ vọng của DN cũng như là các yếu tố tích cực làm
tăng giá cả trong khi các yếu tố thị trường thường bỏ qua các yếu tố rủi ro. Cuối
cùng, Fiechter và Novotny-Farkas (2011) cung cấp bằng chứng về giá thực tế
(value relevant) của các ước tính liên quan đến GTHL cũng thay đổi theo từng khu
vực và theo thời gian. Sử dụng số liệu của ngân hàng quốc tế ở các nước áp dụng
IFRS, họ phản ánh GTHL là giá thực tế (value relevant) mặc dù các hệ số định giá
thay đổi theo từng DN. Trên thực tế, tài sản theo GTHL thường giảm ở các nước có
trình độ quản lý thấp. Ngoài ra, giá thực tế (value relevant) của tài sản theo GTHL
bị giảm theo khi khủng hoảng tài chính nổ ra.
Nhiều nghiên cứu về tài sản phi tài chính thường đề cập đến thị trường Mỹ,
Úc và Anh là những nước có thời gian dài cho phép đánh giá lại tài sản phi tài
chính. Hầu hết các nghiên cứu như Easton (1993), Barth and Clinch (1996), Barth
59
and Clinch (1998) và Muller và Riedl (2002) nghiên cứu việc đánh giá lại đối với
TSCĐ hữu hình theo cấp độ 3 khi xác định GTHL. Sử dụng dữ liệu của công ty ở
Úc từ 1984 – 1990, Easton (1993) ước tính doanh thu hàng năm suy giảm và việc
đánh giá lại của tài sản hữu hình là nguyên nhân dẫn đến tiền lãi và biến động của
nó. Barch và Clinch (1998) cũng sử dụng dữ liệu từ DN Úc nhưng thời điểm muộn
hơn từ 1991-1995, và ước tính giá chứng khoán hàng năm giảm dần do tác động
của việc đánh giá lại tài sản tài chính, tài sản hữu hình và tài sản vô hình dẫn đến
tiền lãi hoạt động và giá trị ghi sổ của vốn chủ sở hữu thấp hơn so với giá trị của tài
sản đánh giá lại. Barch và Clinch (1998) đã cho rằng các khoản đầu tư được đánh
giá lại là giá tăng lên.
Nghiên cứu các DN bất động sản đầu tư, Muller và Riedl (2002) đã chứng
minh rằng đánh giá lại tài sản do các tổ chức định giá độc lập bên ngoài có nhiều
thông tin đáng tin cậy hơn so với DN tự tính toán. Kết quả này cũng tương đồng
với nghiên cứu của Cotter và Richardson (2002) cho rằng các tổ chức định giá bên
ngoài đáng tin cậy hơn so với ban giám đốc công ty khi nghiên cứu các công ty của
Úc cho giai đoạn từ 1981 – 1994.
Cuối cùng, Aboody (1999) tiến hành nghiên cứu việc đánh giá lại TSCĐ của
các công ty ở Mỹ giai đoạn 1983 – 1995. Kết quả là xác định giá lại TSCĐ tăng lên
có liên quan đến việc thay đổi hoạt động trong tương lai, được đo lường bằng thu
nhập hoạt động kinh doanh (operating income) và tiền từ hoạt động kinh doanh
(cash from operations).Việc xác định giá TSCĐ năm hiện tại có mối liên hệ mật
thiết với giá của chứng khoán hàng năm. Tác giả cũng cho rằng sự can thiệp của
ban giám đốc có tác động đến việc đánh giá lại tài sản khi DN đối mặt với sức ép
của tình trạng khủng hoảng tài chính.
Nguyên tắc giá thị trường được các nhà nghiên cứu đề xuất thay thế cho
nguyên tắc giá gốc vì họ cho rằng giả định hoạt động liên tục là cơ sở cho nguyên
tắc giá gốc không thật sự phù hợp. Nghiên cứu của Jay Way cho rằng GTHL cung
cấp chính xác giá trị tài sản hoặc nợ phải trả dựa trên cơ sở tiếp tục hoạt động của
DN cho người sử dụng thông tin, đồng thời làm giảm nguy cơ các dữ liệu bị tác
động do được theo dõi thường xuyên trên thị trường. Theo Jordan Clark & Pate
(2013) nếu so sánh với giá gốc thì GTHL phù hợp hơn với nhiều loại quyết định
60
kinh doanh bởi nó phản ánh giá trị thị trường hiện tại của các khoản mục tại một
thời điểm; Betakova Hrazdilova-Bockova và Skoda (2014), sử dụng GTHL để đo
lường giá trị tài sản hoặc nợ phải trả sẽ cung cấp nhiều thông tin hơn so với giá gốc.
Ngày nay, môi trường kinh doanh toàn cầu phát triển yêu cầu những người có trách
nhiệm liên quan đến thông tin tài chính như kế toán, kiểm toán và người định giá
phải đảm bảo rằng tất cả các đối tượng liên quan đến DN như ban giám đốc, cổ
đông, chủ nợ ... phải được nhận thông tin tài chính đáng tin cậy và được cập nhật
để đáp ứng nhu cầu, nghĩa vụ và trách nhiệm. Các dữ liệu phải được ghi nhận, đánh
giá và kiểm toán một cách chính xác. Sai sót xảy ra ở bất cứ khâu nào cũng dẫn đến
các quyết định sai lầm.
Tuy nhiên, áp dụng GTHL có một số bất cập khi sử dụng GTHL để đo lường
sẽ gây khó khăn trong việc đảm bảo tính chính xác giá trị của các tài sản và nợ phải
trả. Các nghiên cứu chỉ ra rằng GTHL là hệ thống phức tạp và không rõ ràng, điều
này khiến khó để đo lường GTHL một cách hiệu quả, dễ mang tính chủ quan.
Nghiên cứu của Barth & Landsman (1995) đã chỉ ra GTHL chỉ có thể tìm thấy tại
thị trường hoạt động, do vậy các DN thường phải sử dụng phương pháp ước lượng
để xác định GTHL cho tài sản và nợ phải trả điều này gây ra sự phức tạp và không
rõ ràng trong thực tế. Bên cạnh đó, việc xác định GTHL sẽ có nhiều rủi ro khi thị
trường không thanh khoản hoặc không hoạt động. Theo nghiên cứu của Emily
Chasan (2008) thì GTHL cung cấp cái nhìn thực tế khi giá cả thực tế sẵn có, nhưng
khi không có thị trường hoặc thị trường không hoạt động như đã xảy ra trong thời
kỳ khủng hoảng tài chính, các công ty phải sử dụng các mô hình toán phức tạp để
xác định giá trị và điều này gây ra khó hiểu đối với các nhà đầu tư. Kế toán GTHL
ghi nhận giá của các đối tượng kế toán theo sự thay đổi giá trị trên thị trường. Việc
ghi nhận một khoản lợi nhuận chưa thực hiện có thể ảnh hưởng đến dòng tiền của
DN, có thể gây nên sự ngộ nhận của các đối tượng sử dụng thông tin như nghiên
cứu của Magnan (2009) cho rằng việc ghi nhận theo giá hợp lý có thể làm giảm vốn
của DN do ghi nhận lợi nhuận chưa thực hiện trong việc chia cổ tức.
Từ những phân tích về GTHL ở phần trên, tác giả nhận thấy những ưu
việt về việc áp dụng GTHL thể hiện qua các khía cạnh sau:
61
Thứ nhất, kế toán theo GTHL cung cấp thông tin về tình hình tài chính phù
hợp với giá thị trường tại thời điểm báo cáo. Do các DN cùng cập nhật sự thay đổi
giá trị tài sản, nợ phải trả thường xuyên dựa trên cơ sở giá thị trường.
Thứ hai, kế toán theo GTHL cung cấp các thông tin tài chính có khả năng so
sánh giữa các DN tương tự trên cùng một mặt bằng giá tại một thời điểm nhất định.
Thứ ba, kế toán theo GTHL cung cấp thông tin đáng tin cậy hơn cho các đối
tượng sử dụng ngoài DN như cổ đông, những tổ chức cung cấp tín dụng nên xu thế
kế toán mới chuyển nhiều khoản mục trên Báo cáo tình hình tài chính sang mô hình
GTHL.
Thứ tư, thu nhập hoặc chi phí do thay đổi GTHL của tài sản, nợ phải trả
được báo cáo kịp thời là một thông tin kinh tế quan trọng không chỉ đối với chủ DN
mà cả các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài DN.
Thứ năm, trong điều kiện có thị trường hoạt động cho tài sản và nợ phải trả thì
việc xác định GTHL của hầu hết các tài sản và nợ phải trả là khách quan và đáng tin
cậy.
1.2.2 Các phương pháp xác định giá trị hợp lý
Theo Accounting Theory 7th edition (39), các kỹ thuật xác định giá được sử
dụng để ước tính GTHL gồm:
- Phương pháp thị trường: là phương pháp sử dụng giá và các thông tin liên
quan từ các giao dịch trên thị trường đối với các tài sản hoặc nợ phải trả giống hệt
hoặc tương tự gồm: GTHL của khoản đầu tư vào cổ phiếu niêm yết; GTHL của
quyền sử dụng đất.
- Phương pháp thu nhập: là phương pháp chuyển đổi dòng tiền hoặc dòng
thu nhập trong tương lai về giá trị hiện tại tại ngày đo lường gồm: Phương pháp
chiết khấu dòng tiền; phương pháp thu nhập vượt trội trong nhiều kỳ.
- Phương pháp chi phí: là phương pháp dựa trên khoản cần trả ra để thay thế
công suất phục vụ của một tài sản phi tài chính.
Trong một số trường hợp, các đầu vào được sử dụng để đo lường GTHL cho
cùng một tài sản hoặc khoản nợ phải trả có thể được phân loại vào nhiều cấp độ
khác nhau của hệ thống phân cấp GTHL. Trong những trường hợp đó, việc đo
lường GTHL sẽ chỉ được phân loại vào cấp độ thấp nhất mà các dữ liệu đầu vào
62
trọng yếu cho việc đo lường GTHL đó được phân loại. Việc đánh giá mức độ trọng
yếu của từng đầu vào đối với việc đo lường GTHL cụ thể đòi hỏi phải có sự đánh
giá và cân nhắc tới cả các yếu tố cụ thể của từng tài sản hoặc từng khoản nợ phải
trả. Các điều chỉnh trong việc đo lường giá trị dựa trên GTHL như các chi phí bán
khi đo lường GTHL trừ chi phí bán, sẽ không cần được phân loại theo hệ thống
phân cấp GTHL.
Việc lựa chọn kỹ thuật định giá phù hợp để xác định GTHL có thể bị ảnh
hưởng bởi sự sẵn có của các đầu vào có liên quan và tính chủ quan tương đối của
chúng. Tuy nhiên, hệ thống phân cấp GTHL ưu tiên phân loại các dữ liệu đầu vào
cho các kỹ thuật định giá chứ không ưu tiên các kỹ thuật định giá được sử dụng để
đo lường GTHL. Ví dụ, việc xác định GTHL áp dụng kỹ thuật giá hiện tại có thể
được phân loại vào Cấp 2 hoặc Cấp 3, tùy thuộc vào việc phân loại các đầu vào
trọng yếu đối với việc đo lường GTHL này.
Nếu một đầu vào có thể quan sát được trên thị trường phải được điều chỉnh
dựa trên các yếu tố không quan sát được trên thị trường, và việc điều chỉnh này làm
cho GTHL mới cao hơn hoặc thấp hơn đáng kể so với ban đầu thì việc đo lường
GTHL này sẽ được phân loại vào Cấp 3. Ví dụ, nếu một bên tham gia thị trường
tính đến ảnh hưởng của việc hạn chế bán tài sản khi ước tính giá trị của tài sản đó,
thì giá niêm yết sẽ được điều chỉnh để phản ánh ảnh hưởng của việc hạn chế đó.
Nếu giá niêm yết đó là đầu vào Cấp 2 và việc điều chỉnh được thực hiện dựa trên
một dữ liệu đầu vào không quan sát được nhưng có ảnh hưởng trọng yếu tới GTHL
xác định được, việc xác định GTHL đó sẽ được phân loại vào Cấp 3.
+ Các đầu vào cấp độ 1: là giá niêm yết của các tài sản hoặc nợ phải trả (không
được điều chỉnh) trên các thị trường hoạt động mà DN có thể tiếp cận vào ngày định
giá.
Giá niêm yết được xác định trong một thị trường hoạt động cung cấp bằng
chứng đáng tin cậy nhất về GTHL và được sử dụng mà không cần điều chỉnh để
làm cơ sở đo lường GTHL bất cứ khi nào có sẵn. Dữ liệu đầu vào cấp độ 1 có thể
có sẵn, trong đó một số tài sản tài chính hoặc nợ phải trả tài chính có thể được giao
dịch ở nhiều thị trường hoạt động.
63
Các dữ liệu đầu vào Cấp 1 sẽ không được phép điều chỉnh trừ các trường hợp
sau:
(1) khi một DN nắm giữ một số lượng lớn các tài sản và khoản nợ phải trả
tương tự (nhưng không đồng nhất) (ví dụ chứng khoán nợ) được đo lường ở GTHL
và có giá niêm yết trên một thị trường hoạt động nhưng không phải là mức giá cụ
thể cho từng tài sản hoặc khoản nợ phải trả riêng lẻ (nghĩa là với số lượng lớn tài
sản hoặc khoản nợ phải trả tương tự nhau, sẽ rất khó để thu thập thông tin về giá trị
của từng tài sản hoặc khoản nợ phải trả tại ngày đo lường). Trong trường hợp đó,
có thể sử dụng phương pháp định giá khác mà không chỉ dựa hoàn toàn vào giá
niêm yết (ví dụ như ma trận định giá) để xác định GTHL. Tuy nhiên, việc sử dụng
phương pháp định giá khác này phải được phân loại vào cấp thấp hơn trong hệ
thống phân cấp GTHL.
(2) khi một giá niêm yết trên thị trường hoạt động có thể không phản ánh
GTHL tại ngày đo lường. Ví dụ khi có các sự kiện quan trọng (như giao dịch trên
thị trường trực tiếp, các giao dịch trong thị trường môi giới) diễn ra sau khi đóng
cửa thị trường nhưng trước ngày định giá. Một DN cần có chính sách cụ thể để xác
định các sự kiện này và chính sách này cần được áp dụng nhất quán. Tuy nhiên,
việc điều chỉnh giá niêm yết do các thông tin mới này sẽ dẫn đến việc đo lường
GTHL phải được phân loại vào cấp thấp hơn trong hệ thống phân cấp GTHL.
(3) khi đo lường GTHL của một khoản nợ phải trả hoặc một công cụ vốn sử
dụng giá niêm yết cho khoản nợ phải trả hoặc công cụ vốn đó trên thị trường hoạt
động nhưng giá đó cần được điều chỉnh cho một số yếu tố cụ thể. Nếu không phải
điều chỉnh giá niêm yết, việc đo lường GTHL sẽ được phân loại vào Cấp 1 trong hệ
thống phân cấp GTHL. Tuy nhiên, nếu điều chỉnh giá niêm yết, việc đo lường
GTHL này sẽ được phân loại vào cấp thấp hơn trong hệ thống phân cấp GTHL.
Nếu một tài sản hoặc khoản nợ phải trả (bao gồm cả trường hợp một số
lượng lớn tài sản hoặc khoản nợ phải trả giống hệt nhau, ví dụ như việc nắm giữ
một số các công cụ tài chính) được giao dịch trên thị trường hoạt động, GTHL tài
sản hoặc khoản nợ phải trả đó được phân loại ở Cấp 1 và là tích số của giá niêm yết
của từng tài sản hoặc khoản nợ phải trả nhân với số lượng nắm giữ. Việc áp dụng
giá niêm yết làm cơ sở cho việc xác định GTHL đó được áp dụng với cả trường
hợp số lượng tài sản hoặc khoản nợ phải trả lớn hơn khối lượng giao dịch thông
64
thường có thể thực hiện mỗi ngày trên thị trường và do đó có thể ảnh hưởng tới giá
niêm yết khi thực hiện giao dịch.
+ Các đầu vào Cấp 2: là các dữ liệu đầu vào có thể quan sát một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp được trên thị trường ngoài giá niêm yết được phân loại vào Cấp
1 của tài sản hoặc khoản nợ phải trả.
Nếu tài sản hoặc khoản nợ phải trả có kỳ hạn (theo hợp đồng) cụ thể, dữ liệu
đầu vào Cấp 2 cũng phải quan sát được trong hầu hết thời hạn của tài sản hoặc nợ
phải trả. Các đầu vào Cấp 2 bao gồm:
(1) các giá niêm yết của tài sản hoặc khoản nợ phải trả tương tự trên các thị
trường hoạt động.
(2) các giá niêm yết của tài sản hoặc khoản nợ phải trả đó hoặc các khoản
tương tự trên các thị trường không hoạt động.
(3) các đầu vào có thể quan sát được khác ngoài giá niêm yết của tài sản
hoặc khoản nợ phải trả, ví dụ:
(i) lãi suất và lợi tức trên đường cong lợi tức có thể quan sát được tại từng
thời điểm niêm yết trên thị trường;
(ii) mức biến động của giá cổ phiếu; và
(iii) chênh lệch lãi suất.
Việc điều chỉnh dữ liệu đầu vào Cấp 2 sẽ khác nhau tùy thuộc vào các yếu tố
cụ thể đối với tài sản hoặc khoản nợ phải trả. Những yếu tố này bao gồm: tình trạng
hoặc vị trí của tài sản; mức độ liên quan của dữ liệu đầu vào với các khoản mục có
thể so sánh với tài sản hoặc khoản nợ phải trả để đưa ra cơ sở xác định GTHL cho
tài sản hoặc khoản nợ phải trả cần xác định giá trị; và khối lượng giao dịch hoặc
mức độ hoạt động của các thị trường mà các đầu vào được quan sát.
Việc điều chỉnh dữ liệu đầu vào Cấp 2 trọng yếu đối với kết quả xác định
GTHL có thể dẫn đến việc xác định GTHL đó được phân loại vào Cấp 3 của hệ
thống phân cấp GTHL nếu việc điều chỉnh được thực hiện dựa trên các đầu vào
không quan sát được trên thị trường.
+ Các đầu vào Cấp 3: Các đầu vào Cấp 3 là những đầu vào không thể quan
sát được đối với tài sản hoặc nợ phải trả.
65
Các đầu vào không quan sát được sẽ được sử dụng để xác định GTHL khi
các đầu vào có thể quan sát được không có sẵn, ví dụ đối với các tài sản hoặc nợ
phải trả ít hoặc không được giao dịch trên thị trường tại ngày đo lường. Tuy nhiên,
mục tiêu của việc xác định GTHL vẫn giữ nguyên, tức là xác định giá bán tại ngày
định giá theo quan điểm đánh giá của bên nắm giữ tài sản hoặc khoản nợ phải trả.
Do đó, các dữ liệu đầu vào không quan sát được sẽ phải phản ánh được các giả định
mà các bên tham gia thị trường sẽ sử dụng khi định giá tài sản hoặc khoản nợ phải
trả, bao gồm cả các giả định về rủi ro.
Các giả định về rủi ro bao gồm rủi ro vốn có của kỹ thuật định giá được sử
dụng để đo lường GTHL (như mô hình định giá) và rủi ro vốn có của các đầu vào
đối với kỹ thuật định giá. Nếu các bên tham gia thị trường cân nhắc về rủi ro khi
định giá tài sản hoặc khoản nợ phải trả mà rủi ro này không được phản ánh trong
quá trình đo lường GTHL thì việc đo lường đó sẽ không phản ánh đúng GTHL của
tài sản hoặc khoản nợ phải trả. Ví dụ, cần phải điều chỉnh liên quan đến rủi ro khi
có sự không chắc chắn đáng kể trong quá trình đo lường giá trị (ví dụ khi khối
lượng hoặc mức độ hoạt động của thị trường giao dịch tài sản hoặc khoản nợ phải
trả cần xác định giá trị hoặc tài sản hoặc khoản nợ phải trả tương tự giảm đáng kể
so với thông thường và DN xác định rằng giá giao dịch hoặc giá niêm yết không
đại diện cho GTHL).
Một DN cần phát triển các đầu vào không quan sát được dựa trên các thông
tin tốt nhất có sẵn trong các trường hợp, có thể bao gồm dữ liệu của chính bên sở
hữu. Để xây dựng các đầu vào không quan sát được, có thể bắt đầu từ chính dữ liệu
riêng của bên sở hữu, nhưng các dữ liệu đó sẽ cần phải được điều chỉnh nếu có
thông tin cho thấy các bên tham gia thị trường khác sẽ sử dụng các dữ liệu khác
hoặc có những thông tin đặc thù đối với DN không được cung cấp cho các bên
tham gia thị trường khác (ví dụ lợi thế của riêng đơn vị). Không nhất thiết phải tìm
mọi cách để thu thập thông tin về các giả định của các bên tham gia thị trường, tuy
nhiên, nếu các thông tin đó có sẵn, chúng cần phải được xem xét trong quá trình
xác định GTHL. Các dữ liệu đầu vào không quan sát được được xây dựng theo
cách thức được mô tả ở trên sẽ được coi là các giả định của các bên tham gia thị
trường và đáp ứng được yêu cầu để sử dụng làm cơ sở cho việc xác định GTHL.
66
1.2.3 Ghi nhận các yếu tố của Báo cáo tài chính theo giá trị hợp lý
Tài sản hoặc khoản nợ phải trả được đo lường GTHL có thể là một tài sản
hoặc khoản nợ phải trả độc lập như công cụ tài sản tài chính hoặc tài sản phi tài
chính; hoặc một nhóm tài sản, một nhóm nợ phải trả hoặc một nhóm tài sản và nợ
phải trả là một đơn vị tạo tiền hoặc một DN.
Ghi nhận ban đầu các tài sản/nợ phải trả theo GTHL
Khi tài sản được mua hoặc khoản nợ phải trả phát sinh, mức giá của giao
dịch hình thành tài sản hoặc làm phát sinh khoản nợ này là giá đầu vào. Trong một
số trường hợp, giá đầu vào và giá đầu ra của tài sản/ nợ phải trả trên cùng một thị
trường ở cùng một thời điểm là giống nhau, tuy nhiên, về mặt khái niệm, giá đầu
vào và giá đầu ra là khác nhau. Vấn đề đặt ra đối với đơn vị báo cáo là, khi giá đầu
vào và giá đầu ra (GTHL) là khác nhau, một số CMKT yêu cầu hoặc cho phép áp
dụng GTHL để ghi nhận ban đầu đối với các tài sản/ nợ phải trả này. Có hai trường
hợp xảy ra khi xử lý vấn đề này:
-Trường hợp 1 - Giá giao dịch phản ánh đúng GTHL:
Khi giá giao dịch phản ánh đúng GTHL, giá giao dịch sẽ được sử dụng để
ghi nhận ban đầu cho các tài sản/nợ phải trả. Trường hợp này không làm phát sinh
các khoản thu nhập/tổn thất khi ghi nhận ban đầu đối với các tài sản/nợ phải trả.
-Trường hợp 2 - Giá giao dịch không phản ánh GTHL:
Khi giá giao dịch thực tế hình thành tài sản hoặc làm phát sinh các khoản nợ
không phản ánh đúng GTHL, trong trường hợp này có thể làm phát sinh các khoản
thu nhập/tổn thất khi ghi nhận ban đầu (gains/loses in day one). Các khoản này
được ghi nhận vào báo cáo lãi/lỗ.
Khi xem xét giá giao dịch thực tế có khác biệt với GTHL của tài sản và nợ
phải trả hay không, đơn vị báo cáo cần cân nhắc các khía cạnh sau:
+ Giao dịch với các bên liên quan: Trong nhiều trường hợp giá cả trong giao
dịch với các bên liên quan không phản ánh GTHL của tài sản/nợ phải trả trừ khi
đơn vị chứng minh được rằng giao dịch này được thực hiện theo các điều kiện hoàn
toàn phù hợp với thị trường.
67
+ Giao dịch diễn ra trong các điều kiện không bình thường, trong đó bên
mua hoặc bên bán bị buộc phải mua hoặc bán tài chính. Ví dụ, bên bán có thể bị
buộc phải bán tài sản do gặp khó khăn tài chính.
+ Trường hợp giao dịch mua tài sản/phát sinh nợ thực tế xảy ra không phải
là thị trường chủ yếu để xác định GTHL của tài sản/nợ phải trả. Ví dụ, đơn vị báo
cáo chủ yếu kinh doanh bán buôn nhưng lại thực hiện giao dịch mua tài sản với
khách hàng trên thị trường bán lẻ. Khi đó, thị trường phát sinh giao dịch thực tế
khác với thị trường chủ yếu mà tài sản được giao dịch (thị trường bán buôn).
+ Đối tượng tài sản/nợ phải trả trong giao dịch khác biệt với đối tượng tài
sản/nợ phải trả trên thị trường chủ yếu để xác định GTHL. Đây là trường hợp
thường xảy ra khi đơn vị báo cáo mua một nhóm tài sản hoặc các tài sản phức hợp
mà trên thị trường không giao dịch theo đơn vị tương tự.
(2) Đánh giá sau ghi nhận ban đầu theo GTHL
Theo mô hình GTHL, GTHL được sử dụng để đánh giá sau ghi nhận ban
đầu đối với các khoản mục trên BCTC.
Một vấn đề đặc biệt quan trọng trong áp dụng mô hình GTHL là vấn đề xử
lý kế toán đối với các khoản biến động theo giá hợp lý sau ghi nhận ban đầu. Vấn
đề này cần được xem xét gắn với từng loại tài sản/nợ phải trả và có sự khác biệt
giữa các quy định khác nhau.
1.3 Nguyên tắc, phƣơng pháp lập và trình bày Báo cáo tài chính theo giá trị
hợp lý
1.3.1 Nguyên tắc lập và trình bày Báo cáo tài chính theo giá trị hợp lý
Khi lập và trình bày BCTC theo GTHL cần thực hiện theo các nguyên tắc
sau:
- Các khoản mục trên BCTC phải được ghi nhận và trình bày theo giá hợp lý
tại thời điểm lập BCTC.
- Việc sử dụng giá khi ghi nhận các khoản mục tài sản và nợ phải trả trong
BCTC theo GTHL phải nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác.
- Chênh lệch đánh giá tăng hoặc giảm do đánh giá lại giá ghi sổ theo giá thị
trường được ghi nhận vào Báo cáo thu nhập toàn diện.
68
- Thay đổi GTHL của các khoản mục trên BCTC phải được thuyết minh chi
tiết.
- Cơ sở xác định giá trị thị trường của các tài sản và nợ phải trả phải được
thuyết minh trên BCTC.
1.3.2 Phương pháp lập và trình bày các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính theo
giá trị hợp lý
Về phương pháp lập các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính theo giá trị hợp lý:
Thứ nhất, xác định các công việc trước khi lập BCTC
Trước khi lập BCTC, kế toán tiến hành thực hiện bút toán cuối kỳ, kết
chuyển và khóa sổ kế toán nhằm xác định số dư của tài sản, nguồn vốn và xác định
được lãi lỗ.
Kiểm tra, đối chiếu số liệu giữa các tài khoản, sổ kế toán liên quan, giữa kế
toán tổng hợp và kế toán chi tiết, giữa sổ kế toán của DN với các đơn vị có liên
quan.
Thực hiện công tác kiểm kê tài sản, xử lý chênh lệch giữa giá trị theo kết quả
kiểm kê và giá trị theo sổ sách.
Thực hiện đối chiếu nợ phải trả, nếu nợ phải trả có sự chênh lệch cần tìm ra
nguyên nhân chênh lệch.
Thực hiện đối chiếu, xác nhận số dư ngân hàng, đối chiếu có thể gửi thư xác
nhận hoặc đối chiếu qua sổ phụ ngân hàng.
Xác định hàng tồn kho hư hỏng, giảm giá trị…để trích lập dự phòng giảm
giá hàng tồn kho.
Xác định các bằng chứng tin cậy về tổn thất nợ phải thu, kế toán tiến hành
lập dự phòng cho từng khoản nợ phải thu khó đòi, kèm theo các bằng chứng chứng
minh các khoản nợ khó đòi.
Trích trước các khoản chi phí phải trả, phân bổ các khoản chi phí trả trước.
Đánh giá chênh lệch tỷ giá các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ như nợ
phải thu, nợ phải trả.
Kết chuyển kết quả kinh doanh, xác định kết quả kinh doanh trong kỳ.
Thứ hai, đo lường các chỉ tiêu trình bày trên BCTC theo GTHL
Nhóm chỉ tiêu tài sản:
69
(1) Nhóm tài sản tài chính:
- Ghi nhận ban đầu: Tài sản tài chính được ghi nhận ban đầu theo GTHL
cộng với các chi phí giao dịch phát sinh trực tiếp từ việc mua hoặc phát hành tài
sản tài chính, trong trường hợp tài sản tài chính đó không được ghi nhận theo
GTHL thông qua lãi/lỗ.
- Sau ghi nhận ban đầu: DN sẽ xác định giá trị các tài sản tài chính, bao gồm
cả các công cụ phái sinh là tài sản theo GTHL mà không giảm trừ cho bất cứ một
khoản chi phí giao dịch nào có thể phát sinh trong quá trình bán hoặc thanh lý các
tài sản này, ngoại trừ các tài sản tài chính sau:
+ Các khoản cho vay và khoản phải thu sẽ được xác định theo chi phí phân
bổ sử dụng phương pháp lãi suất thực.
+ Các khoản đầu tư giữ đến ngày đáo hạn sẽ được phản ánh theo chi phí
phân bổ sử dụng phương pháp lãi suất thực;
+ Các khoản đầu tư vào công cụ vốn không có giá niêm yết trên một thị
trường cạnh tranh và các khoản đầu tư mà GTHL của nó không thể xác định một
cách đáng tin cậy, và các công cụ tài chính phái sinh có liên quan đến và phải được
thanh toán bằng cách chuyển giao các công cụ vốn chưa niêm yết, những công cụ
này sẽ được phản ánh theo giá gốc.
+ Các tài sản tài chính được xác định là đối tượng được phòng ngừa rủi ro
được xác định giá trị theo các quy định của kế toán phòng ngừa rủi ro. Tất cả các
tài sản tài chính phải được xem xét lại khả năng suy giảm giá trị trừ những tài sản
phản ánh theo GTHL thông qua lãi/lỗ.
(2) Nhóm tài sản phi tài chính
Tài sản phi tài chính được ghi nhận ban đầu và sau ghi nhận ban đầu đều
được ghi nhận theo GTHL (hoặc xác định dựa theo GTHL). Xác định GTHL của
tài sản phi tài chính phải phản ánh việc sử dụng tốt nhất và cao nhất của tài sản phi
tài chính (dựa theo việc sử dụng cao nhất và tốt nhất).
Xác định GTHL của tài sản phi tài chính xem xét về khả năng của những
người tham gia thị trường tạo ra lợi ích kinh tế từ việc sử dụng tài sản theo mức sử
dụng tốt nhất và cao nhất hoặc bằng cách bán tài sản đó cho người tham gia thị
trường khác sẽ sử dụng tài sản đó theo cách thức sử dụng cao nhất và tốt nhất.
70
Nhóm chỉ tiêu nợ phải trả
(1) Đối với nợ tài chính:
Khi một khoản nợ tài chính được ghi nhận ban đầu, thì tổ chức phải xác định
giá trị của nó theo GTHL cộng với các chi phí giao dịch phát sinh trực tiếp từ việc
mua hoặc phát hành khoản nợ tài chính, trong trường hợp khoản nợ tài chính đó
không được ghi nhận theo GTHL thông qua lãi/lỗ.
Sau khi ghi nhận ban đầu, DN sẽ xác định tất cả các khoản nợ tài chính theo
chi phí phân bổ sử dụng phương pháp lãi suất thực, ngoại trừ:
- Các khoản nợ tài chính phản ánh theo GTHL thông qua lãi/lỗ. Những
khoản nợ này, bao gồm công cụ phái sinh là nợ, sẽ được xác định theo GTHL,
ngoại trừ các nợ phái sinh liên quan đến và phải được thanh toán bằng cách chuyển
giao một công cụ vốn chưa niêm yết trên các thị trường hoạt động của các công cụ
(cấp độ 1) mà GTHL của công cụ này không thể xác định một cách đáng tin cậy, sẽ
được xác định theo giá gốc.
- Các khoản nợ tài chính phát sinh từ việc chuyển giao một tài sản tài chính
không đủ điều kiện dừng ghi nhận hoặc khi áp dụng quy định về tiếp tục ghi nhận liên
quan.
- Các hợp đồng bảo lãnh tài chính.
- Các cam kết cung cấp các khoản cho vay với lãi suất thấp hơn lãi suất thị
trường.
- Các nợ tài chính được xác định là đối tượng phòng ngừa rủi ro sẽ được ghi
nhận theo các yêu cầu của phương pháp kế toán phòng ngửa rủi ro.
(2) Đối với nợ phi tài chính:
Khi một khoản nợ phi tài chính được ghi nhận ban đầu, thì tổ chức phải xác
định giá trị của nó theo GTHL cộng với các chi phí giao dịch phát sinh trực tiếp.
Sau ghi nhận ban đầu, DN phải đánh giá lại theo GTHL.
Nhóm chỉ tiêu vốn chủ sở hữu
Đối với các các công cụ vốn chủ sở hữu, DN phải xác định GTHL tại thời
điểm ghi nhận ban đầu và sau ghi nhận ban đầu. Các công cụ vốn chủ sở hữu không
xác định được GTHL sau ghi nhận ban đầu thì phải thuyết minh việc đó trên thuyết
minh BCTC.
71
Thứ ba, ghi nhận chênh lệch đánh giá lại các chỉ tiêu trên BCTC sau khi
xác định theo GTHL
Về góc độ lý thuyết, việc xử lý biến động do thay đổi GTHL của tài sản và
nợ phải trả có thể được thực hiện theo các phương pháp sau:
+ Ghi nhận biến động GTHL vào báo cáo lãi/lỗ:
Việc ghi nhận biến động GTHL vào báo cáo lãi/lỗ của kỳ hiện tại thể hiện
quan điểm xác định kết quả hoạt động theo cách tiếp cận kinh tế học. Cách tiếp cận
này đã được đề xuất trong thập kỷ 1960 và 1970 bởi các học giả ủng hộ mô hình kế
toán theo giá hiện hành và giá đầu ra. Tuy nhiên, việc ghi nhận biến động GTHL
vào báo cáo lãi lỗ mâu thuẫn với nguyên tắc thực hiện và thiếu sự thận trọng nên
phương pháp này chủ yếu được áp dụng với các tài sản mà GTHL biến động
thường xuyên và thời gian biến động GTHL được thực hiện là ngắn.
+ Ghi nhận biến động GTHL vào báo cáo thu nhập toàn diện khác:
Việc ghi nhận biến động GTHL vào báo cáo thu nhập toàn diện khác là một
trong những biểu hiện cụ thể của việc áp dụng quan điểm kinh tế học trong khuôn
khổ quy định về kế toán trong những năm cuối của thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. Theo
đó, kết quả toàn diện không chỉ bao gồm lợi nhuận thực hiện từ hoạt động thông
thường và hoạt động khác của DN mà còn bao gồm biến động đánh giá lại tài
sản/nợ phải trả trong một số trường hợp. Khi GTHL được sử dụng để đánh giá tài
sản/nợ phải trả sau ghi nhận ban đầu, biến động GTHL của một số tài sản nợ phải
trả được ghi nhận vào thu nhập toàn diện khác. Thông thường các biến động này
cần được trình bày riêng biệt và trên cơ sở thuần. Khi các biến động GTHL (Gains
or loses) đã được trình bày vào thu nhập toàn diện khác thì khi các biến động này
được thực hiện (khi bán tài sản hoặc thanh toán nợ), đơn vị không trình bày lại các
khoản thu nhập/tổn thất liên quan vào báo cáo lại/lỗ.
+ Ghi nhận biến động GTHL trực tiếp vào vốn chủ sở hữu:
Việc ghi nhận biến động GTHL vào vốn chủ sở hữu dựa trên quan điểm cho
rằng biến động GTHL của các tài sản/nợ phải trả mà DN hiện đang nắm giữ không
liên quan trực tiếp đến hoạt động tạo ra kết quả của DN. Vì vậy, việc ghi nhận biến
động GTHL vào báo cáo lãi/lỗ hoặc báo cáo thu nhập toàn diện đều không phù
hợp. Các ý kiến cho rằng cần ghi nhận biến động GTHL trực tiếp vào vốn chủ sở
72
hữu cho đến khi các biến động này được thực hiện sẽ điều chỉnh ghi nhận vào báo
cáo lãi/lỗ.
Như vậy, về góc độ lý thuyết có những nghiên cứu khác nhau về phương
pháp ghi nhận biến động GTHL sau ghi nhận ban đầu tài sản/nợ phải trả. Tuy
nhiên, khuôn khổ quy định của các tổ chức ban hành các quy định về kế toán
thường không thiên về một quan điểm cụ thể mà có sự vận dụng kết hợp các quan
điểm này đối với từng nhóm tài sản/nợ phải trả cụ thể. Theo một số nghiên cứu gần
đây, nhiều quan điểm ủng hộ phương pháp ghi nhận biến động GTHL sau ghi nhận
ban đầu tài sản/nợ phải trả là ghi nhận vào báo cáo thu nhập toàn diện mà không
ủng hộ ghi nhận trực tiếp vào vốn chủ sở hữu.
Về phương pháp trình bày các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính theo giá trị hợp
lý:
(1) Phương pháp trình bày các chỉ tiêu trên Báo cáo tình hình tài chính theo
GTHL
Thông tin về tài sản và nợ phải trả có thể được trình bày theo nhiều tiêu thức
phân loại khác nhau:
- Tiêu thức phân loại theo ngắn hạn và dài hạn;
- Tiêu thức phân loại theo tính thanh khoản.
Dựa trên tiêu thức phân loại theo ngắn hạn và dài hạn, DN phải trình bày
riêng biệt tài sản thành tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn, nợ phải trả phải trình
bày riêng biệt thành nợ phải trả ngắn hạn và nợ phải trả dài hạn trên Báo cáo tình
hình tài chính. Trong đó:
Tài sản được phân loại tài sản là ngắn hạn khi DN dự kiến bán tài sản, hoặc
dự tính bán hay sử dụng nó trong một chu kỳ kinh doanh bình thường; DN nắm giữ
tài sản chủ yếu cho mục đích thương mại; DN dự kiến bán tài sản trong vòng 12
tháng sau ngày kết thúc kỳ báo cáo; hoặc tài sản là tiền hoặc tương đương tiền, trừ
khi tài sản này bị cấm không được trao đổi hoặc sử dụng để thanh toán một nghĩa
vụ nợ trong ít nhất 12 tháng sau ngày kết thúc kỳ báo cáo. Các tài sản còn lại được
phân loại là tài sản dài hạn.
Nợ phải trả được phân loại một khoản nợ phải trả là ngắn hạn khi DN dự
kiến thanh toán khoản nợ phải trả này trong một chu kỳ kinh doanh bình thường;
73
DN nắm giữ khoản nợ chủ yếu vì mục đích thương mại; Khoản nợ phải trả đến hạn
thanh toán trong vòng 12 tháng kể từ ngày kết thúc kỳ báo cáo; hoặc DN không có
quyền trì hoãn vô điều kiện việc thanh toán khoản nợ phải trả trong ít nhất 12 tháng
kể từ sau ngày kết thúc kỳ báo cáo. Các khoản nợ phải trả còn lại được phân loại là
nợ phải trả dài hạn.
Dựa trên tiêu thức phân loại theo tính thanh khoản thì thông tin về tài sản và
nợ phải trả có thể được trình bày theo tính thanh khoản giảm dần hoặc tính thanh
khoản tăng dần. Tiêu thức phân loại này được sử dụng khi DN không thực hiện
được sự phân loại tài sản và nợ phải trả thành ngắn hạn và dài hạn.
(2) Phương pháp trình bày các chỉ tiêu trên Báo cáo thu nhập toàn diện
Báo cáo này trình bày các khoản lãi/lỗ trong kỳ; tổng số thu nhập, chi phí
khác; tổng thu nhập toàn diện khác trong kỳ. Thu nhập toàn diện trong kỳ bằng
tổng lãi hoặc lỗ từ hoạt động kinh doanh và thu nhập toàn diện khác.
Báo cáo này có thể trình bày theo 2 cách:
- Báo cáo lãi lỗ và báo cáo thu nhập toàn diện khác.
- Báo cáo thu nhập toàn diện gồm 2 phần: Phần 1: Lãi lỗ, Phần 2: Thu nhập
toàn diện khác.
Thông tin đƣợc trình bày trong phần báo cáo lãi lỗ:
Báo cáo Lãi lỗ gồm các khoản mục tối thiểu sau:Thu nhập; lãi/lỗ phát sinh
từ việc thay đổi giá trị các tài sản tài chính đo lường theo GTHL; Chi phí; Lãi/lỗ
liên quan đến việc đánh giá lại các tài sản tài chính; Chi phí thuế; Lợi nhuận sau
thuế.
Chi phí ghi nhận trong báo cáo lãi/lỗ có thể được trình bày theo tính chất
(yếu tố chi phí) như: Chi phí nguyên, chi phí vật liệu; chi phí nhân công; chi phí
khấu hao;…) hoặc trình bày theo chức năng (chi phí bán hàng, chi phí quản lý,…)
Trường hợp DN trình bày chi phí theo chức năng, cần phải bổ sung các thông tin
chi tiết về chi phí theo tính chất trên thuyết minh BCTC.
Thông tin đƣợc trình bày trong báo cáo thu nhập toàn diện khác:
Báo cáo thu nhập toàn diện khác phải được trình bày thành các dòng khác
nhau biểu thị giá trị các khoản thu nhập toàn diện khác thu được trong kỳ, được
phân loại dựa trên bản chất và được nhóm lại thành các dòng: không được phân
74
loại lại là lãi hoặc lỗ; và được phân loại lại là lãi hoặc lỗ khi đáp ứng được một số
điều kiện nhất định.
1.4 Các yếu tố ảnh hƣởng đến lập và trình bày Báo cáo tài chính theo giá trị
hợp lý
Yếu tố thị trường hoạt động:
Thông số của thị trường khi đánh giá GTHL thì phải có thị trường thích hợp
để đánh giá. Ví dụ, khi muốn đánh giá GTHL của một sản phẩm loại A thì chúng ta
phải có thị trường để xác định giá trị của sản phẩm đó, trong khi đó trên thực tế,
chúng ta vẫn chưa có đủ thị trường để xác định giá trị. Ngoài ra, hệ thống đánh giá
tín nhiệm, xếp hạng DN của Việt Nam cũng chưa mạnh vì khi áp dụng GTHL thì
phải xác định các yếu tố chi phối đến khi xác định giá như là lãi suất hiệu lực.
Muốn xác định lãi suất hiệu lực thì phụ thuộc nhiều vào yếu tố xác định rủi ro, hệ
thống quản trị cũng như xếp hạng DN để xác định lãi suất hiệu lực đối với từng
DN. Còn với thị trường vốn, vì quy mô DN Việt Nam còn nhỏ nên thị trường trái
phiếu chuyển đổi chưa phát triển, dẫn đến công cụ vốn và công cụ nợ nếu muốn
tính theo chuẩn mực quốc tế còn gặp khó khăn, do chưa có đầy đủ các thị trường để
chúng ta đo lường và xác định GTHL.
Yếu tố văn hóa:
Theo TS. Trần Quốc Thịnh (Khoa kế toán kiểm toán ĐH Ngân hàng
TP.HCM) thì yếu tố văn hóa đã ảnh hưởng đến việc vận dụng CMKT quốc tế của
các quốc gia. Do đó các quốc gia có khuynh hướng thận trọng, né tránh những điều
chưa chắc chắn, kiểm soát theo luật định. Tính thận trọng sẽ ít chấp nhận áp dụng
ngay đối với CMKTQT mà sẽ thực hiện theo lộ trình. Tuy nhiên, những quốc gia
mà tính linh hoạt, có sự phát triển của nghề nghiệp kế toán, đảm bảo tính công
khai... sẽ có xu hướng thích nghi nhanh và dễ dàng áp dụng hơn. Theo một số
nghiên cứu, trong hệ thống kế toán Việt Nam tính chất thận trọng được đề cao,
nhấn mạnh đến sự tuân thủ các quy định, hạn chế những vấn đề mang tính xét
đoán. Khi áp dụng GTHL thì BCTC sử dụng nhiều ước tính kế toán do đó người sử
dụng báo cáo e ngại còn chưa chắc chắn.
Yếu tố nhân sự:
Xây dựng một đội ngũ nhân viên có năng lực không phải DN nào cũng có thể
75
đáp ứng được, việc áp dụng GTHL được coi là rất phức tạp, có nhiều xét đoán và
đánh giá mang tính phân tích của cán bộ quản lý. Kiến thức chuyên môn về CMKT
của phần lớn đội ngũ kế toán tại các DN hầu hết vẫn còn hạn chế, thiếu sự linh hoạt
nên khả năng hiểu và áp dụng toàn bộ các quy định của IAS/IFRS là tương đối khó
khăn. Hơn nữa, ý thức đạo đức nghề nghiệp của những người làm kế toán cũng có
ảnh hưởng rất lớn khi vận dụng GTHL để lập và trình bày BCTC. Bên cạnh những
đối tượng rất thận trọng khi đưa ra các ước tính và xét đoán nghề nghiệp vì thị
trường hoạt động của Việt Nam làm cơ sở xác định GTHL của các loại tài sản và
nợ phải trả chưa phát triển thì cũng có những người có thể đưa ra những xét đoán
và ước tính thiếu cơ sở thuyết phục nhằm làm đẹp tình hình tài chính của DN.
Việc áp dụng GTHL khi lập và trình bày trên BCTC đòi hỏi nhân viên kế
toán cần được đào tạo và có trình độ thích hợp. Do IFRS yêu cầu thực hiện một số
đánh giá mang tính chủ quan, xét đoán như việc thực hiện các ước tính về GTHL,
giá trị có thể thu hồi, tổn thất tài sản của đơn vị tạo tiền, xác định giá trị hiện tại của
dòng tiền tương lai… nên đội ngũ kế toán cần được đào tạo bài bản để có thể được trang
bị đầy đủ kiến thức.
Yếu tố trình độ quản lý:
DN thường trình bày BCTC phụ thuộc vào ý chí của Ban giám đốc. Theo đó,
DN thường trình bày BCTC theo ý định chủ quan để làm đẹp, đánh bóng tình hình
tài chính (cho mục đích đi vay, đẩy giá cổ phiếu) hoặc che dấu những khoản lợi
nhuận của DN cho mục đích hưởng lợi về thuế... Hiện nay do lo lắng về hậu quả
của việc công bố một khoản giảm giá trị, cho dù đó là kết quả của hoạt động kinh
doanh một cách thông thường, đã dẫn đến việc lãnh đạo DN muốn 'kiểm soát' kết
quả kinh doanh và tình hình tài chính DN trên BCTC, làm cho nó phản ánh không
đúng thực tế.
Khi áp dụng GTHL thường có nhiều xét đoán mang tính chủ quan do đó ý chí
chủ quan của ban giám đốc ảnh hưởng lớn đến tính trung thực hợp lý của bảo cáo tài
chính.
Để lập và trình bày BCTC theo GTHL, ban giám đốc cần phải có trách
nhiệm cao hơn, dành nhiều thời gian hơn cho việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá
76
thực tế để có thể nâng cao chất lượng quản trị, tính minh bạch và tính hợp lý của
thông tin.
1.5 Kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới khi vận dụng giá trị hợp lý
và bài học cho Việt Nam
1.5.1 Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới đối với vận dụng giá trị hợp
lý khi lập và trình bày báo cáo tài chính
Theo tài liệu của Ủy ban CMKT quốc tế (IASB), tính đến nay đã có 131/143
quốc gia và vùng lãnh thổ (chiếm tỷ lệ 93%) đã tuyên bố chính thức về việc áp
dụng IFRS với các hình thức khác nhau. Trong đó, có 119/143 (chiếm tỷ lệ 83,2%)
quốc gia và vùng lãnh thổ đã yêu cầu bắt buộc sử dụng các chuẩn mực của IFRS
đối với tất cả hoặc hầu hết các đơn vị lợi ích công chúng trong nước. Trong khu
vực có Hàn quốc và Nhật bản là 2 quốc gia có nền kinh tế phát triển, có một số
điểm tương đồng với Việt Nam như có CMKT quốc gia riêng theo giá gốc và sau
khi áp dụng IFRS thì phải ghi nhận theo GTHL. Theo đó, luận án tổng hợp các
kinh nghiệm của Hàn Quốc và Nhật Bản khi triển khai áp dụng GTHL và quy định
của Thông lệ quốc tế để rút ra bài học cho Việt Nam khi áp dụng GTHL.
1.5.1.1 Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Korea Accounting standards Board (30), Hàn Quốc áp dụng toàn bộ IFRS từ
năm 2011 trong đó chuẩn mực K-IFRS 1113 – xác định GTHL hoàn toàn phù hợp
với IFRS 13- Xác định GTHL của Ủy ban soạn thảo CMKT quốc tế.
Thứ nhất, về đo lường GTHL
Thị trường tài chính ở Hàn quốc không đa dạng các loại công cụ tài chính so
với các thị trường ở các nước phát triển. Do đó, nhiều khả năng các đầu vào được
sử dụng để xác định GTHL cho việc đánh giá lại không đáng tin cậy vì các thông
tin liên quan đối với các công cụ tương tự không có sẵn trên thị trường. Có nhiều
trường hợp không có hoặc không tồn tại thị trường năng động cho tài sản và nợ
phải trả phi tài chính. Do vậy, các đầu vào cho việc đánh giá lại dựa theo xét đoán
của người định giá nên có thể gây ra hoài nghi về sự đáng tin cậy và tính hữu dụng
của việc xác định GTHL. Để việc xác định GTHL đáng tin cậy thì các quy trình,
phương pháp, phân tích và hệ thống đánh giá lại liên quan đến việc xác định GTHL
77
cần phải được cải thiện và hạ tầng liên quan phải được thiết lập để xác minh kết
quả đánh giá lại.
Do việc xác định GTHL cần có sự xét đoán và các giả định, nên có rủi ro
khó tránh khỏi thông tin kế toán có thể bị trình bày sai do lỗi xét đoán hoặc lỗi xác
định. Do vậy, để giảm các rủi ro đó, cần tăng cường kiến thức và sự hiểu biết về
các phương pháp liên quan; đưa ra các hướng dẫn áp dụng nhất quán; đưa ra các
hướng dẫn, và thiết lập hệ thống để thực hiện các chương trình đào tạo; và đẩy
mạnh việc phổ biến và chia sẻ các tài liệu hướng dẫn này.
Tăng cường năng lực các chuyên gia định giá: Các chuyên gia thẩm định giá
ở các công ty xác định giá tài sản phải nâng cao kiểm soát chất lượng để tăng
cường độ tin cậy đối với kết quả thẩm định giá tài sản. Ở Hàn Quốc, trước đây các
công ty định giá bên ngoài thực hiện định giá cho hầu hết các bất động sản, và khi
áp dụng IFRS làm tăng phạm vi xác định GTHL và tăng ảnh hưởng của việc xác
định GTHL trên BCTC, vai trò của chuyên gia định giá và các công ty định giá
chuyên nghiệp và độc lập càng ngày càng phát triển.Vai trò của chuyên gia định giá
độc lập càng ngày càng cao nên nó trở nên cực kỳ quan trọng để đảm bảo sự đáng
tin cậy của thông tin được các chuyên gia định giá cung cấp.
Thứ hai, về ghi nhận chênh lệch đánh giá lại các chỉ tiêu tài sản và nợ
phải trả trên BCTC sau khi xác định theo GTHL
Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy việc xử lý ghi nhận chênh lệch đánh
giá lại các chỉ tiêu trên BCTC sau khi xác định theo GTHL có sự khác nhau giữa
đối tượng kế toán. Cụ thể:
- Đối với tài sản tài chính và nợ phải trả tài chính: những thay đổi sau ghi
nhận ban đầu từ việc xác định theo GTHL đều được ghi nhận vào báo cáo lãi lỗ.
- Các công cụ phái sinh, các tài sản tài chính và các khoản nợ tài chính được
chỉ định theo GTHL thông qua lãi lỗ được xác định theo GTHL tại ngày lập BCTC
và những thay đổi GTHL được ghi nhận vào báo cáo lãi lỗ.
- Riêng đối với tài sản tài chính sẵn sàng để bán khi có thay đổi GTHL sẽ có
ảnh hưởng đến vốn chủ sở hữu. Những thay đổi GTHL được ghi nhận vào vốn chủ
sở hữu.
78
- Đối với TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình và bất động sản đầu tư: những thay
đổi GTHL sau ghi nhận ban đầu được ghi nhận vào vốn chủ sở hữu (equity). Giá trị
đánh giá tăng sẽ được ghi nhận vào thu nhập toàn diện khác (OCI) dẫn đến tăng
vốn chủ sở hữu, phần cao hơn do đánh giá giảm lớn hơn số đánh giá tăng sẽ được
ghi nhận vào báo cáo lãi lỗ (như đánh giá lỗ phát sinh từ việc đánh giá lại) dẫn đến
làm ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận. Khi giá trị của TSCĐ được đánh giá có thể sẽ
tăng giá trị ghi sổ của tài sản do đó sẽ làm giảm chỉ số tài sản so với nợ phải trả.
- Riêng đối với bất động sản đầu tư là đất và nhà nắm giữ cho mục đích cho
thuê hoặc chờ tăng giá thì những thay đổi về GTHL được ghi nhận vào báo cáo lãi
lỗ khi lựa chọn phương pháp đánh giá lại do đánh giá tăng dẫn đến tăng lợi nhuận.
Thứ ba, về công tác chuẩn bị cho quá trình áp dụng GTHL
- Ủy ban CMKT Hàn Quốc (KASB) đã tiến hành rất nhiều hoạt động trong
nước và nước ngoài nhằm xác định các ảnh hưởng của việc áp dụng GTHL đối với
thị trường trong nước cũng như xác định các vấn đề có thể phát sinh trong thực
tiễn. KASB tham gia nhiều hội thảo, thảo luận các vấn đề phát sinh tại Hàn Quốc
liên quan đến GTHL và tìm ra các giải pháp và các hướng dẫn cho các vấn đề đó.
Trong quá trình áp dụng GTHL, Hàn Quốc thành lập Nhóm xác định GTHL để giải
quyết các vấn đề liên quan đến GTHL và nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
GTHL, phát hành và phổ biến các báo cáo nghiên cứu trong đó có các nội dung liên
quan đến đề xuất các chính sách và hoàn thiện các chính sách để cải thiện các cơ sở
hạ tầng liên quan đến việc xác định GTHL.
- Cải thiện hệ thống pháp lý: Vì việc xác định GTHL ảnh hưởng nhiều đến
BCTC, những người làm chính sách thấy rằng các thuyết minh BCTC cần được
điều chỉnh và hệ thống pháp luật cũng cần được sửa đổi. Ngoài ra, cần phải cải
thiện hệ thống pháp lý để quản lý cho phù hợp. Cần phải nâng cao tính độc lập và
chuyên nghiệp của các chuyên gia xác định giá trị khi thực hiện xác định giá trị
- Cần xây dựng hệ thống và các tài liệu hướng dẫn xác định GTHL cho các
DN áp dụng thống nhất.
1.5.1.2 Kinh nghiệm của Nhật Bản
Theo Hội đồng CMKT DN Nhật (29), tại Nhật Bản hiện nay, có các hệ thống
CMKT được chấp thuận áp dụng cho các đối tượng kế toán khác nhau, bao gồm:
79
- CMKT Nhật Bản (JGAAP): Là hệ thống CMKT Nhật Bản do ASBJ ban
hành được FSA chấp thuận. Hiện nay có tổng số 3521 (trên 90%) công ty đang
niêm yết trên thị trường Nhật Bản áp dụng JGAAP, chiếm tỷ lệ vốn hóa 61% thị
trường (Hội đồng CMKT DN Nhật (29)).
- CMKT Mỹ (US GAAP): Là những nguyên tắc kế toán chung được thừa
nhận tại Mỹ. Các DN ở Nhật Bản áp dụng hệ thống chuẩn mực này là đối tượng
niêm yết và chịu sự quản lý của Ủy ban giao dịch chứng khoán Hoa Kỳ (SEC).
Hiện nay có khoảng 12 công ty đang niêm yết trên TTCK Nhật Bản áp dụng US
GAAP chiếm 7% vốn hóa thị trường, chủ yếu là do các công ty này đang niêm yết
tại Mỹ (Hội đồng CMKT DN Nhật (29)).
- CMKT quốc tế (IFRS): Là hệ thống CMKT quốc tế do IASB ban hành và
được FSA chấp thuận. Các DN được tự nguyện áp dụng IFRS nếu có lợi ích, yêu
cầu của cổ đông và hiểu biết đầy đủ về IFRS để lập BCTC một cách đúng đắn.
Hiện nay có 192 (khoảng 6%) công ty đang niêm yết trên sàn chứng khoán Nhật
Bản áp dụng IFRS, tuy nhiên đây là các tập đoàn lớn vì vậy chiếm đến 32% tỷ lệ
vốn hóa thị trường (Hội đồng CMKT DN Nhật (29)).
Khuôn mẫu về GTHL của Nhật Bản được thể hiện trong các quy định khi áp
dụng mô hình đánh giá lại theo IFRS13, IAS 16, IAS 38, IAS 40, đo lường GTHL
của các khoản đầu tư vào công cụ vốn chủ sở hữu theo IFRS 9.
Thứ nhất, về đo lường GTHL
Nhật Bản không có hướng dẫn cụ thể về việc đo lường GTHL mà các DN
niêm yết tự áp dụng như thông lệ quốc tế.
Thứ hai, về ghi nhận chênh lệch đánh giá lại các chỉ tiêu tài sản và nợ
phải trả trên BCTC sau khi xác định theo GTHL
Nhật Bản không có hướng dẫn cụ thể về ghi nhận chênh lệch đánh giá lại các
chỉ tiêu tài sản, nợ phải trả trên BCTC sau khi xác định theo GTHL mà các DN
niêm yết tự áp dụng như thông lệ quốc tế.
Thứ ba, về đối tượng áp dụng và lộ trình áp dụng IFRS và GTHL
Đối tượng và lộ trình áp dụng IFRS và GTHL ở Nhật Bản qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1 từ 2008 – 2009: Nhật bản cho phép các DN niêm yết tự nguyện
áp dụng GTHL trong việc trình bày BCTC.
80
Giai đoạn 2 từ 2010 – 2013: Các DN niêm yết bắt buộc áp dụng GTHL khi
công bố BCTC.
Giai đoạn 3 từ 2013 đến nay: Khuyến khích tất cả các DN ở Nhật áp dụng
GTHL.
Theo Báo cáo của BAC (Hội đồng kế toán DN) đã công bố lý do áp dụng
GTHL là để cải thiện khả năng so sánh thông tin tài chính trong các thị trường vốn
đang hội nhập, cùng ngôn ngữ với các công ty thuộc các quốc gia khác. Tính đến
1/2018, các công ty niêm yết ở Nhật là 3.602.
1.5.1.3 Thông lệ quốc tế:
Thứ nhất, quy định về đo lường GTHL
Đo lường GTHL và công bố thông tin về đo lường giá trị hợp lý được quốc
tế lần đầu tiên đề cập trong một biên bản ghi nhớ và cam kết tạo lập một bộ CMKT
chất lượng cao chung cho toàn cầu giữa Hội đồng CMKT Quốc tế (IASB) và Cơ
quan ban hành Chuẩn mực quốc gia của Mỹ, Hội đồng CMKT tài chính (FASB)
vào năm 2006.
Năm 2011, IASB đã ban hành Chuẩn mực IFRS số 13 - Đo lường GTHL,
chuẩn mực này đã xây dựng một khung hướng dẫn độc lập về các đo lường GTHL
và cung cấp những chỉ dẫn toàn diện về việc làm thế nào đo lường GTHL. Chuẩn
mực này là thành quả làm việc của IASB và FASB để phát triển những yêu cầu
chung để đo lường GTHL và công bố thông tin về đo lường GTHL theo các IFRS
và Các thông lệ kế toán đượcchấp nhận rộng rãi của Mỹ (GAAP).
Các nội dung chính của IFRS 13 gồm:
- IFRS 13 định nghĩa GTHL là giá có thể nhận được từ việc bán một tài sản
hoặc trả tiền để chuyển một khoản nợ phải trả trong một giao dịch có trật tự giữa
những thành phần thị trường tại thời điểm đo lường (tức là giá bán).
Định nghĩa này nhấn mạnh rằng GTHL là việc đo lường dựa trên thị trường,
không phải là một đo lường của đối tượng cụ thể. Khi đo lường GTHL, một đối
tượng sử dụng những giả định mà những người tham gia thị trường sẽ sử dụng khi
định giá tài sản hoặc một khoản nợ phải trả trong điều kiện thị trường hiện tại, bao
gồm các giả thuyết về rủi ro. Kết quả là, mục đích của đối tượng nhằm nắm giữ
81
một tài sản hoặc thanh toán hoặc để hoàn thành một nghĩa vụ nợ phải trả không liên
quan khi đo lường GTHL.
- Chuẩn mực yêu cầu khi đo lường GTHL thì các đơn vị phải đáp ứng các
điều kiện sau:
(+) Tài sản hoặc nợ phải trả cụ thể được đo lường;
(+) Đối với tài sản phi tài chính, chức năng sử dụng cao nhất và tốt nhất của
tài sản và liệu rằng tài sản có thể được kết hợp với tài sản khác hay sử dụng độc
lập.
(+) Thị trường mà trong đó một giao dịch có trật tự có thể tham gia cho tài
sản hoặc nợ phải trả; và
(+) Kỹ thuật định giá thích hợp sử dụng khi đo lường GTHL. Các kỹ thuật
định giá phù hợp được sử dụng cần tối đa hóa việc sử dụng các đầu vào có thể quan
sát được có liên quan và tối thiểu hóa các đầu vào không quan sát được. Các đầu
vào này cần phải thống nhất với các đầu vào của người tham gia thị trường sẽ sử
dụng khi định giá tài sản hoặc nợ phải trả.
- Việc đo lường GTHL được áp dụng cho một tài sản hoặc khoản nợ phải trả
cụ thể. Do đó, khi đo lường GTHL, các đặc tính của tài sản hoặc khoản nợ phải trả
cũng cần được cân nhắc nếu các bên tham gia thị trường xem xét đến các đặc điểm
đó khi định giá tài sản hoặc khoản nợ phải trả tại ngày định giá.Ví dụ: hiện trạng và
vị trí của tài sản; và các hạn chế, nếu có, trong việc bán hoặc sử dụng tài sản.
- GTHL được xác định với giả định rằng tài sản hoặc nợ phải trả được trao
đổi trong một giao dịch có tổ chức giữa các bên tham gia thị trường để bán tài sản
hoặc chuyển nhượng khoản nợ phải trả vào ngày định giá với các điều kiện thị
trường hiện tại.
- Giao dịch được sử dụng làm cơ sở để xác định GTHL được giả định là giao
dịch bán tài sản hoặc chuyển nhượng khoản nợ phải diễn ra trên thị trường chính để
giao dịch tài sản hoặc khoản nợ phải trả đó, hoặc thị trường thuận lợi nhất cho việc
giao dịch tài sản và khoản nợ phải trả đó, trong trường hợp không có thị trường
chính.
- GTHL là giá trị có thể nhận được khi bán một tài sản hoặc chuyển nhượng
một khoản nợ phải trả trong một giao dịch có tổ chức trên thị trường chính (hoặc thị
82
trường thuận lợi nhất) tại thời điểm định giá trong các điều kiện thị trường hiện tại
(tức là giá bán), bất kể giá trị đó được quan sát trực tiếp trên thị trường hoặc được
ước tính bằng kỹ thuật định giá khác.
- Khi xác định GTHL của một tài sản phi tài chính, phải xem xét đến khả
năng tạo ra lợi ích kinh tế cho các bên tham gia thị trường khi sử dụng tài sản đó
một cách tốt nhất ở mức độ cao nhất, hoặc bán cho một bên tham gia thị trường
khác có thể sử dụng tài sản đó một cách tốt nhất ở mức độ cao nhất.
- Việc sử dụng tốt nhất ở mức độ cao nhất một tài sản phi tài chính là sẽ tạo
cơ sở định giá sử dụng cho việc xác định GTHL của tài sản. Cụ thể:
(+) Việc sử dụng tài sản phi tài chính tốt nhất ở mức độ cao nhất có thể đem
lại giá trị lớn nhất cho các bên tham gia thị trường thông qua việc sử dụng một
nhóm tài sản bao gồm cả tài sản đó (như được lắp đặt hoặc cấu hình để sử dụng)
hoặc thông qua việc sử dụng tài sản đó cùng với các tài sản và nợ phải trả khác (ví
dụ: một đơn vị kinh doanh).
(+) Việc sử dụng tốt nhất ở mức độ cao nhất một tài sản phi tài chính cũng có
thể đem lại giá trị tối đa cho các bên tham gia thị trường thông qua việc sử dụng tài
sản đó một cách độc lập. Khi đó, GTHL của tài sản là giá trị có thể nhận được từ
một giao dịch với điều kiện hiện tại để bán tài sản cho các bên tham gia thị trường
để sử dụng tài sản đó một cách độc lập.
- GTHL của một khoản nợ tài chính hoặc khoản nợ phi tài chính hoặc công
cụ vốn được xác định với giả định khoản nợ hoặc công cụ vốn chủ sở hữu đó (ví dụ
cổ phần phát hành để mua một đơn vị khác) được chuyển nhượng cho các bên tham
gia thị trường tại ngày định giá. Việc chuyển nhượng khoản nợ hoặc công cụ vốn đó
được thực hiện dựa trên các giả định sau:
(+) Khoản nợ phải trả được chuyển nhượng phải vẫn còn tồn tại và bên nhận
chuyển nhượng sẽ phải hoàn thành nghĩa vụ nợ. Khoản nợ này sẽ không được thanh
toán hoặc tất toán bằng một cách nào đó vào ngày định giá.
(+) Công cụ vốn chủ sở hữu được chuyển giao sẽ vẫn tồn tại và bên nhận
chuyển nhượng sẽ có đầy đủ quyền và nghĩa vụ liên quan đến công cụ vốn đó. Công
cụ này không được bị huỷ bỏ hoặc tất toán bằng một cách nào đó vào ngày định giá.
83
- Các kỹ thuật định giá được một DN áp dụng phải phù hợp với các trường
hợp và đảm bảo có đủ số liệu để xác định GTHL, sử dụng tối đa các đầu vào có thể
quan sát được trên thị trường và tối thiểu việc sử dụng các đầu vào không quan sát
được trên thị trường.
- Các đầu vào cho các kỹ thuật định giá: Các kỹ thuật định giá được sử dụng
để xác định GTHL cần phải sử dụng tối đa các đầu vào có thể quan sát được và
giảm thiểu việc sử dụng các đầu vào không quan sát được.
- Để tăng sự nhất quán và tính so sánh trong việc đo lường GTHL và trình
bày các thuyết minh liên quan, Chuẩn mực này thiết lập một hệ thống phân cấp đầu
vào cho việc đo lường GTHL gồm ba cấp độ. Cấp độ ưu tiên nhất là dựa trên giá đã
niêm yết (không được điều chỉnh) của khoản nợ phải trả hoặc tài sản đó ở các thị
trường hoạt động (đầu vào Cấp 1) và cấp độ có mức ưu tiên thấp nhất là dựa trên
các đầu vào không quan sát được trên thị trường (đầu vào Cấp 3).
+ Các đầu vào Cấp 1: Các đầu vào Cấp 1 là giá niêm yết của các tài sản hoặc
khoản nợ phải trả (không được điều chỉnh) trên các thị trường hoạt động mà DN có
thể tiếp cận vào ngày định giá.
+ Các đầu vào Cấp 2: Các đầu vào cấp 2 là các dữ liệu đầu vào có thể quan
sát một cách trực tiếp hoặc gián tiếp được trên thị trường ngoài giá niêm yết được
phân loại vào Cấp 1 của tài sản hoặc khoản nợ phải trả.
+ Các đầu vào Cấp 3: Các đầu vào Cấp 3 là những đầu vào không thể quan
sát được đối với tài sản hoặc nợ phải trả. Các đầu vào không quan sát được sẽ được
sử dụng để xác định GTHL khi các đầu vào có thể quan sát được không có sẵn, ví
dụ đối với các tài sản hoặc nợ phải trả ít hoặc không được giao dịch trên thị trường
tại ngày đo lường. Tuy nhiên, mục tiêu của việc xác định GTHL vẫn giữ nguyên,
tức là xác định giá bán tại ngày định giá theo quan điểm đánh giá của bên nắm giữ
tài sản hoặc khoản nợ phải trả. Do đó, các dữ liệu đầu vào không quan sát được sẽ
phải phản ánh được các giả định mà các bên tham gia thị trường sẽ sử dụng khi
định giá tài sản hoặc khoản nợ phải trả, bao gồm cả các giả định về rủi ro.
Qua nghiên cứu thông lệ của quốc tế cho thấy các IFRS yêu cầu khác nhau,
cho phép sử dụng nhiều cách đo lường GTHL nhưng những hướng dẫn làm thế nào
để đo lường GTHL lại không nhất quán trong các quy định của IFRS, các quy định
84
khuôn mẫu được triển khai tại các thời điểm khác nhau nên các hướng dẫn đo
lường GTHL bị phân tán rải rác tại các chuẩn mực khác nhau và ít có hướng dẫn
chi tiết. Sự không nhất quán này dẫn đến sự đa dạng trong thực hiện và làm suy
giảm khả năng so sánh thông tin được báo cáo trong các BCTC.
Thứ hai, quy định về ghi nhận chênh lệch đánh giá lại các chỉ tiêu trên
BCTC sau khi xác định theo GTHL của thông lệ quốc tế
Việc ghi nhận chênh lệch đánh giá lại các chỉ tiêu trên BCTC sau khi xác
định theo GTHL được quy định tại các CMKT khác nhau. Việc ghi nhận chênh
lệch đánh giá lại đối với tài sản và nợ phải trả tài chính quy định tại IFRS 9, Việc
ghi nhận chênh lệch đánh giá lại đối với tài sản phi tài chính quy định tại IAS 16 -
Bất động sản, nhà xưởng và thiết bị, IAS 38 – tài sản vô hình, IAS 40 - Bất động
sản đầu tư…
Đối với tài sản phi tài chính:
- Sau khi được ghi nhận là tài sản, TSCĐ có GTHL được xác định một cách
đáng tin cậy sẽ được ghi nhận theo giá trị đánh giá lại là GTHL của tài sản tại ngày
đánh giá lại trừ giá trị hao mòn lũy kế và các khoản lỗ lũy kế do giảm giá trị tài sản
sau ghi nhận ban đầu. Nếu một TSCĐ hữu hình được đánh giá lại thì toàn bộ TSCĐ
hữu hình khác cùng loại cũng phải được đánh giá lại.
- Việc đánh giá lại được thực hiện thường xuyên nhằm đảm bảo rằng giá trị
còn lại không chênh lệch trọng yếu so với giá trị còn lại được xác định theo GTHL
tại ngày kết thúc kỳ báo cáo. Một số TSCĐ hữu hình có những thay đổi lớn và đột
ngột trong GTHL cần phải được đánh giá lại hàng năm. Ngược lại, không cần phải
đánh giá lại hàng năm đối với những tài sản chỉ có thay đổi nhỏ trong GTHL, thay
vào đó chỉ cần đánh giá lại ba (03) hoặc năm (05) năm một lần.
- Khi TSCĐ hữu hình được đánh giá lại, giá trị hao mòn lũy kế tại thời điểm
đánh giá lại được xử lý theo một trong hai cách:
(i) Được báo cáo lại theo tỷ lệ tương ứng với những thay đổi trong giá trị còn
lại của tài sản để giá trị còn lại của tài sản sau khi được đánh giá lại ngang bằng với
giá trị được đánh giá lại;
(ii) Được bù trừ với giá trị còn lại của tài sản và giá trị thuần được báo cáo
lại theo giá trị đánh giá lại của tài sản.
85
Thứ ba, quy định về trình bày thông tin trên BCTC theo GTHL của thông
lệ quốc tế
- Báo cáo tình hình tài chính phải bao gồm các chỉ tiêu ghi nhận theo GTHL
sau đây:
1. Tiền và các khoản tương đương tiền;
2. Các tài sản tài chính;
3. Các khoản phải thu thương mại và phải thu khác;
4. Hàng tồn kho;
5. Tài sản ngắn hạn khác;
6. TSCĐ hữu hình
7. TSCĐ vô hình;
8. Bất động sản đầu tư;
9. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang;
10. Tài sản dài hạn khác;
11. Nợ tài chính;
12. Các khoản phải trả thương mại;
13. Các khoản vay và nợ phải trả khác;
14. Vốn chủ sở hữu.
- Báo cáo thu nhập toàn diện bao gồm báo cáo lãi/lỗ và báo cáo thu nhập
toàn diện khác.
+ Báo cáo lãi/lỗ phản ánh lãi lỗ do biến động GTHL của các tài sản tài
chính;
+ Báo cáo thu nhập toàn diện khác gồm các khoản mục có thỏa mãn định
nghĩa của thu nhập và chi phí và làm thay đổi vốn chủ sở hữu nhưng không được
phản ánh trên báo cáo lãi/lỗ, gồm các khoản mục sau: Các khoản đánh giá lại
TSCĐ, phần lãi và lỗ hiệu quả của các công cụ phòng ngừa rủi ro trong phòng ngừa
rủi ro dòng tiền, lãi và lỗ từ việc xác định lại giá trị của các tài sản tài chính sẵn
sàng để bán chuyển đổi BCTC sang đồng tiền trình bày, lãi và lỗ ghi nhận trong
chương trình phúc lợi cho nhân viên.
86
1.5.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi lập và trình bày báo cáo tài
chính theo giá trị hợp lý
Từ nghiên cứu thông lệ của quốc tế và kinh nghiệm của Hàn Quốc, Nhật Bản
về lập và trình bày BCTC theo GTHL, có thể rút ra các bài học có thể áp dụng cho
Việt Nam gồm các nội dung như sau:
(1) Về đối tượng áp dụng GTHL
Chỉ nên xem xét bắt buộc áp dụng cho các công ty niêm yết trên thị trường
cần cung cấp thông tin tài chính minh bạch cho cổ đông. Việt Nam hiện nay có hơn
700 công ty niêm yết trên 02 sàn giao dịch Hà Nội (HNX) và TP HCM (HOSE),
cùng với gần 700 công ty niêm yết trên sàn Upcom. Ngoài ra, cân nhắc bắt buộc áp
dụng đối với các ngân hàng thương mại, bảo hiểm, CTCK. Các DN khác chỉ nên
khuyến khích áp dụng GTHL.
(2) Về cơ sở đo lường GTHL
Để việc xác định GTHL đáng tin cậy thì các quy trình, phương pháp, phân
tích và hệ thống đánh giá lại liên quan đến việc xác định GTHL cần phải được cải
thiện và hạ tầng liên quan phải được thiết lập để xác minh kết quả đánh giá lại. Cần
tăng cường kiến thức và sự hiểu biết về các phương pháp liên quan đến việc xác
định GTHL.
Các công cụ tài chính có giá niêm yết trên thị trường và đáng tin cậy thì DN
niêm yết phải ghi nhận và trình bày trên BCTC.
Các tài sản và nợ phải trả không có giá niêm yết trên thị trường thì phải
được xác định giá theo một cơ sở đáng tin cậy do một tổ chức thẩm định giá
chuyên nghiệp xác định giá hoặc do bản thân DN tự tổ chức bộ phận xác định giá
trên cơ sở đáng tin cậy. Trong trường hợp giá không đáng tin cậy thì không được
ghi nhận và trình bày trên BCTC.
(3) Về ghi nhận chênh lệch đánh giá lại: Việc ghi nhận chênh lệch đánh giá
lại các chỉ tiêu tài sản và nợ phải trả trên BCTC sau khi xác định theo GTHL có thể
được ghi nhận và trình bày trên báo cáo Lãi/lỗ hoặc chỉ tiêu thuộc vốn chủ sở hữu
tùy thuộc vào đặc điểm, bản chất của từng khoản mục trên báo cáo.
87
(4) Về công tác chuẩn bị cho việc áp dụng GTHL
- Về yếu tố pháp lý
+ Ban hành các chuẩn mực mới có liên quan đến GTHL như IFRS 13, IFRS
9, IAS 36, ...;
+ Hướng dẫn áp dụng nhất quán về việc xác định GTHL của tài sản và nợ phải
trả;
+ Hướng dẫn việc ghi nhận và trình bày các chỉ tiêu liên quan đến GTHL
trên BCTC.
- Về yếu tố thị trường:
+ Phát triển TTCK, TSCĐ, bất động sản, hàng hóa để có cơ sở tham chiếu
khi xác định GTHL của các tài sản;
+ Tạo sự phát triển một thị trường thuận lợi nhất: Việc xác định GTHL phản
ánh một giao dịch diễn ra trong một thị trường có thuận lợi nhất mà DN có thể tiếp
cận được. Điều này làm tối đa hóa giá trị khi nhận được khi bán tài sản hoặc tối
thiểu hóa giá trị sẽ phải thanh toán khi thanh toán nợ phải trả sau khi xem xét chi
phí vận chuyển và chi phí giao dịch. Thị trường chính (thị trường có số lượng và
mức độ hoạt động lớn nhất về tài sản và nợ phải trả) có thể được giả định là thị
trường thuận lợi nhất nếu đơn vị tham gia;
+ Đối với các TSCĐ: Việc xác định GTHL phản ánh khả năng của người
tham gia thị trường có thể sử dụng tài sản với mức độ cao nhất và tốt nhất. Đây là
việc sử dụng mức độ cao nhất giá trị sử dụng của tài sản xem xét việc sử dụng đó
có đúng theo quy luật tự nhiên, pháp luật cho phép và có khả năng tài chính và
không xem xét mục đích sử dụng tài sản của người mua;
+ Các giao dịch được thực hiện theo trật tự trong một thị trường giao dịch
thông thường, không phải là một hoạt động bị bắt buộc. Do đó cần bổ sung các
hướng dẫn để xác định liệu các giao dịch có bị ép buộc hay không.
- Về yếu tố con người: Phát triển đội ngũ thẩm định viên về giá mạnh về số
lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu xác định giá của các tài sản chuyên ngành
không có thị trường tham chiếu.
(5) Về biểu mẫu BCTC
88
- Báo cáo tình hình tài chính cần bổ sung một số chỉ tiêu để phản ảnh GTHL
của tài sản và nợ phải trả.
- Báo cáo kết quả kinh doanh cần được thiết kế lại cho phù hợp. Theo thông
lệ quốc tế, Báo cáo kết quả kinh doanh được thiết kế chia ra 2 phần: Phần báo cáo
lãi lỗ và phần báo cáo thu nhập toàn diện khác. Khi áp dụng GTHL, khi đánh giá
lại tài sản và nợ phải trả tài chính thì phần chênh lệch được ghi nhận vào phần Lãi
lỗ trên Báo cáo Kết quả kinh doanh, còn khi đánh giá lại tài sản phi tài chính thì
phần chênh lệch được ghi nhận vào phần thu nhập toàn diện khác trên Báo cáo Kết
quả kinh doanh.
- Thuyết minh BCTC cần bổ sung các thuyết minh liên quan đến phương
pháp xác định GTHL, cơ sở để xác định GTHL và những ảnh hưởng khi trình bày
theo GTHL.
Kết luận chƣơng 1
Chương I luận án đã tổng hợp các vấn đề lý luận về lập và trình bày BCTC
theo GTHL. Theo đó, luận án đã thực hiện: Khái quát chung về hệ thống BCTC;
Tổng quan về GTHL và những chi phối đến việc ghi nhận và trình bày thông tin
các yếu tố của BCTC; Các nguyên tắc, phương pháp lập và trình bày BCTC theo
GTHL; Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lập và trình bày BCTC theo GTHL; Đề
cập các quy định của Hàn Quốc và Nhật Bản, các kinh nghiệm của một số nước
trên thế giới khi vận dụng GTHL và bài học cho Việt Nam khi lập và trình bày
BCTC theo GTHL.
89
CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG VẬN DỤNG GIÁ TRỊ HỢP LÝ KHI LẬP VÀ TRÌNH
BÀY BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
NIÊM YẾT CỦA VIỆT NAM
2.1 Khái quát chung về các công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam
2.1.1. Quá trình hình thành, phát triển công ty chứng khoán niêm yết của
Việt Nam
Cùng với sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK)
Việt Nam, số lượng các CTCK Việt Nam cũng gia tăng nhanh chóng. Tại thời điểm
khi TTCK Việt Nam chính thức đi vào hoạt động (tháng 7/2000), số lượng các
CTCK trên thị trường mới chỉ là 5 công ty, những công ty này được hình thành bởi
các định chế tài chính lớn như Tập đoàn tài chính Bảo Việt, Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam và Ngân hàng Quân Đội. Sau hơn 5 năm hoạt động, tính đến cuối năm
2005, thị trường mới có 14 CTCK. Tuy nhiên, khi TTCK Việt Nam bước vào giai
đoạn “bùng nổ” mạnh mẽ, chỉ tính riêng năm 2006, số lượng CTCK thành lập mới
đã tăng thêm 41 công ty, nâng tổng số CTCK tính đến 31/12/2006 là 55 công ty
(Hoàng Thị Bích Hà (2)).
Số lượng các CTCK vẫn tiếp tục gia tăng, tính đến cuối năm 2008, số CTCK
hoạt động trên thị trường là 90 công ty, và đỉnh điểm là vào năm 2010, con số này
đạt 105 công ty (Hoàng Thị Bích Hà (2)).
Trải qua một giai đoạn điều chỉnh mạnh của TTCK Việt Nam, số lượng các
CTCK Việt Nam cũng được điều chỉnh theo chiều hướng giảm. Ngày 6/12/2012
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1826/Đ-TTg về việc phê duyệt Đề
án “Tái cấu trúc TTCK và DN bảo hiểm” theo đó hoạt động tái cấu trúc các CTCK
vẫn đang tiếp tục được thực hiện theo lộ trình và có bước đi thận trọng, không làm
xáo trộn thị trường, trên cơ sở các nguyên tắc của thị trường.
Tính đến ngày 31/12/2018, 16 CTCK hoạt động kém hiệu quả đã được tái
cấu trúc, số lượng các CTCK hoạt động bình thường trên thị trường hiện còn 89
công ty.
90
Theo Báo cáo tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2018 và chương trình công
tác năm 2019 của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, hoạt động tài cấu trúc các CTCK
vẫn đang tiếp tục được thực hiện theo lộ trình và có bước đi thận trọng, không làm
xáo trộn thị trường, trên cơ sở các nguyên tắc thị trường. Các CTCK đã nâng cao
hơn về quản trị rủi ro, tuân thủ pháp luật ngày càng tốt hơn, dịch vụ cho khách
hàng ngày càng được cải thiện đảm bảo các phiên giao dịch được vận hành suôn sẻ.
Biểu đồ 2.1 Số lƣợng CTCK Việt Nam qua các năm
Đơn vị tính: công ty
Nguồn: Báo cáo tổng kết của UBCKNN
Cùng với sự gia tăng về số lượng CTCK, mạng lưới chi nhánh, phòng giao
dịch của hệ thống các CTCK trên thị trường cũng liên tục gia tăng trong giai đoạn
91
2006-2010. Tuy nhiên, từ năm 2011, do tình hình kinh doanh khó khăn, quá trình
mở rộng thêm chi nhánh và phòng giao dịch đã chững lại, nhiều CTCK đã đóng
cửa các chi nhánh và phòng giao dịch.
Sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng các CTCK trên thị trường đã bước đầu đáp
ứng ngày một tốt hơn nhu cầu phát triển của thị trường, nhu cầu dịch vụ chứng
khoán của các tổ chức phát hành và nhu cầu của các nhà đầu tư trên thị trường.
Tuy nhiên, nếu so với quy mô thị trường và so với các nước trong khu vực,
số lượng các CTCK Việt Nam vẫn đang ở mức cao. Tính đến cuối năm 2015, mức
vốn hóa TTCK Việt Nam đạt 1.360 nghìn tỷ đồng, tương đương 61,8 tỷ USD, quy
mô giao dịch bình quân mỗi phiên đạt 4.932 tỷ đồng, tương đương khoảng 224
triệu USD với số lượng các CTCK là 81 công ty (Hoàng Thị Bích Hà (2)). Trong
khi đó, ở một số nước như Trung Quốc, mức vốn hóa thị trường đạt 3.760 tỷ USD
với số lượng CTCK là 112 công ty (Hoàng Thị Bích Hà (2)). Hàn Quốc với quy mô
vốn hóa thị trường đạt 1.148 tỷ USD nhưng số lượng CTCK chỉ là 61 công
ty(Hoàng Thị Bích Hà (2)). Điều này tiềm ẩn nhiều nguy cơ về tính cạnh tranh
trong hoạt động kinh doanh của các CTCK Việt Nam, sự an toàn về tài chính của
mỗi CTCK cũng như toàn hệ thống CTCK nhất là đối với những CTCK có quy mô
nhỏ, mới đi vào hoạt động trên thị trường.
Năm 2006, có 3 CTCK được niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam.
Trước đó chưa có CTCK nào niêm yết. Đến năm 2009, có thêm 6 CTCK niêm yết,
năm 2010 có thêm 8 công ty nâng số CTCK niêm yết lên 17 công ty. Năm 2011 thị
trường có thêm 2 CTCK niêm yết, nâng tổng số công ty niêm yết là 19. Năm 2014,
có thêm 1 công ty niêm yết và rút bớt 1 công ty niêm yết. Năm 2016, toàn TTCK
có 22 CTCK niêm yết trên tổng 81 công ty. Đến 31/12/2018, vẫn duy trì 22 CTCK
niêm yết trên tổng số 79 công ty. Danh sách CTCK niêm yết (Phụ lục 1).
92
Biểu đồ 2.2: Số lƣợng CTCK niêm yết trên TTCK Việt Nam
Đơn vị tính: công ty
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2018 của UBCKNN
Biểu đồ 2.3:
So sánh số lƣợng CTCK niêm yết so với các CTCK trên TTCK Việt Nam
93
(Nguồn: tổng hợp và xử lý của tác giả từ báo cáo thường niên của UBCKNN)
Từ các phân tích trên, luận án thấy rằng xu hướng qua các năm gần đây, số
lượng CTCK niêm yết tăng lên và duy trì ổn định trong khi số lượng CTCK giảm
xuống do quá trình tái cấu trúc.
* Một số kết quả kinh doanh chính: Một số kết quả kinh doanh của các
CTCK Việt Nam giai đoạn 2014- 2017 được thể hiện qua bảng số liệu 2.1 và biểu
đồ 2.4 như sau:
94
Bảng 2.1
Kết quả hoạt động kinh doanh chính của CTCK Việt Nam giai đoạn 2014-
2017
Chỉ tiêu Đơn vị tính 2014 2015 2016 2017
Tổng doanh thu Tỷ đồng 10.533 9.607 10.965 14.672
Lợi nhuận sau thuế Tỷ đồng 3.196 2.720 3.500 7.000
Số CTCK có lãi trong kỳ Công ty 67 61 62 61
Số CTCK thua lỗ trong kỳ Công ty 22 20 19 18
Tổng số CTCK Công ty 89 81 81 79
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo tổng kết của UBCKNN
Biểu đồ 2.4: Doanh thu, lợi nhuận của CTCK Việt Nam
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo tổng kết của UBCKNN
Từ bảng số liệu cho thấy, tổng doanh thu và lợi nhuận sau thuế của các
CTCK đã tăng dần qua các năm từ 2014-2017, số công ty có lãi cũng tăng lên.
Kết quả hoạt động năm 2017 cho thấy doanh thu của các CTCK chủ yếu đến
từ hoạt động tự doanh và môi giới, với tỷ trọng lần lượt là 54% và 34% tổng doanh
thu của các CTCK. Doanh thu từ hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán và hoạt
động bảo lãnh phát hành chỉ chiếm 12%.
95
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu doanh thu của các CTCK trong năm 2017
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên của UBCKNN
Hoạt động tự doanh có tốc độ tăng trưởng khá cao trong 2 năm gần đây với
tốc độ lần lượt là 124% và 46%. Tiếp theo đó là doanh thu từ hoạt động môi giới,
tăng 76% so với năm 2016. Mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ, tuy nhiên doanh thu từ hoạt
động tư vấn đầu tư chứng khoán có tốc độ tăng trưởng mạnh trong năm 2017, tăng
153% so với năm 2016.
Biểu đồ 2.6: Doanh thu từ các nghiệp vụ trong CTCK qua các năm
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên của UBCKNN
Nhìn chung, tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động của các CTCK ngày
càng được cải thiện sau quá trình tái cấu trúc và các CTCK tiếp tục thực hiện tốt
96
chức năng là cầu nối giữa nhà đầu tư với TTCK, đảm bảo giao dịch của khách hàng
được thông suốt, an toàn, bảo đảm được quyền lợi hợp pháp của khách hàng. Kết
quả tái cấu trúc các CTCK những năm qua đang tạo nền tảng để phát triển các
CTCK theo mô hình ngân hàng đầu tư.
Năm 2017 được coi là năm thành công rực rỡ của các CTCK niêm yết so với
các năm trước. Đây là năm ra mắt TTCK phái sinh với sản phẩm hợp đồng tương
lai chỉ số và cũng là năm bắt đầu áp dụng GTHL trong công tác kế toán của CTCK.
Đáng kể nhất trong số CTCK niêm yết là những CTCK niêm yết đang giữ vị
trí dẫn đầu về thị phần môi giới của cả hai sàn HOSE và HNX, đó là Công ty Cổ
phần Chứng khoán Sài Gòn (Mã SSI), công ty CP Chứng khoán TP. HCM (Mã
HCM), Công ty cổ phần chứng khoán VNDIRECT (Mã VND) và công ty Cổ phần
Chứng Khoán Sài Gòn Hà Nội (mã SHS). Trong đó:
Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (SSI) cho thấy vị thế dẫn đầu của
mình trong ngành chứng khoán với việc duy trì doanh thu và lợi nhuận cao nhất.
Theo BCTC công ty mẹ, doanh thu quý IV/2017 của SSI đạt 1018,8 tỷ đồng và lợi
nhuận trước thuế đạt 380,8 tỷ đồng, tăng lần lượt 66,8% và 344,7% so với cùng kỳ
năm trước. Lũy kế cả năm 2017, công ty ghi nhận mức tăng 19% doanh thu và
20,5% lợi nhuận trước thuế - đạt lần lượt 2.957 tỷ đồng và 1.278 tỷ đồng so với
cùng kỳ năm trước. Công ty dự kiến lợi nhuận hợp nhất trước thuế năm 2017 đạt
hơn 1.390 tỷ đồng trên cơ sở tạm ước lợi nhuận sau thuế quý IV/2017 của các công
ty liên kết, cao nhất kể từ khi thành lập và vượt kế hoạch kinh doanh trên 31%.
Công ty Cổ phần Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HCM) cũng tận
dụng khá tốt sự tích cực của thị trường chung khi báo doanh thu 1.537 tỷ đồng lãi
sau thuế hơn 554 tỷ đồng, tăng 82% so với năm trước, vượt 53,4% kế hoạch. Riêng
quý IV/2017, lợi nhuận sau thuế của HSC đạt 186,2 tỷ đồng, gấp 2,45 lần cùng kỳ.
Công ty cổ phần Chứng khoán VNDIRECT (VND) cũng đạt mức lợi nhuận
rất cao trong năm 2017 là 438,4 tỷ đồng, gấp 2,35 lần năm 2016, con số này gấp
đôi kế hoạch ban đầu của công ty đặt ra từ đầu năm. Riêng quý IV/2017, VND ghi
nhận hơn 110,5 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, gấp 2,86 lần cùng kỳ năm trước.
Công ty Cổ phần Chứng Khoán Sài Gòn Hà Nội (SHS - HNX) có mức tăng
trưởng rất ấn tượng trong năm 2017. SHS đạt hơn 1.089,5 tỷ đồng doanh thu hoạt
97
động, tăng 93,4% so với năm trước. Lợi nhuận sau thuế gấp 4,4 lần năm 2016 và
đạt gần 381 tỷ đồng và gấp 3,77 lần kế hoạch. Riêng quý IV/2017, SHS báo lãi sau
thuế 130,6 tỷ đồng, gấp 3 lần cùng kỳ năm trước.
Biểu đồ 2.7:
Doanh thu, lợi nhuận năm 2017 của một số CTCK niêm yết hàng đầu ở VN
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo tổng kết của UBCKNN năm 2017
Chất lượng hoạt động, năng lực tài chính, quản trị DN và khả năng kiểm soát
rủi ro của các CTCK tiếp tục được nâng cao. Tình hình tài chính của hệ thống
CTCK được cải thiện mạnh nhờ TTCK diễn biến tích cực. Tổng tài sản hệ thống
CTCK tăng trưởng 27% so với cuối năm 2016 (năm 2016 tăng 9,2%). Quy mô vốn
chủ sở hữu tăng 24,4% so với thời điểm 31/12/2016.
Danh mục đầu tư được cơ cấu lại theo hướng giảm dần các khoản đầu tư có
rủi ro cao, đảm bảo các tỷ lệ đầu tư theo quy định. Tổng doanh thu của các CTCK
đạt mức cao nhất trong suốt quá trình tái cấu trúc với giá trị là 19.779 tỷ đồng, tăng
47% so với năm 2016. Số lượng CTCK hoạt động kinh doanh có lãi năm 2017 tăng
28% so với năm 2016 với tổng lợi nhuận sau thuế là 6.273 tỷ đồng, gấp 2,3 lần so
với năm 2016.
Chất lượng tài sản của hệ thống CTCK tiếp tục được cải thiện do TTCK khởi
sắc tạo điều kiện cho các CTCK thu hồi các khoản cho vay khó đòi, hoàn nhập dự
phòng đầu tư tài chính.
Công tác quản trị DN, kiểm soát rủi ro của các CTCK ngày càng được chú
98
trọng và nâng cao. Các CTCK đã lập bộ phận kiểm toán nội bộ, bộ phận quản trị
rủi ro và xây dựng chính sách quản trị rủi ro theo quy định. Nhiều CTCK lớn đã
chú trọng, có sự đầu tư đáng kể khi thuê các tổ chức chuyên nghiệp độc lập để tư
vấn, thiết lập xây dựng khuôn khổ quy trình, quy chế quản trị rủi ro cũng như đào
tạo nguồn nhân lực.
Bảng 2.2: Hoạt động kinh doanh của các CTCK
Đơn vị Chỉ tiêu 2015 2016 2017 tính
81 81 79 Số lƣợng công ty
Tỷ đồng 39.920 40.059 44.435 Tổng vốn điều lệ
Tỷ đồng 44.919 44.728 55.633 Tổng vốn chủ sở hữu
Tỷ đồng 9.607 10.965 14.672 Tổng doanh thu
Tổng lợi nhuận sau thuế Tỷ đồng 2,720 3.500 7.000 trong năm
Nguồn: Báo cáo tổng kết của UBCKNN năm 2017
2.1.2 Khái quát đặc điểm kinh doanh của các công ty chứng khoán chi phối
đến việc lập và trình bày Báo cáo tài chính theo giá trị hợp lý
- Về tổ chức hoạt động:
Hiện nay ở Việt Nam các CTCK được thành lập theo hình thức chuyên
doanh, là CTCK độc lập và chỉ chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán. Căn
cứ vào việc thực hiện các nghiệp vụ trên TTCK có thể phân chia CTCK thành các
loại sau:
+ Công ty môi giới chứng khoán: là CTCK chỉ thực hiện việc trung gian, mua
bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
+ Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: là CTCK có lĩnh vực hoạt động chủ
yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh lệch giá.
+ Công ty kinh doanh chứng khoán: là CTCK chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự
doanh, tự bỏ vốn đầu tư chứng khoán và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh
của mình. Hoạt động tự doanh chứng khoán là việc CTCK mua hoặc bán chứng
khoán cho chính mình. Vì vậy, CTCK phải đảm bảo có nguồn vốn lớn và một đội
99
ngũ nhân viên tự doanh có trình độ phân tích, phán đoán thị trường nhanh nhạy,
đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý. Bên cạnh mục đích lợi nhuận, hoạt động tự
doanh chứng khoán của CTCK còn mục đích can thiệp điều tiết giá chứng khoán,
tạo lập thị trường cho các chứng khoán mới phát hành và tự doanh lô lẻ của khách
hàng sau đó tập hợp lại thành lô chẵn để giao dịch trên thị trường. Đối với mục đích
can thiệp điều tiết giá chứng khoán, tạo lập thị trường, CTCK đã góp phần bình ổn
thị trường thông qua hành vi mua vào khi giá chứng khoán giảm hoặc bán ra khi
giá chứng khoán tăng lên.
Đặc điểm trên chi phối đến việc lập và trình bày BCTC vì CTCK là một hình
thức định chế đặc biệt, có hoạt động nghiệp vụ đặc thù liên quan đến các công cụ
tài chính nên các khoản mục trên BCTC liên quan đến công cụ tài chính ảnh hưởng
rất lớn khi phân tích báo cáo tài chính.
- Đặc trưng cơ bản của hoạt động kinh doanh của CTCK: Chuyên kinh doanh
các sản phẩm liên quan đến công cụ tài chính giao dịch trên thị trường tập trung;
Chuyên kinh doanh một số dịch vụ như công ty chỉ chuyên môi giới, công ty chỉ
chuyên thực hiện bảo lãnh phát hành... hoặc là những công ty đa dịch vụ, hoạt động
trên nhiều lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Do các CTCK hoạt động trong môi
trường liên quan đến công cụ tài chính nên việc cập nhật các biến động giá thị
trường của các công cụ tài chính niêm yết trên thị trường được tiến hành hàng
ngày.
Đặc điểm này chi phối đến việc lập và trình bày BCTC vì khi lập và trình bày
BCTC các CTCK phải đo lường các tài sản và nợ phải trả theo sự biến động GTHL
và phải trình bày trên BCTC số chênh lệch giữa giá gốc và GTHL.
- Các nghiệp vụ cơ bản của CTCK gồm các nghiệp vụ chính sau:
+ Nghiệp vụ môi giới: CTCK tiến hành nghiệp vụ môi giới sẽ đại diện cho
khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng
khoán hoặc thị trường phi tập trung (OTC). Khách hàng sẽ phải chịu hậu quả kinh
tế của việc giao dịch đó. Các nhà môi giới thường gặp phải rủi ro khi khách hàng
của mình hoặc nhà môi giới giao dịch khác không thực hiện nghĩa vụ thanh toán
đúng thời hạn.
100
+ Nghiệp vụ bảo lãnh: Bảo lãnh phát hành là việc hỗ trợ đơn vị phát hành huy
động vốn bằng cách bán chứng khoán trên thị trường.
+ Nghiệp vụ tự doanh: Đây là nghiệp vụ kinh doanh trong đó CTCK dùng vốn
kinh doanh của mình để mua và bán chứng khoán, họ tự chịu mọi rủi ro và có thể
làm thêm nhiệm vụ tạo thị trường cho một loại chứng khoán nào đó.
+ Các nghiệp vụ phụ trợ: do thị trường ngày càng phát triển và do nhu cầu của
bản thân CTCK ngày càng mở rộng nên đã phát sinh nhiều nghiệp vụ như: cho vay
kí quĩ, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, quản lý thu nhập chứng khoán.
Ngoài các nghiệp vụ trên, CTCK còn có thể tiến hành một số hoạt đông khác như:
cho vay chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư, quản lý vốn, kinh doanh bảo hiểm...
Đặc điểm này chi phối đến việc lập và trình bày BCTC do các nghiệp vụ cơ bản
của CTCK đều trong môi trường năng động của TTCK. Do đó việc cập nhật các
biến động giá thị trường của thị trường là tất yếu. Kết quả tất yếu là các chỉ tiêu
trên BCTC các CTCK phải được đo lường theo sự biến động GTHL và phải trình
bày trên BCTC số chênh lệch giữa giá gốc và GTHL.
- Đặc điểm hoạt động của CTCK: là trung gian trên thị trường tài chính, là các
tổ chức tài chính làm cầu nối giữa những người cần vốn và những người có vốn.
CTCK không chỉ là cầu nối giữa tổ chức phát hành với nhà đầu tư mà còn là cầu
nối giữa các nhà đầu tư với nhau. Các CTCK cung cấp một danh mục đa dạng các
danh mục tài chính bao gồm dịch vụ môi giới, tư vấn và quản lý danh mục đầu tư,
dịch vụ ngân hàng đầu tư, thực hiện giao dịch mua bán các cổ phiếu, trái phiếu và
các công cụ của thị trường tiền tệ.
Các CTCK niêm yết hoạt động trong môi trường năng động của thị trường
vốn, phản ứng rất nhạy bén với thị trường. Những biến động của thị trường đều
phải được phân tích và được cung cấp thông tin cho những người có thẩm quyền ra
quyết định. Việc sử dụng giá thị trường trong các báo cáo phân tích kỹ thuật của
hoạt động kinh doanh chứng khoán là minh chứng rất quan trọng và mật thiết tạo
cơ sở để công tác kế toán sử dụng giá hợp lý trong việc ghi nhận và trình bày thông
tin tài chính trên BCTC.
- Đối tượng kinh doanh của CTCK là các mã cổ phiếu, trái phiếu đang niêm
yết trên thị trường và có cơ sở xác định giá rất dễ dàng và đáng tin cậy. Việc áp
101
dụng GTHL để ghi nhận các tài sản, nợ phải trả của CTCK cũng thuận lợi hơn so
với các DN khác.
Các CTCK kinh doanh các sản phẩm liên quan đến công cụ tài chính giao
dịch trên thị trường tập trung nên để thu hút nhà đầu tư tham gia thị trường thì phải
minh bạch tình hình tài chính tạo niềm tin cho nhà đầu tư.
- Tình hình và kết quả hoạt động của các CTCK hoạt động tại Việt Nam chịu
tác động mạnh bởi tình hình kinh tế trong và ngoài nước đặc biệt là các yếu tố tỷ
giá, lãi suất, giá dầu, sự sụt giảm của các chỉ số chứng khoán thế giới.... Tuy nhiên
sự ảnh hưởng tác động này là không tránh khỏi trong bối cảnh nền kinh tế cũng như
thị trường vốn, thị trường tài chính Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với nền
kinh tế và thị trường tài chính thế giới. Trong bối cảnh đó, các CTCK niêm yết phải
tăng cường quản trị rủi ro, minh bạch tình hình tài chính, nâng cao hiệu quả quản lý
từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Đặc điểm một số khoản mục trên BCTC của CTCK:
+ Các tài sản tài chính ghi nhận thông qua lãi/lỗ: là các tài sản tài chính được
nắm giữ cho mục đích mua vào, bán ra trên thị trường tài chính thông qua hoạt
động nghiên cứu và phân tích với kỳ vọng sinh lời. Các tài sản tài chính này thường
bao gồm: Cổ phiếu, trái phiếu, công cụ tiền tệ, công cụ phái sinh (với mục đích
phòng ngừa rủi ro),… Các tài sản tài chính được phản ánh trong mục này là các
khoản đầu tư có thời hạn thu hồi vốn dưới 1 năm hoặc trong một chu kỳ kinh
doanh. GTHL được xác định trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc, phương pháp hoặc
mô hình lý thuyết định giá tài sản tài chính được quy định tại Điều lệ hoặc Sổ tay
định giá của CTCK hoặc sau khi đã được Ban Giám đốc CTCK chấp thuận bằng
văn bản.
+ Các khoản đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn: Là chỉ tiêu phản ánh giá trị
của Các khoản đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn bao gồm: Trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu DN, tiền gửi ngân hàng có kỳ hạn. Các khoản đầu tư nắm giữ đến ngày
đáo hạn là các khoản đầu tư có thời hạn thu hồi vốn trong một chu kỳ kinh doanh
hoặc hơn một chu kỳ kinh doanh. Chi phí phân bổ của tài sản tài chính nắm giữ đến
ngày đáo hạn được xác định bằng giá trị ghi nhận ban đầu của tài sản tài chính trừ
đi các khoản hoàn trả gốc cộng hoặc trừ các khoản phân bổ lũy kế tính theo phương
102
pháp lãi suất thực của phần chênh lệch giữa giá trị ghi nhận ban đầu và giá trị đáo
hạn, trừ đi các khoản giảm trừ khoản dự phòng do suy giảm giá trị hoặc do không
thể thu hồi (Nếu có).
Các tài sản tài chính nắm giữ đến ngày đáo hạn (HTM) thuộc Danh mục tài
sản tài chính của CTCK là các tài sản tài chính phi phái sinh với các khoản thanh
toán cố định hoặc có thể xác định, có kỳ đáo hạn cố định mà CTCK có dự định tích
cực và có khả năng giữ đến ngày đáo hạn. Các tài sản tài chính nắm giữ đến ngày
đáo hạn thuộc Danh mục các tài sản tài chính của CTCK thường là các tài sản tài
chính, như: Trái phiếu giữ đến ngày đáo hạn hoặc các khoản tiền gửi có kỳ hạn và
không bao gồm các công cụ phái sinh.
Các khoản đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn thuộc Danh mục tài sản tài
chính của CTCK được phân loại theo các loại tài sản tài chính sau: Cổ phiếu, trái
phiếu, công cụ thị trường tiền tệ,...và theo hình thức giao dịch: Giao dịch qua sàn
giao dịch chứng khoán hoặc không qua sàn giao dịch chứng khoán (OTC). Đối với
hình thức giao dịch OTC chỉ bao gồm các tài sản tài chính chuẩn bị niêm yết.
Trong mỗi loại tài sản tài chính, các tài sản tài chính được sắp xếp theo uy tín, mức
độ an toàn và mức độ hạn chế loại tài sản tài chính được đầu tư của CTCK theo quy
định của pháp luật hiện hành.
CTCK mua, bán các khoản đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn thuộc Danh
mục tài sản tài chính của CTCK trên TTCK thông qua các Sở Giao dịch chứng
khoán (đối với chứng khoán niêm yết) hoặc thị trường phi tập trung (Đối với chứng
khoán chưa niêm yết mà CTCK được phép đầu tư theo quy định của pháp luật
chứng khoán hiện hành).
+ Các khoản cho vay: Các khoản cho vay thuộc Danh mục tài sản tài chính
của CTCK là các tài sản tài chính phi phái sinh với các khoản thanh toán cố định
hoặc có thể xác định và không được niêm yết trên thị trường hoàn hảo.
CTCK có thể cho khách hàng vay tiền để mua chứng khoán theo quy định về
giao dịch ký quỹ chứng khoán theo hợp đồng magin hoặc hợp đồng ứng trước tiền
bán chứng khoán của khách hàng. Trong trường hợp CTCK mua và ủy thác mua
trái phiếu CTCK chưa niêm yết trên TTCK hoặc chưa đăng ký giao dịch trên thị
trường giao dịch của các công ty đại chúng chưa niêm yết (Upcom) (sau đây gọi tắt
103
là trái phiếu chưa niêm yết), không bao gồm mua trái phiếu chưa niêm yết bằng
nguồn vốn ủy thác mà bên ủy thác chịu rủi ro cũng được quy định trong loại cam
kết cho vay này. CTCK phải phân loại số tiền mua trái phiếu như là một khoản cho
vay không có bảo đảm đối với bên phát hành trái phiếu, trừ trường hợp trái phiếu
CTCK được bảo đảm thanh toán bằng tài sản.
Các khoản cho vay bao gồm: Cho vay hoạt động margin, cho vay hoạt động
ứng trước tiền bán của khách hàng, cho vay vì lỗi giao dịch, cho vay tài sản tài
chính khác. Các khoản cho vay phản ánh trong mục này là các khoản đầu tư có thời
hạn thu hồi vốn trong một chu kỳ kinh doanh hoặc hơn một chu kỳ kinh doanh. Sau
ghi nhận ban đầu, các CTCK phải xác định giá trị sau ghi nhận ban đầu của tất cả
các khoản cho vay theo giá trị phân bổ sử dụng phương pháp lãi suất thực.
+ Tài sản tài chính sẵn sàng để bán là các tài sản tài chính phi phái sinh được
xác định là sẵn sàng để bán hoặc không được phân loại là các khoản cho vay và các
khoản phải thu, các khoản đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn hoặc các tài sản tài
chính ghi nhận thông qua lãi/lỗ. Tài sản tài chính sẵn sàng để bán (AFS) thuộc
Danh mục tài sản tài chính của CTCK được phân loại theo các loại tài sản tài chính
sau: Cổ phiếu, trái phiếu, công cụ thị trường tiền tệ,...và theo hình thức giao dịch:
Giao dịch qua sàn giao dịch chứng khoán hoặc không qua sàn giao dịch chứng
khoán (OTC). Đối với hình thức giao dịch OTC bao gồm các tài sản tài chính
chuẩn bị niêm yết và các tài sản tài chính chưa niêm yết khác. Trong mỗi loại tài
sản tài chính, các tài sản tài chính được sắp xếp theo uy tín, mức độ an toàn và mức
độ hạn chế loại tài sản tài chính được đầu tư của CTCK theo quy định của pháp luật
hiện hành. Tài sản tài chính sẵn sàng để bán AFS thuộc Danh mục tài sản tài chính
của CTCK không bao gồm các khoản tiền gửi có kỳ hạn cố định và các tài sản tài
chính phái sinh. Tài sản tài chính sẵn sàng để bán AFS mua vào thuộc Danh mục
tài sản tài chính của CTCK được ghi sổ kế toán theo giá mua thực tế các tài sản tài
chính (đối với chứng khoán chưa niêm yết của Tổ chức phát hành) hoặc giá khớp
lệnh mua bán chứng khoán trên các Sở Giao dịch chứng khoán (đối với chứng
khoán niêm yết). Giá mua tài sản tài chính sẵn sàng để bán AFS bao gồm cả các chi
phí phát sinh trực tiếp liên quan đến việc mua các tài sản tài chính này, như: Phí
môi giới, phí giao dịch và phí ngân hàng. CTCK mua, bán tài sản tài chính sẵn sàng
104
để bán AFS thuộc Danh mục tài sản tài chính của CTCK trên TTCK thông qua các
Sở Giao dịch chứng khoán (đối với chứng khoán niêm yết) hoặc thị trường phi tập
trung (đối với chứng khoán chưa niêm yết mà CTCK được phép đầu tư theo quy
định của pháp luật chứng khoán hiện hành). Quá trình mua bán chứng khoán phải
tuân thủ các quy định pháp luật chứng khoán hiện hành. Thời điểm ghi nhận tăng
hoặc giảm số lượng và giá trị chứng khoán mua/bán thuộc Danh mục tài sản tài
chính của CTCK được thực hiện theo nguyên tắc sau: Khi mua tài sản tài chính sẵn
sàng để bán AFS thuộc Danh mục tài sản tài chính của CTCK: Cơ sở ghi nhận tăng
số lượng và giá trị mua tài sản tài chính sẵn sàng để bán AFS thuộc Danh mục tài
sản tài chính của CTCK được tính tại ngày T+x là ngày kết thúc của quy trình mua
bán các tài sản tài chính và CTCK nhận được kết quả bù trừ và thanh toán của
Trung tâm Lưu ký Việt Nam (VSD) (đối với chứng khoán niêm yết) do CTCK
cung cấp hoặc của Tổ chức bù trừ và thanh toán được ủy nhiệm (Đối với chứng
khoán chưa niêm yết). Khi đó chứng khoán được xác định chuyển quyền sở hữu và
nghĩa vụ thanh toán chứng khoán đối với CTCK được thực hiện. CTCK có thể ghi
nhận các tài sản tài chính sẵn sàng để bán AFS khi mua, bán tại ngày T+0.
+ Nợ phải trả tài chính nắm giữ cho mục đích kinh doanh: là những khoản
nợ phải trả phát sinh cho mục đích mua lại trong tương lai gần, ghi nhận ban đầu là
các khoản mục trong danh mục quản lý các công cụ tài chính được xác định có
bằng chứng sẽ có lợi nhuận trong ngắn hạn và nợ phải trả là nợ tài chính phái sinh
ngoại trừ các hợp đồng bảo đảm tài chính hoặc nợ tài chính phái sinh được chỉ định
và các công cụ cho mục đích phòng ngừa rủi ro.
Các khoản mục trên là các khoản đầu tư có giá tham chiếu và đang niêm yết
trên thị trường chứng khoán. Việc xác định giá thị trường của các khoản mục này
đáng tin cậy. Lập và trình bày các khoản mục này theo giá trị hợp lý trên báo cáo
tài chính là cần thiết để đáp ứng nhu cầu thông tin của nhà đầu tư.
105
2.2 Thực trạng vận dụng giá trị hợp lý khi lập và trình bày báo cáo tài
chính của các công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam
2.2.1 Khái quát chung
Nhằm đánh giá thực trạng vận dụng GTHL khi lập và trình bày BCTC tại các
CTCK, luận án đã tiến hành gửi 172 Phiếu khảo sát cho các đối tượng có liên quan.
NCS đã phỏng vấn 3 kế toán trưởng và 6 kiểm toán viên tiến hành kiểm toán các
CTCK, 1 thẩm định viên về giá bằng hình thức gọi điện thoại (Phụ lục 4) và tiến
hành khảo sát BCTC năm 2016 và năm 2017 của 3 CTCK niêm yết lớn nhất trên
TTCK Việt Nam trong việc áp dụng GTHL gồm: SSI- Công ty cổ phần Chứng
khoán Sài Gòn; BSC- Công ty cổ phần Chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam; FTS: Công ty cổ phần Chứng khoán FPT niêm yết trên SGD TP.HCM.
(1) Về phiếu khảo sát, luận án gửi phiếu khảo sát cho các đối tượng sau: Các
CTCK niêm yết; Các kiểm toán viên đang làm việc tại công ty kiểm toán lớn
chuyên kiểm toán các CTCK niêm yết; Các thẩm định giá viên; Các nhà đầu tư
chứng khoán trên TTCK Việt Nam; Các nhà nghiên cứu về chứng khoán và đầu tư
chứng khoán tại Việt Nam và chuyên gia Bộ Tài chính nghiên cứu và hoạch định
chính sách liên quan đến TTCK Việt Nam và nghiên cứu về áp dụng GTHL ở Việt
Nam.
Luận án đã thiết kế 4 loại phiếu câu hỏi cho 4 đối tượng khảo sát cụ thể như sau:
- Đối với CTCK, luận án đã thiết kế 25 câu hỏi trong đó có 21 câu hỏi liên
quan đến GTHL gửi đi 22 phiếu khảo sát, cụ thể (Phụ lục 06):
+ Về căn cứ pháp lý: 3 câu hỏi
+ Về yếu tố, thông tin đầu vào để xác định GTHL: 5 câu hỏi
+ Phương pháp xác định GTHL: 2 câu hỏi
+ Việc sử dụng GTHL và trình bày trên BCTC: 8 câu hỏi
+ Khác: 3 câu hỏi
- Đối với các kiểm toán viên đang làm việc tại công ty kiểm toán lớn chuyên
kiểm toán các CTCK niêm yết và các thẩm định viên về giá, luận án đã thiết kế 20
câu hỏi trong đó có 18 câu hỏi liên quan đến GTHL gửi đi 25 phiếu khảo sát cho
các kiểm toán viên, cụ thể (Phụ lục 07):
+ Về căn cứ pháp lý: 2 câu hỏi
106
+ Về yếu tố, thông tin đầu vào để xác định GTHL: 3 câu hỏi
+ Phương pháp xác định GTHL: 2 câu hỏi
+ Việc áp dụng GTHL tại CTCK: 3 câu hỏi
+ Việc ghi nhận và trình bày trên BCTC: 6 câu hỏi
+ Khác: 4 câu hỏi
- Đối với các nhà đầu tư, luận án đã thiết kế 20 câu hỏi trong đó có 16 câu hỏi
liên quan đến GTHL gửi đi 50 phiếu khảo sát, cụ thể (Phụ lục 08):
+ Về hiểu biết về GTHL: 2 câu hỏi
+ Về yếu tố, thông tin đầu vào để xác định GTHL: 3 câu hỏi
+ Phương pháp xác định GTHL: 2 câu hỏi
+ Về khả năng áp dụng GTHL tại DN: 3 câu hỏi
+ Việc ghi nhận và trình bày trên BCTC: 4 câu hỏi
+ Khác: 2 câu hỏi
Đối với các nhà nghiên cứu và chuyên gia của Bộ Tài chính, luận án đã thiết kế
22 câu hỏi trong đó có 16 câu hỏi liên quan đến GTHL gửi đi 55 phiếu, cụ thể (Phụ
lục 09):
+ Về căn cứ pháp lý: 2 câu hỏi
+ Về yếu tố, thông tin đầu vào để xác định GTHL: 3 câu hỏi
+ Phương pháp xác định GTHL: 2 câu hỏi
+ Việc áp dụng GTHL tại CTCK: 3 câu hỏi
+ Việc ghi nhận và trình bày trên BCTC: 4 câu hỏi
+ Khác: 2 câu hỏi
Tổng hợp kết quả thu thập từ việc gửi Phiếu khảo sát được trình bày từ Phụ
lục số 10 đến Phụ lục số 13.
Qua phiếu khảo sát qua phiếu của các đối tượng được khảo sát, tác giả tổng
hợp theo các vấn đề như sau:
- Về căn cứ pháp lý như các hướng dẫn kế toán quy định tại CMKT và chế độ kế
toán về việc sử dụng GTHL và các hướng dẫn về phương pháp xác định GTHL
Công ty Chứng khoán niêm yết: 100% các ý kiến trả lời chưa đầy đủ
Kiểm toán viên và thẩm định giá: 95% trả lời chưa đầy đủ
Nhà đầu tư: 100% các ý kiến trả lời chưa đầy đủ
107
Nhà nghiên cứu, giảng viên: 100% các ý kiến trả lời chưa đầy đủ
- Về yếu tố, thông tin đầu vào, thông tin giá cả trên thị trường để xác định GTHL
Công ty Chứng khoán niêm yết: 100% các ý kiến trả lời chưa đầy đủ và chưa
minh bạch
Kiểm toán viên và thẩm đính giá: 32% cho rằng thông tin giá cả chưa minh
bạch, 6% trả lời đã minh bạch, 2% có ý kiến khác
Nhà đầu tư: 100% các ý kiến trả lời chưa đầy đủ
Nhà nghiên cứu, giảng viên: 20% cho rằng giá cổ phiếu niêm yết trên sàn giao dịch
chứng khoán là minh bạch còn nhiều ý kiến (80%) cho rằng thông tin giá cả trên thị
trường chưa minh bạch.
- Phương pháp xác định GTHL
Công ty Chứng khoán niêm yết: 100% trả lời sử dụng phương pháp tiếp cận thị
trường đối với các công cụ tài chính. Còn các tài sản khác thì không có câu trả lời
- Về việc sự cần thiết áp dụng GTHL trong kế toán
Kiểm toán viên và thẩm định giá: 95% trả lời cần thiết
Nhà đầu tư: 100% trả lời là rất cần
Nhà nghiên cứu, giảng viên: 100% trả lời là rất cần
- Chất lượng thẩm định giá như thế nào? có sử dụng dịch vụ định giá không?
Công ty Chứng khoán niêm yết: 89% trả lời có sử dụng dịch vụ định giá tài sản,
11% trả lời DN tự xác định.
Kiểm toán viên và thẩm định giá: 65% trả lời chưa đáp ứng nhu cầu, 20% trả lời
chỉ đáp ứng được 1 phần
- Việc ghi nhận và trình bày thông tin trên BCTC liên quan đến giá trị hợp lý đã
đúng và đủ chưa
Công ty Chứng khoán niêm yết: 72% trả lời chưa đủ
Kiểm toán viên và thẩm định giá: 75% trả lời chưa đúng
Nhà nghiên cứu, giảng viên: 87% trả lời chênh lệch đánh giá được phản ánh trên
BCTC
108
(2) Về phỏng vấn sâu các kế toán trưởng, kiểm toán viên và thẩm định viên
về giá: NCS đã phỏng vấn sâu một số nội dung lien quan đến xác định giá và ghi
nhận giá của các khoản mục trên BCTC (Phụ lục 14 – Hộp thống tin phỏng vấn).
(3) Về khảo sát BCTC năm 2016 và năm 2017 của SSI, BSC và FTS: Mặc
dù trong Thông tư 210 hiệu lực áp dụng từ 1/1/2016 đã có quy định về việc ghi
nhận và trình bày BCTC theo GTHL tuy nhiên BCTC năm 2016 của tất cả các
CTCK niêm yết vẫn áp dụng theo giá gốc. Lý do: Luật Kế toán số 88/2015/QH13
mới có quy định về GTHL nhưng hiệu lực của Luật áp dụng từ 1/1/2017. Năm
2017, các CTCK niêm yết bắt đầu áp dụng GTHL. BCTC năm 2017 của CTCK SSI
được trích dẫn tại (Phụ lục số 15).
2.2.2 Thực trạng lập và trình bày các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính theo giá
trị hợp lý tại các công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam
Thứ nhất, các công việc trước khi lập BCTC tại các CTCK niêm yết
Trước khi lập BCTC, kế toán tiến hành thực hiện bút toán cuối kỳ, kết
chuyển và khóa sổ kế toán để xác định số dư của tài sản, nguồn vốn và xác định
được lãi lỗ. Kiểm tra, đối chiếu số liệu giữa các tài khoản, sổ kế toán liên quan,
giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, giữa sổ kế toán của CTCK với các đơn vị
có liên quan.
Kế toán thực hiện đối chiếu nợ phải trả và xác định chênh lệch nếu có.
Kế toán thực hiện các công tác kiểm kê tài sản, xử lý chênh lệch giữa kiểm
kê và sổ sách.
Xác định hàng tồn kho hư hỏng, giảm giá trị…để trích lập dự phòng giảm
giá hàng tồn kho.
Đối chiếu, xác nhận số dư ngân hàng, đối chiếu có thể gửi thư xác nhận hoặc
đối chiếu qua sổ phụ ngân hàng.
Trích trước các khoản chi phí phải trả.
Đánh giá chênh lệch tỷ giá các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ như tiền, công
nợ.
Kết chuyển kết quả kinh doanh, xác định kết quả kinh doanh trong kỳ.
Thứ hai, đo lường các chỉ tiêu trình bày trên BCTC theo GTHL tại các
CTCK niêm yết
109
Đối với nhóm chỉ tiêu Tài sản:
(1) Nhóm Tài sản tài chính:
- Tiền và các khoản tương đương tiền: ghi nhận theo giá gốc;
- Các tài sản tài chính ghi nhận thông qua lãi/lỗ.
Ở các CTCK niêm yết khi phân loại các tài sản tài chính vào nhóm tài sản tài
chính ghi nhận thông qua lãi/lỗ khi các tài sản được mua hoặc tạo ra chủ yếu cho
mục đích bán lại/ mua lại trong thời gian ngắn, có bằng chứng về việc kinh doanh
nhằm mục đích thu lợi ngắn hạn.
Tại thời điểm ghi nhận ban đầu, các tài sản tài chính thông qua lãi lỗ được
ghi nhận theo giá mua. Sau ghi nhận ban đầu, các tài sản này được ghi nhận theo
GTHL.
Phỏng vấn kế toán trưởng công ty chứng khoán (Phụ lục 14 – Hộp thông tin
1) thì việc xác định GTHL của tài sản tài chính tại các CTCK như sau:
+ Giá trị thị trường của chứng khoán niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán Hà Nội và sở giao dịch chứng khoán TP. HCM là giá đóng cửa tại ngày gần
nhất có giao dịch tính đến ngày đánh giá giá trị chứng khoán.
+ Đối với các chứng khoán của các công ty chưa niêm yết trên TTCK nhưng
đã đăng ký giao dịch trên thị trường giao dịch của các công ty đại chúng chưa niêm
yết (UPcom) thì giá thị trường được xác định là giá đóng cửa bình quân tại ngày
gần nhất có giao dịch tính đến ngày đánh giá giá trị chứng khoán.
+ Đối với chứng khoán niêm yết bị hủy hoặc bị đình chỉ giao dịch hoặc bị
ngừng giao dịch kể từ ngày giao dịch thứ sáu trở đi, giá chứng khoán thực tế là giá
trị sổ sách tại ngày lập báo cáo tình hình tài chính gần nhất.
+ Đối với chứng khoán chưa niêm yết và chưa đăng ký giao dịch trên thị
trường giao dịch của các công ty đại chúng chưa niêm yết (Upcom) thì giá chứng
khoán thực tế là mức giá giao dịch thực tế trên thị trường phi tập trung (OTC) tại
thời điểm gần nhất với thời điểm đánh giá giá trị chứng khoán.
+ Các chứng khoán không có giá tham khảo từ các nguồn trên sẽ được đánh
giá GTHL dựa trên việc xem xét tình hình tài chính và giá trị sổ sách của tổ chức
phát hành tại ngày đánh giá giá trị chứng khoán.
110
Trường hợp không có giá thị trường tại ngày giao dịch gần nhất, hoặc giá thị
trường có nhiều biến động thì CTCK sử dụng GTHL để đánh giá lại các tài sản tài
chính.
- Các khoản đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn
Các CTCK niêm yết thực hiện phân loại các tài sản tài chính vào nhóm này
đối với các khoản thanh toán cố định hoặc có thể xác định được, có kỳ đáo hạn cố
định mà CTCK có dự định tích cực và có khả năng giữ đến ngày đáo hạn gồm các
cổ phiếu, trái phiếu, công cụ thị trường tiền tệ. Các CTCK ghi nhận theo giá gốc
không phản ánh theo GTHL.
Tại ngày lập BCTC CTCK đánh giá các tài sản tài chính nắm giữ đến ngày
đáo hạn xem có bất kỳ bằng chứng khách quan nếu có sự giảm giá trị của một hoặc
một nhóm các tài sản tài chính giữ đến ngày đáo hạn. Nếu có bằng chứng về giảm
giá trị thì CTCK sẽ phải xác định giá trị của bất kỳ khoản lỗ do suy giảm giá trị và
ghi nhận lỗ suy giảm giá trị vào Báo cáo thu nhập toàn diện - Phần Lãi/lỗ.
- Các khoản cho vay
Các CTCK niêm yết thực hiện phân loại các khoản cho vay vào nhóm tài sản
tài chính đối với các khoản thanh toán cố định hoặc có thể xác định và không được
niêm yết trên TTCK. CTCK niêm yết cho khách hàng vay tiền để mua chứng khoán
theo quy định và giao dịch ký quỹ chứng khoán theo hợp đồng magin hoặc hợp
đồng ứng trước tiền bán chứng khoán của khách hàng. Qua phỏng vấn 3 kế toán
trưởng của 3 CTCK và 2 kiểm toán viên công ty kiểm toán E&Y thì do các khoản
cho vay là ngắn hạn tối đa là 3 tháng nên sau ghi nhận ban đầu, các công ty không
xác định giá trị của các khoản cho vay theo giá trị phân bổ sử dụng phương pháp lãi
suất thực như quy định của Thông tư 210 mà vẫn ghi nhận theo giá ghi sổ. Công ty
kiểm toán có chạy dòng tiền theo lãi suất IRR và xác nhận chênh lệch không đáng
kể nên không yêu cầu công ty điều chỉnh số.
Tại ngày lập BCTC CTCK đánh giá lại xem có bất kỳ bằng chứng khách
quan nếu có sự giảm giá trị của một hoặc một nhóm các tài sản tài chính cho vay.
Nếu có bằng chứng về giảm giá trị thì CTCK sẽ phải xác định giá trị của bất kỳ
khoản lỗ do suy giảm giá trị và ghi nhận lỗ suy giảm giá trị vào Báo cáo thu nhập
toàn diện - Phần Lãi/lỗ.
111
- Tài sản tài chính sẵn sàng để bán
Các CTCK niêm yết thực hiện phân loại các khoản tài sản tài chính vào
nhóm tài sản tài chính sẵn sàng để bán đối với những tài sản tài chính được đầu tư
nhưng không có mục tiêu đầu tư ngắn hạn và mục tiêu dài hạn cũng chưa xác định
được cụ thể. Công ty ghi nhận các tài sản sẵn sàng để bán theo GTHL. Việc xác
định GTHL của tài sản sẵn sàng để bán tương tự như tài sản tài chính ghi nhận
thông qua lãi/lỗ.
Cuối kỳ kế toán phải đánh giá lại giá trị tài sản tài chính sẵn sàng để bán
theo giá thị trường hoặc GTHL. Chênh lệch tăng hoặc giảm do đánh giá lại tài sản
tài chính sẵn sàng để bán được ghi nhận và trình bày trên Báo cáo thu nhập toàn
diện - Phần Thu nhập toàn diện khác.
- Các khoản đầu tư vào công cụ vốn không có giá niêm yết trên thị trường
hoạt động và các khoản đầu tư mà giá trị của nó không thể xác định một cách đáng
tin cậy, những công cụ này sẽ được phản ánh theo giá gốc.
- Các khoản phải thu: Cuối năm các CTCK đánh giá các khoản phải thu, xác
định khả năng thu hồi. CTCK trích lập dự phòng đối với phần đánh giá bị tổn thất
khó có khả năng thu hồi theo quy định của pháp luật hiện hành và Điều lệ CTCK.
(2) Nhóm tài sản phi tài chính
Qua phỏng vấn thẩm định viên về giá (Phụ lục 14 – Hộp thông tin 2), CTCK
đo lường và ghi nhận các chỉ tiêu Hàng tồn kho, TSCĐ theo giá gốc.
CTCK chưa thực hiện yêu cầu đánh giá lại theo GTHL tại thời điểm lập
BCTC đối với TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, bất động sản đầu tư phải đánh giá
theo GTHL. Các chỉ tiêu này chưa phản ánh giá trị đánh giá lại và suy giảm giá trị
của các loại TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, bất động sản đầu tư của DN tại thời
điểm báo cáo trên cơ sở mô hình định giá tài sản do các tổ chức thẩm định giá tài
sản xác định.
(3) Nhóm chỉ tiêu Nợ Phải trả
Qua phỏng vấn kiểm toán viên (Phụ lục 14 – Hộp thông tin 3): Đối với Nợ
phải trả thì CTCK đo lường và ghi nhận theo giá gốc.
(4) Nhóm chỉ tiêu vốn chủ sở hữu:
112
Qua phỏng vấn kiểm toán viên (Phụ lục 14 – Hộp thông tin 3): CTCK đo
lường và ghi nhận theo giá gốc.
Thứ ba, ghi nhận chênh lệch đánh giá lại các chỉ tiêu trên BCTC sau khi
xác định theo GTHL tại các CTCK niêm yết
Luận án hệ thống hóa các kết quả khảo sát trên các chỉ tiêu chính trên BCTC
có liên quan đến GTHL và phỏng vấn các kiểm toán viên (Phụ lục 14 – Hộp thông
tin 4) như sau:
* Các chỉ tiêu về tài sản
- Các tài sản tài chính ghi nhận thông qua lãi/lỗ:
Trên Báo cáo tình hình tài chính, chỉ tiêu này được ghi nhận và trình bày
theo GTHL xác định tại ngày lập báo cáo.Trên báo cáo kết quả hoạt động, chỉ tiêu
doanh thu hoạt động ghi nhận chênh lệch tăng về đánh giá lại các tài sản tài chính
thông qua lãi lỗ, chỉ tiêu chi phí hoạt động ghi nhận chênh lệch giảm về đánh giá lại
các tài sản tài chính thông qua lãi lỗ. Trên Thuyết minh BCTC thuyết minh GTHL
cụ thể của từng tài sản tài chính ghi nhận thông qua lãi lỗ.
- Các tài sản tài chính nắm giữ đến ngày đáo hạn
Sau ghi nhận ban đầu các tài sản tài chính nắm giữ đến ngày đáo hạn chưa
được xác định theo chi phí phân bổ sử dụng phương pháp lãi suất thực.
- Tài sản tài chính sẵn sàng để bán:
Mọi khoản lãi hoặc lỗ phát sinh từ một tài sản tài chính sẵn sàng để bán khi
đánh giá theo GTHL sẽ được ghi nhận trực tiếp vào vốn chủ sở hữu (Thu nhập toàn
diện khác), thông qua việc ghi nhận trên Báo cáo biến động vốn chủ sở hữu, ngoại
trừ các khoản lỗ do suy giảm giá trị tài sản tài chính sẵn sàng để bán, việc ghi nhận
như vậy sẽ tiếp tục cho đến khi tài sản tài chính được dừng ghi nhận. Lỗ suy giảm
giá trị của nhóm tài sản tài chính sẵn sàng để bán đã được ghi nhận trực tiếp vào
vốn chủ sở hữu trước đây (Nếu có), khi có bằng chứng khách quan cho thấy tài sản
tài chính sẵn sàng để bán bị suy giảm giá trị thì lỗ lũy kế đã được ghi nhận trực tiếp
vào vốn chủ sở hữu sẽ được chuyển sang ghi nhận vào lãi/lỗ như là 1 bút toán điều
chỉnh do phân loại lại mặc dù tài sản đó chưa bị dừng ghi nhận.
Trên Báo cáo tình hình tài chính, chỉ tiêu này được ghi nhận và trình bày
theo GTHL xác định tại ngày lập báo cáo.Trên báo cáo kết quả hoạt động lãi lỗ, ghi
113
nhận lãi hoặc lỗ do đánh giá lại các tài sản tài chính.Trên Thuyết minh BCTC
thuyết minh GTHL cụ thể của từng tài sản tài chính sẵn sàng để bán.
- TSCĐ hữu hình: Khi giá trị TSCĐHH bị suy giảm so với giá trị thị trường,
CTCK chưa xác định giá trị suy giảm giá trị TSCĐHH và ghi nhận giá trị suy giảm
của TSCĐHH để ghi nhận tăng, giảm vào Tài khoản Chênh lệch đánh giá lại theo
GTHL. Thực tế các CTCK ghi nhận trên BCTC theo giá gốc.
- TSCĐ vô hình: Khi giá trị TSCĐ vô hình bị suy giảm so với giá trị thị
trường, CTCK chưa xác định giá trị suy giảm giá trị TSCĐ và ghi nhận giá trị suy
giảm của TSCĐ vô hình để ghi nhận tăng, giảm vào Tài khoản Chênh lệch đánh giá
lại theo GTHL. Các CTCK ghi nhận trên BCTC theo giá gốc mà không phản ánh
giá trị bị suy giảm.
Căn cứ kết quả phiếu khảo sát, luận án tổng hợp qua biểu đồ sau:
* Lập và trình bày các chỉ tiêu tài sản
Biểu đồ 2.8 - Việc ghi nhận và trình bày các chỉ tiêu tài sản có liên quan đến
GTHL trên BCTC
Đơn vị: %
(Nguồn: tổng hợp từ phiếu khảo sát )
Hầu hết các CTCK (80%) đã ghi nhận và trình bày theo GTHL đối với Tài
sản tài chính là các cổ phiếu niêm yết. Các CTCK (90%) không xác định được
GTHL của các tài sản tài chính chưa niêm yết do thiếu thông tin hoặc thông tin
114
chưa đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy. Các tài sản phi tài chính không được
ghi nhận và trình bày trên BCTC theo giá GTHL.
- Trên Thuyết minh BCTC, Danh mục các Tài sản tài chính cho mục đích
kinh doanh (mục 7.1), danh mục các tài sản tài chính sẵn sáng để bán (Mục 7.2), có
trình bày theo GTHL (không theo giá gốc) là các cổ phiếu niêm yết (Liệt kê các mã
cổ phiếu niêm yết). Giá trị thị trường của chứng khoán niêm yết trên SGD Chứng
khoán Hà Nội và Sở GD CK TP. HCM là giá đóng cửa tại ngày gần nhất có giao
dịch tính đến ngày đánh giá giá trị chứng khoán.
- Cổ phiếu chưa niêm yết, các khoản đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn (mục
7.3) phản ánh trái phiếu và tiền gửi theo giá gốc.
Các chứng khoán không có giá tham khảo thì được ghi nhận theo giá trị sổ
sách của tổ chức phát hành tại ngày đánh giá chứng khoán.
- TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình phản ánh theo giá gốc không theo giá đánh
giá lại.
Qua phỏng vấn các kiển toán viên đã tiến hành kiểm toán BCTC của CTCK
niêm yết (Phụ lục 14 – Hộp thông tin 4) thì chỉ có các tài sản tài chính được lập và
trình bày trên BCTC còn lại các chỉ tiêu khác được ghi nhận theo giá gốc.
* Các chỉ tiêu nợ phải trả
- Nợ phải trả tài chính theo GTHL thông qua lãi lỗ:
Nợ phải trả tài chính được chỉ định ghi nhận ban đầu theo GTHL thông qua
lãi lỗ ngoại trừ các khoản nợ được chỉ định cho mục đích phòng ngừa rủi ro. Đối
với nợ phải trả tài chính này nếu thay đổi GTHL của nợ tài chính là do thay đổi rủi
ro tín dụng thì sẽ được ghi nhận vào thu nhập toàn diện khác (OCI) trừ khi cho mục
đích tránh sự không nhất quán hoặc trong trường hợp cam kết cho vay và hợp đồng
đảm bảo tài chính thì trong các trường hợp đó thay đổi GTHL được ghi nhận vào
lãi lỗ. Tuy nhiên thực tế, các CTCK chưa phản ánh thay đổi GTHL mà chỉ phản
ánh theo giá gốc. Căn cứ kết quả phiếu khảo sát, luận án tổng hợp qua biểu đồ sau:
115
Biểu đồ 2.9 Việc ghi nhận và trình bày các chỉ tiêu Nợ phải trả
có liên quan đến GTHL trên BCTC
Đơn vị: %
(Nguồn: tổng hợp từ phiếu khảo sát )
- Kết quả khảo sát 22 CTCK niêm yết, Hầu hết phiếu khảo sát đều trả lời
chưa áp dụng GTHL đối với nợ phải trả. Qua phỏng vấn các kiểm toán viên thì các
công ty này chưa áp dụng GTHL đối với nợ phải trả (Phụ lục 14 – Hộp thông tin 3).
- Qua khảo sát BCTC của công ty SSI, BSC, FTS thì các công ty này ghi
nhận và trình bày các chỉ tiêu nợ phải trả theo giá gốc, chưa thực hiện đánh giá nợ
phải trả theo GTHL.
* Các chỉ tiêu vốn chủ sở hữu
- Tương tự như nợ phải trả, qua phát phiếu khảo sát, phỏng vấn sâu và khảo
sát BCTC của công ty SSI, BSC, FTS thì các chỉ tiêu vốn chủ sở hữu trên Báo cáo
tình hình tài chính được ghi nhận theo giá gốc.
* Lập và trình bày các chỉ tiêu Doanh thu
Phần lãi: Phản ánh chênh lệch tăng về đánh giá lại các tài sản tài chính cho
mục đích kinh doanh và sẵn sàng để bán trong đó có chi tiết theo từng mã chứng
khoán.
116
Biểu đồ 2.10 Việc ghi nhận và trình bày các chỉ tiêu doanh thu
liên quan đến GTHL trên BCTC
Đơn vị: %
(Nguồn:
tổng hợp từ phiếu khảo sát )
Hầu hết các CTCK (90%) đã ghi nhận và trình bày trên chỉ tiêu doanh thu
đối với phần lãi do chênh lệch tăng GTHL đối với Tài sản tài chính là các cổ phiếu
niêm yết. Các CTCK chưa xác định và ghi nhận doanh thu liên quan đến GTHL
của các tài sản chưa niêm yết, tài sản phi tài chính và nợ phải trả do thiếu thông tin
hoặc thông tin chưa đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy.
* Lập và trình bày các chỉ tiêu Chi phí
Phần lỗ phản ánh chênh lệch giảm về đánh giá lại các tài sản tài chính cho
mục đích kinh doanh và sẵn sàng để bán trong đó có chi tiết theo từng mã chứng
khoán.
117
Biểu đồ 2.11 Việc ghi nhận và trình bày các chỉ tiêu chi phí
liên quan đến GTHL trên BCTC
Đơn vị: %
(Nguồn: tổng hợp từ phiếu khảo sát )
Hầu hết các CTCK (90%) đã ghi nhận và trình bày trên chỉ tiêu chi phí đối
với phần lỗ do chênh lệch giảm GTHL đối với Tài sản tài chính là các cổ phiếu
niêm yết. Các CTCK chưa xác định và ghi nhận chi phí liên quan đến GTHL của
các tài sản chưa niêm yết, tài sản phi tài chính và nợ phải trả do thiếu thông tin
hoặc thông tin chưa đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy.
* Phần Thu nhập toàn diện khác trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
phản ánh lãi/lỗ từ đánh giá lại các tài sản sẵn sàng để bán.
- Chênh lệch đánh giá tài sản theo GTHL trình bày trên Báo cáo tình hình tài
chính. Chỉ tiêu này phản ánh chênh lệch do đánh giá lại tài sản chưa được xử lý
theo GTHL tại thời điểm báo cáo.
- Lãi/Lỗ từ đánh giá lại tài sản tài chính sẵn sàng để bán: phản ánh số chênh
lệch lãi (lỗ) từ đánh giá lại tài sản tài chính sẵn sàng để bán trong kỳ của CTCK. Số
liệu để ghi vào chỉ tiêu này là số dư chi tiết của Tài khoản Chênh lệch đánh giá lại
tài sản theo GTHL liên quan đến chỉ tiêu này. Chỉ tiêu này được trình bày trên Báo
cáo kết quả hoạt động phần 2- Thu nhập (lỗ) toàn diện khác.
- Lãi/lỗ đánh giá lại TSCĐ theo mô hình GTHL: phản ánh số lãi (lỗ) từ việc
đánh giá lại TSCĐ theo mô hình GTHL phát sinh trong kỳ của CTCK. Số liệu để
118
ghi vào chỉ tiêu này là số dư TK Chênh lệch đánh giá lại tài sản theo GTHL. Chỉ
tiêu này được trình bày trên Báo cáo kết quả hoạt động phần 2- Thu nhập (lỗ) toàn
diện khác.
* Luận án đã tổng hợp các thông tin thu nhận được qua khảo sát thực tế,
phỏng vấn trực tiếp các kế toán trưởng và có một số nhận xét như sau:
- Các CTCK bắt đầu áp dụng GTHL từ 1/1/ 2017 (là thời điểm hiệu lực của
Luật kế toán số 88).
- GTHL chủ yếu áp dụng cho các tài sản tài chính niêm yết trên TTCK.
- Các BCTC chỉ đề cập đến một số tài sản tài chính mà chưa đề cập đến tài
sản phi tài chính, nợ phải trả tài chính, vốn chủ sở hữu.
- Các công ty đều tham khảo giá cổ phiếu niêm yết trên TTCK.
2.3 Đánh giá thực trạng
2.3.1 Đánh giá thực trạng việc lập và trình bày báo cáo tài chính của công ty chứng khoán niêm yết
a. Ưu điểm:
- Về cơ sở pháp lý: Bộ Tài chính đã ban hành được chế độ kế toán áp dụng
cho CTCK ban hành theo Thông tư 210/2014/TT-BTC và Thông tư 334/2016/TT-
BTC sửa đổi Thông tư 210/2014/TT-BTC. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên có
hướng dẫn về việc ghi nhận và trình bày BCTC theo GTHL theo đó, các khoản trên
BCTC được đo lường, được ghi nhận và trình bày theo trị hợp lý thay vì theo giá
gốc như trước đây đáp ứng một phần phản ánh giá trị của các khoản mục trên
BCTC theo giá thị trường. Việc trình bày BCTC theo GTHL góp phần cung cấp
các thông tin tàu chính hữu ích cho các nhà đầu tư. Báo cáo tình hình tài chính đã
bước đầu thiết kế các chỉ tiêu phản ánh các chỉ tiêu theo giá trị hợp lý.
CTCK niêm yết là những DN ở Việt Nam đầu tiên áp dụng GTHL để đo
lường, ghi nhận và trình bày BCTC đối với một số khoản mục liên quan đến tài sản
tài chính. CTCK niêm yết có danh mục đầu tư phần lớn là các tài sản tài chính niêm
yết trên TTCK nên dễ dàng tiếp cận giá trị thị trường trên TTCK. Do đó CTCK
thuận lợi hơn so với các DN khác khi vận dụng GTHL để trình bày BCTC.
- Về thực trạng lập và trình bày BCTC tại các CTCK niêm yết của Việt Nam
+ Về đo lường các chỉ tiêu trình bày trên BCTC
119
Khi thực hiện đánh giá lại các tài sản tài chính, các CTCK niêm yết đã chỉ rõ
cơ sở tham chiếu giá để đánh giá các tài sản tài chính của CTCK cụ thể như sau:
Giá trị thị trường của chứng khoán niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Hà nội
và Sở giao dịch chứng khoán TP. HCM là giá đóng cửa tại ngày gần nhất có giao
dịch tính đến ngày đánh giá giá trị chứng khoán. Đố với các chứng khoán của các
công ty chưa niêm yết trên TTCK nhưng đã đăng ký giao dịch trên thị trường giao
dịch của các công ty đạt chúng chưa niêm yết (UPCOM) thì giá trị thị trường được
xác định là giá đóng cửa bình quân tại ngày gần nhất có giao dịch tính đến ngày
đánh giá giá trị chứng khoán. Đối với chứng khoán niêm yết bị hủy hoặc bị đình
chỉ giao dịch hoặc bị ngừng giao dịch kể từ ngày giao dịch thứ sáu trở đi, giá chứng
khoán thực tế là giá trị sổ sách tại ngày lập báo cáo tình hình tài chính gần nhất.
Đối với chứng khoán chưa niêm yết và chưa đăng ký giao dịch trên thị trường giao
dịch của các công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCOM) thì giá chứng khoán thực
tế là mức giá của giao dịch thực tế trên thị trường phi tập trung (OTC) tại thời điểm
gần nhất với thời điểm đánh giá giá trị chứng khoán. Các chứng khoán không có
giá tham khảo từ các nguồn trên sẽ được đánh giá GTHL dựa trên việc xem xét tình
hình tài chính và giá trị sổ sách của tổ chức phát hành tại ngày đánh giá giá trị
chứng khoán.
+ Về ghi nhận và trình bày các chỉ tiêu trên BCTC
Căn cứ kết quả đánh giá lại các tài sản tài chính, các CTCK niêm yết đã ghi
nhận các chênh lệch do biến động giá trị của các tài sản tài chính đó và được trình
bày trên các chỉ tiêu trên Báo cáo tình hình tài chính, cung câp thông tin tài chính
hữu ích cho người đọc BCTC.
b. Những tồn tại:
Thứ nhất, tồn tại về khung pháp lý có liên quan đến GTHL:
- Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam còn thiếu các chuẩn mực kế toán
liên quan đến giá trị hợp lý. Hệ thống 26 chuẩn mực kế toán hiện hành còn thiếu
các nội dung liên quan đến giá trị hợp lý.
- Việc hướng dẫn áp dụng GTHL áp dụng cho các CTCK tại Việt Nam hiện
nay được quy định trong Thông tư 334/2016/TT-BTC (TT 334), tuy nhiên hướng
dẫn này chưa đầy đủ cho các CTCK để có thể áp dụng được GTHL, đảm bảo phù
120
hợp với thông lệ chung của quốc tế.
- Thiếu cơ sở xác định GTHL: Hiện nay, Việt Nam chưa có văn bản quy
định cụ thể về việc đo lường, ghi nhận và đánh giá lại các tài sản, nợ phải trả và
vốn chủ sở hữu theo GTHL. Theo đó chưa có cơ sở xác định GTHL của các đối
tượng kế toán này, đặc biệt khi không có giá thị trường thì phải xác định GTHL
theo cấp độ 2- theo giá tài sản tương tự và cấp độ 3 - tự xây dựng các mô hình để
xác định GTHL.
Thứ hai, tồn tại trong khâu lập các chỉ tiêu trên BCTC theo GTHL tại các
CTCK niêm yết của Việt Nam
(1) Tồn tại về sử dụng cơ sở đo lường các chỉ tiêu trình bày trên BCTC
theo GTHL tại các CTCK niêm yết
- Đối với các tài sản tài chính:
Các CTCK niêm yết chưa xác định được GTHL của các chứng khoán chưa
niêm yết do không có cơ sở xác định GTHL và thông tin chưa minh bạch.
- Đối với các tài sản phi tài chính:
TSCĐ hữu hình, vô hình... các CTCK niêm yết chưa đánh giá lại theo giá trị
đánh giá lại và không ghi nhận lỗ tổn thất. Việc kế toán TSCĐHH tại các CTCK
niêm yết hiện nay vẫn thực hiện thống nhất theo mô hình giá gốc và chưa thực hiện
kiểm tra và ghi nhận giảm giá trị tài sản.
- Đối với các khoản nợ và vốn chủ sở hữu:
Các CTCK niêm yết chưa xác định được GTHL đối với các khoản nợ phải
trả và vốn chủ sở hữu do không có cơ sở xác định GTHL và thông tin chưa minh
bạch.
(2) Tồn tại về ghi nhận chênh lệch đánh giá lại các chỉ tiêu trên BCTC sau
khi xác định theo GTHL tại các CTCK niêm yết
Các CTCK niêm yết chưa ghi nhận GTHL đối với tài sản tài chính chưa
niêm yết, các tài sản phi tài chính như TSCĐ hữu hình, vô hình... và chưa đánh giá
lại theo giá trị đánh giá lại và không ghi nhận lỗ tổn thất đối với các tài sản phi tài
chính.
Các CTCK niêm yết cũng chưa ghi nhận GTHL đối với các khoản nợ và vốn
chủ sở hữu.
121
Thứ ba, tồn tại trong trình bày các chỉ tiêu trên BCTC theo GTHL tại các
CTCK niêm yết của Việt Nam
Do các CTCK niêm yết chưa xác định được GTHL của các chứng khoán
chưa niêm yết, cũng chưa đánh giá lại các tài sản phi tài chính theo GTHL tại ngày
báo cáo, các khoản nợ tài chính chưa được ghi nhận và trình bày theo GTHL.
- Mẫu biểu báo cáo tài chính quy định tại chuẩn mực kế toán và Thông tư
hướng dẫn của Bộ tài chính chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Mẫu Bảng cân đối
kế toán, mẫu Báo cáo kết quả kinh doanh, Thuyết minh báo cáo tài chính còn nhiều
chỉ tiêu không phù hơp với thông lệ quốc tế.
2.3.2 Nguyên nhân của những tồn tại
(i) Nguyên nhân khách quan
- Việt Nam chưa có thị trường hoạt động của những tài sản tài chính chưa
niêm yết và tài sản phi tài chính để làm cơ sở cho CTCK tham chiếu để ghi nhận và
trình bày trên BCTC.
- Việt Nam chưa ban hành chuẩn mực “GTHL”, “Công cụ tài chính”, “Tổn
thất tài sản” và chưa có các hướng dẫn về xác định GTHL cho các khoản mục trên
BCTC nên kế toán chưa có căn cứ pháp lý để thực hiện.
- Do IFRS yêu cầu một số kỹ thuật cao, như việc thực hiện các ước tính về
GTHL, giá trị có thể thu hồi, tổn thất tài sản, xác định giá trị hiện tại của dòng tiền
tương lai… nên về cơ bản việc áp dụng GTHL chỉ phù hợp với những DN có quy
mô lớn, công tác kế toán được thực hiện bài bản, nề nếp. Thông thường các quốc
gia trên thế giới thường chỉ bắt buộc các đơn vị có lợi ích công chúng còn các DN
khác chỉ khuyến khích.
- Việt Nam chưa có tổ chức xác thực tính minh bạch của giá cả trên thị
trường nên việc xác định GTHL rất khó khăn.
- Do yêu cầu từ phía các nhà đầu tư cũng chưa đủ mạnh đối với việc yêu cầu
các DN về việc trình bày thông tin tài chính theo giá thị trường tại thời điểm lập
BCTC.
(ii) Nguyên nhân chủ quan
- Các CTCK niêm yết chưa có đội ngũ cán bộ có nghiệp vụ chuyên nghiệp
có thể tự xác định được GTHL một cách đáng tin cậy để định giá tài sản và đội ngũ
122
cán bộ kế toán được đào tạo bài bản về GTHL nên rất khó khăn khi triển khai áp
dụng GTHL. Nên khi không có giá niêm yết trên thị trường như các khoản đầu tư
chưa niêm yết là không xác định được GTHL.
- Ban lãnh đạo CTCK niêm yết chưa đầu tư cơ sở hạ tầng về xây dựng cơ sở
dữ liệu, phần mềm… để xác định GTHL một cách hợp lý.
2.4 Những yếu tố ảnh hƣởng đến việc vận dụng giá trị hợp lý khi lập và
trình bày Báo cáo tài chính cho công ty chứng khoán tại Việt Nam
2.4.1. Về yếu tố thị trường hoạt động
Xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam là một nước đang phát triển, nền
kinh tế chưa hội nhập một cách sâu rộng với nền kinh tế thế giới nên các hoạt động
và giao dịch kinh tế ở Việt Nam đơn giản hơn so với các quốc gia phát triển khác.
CMKT quốc tế/chuẩn mực BCTC quốc tế chủ yếu được xây dựng để áp dụng cho
các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển. Do đó, trong giai đoạn đầu, việc
áp dụng một số IAS/IFRS vào Việt Nam có thể thuận lợi nhưng một số chuẩn mực
cũng có thể chưa phù hợp nếu áp dụng ngay vào Việt Nam.
Hơn nữa, thị trường vốn của Việt Nam là một trong những thị trường non trẻ
nhất trên thế giới, mới được hình thành trong những năm gần đây. Đến nay, thị
trường vốn vẫn chưa thực sự đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, mới chỉ
trong phạm vi quốc gia và chưa liên thông với thị trường vốn quốc tế. Định hướng
của IAS/IFRS là xây dựng hệ thống CMKT hoàn toàn thị trường và hỗ trợ thị
trường vốn phát triển. Tuy nhiên, với đặc điểm và điều kiện kinh tế của Việt Nam,
định hướng phát triển hệ thống CMKT Việt Nam để phục vụ cho các nhà đầu tư
trên thị trường chưa được mạnh như IAS/IFRS. Do đó, nhu cầu của Việt Nam về
một hệ thống kế toán phức tạp và hợp lý như IAS/IFRS để phục vụ thị trường vốn
chưa được đánh giá cao.
Do đặc trưng của hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội, các nhà đầu tư, chủ sở
hữu DN cũng như các đối tượng có liên quan tại Việt Nam vẫn chưa có nhu cầu lớn
hoặc nhu cầu cấp bách về thông tin tài chính kế toán chất lượng cao của các DN
theo IAS/IFRS. Điều này chủ yếu do sự thiếu kiến thức và kinh nghiệm và cũng do
đặc điểm của môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Phần lớn các nhà đầu tư chứng
khoán ở Việt Nam chưa hoặc còn ít sử dụng phân tích BCTC cho việc ra quyết định
123
đầu tư mà bị tác động chủ yếu bởi tâm lý theo đám đông.
Về các điều kiện thị trường:
- Việt Nam hiện nay cũng là một trong rất nhiều quốc gia mà thị trường hoạt
động làm cơ sở xác định GTHL cho các tài sản và nợ phải trả của DN vẫn còn chưa
phát triển. Điều này dẫn đến nếu áp dụng GTHL thì giá trị tài sản/nợ phải trả được
ước tính sẽ trở thành một sự ước lượng thiếu cơ sở, do đó mục tiêu có được thông
tin đáng tin cậy sẽ không thể đạt được.
- Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường vốn đã tác động mạnh đến quá trình
hội nhập quốc tế về CMKT, đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin tài chính của các
đối tượng liên quan. Các hoạt động kinh tế trên thế giới hiện nay đều có những biến
chuyển mạnh mẽ, khiến cho nguyên tắc giá gốc nhiều khi không còn phù hợp. Sự
gia tăng mạnh của các công cụ tài chính, nhất là công cụ phái sinh, việc đầu tư
nhiều vào các lĩnh vực giá trị gia tăng, công nghệ thông tin thay đổi liên tục... khiến
cho giá gốc các tài sản, nợ phải trả... quá xa so với giá trị thực tế tại thời điểm xem
xét. Điều đó thúc đẩy việc ra đời và phát triển của các chuẩn mực BCTC quốc tế
hướng đến việc trình bày thông tin tài chính để đảm bảo lợi ích cao hơn của các đối
tượng sử dụng thông tin thay vì chủ yếu hướng đến việc xác định, ghi chép, tổng
hợp và trình bày thông tin tài chính cho người sử dụng trên cơ sở các yếu tố đầu
vào của thông tin tài chính mà chưa quan tâm nhiều đến người thụ hưởng thông tin
như hệ thống CMKT trước đây.
- Ảnh hưởng của thị trường tài chính: Thị trường tài chính nói chung và
TTCK nói riêng có ảnh hưởng lớn tới sản phẩm, dịch vụ, khả năng thu lợi nhuận
của CTCK. TTCK càng phát triển thì công cụ tài chính càng đa dạng, hàng hoá
dịch vụ phong phú, qua đó CTCK có thể mở rộng hoạt động thu nhiều lợi nhuận.
2.4.2 Yếu tố văn hóa
Văn hoá của Việt Nam thường là thận trọng, tránh rủi ro và sự không chắc
chắn. Khi áp dụng GTHL, sự không chắc chắn là rất cao bởi vì BCTC theo
IAS/IFRS sử dụng nhiều xét đoán và ước tính do GTHL được đề cập nhiều hơn.
2.4.3 Yếu tố nhân sự
Ở Việt Nam vẫn tồn tại một thế hệ kế toán và đội ngũ cán bộ quản lý trưởng
thành và được đào tạo trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Họ quá quen
124
thuộc với hệ thống kế toán cũ và chịu ảnh hưởng lớn vào những nguyên tắc và
hướng dẫn vốn rất thận trọng, bảo thủ và hạn chế nhiều tính chủ động trong việc
đưa ra các quyết định liên quan do đó họ sẽ gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận và áp
dụng GTHL. Khi áp dụng GTHL thì sự không chắc chắn là rất cao bởi nó sử dụng
nhiều ước tính kế toán và đòi hỏi sự linh hoạt cùng với những phán xét nghề nghiệp
cần thiết trong khi đó người làm kế toán Việt Nam lại bị ảnh hưởng bởi văn hóa
khuôn mẫu và luôn luôn hạn chế sự không chắc chắn và rủi ro. Từ thực tế này, kiến
thức và sự hiểu biết cơ bản về GTHL cần được phổ biến cho các nhà đầu tư, những
người lập BCTC, kiểm toán viên và các bên liên quan khác thông qua các cuộc hội
thảo, đào tạo tại các hội nghề nghiệp, công ty kiểm toán hoặc các trường đại học.
2.4.4. Về trình độ quản lý
- Về trình độ quản lý của Nhà nước:
Kiến thức và kinh nghiệm trong quản lý kinh tế thị trường của hầu hết các
CTCK ở Việt Nam còn rất hạn chế và chưa đáp ứng được các yêu cầu cao của
IAS/IFRS. Họ không có đủ khả năng để hiểu hết về IAS/IFRS. Đa số những nhà
lãnh đạo DN là những người không có hoặc ít có chuyên môn về lĩnh vực kế toán
nên họ thường ít quan tâm đến công tác kế toán của DN, chủ yếu là thực hiện công
tác kế toán để phục vụ cho việc xác định nghĩa vụ thuế của DN.
Ngoài chính sách thuế và CMKT, Việt Nam còn có cơ chế tài chính quy định
về một số nội dung quản lý tài chính cụ thể của các DN đặc biệt là các DN có vốn
của nhà nước. Các cơ chế tài chính này là những hướng dẫn chi tiết và cụ thể về
vấn đề quản lý tài chính của DN nhưng đôi khi lại bị mâu thuẫn với các CMKT dẫn
đến các DN có vốn nhà nước thường căn cứ vào các cơ chế tài chính này để làm cơ
sở hạch toán kế toán mà không dựa trên các CMKT. Điều này dẫn đến vai trò của
CMKT đối với các DN cũng bị ảnh hưởng.
- Về trình độ quản lý của DN:
Các nhà lãnh đạo DN chưa chú trọng đến công tác kế toán để phục vụ cho
mục đích quản trị của chính DN cũng như để thu hút vốn đầu tư trên thị trường.
Hơn nữa, cơ quan xây dựng và ban hành CMKT tại Việt Nam cũng đối mặt với
nhiều khó khăn để hiểu và áp dụng IAS/IFRS. Đây là yếu tố đóng vai trò trọng yếu
dẫn đến việc xem xét áp dụng toàn bộ IAS/IFRS ở Việt Nam.
125
2.4.5 Về khả năng áp dụng
Với vai trò là một công cụ quản lý kinh tế, kế toán ngày càng phải thay đổi
để đáp ứng nhu cầu phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế, sự vận hành của
thị trường vốn đặc biệt là những TTCK lớn. Do đó, các IAS cũng thường xuyên
nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thay đổi nhanh chóng của
nền kinh tế thế giới. Trong những năm gần đây và trong tương lai gần, các CMKT
quốc tế sẽ dần được thay thế bởi các chuẩn mực BCTC quốc tế. Theo đó, các xét
đoán và ước tính sẽ tăng lên, tài sản và công nợ của DN chủ yếu được xác định
theo GTHL để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư khi xu hướng mua bán, sáp
nhập DN diễn ra ngày càng nhiều và phổ biến trong thời gian gần đây. Hơn nữa,
khi áp dụng GTHL, các DN Việt Nam phải đầu tư nhiều về con người, hạ tầng…
tốn nhiều chi phí nên không sẵn sàng áp dụng GTHL.
2.4.6 Về sức ép của các tổ chức quốc tế
Ngân hàng thế giới (WB) và Qũy tiền tệ Quốc tế (IMF) đã tiến hàng lập Báo
cáo đánh giá tuân thủ các Chuẩn mực và Quy tắc (ROSC) về kế toán kiểm toán
năm 2016 (17) theo đó có các đánh giá về hệ thống BCTC của DN nói chung và
các DN niêm yết như sau:
Mặc dù Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể về khuôn khổ pháp lý đối
với BCTC của DN, tuy nhiên theo đánh giá chung, các BCTC được lập và trình bày
theo CMKT Việt Nam và chế độ kế toán Việt Nam nhưng chưa hoàn toàn đáp ứng
các yêu cầu của CMKT quốc tế.
Một số nguyên nhân chính là: quản trị công ty còn yếu, chưa có các quy định
đầy đủ theo thông lệ quốc tế, nhu cầu của hầu hết các cổ đông đối với các BCTC
còn thấp.
Khái niệm "GTHL" cũng như tầm quan trọng của nó chưa được phổ biến
một cách rộng rãi trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường.
Việc thiếu nhận thức về khái niệm "GTHL" cũng ảnh hưởng tới mối quan
tâm của các nhà đầu tư chiến lược vào Việt Nam.
Báo cáo ROSC khuyến nghị Việt Nam nên có quy định về đối tượng áp dụng
đầy đủ Chuẩn mực BCTC Quốc tế và các diễn giải IFRS đó là các đơn vị có lợi ích
126
công chúng. Các CMKT Việt Nam cần được quy định là khuôn khổ pháp lý chung
cao nhất cho việc lập BCTC cho mục đích chung của các đơn vị có lợi ích công
chúng.
Kết luận chƣơng 2
Chương II luận án đã trình bày khái quát chung về các CTCK niêm yết của
Việt Nam về quá trình hình thành, phát triển CTCK niêm yết của Việt Nam, về đặc
điểm kinh doanh của các CTCK chi phối đến việc lập và trình bày BCTC theo
GTHL. Luận án cũng khái quát về thực trạng vận dụng GTHL khi lập và trình bày
BCTC của các CTCK niêm yết của Việt Nam cả trên góc độ quy định hiện hành và
thực tiễn áp dụng dựa trên kết quả khảo sát điều tra.
Trong chương này, luận án cũng đã đánh giá thực trạng việc lập và trình bày
BCTC tại các CTCK niêm yết. Ngoài ra, chương này cũng phân tích những yếu tố
ảnh hưởng đến việc vận dụng GTHL khi lập và trình bày BCTC của CTCK ở Việt
Nam.
127
CHƢƠNG III
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN LẬP VÀ TRÌNH BÀY BÁO CÁO TÀI CHÍNH
CHO CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NIÊM YẾT CỦA VIỆT NAM
KHI VẬN DỤNG GIÁ TRỊ HỢP LÝ
3.1 Định hƣớng phát triển các công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam
3.1.1 Định hướng phát triển thị trường chứng khoán
Ngày 01 tháng 3 năm 2012, Thủ tướng Chính Phủ đã ký Quyết định số
252/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam giai đoạn 2011 –
2020 với những quan điểm như sau: [Quyết định số 252/QĐ-TTG]
Thứ nhất, xây dựng và phát triển TTCK phù hợp với điều kiện phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, hình thành một hệ thống TTCK đồng bộ và thống nhất
trong tổng thể thị trường tài chính Việt Nam.
Thứ hai, phát triển, mở rộng TTCK có tổ chức, thu hẹp thị trường tự do đồng
thời đặc biệt coi trọng vấn đề chất lượng và sự an toàn của thị trường, từng bước
tiếp cận với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Thứ ba, phát triển TTCK theo hướng gắn kết với việc cải cách, sắp xếp khu
vực DN nhà nước, tạo động lực cho các DN, các thành phần kinh tế cả về năng lực
tài chính và quản trị DN.
Thứ tư, Nhà nước thực hiện quản lý bằng công cụ pháp luật, có các chính sách
hỗ trợ, tạo điều kiện để TTCK phát triển ổn định, vững chắc; phát huy vai trò của
các tổ chức tự quản, hiệp hội nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và khuyến
khích các chủ thể tham gia TTCK.
3.1.2 Định hướng phát triển công ty chứng khoán
Theo Đề án “Tái cấu trúc TTCK và DN bảo hiểm” ban hành kèm theo Quyết
định số 1826/QĐ-TTg ngày 06 tháng 12 năm 2012, quan điểm phát triển các CTCK
Việt Nam được cụ thể như sau: [Quyết định 1826/QĐ-TTg]
Thứ nhất, nâng cao điều kiện thành lập tổ chức kinh doanh chứng khoán, hạn
chế việc thành lập mới, bảo đảm chỉ duy trì số lượng các tổ chức kinh doanh chứng
khoán phù hợp với nhu cầu của thị trường; khuyến khích các hoạt động chuyển
nhượng, các ngân hàng thương mại, DN bảo hiểm có tình hình tài chính lành mạnh
128
nắm giữ cổ phần chi phối, kiểm soát hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng
khoán, từng bước hình thành các tập đoàn tài chính đa năng theo thông lệ quốc tế;
Thứ hai, hoàn thiện mô hình tổ chức và củng cố hoạt động các tổ chức kinh
doanh chứng khoán theo thông lệ quốc tế:
Chuyên nghiệp hóa và hiện đại hóa dịch vụ chứng khoán theo thông lệ quốc
tế, tập trung vào ba lĩnh vực chính: (i) môi giới chứng khoán và các dịch vụ hỗ trợ
bao gồm tư vấn đầu tư, quản lý tài khoản, cho vay mua ký quỹ...; (ii) tư vấn tài
chính DN, bảo lãnh phát hành và các dịch vụ hỗ trợ bao gồm tự doanh, tạo lập thị
trường; (iii) quản lý tài sản và các dịch vụ hỗ trợ bao gồm tư vấn đầu tư, quản trị rủi
ro;
Xây dựng kế hoạch, chiến lược kinh doanh mới. Tập trung nâng cao chất
lượng dịch vụ chứng khoán, hạn chế các hoạt động tự doanh, tự đầu tư và cung cấp
các dịch vụ tài chính tiềm ẩn rủi ro; chuyển dịch mô hình kinh doanh theo hướng
giảm bớt sự phụ thuộc vào dòng vốn từ khu vực ngân hàng, chủ động thu hút các
nguồn vốn trung và dài hạn từ các nhà đầu tư khác ở trong và ngoài nước; tạo cơ
chế khuyến khích các tổ chức kinh doanh chứng khoán mở rộng địa bàn hoạt động,
cung cấp dịch vụ chứng khoán trong khu vực và trên các thị trường quốc tế;
Đổi mới và nâng cao hiệu quả, năng lực quản trị công ty, hệ thống kiểm soát,
kiểm toán nội bộ; cơ cấu, sắp xếp lại các bộ phận nghiệp vụ theo thông lệ quốc tế
nhằm ngăn ngừa xung đột lợi ích; quản lý tách biệt tài sản của khách hàng và tài
sản của công ty nhằm tránh hiện tượng lạm dụng tài sản khách hàng; tăng cường
tính minh bạch trong hoạt động quản lý, điều hành và tình hình tài chính của các tổ
chức kinh doanh chứng khoán;
Xây dựng và áp dụng các quy trình nội bộ, quy trình nghiệp vụ, chính sách và
quy trình về kiểm soát và quản trị rủi ro phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực
quốc tế, trong đó tập trung vào quản trị rủi ro thị trường, rủi ro thanh toán, rủi ro
nghiệp vụ; thực hiện việc phân loại nợ và tài sản, trích lập dự phòng đầy đủ theo
các mức độ rủi ro. Nâng cao năng lực đánh giá, định lượng, kiểm soát rủi ro theo
nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tế của thị trường;
129
Xây dựng và áp dụng bộ đạo đức nghề nghiệp theo thông lệ quốc tế, nâng cao
ý thức trách nhiệm của nhân viên hành nghề; tích cực đào tạo, nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ người hành nghề kinh doanh chứng khoán;
Giám sát hoạt động các tổ chức kinh doanh chứng khoán dựa trên rủi ro: (i)
ban hành quy định hướng dẫn hoạt động quản trị rủi ro tại các tổ chức này; (ii) ban
hành hệ thống thẻ điểm về mức độ rủi ro, đánh giá xếp hạng, phân loại các tổ chức
kinh doanh chứng khoán theo các tiêu chí về vốn, tài sản, quản trị DN, lợi nhuận,
khả năng thanh toán và rủi ro; (iii) từng bước triển khai cơ chế kiểm tra, giám sát
hoạt động dựa trên mức độ rủi ro;
Thứ ba, mở cửa thị trường dịch vụ chứng khoán theo cam kết quốc tế; khuyến
khích các tập đoàn tài chính, ngân hàng lớn, có uy tín tham gia hoạt động tái cấu
trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán; cho phép các tổ chức này mua để sở hữu
toàn bộ tổ chức kinh doanh chứng khoán theo cam kết WTO.
Theo đề án “Tái cấu trúc TTCK và DN bảo hiểm” ban hành kèm theo Quyết
định 1826/QĐ-TTg ngày 06 tháng 12 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ thì cơ
cấu lại hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán phù hợp với nhu cầu, đặc
điểm và quy mô phát triển của thị trường, củng cố hoạt động, nâng cao năng lực tài
chính, quản trị công ty, quản trị rủi ro tại các tổ chức này theo thông lệ quốc tế là
một trong những nội dung trọng tâm của Đề án. Theo đó, trong giai đoạn trước mắt
cần tập trung tái cơ cấu các tổ chức kinh doanh chứng khoán theo hướng:
- Điều chỉnh lại số lượng các CTCK theo hướng phù hợp với quy mô thị
trường, xử lý thanh lọc các CTCK yếu kém, hoạt động không hiệu quả.
- Củng cố, kiện toàn mô hình hoạt động của các CTCK theo hướng chuyên
nghiệp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực tài chính, quản trị DN và
khả năng kiểm soát rủi ro.
- Mở rộng thành phần tham gia góp vốn trong các CTCK trong đó có các ngân
hàng, tổng công ty, tập đoàn, vốn góp của Nhà nước theo hướng hiệu quả và phù
hợp với thông lệ quốc tế. Khuyến khích các CTCK chuyển đổi từ mô hình công ty
TNHH sang hoạt động theo mô hình CTCP để có khả năng huy động vốn rộng rãi
từ công chúng.
130
- Tăng cường khả năng, hiệu quả quản lý, giám sát đối với hoạt động của các
CTCK.
Tốc độ phát triển TTCK Việt Nam trong thời gian qua khá nhanh, tính thanh
khoản của thị trường ngày càng cao, hàng hóa đã có sự gia tăng về số lượng và chất
lượng. Sự phát triển của thị trường cơ sở sẽ tạo tiền đề để phát triển thị trường
chứng quyền có bảo đảm. Năng lực tài chính và quản trị rủi ro của các CTCK niêm
yết đóng vai trò là tổ chức phát hành chứng quyền có bảo đảm ngày càng được
củng cố. Trong hoạt động kinh doanh của mình, các CTCK niêm yết đã không
ngừng tăng cường sức mạnh tài chính và chất lượng quản trị rủi ro với mục đích
cung cấp cho nhà đầu tư các sản phẩm giá trị, các dịch vụ tiện ích đáng tin cậy.
Tiếp tục hợp nhất, giải thể, phá sản các CTCK yếu kém, thua lỗ dựa trên nền
tảng các chỉ tiêu an toàn tài chính.
Phát triển các sản phẩm mới như hợp đồng tương lai chỉ số, hợp đồng tương
lai trái phiếu, sản phẩm chứng quyền. Xây dựng mở rộng các bộ chỉ số thị trường.
Nghiên cứu cho phép phát hành cổ phiếu không có quyền biểu quyết để thu hút vốn
nước ngoài vào các DN bị hạn chế về sở hữu nước ngoài...
3.2 Yêu cầu hoàn thiện về lập và trình bày báo cáo tài chính cho các công ty
chứng khoán niêm yết của Việt Nam khi vận dụng giá trị hợp lý
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về việc áp dụng GTHL và thực tế vận dụng
GTHL ở các CTCK niêm yết, Luận án đề xuất yêu cầu hoàn thiện việc lập và trình
bày BCTC cho các CTCK niêm yết của Việt Nam khi vận dụng GTHL như sau:
Thứ nhất: Hoàn thiện việc lập và trình bày BCTC cho các CTCK niêm yết
của Việt Nam phải đảm bảo sự hài hòa với các nguyên tắc, chuẩn mực và thông lệ
kế toán quốc tế.
Hoàn thiện việc lập và trình bày BCTC cho các CTCK niêm yết của Việt
Nam phải phù hợp các CMKT, chuẩn mực BCTC của quốc tế và các thông lệ kế
toán quốc tế. Mặt khác, hoàn thiện việc lập và trình bày BCTC cho các CTCK niêm
yết của Việt Nam cũng rất cần dựa trên việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước
trên thế giới. Đồng thời cũng cần phải xem xét những vấn đề phát sinh mới từ thực
tế tại các CTCK Việt Nam mà quy định hiện hành chưa đề cập tới, hoặc giải quyết
chưa thỏa đáng từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện đáp ứng được sự hài hòa với
131
thông lệ và CMKT quốc tế nhằm cung cấp thông tin kế toán hữu ích cho các đối
tượng quan tâm.
Thứ hai: Hoàn thiện việc lập và trình bày BCTC cho các CTCK niêm yết của
Việt Nam phải phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý của các CTCK.
Đặc điểm tổ chức quản lý, đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của các
CTCK có ảnh hưởng đến kế toán - công cụ quan trọng trong quản lý kinh tế của các
DN. Do vậy, hoàn thiện việc lập và trình bày BCTC cho các CTCK niêm yết của
Việt Nam phải tính đến sự phù hợp với đặc điểm tổ chức hoạt động và yêu cầu
quản lý của các DN này.
Hoạt động kinh doanh chứng khoán rất đa dạng và phức tạp đòi hỏi việc
hoàn thiện việc lập và trình bày BCTC cho các CTCK niêm yết của Việt Nam cần
phải xem xét đặc điểm hoạt động và yêu cầu quản lý của các CTCK nhằm đưa ra
các giải pháp hoàn thiện phù hợp và có tính khả thi cao.
Thứ ba: Hoàn thiện việc lập và trình bày BCTC cho các CTCK niêm yết của
Việt Nam phải đáp ứng được nhu cầu thông tin của các đối tượng sử dụng.
Thông tin kế toán được cung cấp cho rất nhiều đối tượng sử dụng khác nhau
như: Các nhà quản lý DN, các nhà đầu tư, người cho vay, các cơ quan quản lý nhà
nước. Chính vì vậy, cần phải đặt nhu cầu của người sử dụng thông tin vào trung
tâm, từ đó xây dựng các phương pháp kế toán phù hợp. Căn cứ vào mục đích của
đối tượng sử dụng thông tin, có thể chia ra thành hai đối tượng sử dụng chính là:
đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài DN và đối tượng sử dụng thông tin bên
trong DN. Chính vì thế các CTCK phải đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, kịp
thời cho hai đối tượng sử dụng thông tin này.
Đối với thông tin cung cấp cho các đối tượng bên ngoài DN như các nhà
đầu tư, các cổ đông, người cho vay, các cơ quan quản lý nhà nước. Thì độ tin cậy
và giá trị pháp lý được đặt lên hàng đầu. Thông tin kế toán cung cấp phải tuân thủ
các nguyên tắc, chuẩn mực và chế độ hiện hành, mang tính pháp lệnh. Hệ thống
sổ sách, ghi chép, trình bày và cung cấp thông tin cung cấp phải tuân theo các quy
định thống nhất nếu muốn được thừa nhận.
132
3.3 Các giải pháp hoàn thiện lập và trình bày báo cáo tài chính cho các công
ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam khi vận dụng giá trị hợp lý
3.3.1 Giải pháp hoàn thiện quy định pháp lý của Việt Nam về lập và trình
bày BCTC khi vận dụng giá trị hợp lý
* Hoàn thiện quy định của Luật Kế toán Việt Nam sửa đổi ban hành năm 2015
về giá trị hợp lý
Theo Luật Kế toán 2015, Giá trị hợp lý là giá trị được xác định phù hợp với
giá thị trường, có thể nhận được khi bán một tài sản hoặc chuyển nhượng một
khoản nợ phải trả tại thời điểm xác định giá trị. Do khái niệm trong Luật không đề
cập đến trong một giao dịch có trật tự giữa các thành phần tham gia thị trờng để
nhấn mạnh sự độc lập và khách quan của người mua và bán khi xác định giá khi
trao đổi tài sản nên cần bổ sung quy định này để có đầy đủ ý nghĩa tương tự thông
lệ quốc tế.
Theo đó, Luật cần sửa lại khái niệm như sau: giá trị hợp lý là giá sẽ nhận được khi
bán một tài sản hoặc được thanh toán một khoản nợ phải trả trong một giao dịch có
trật tự giữa các thành phần tham gia thị trường tại ngày xác định.
* Hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam
(1) Ban hành mới các chuẩn mực kế toán quy định về giá trị hợp lý trong hệ
thống chuẩn mực kế toán Việt Nam
Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam hiện hành cần bổ sung các chuẩn
mực kế toán Việt Nam quy định về giá trị hợp lý vào hệ thống các chuẩn mực kế
toán hiện đang áp dụng. Danh mục các chuẩn mực kế toán quốc tế về giá trị hợp lý
cần được nghiên cứu bổ sung được tổng hợp tại Phụ lục 03.1. Dưới đây đề xuất chi
tiết một số chuẩn mực cơ bản cần sửa đổi, bổ sung gồm:
(i) Chuẩn mực kế toán về xác định giá trị hợp lý
Những nội dung chủ yếu của chuẩn mực này cần được quy định ở Việt Nam
gồm:
- Định nghĩa giá trị hợp lý: Giá trị hợp lý là mức giá nhận được để bán một
tài sản hoặc một khoản phải thanh toán để chuyển nhượng một khoản nợ trong một
giao dịch có trật tự giữa các thành viên tham gia thị trường tại thời điểm xác định
giá trị hợp lý (giá bán ra).
133
- Xác định giá trị tài sản hoặc nợ phải trả: Giá trị hợp lý được xác định cho
một tài sản hoặc khoản nợ phải trả nhất định. Theo đó, khi xác định giá trị hợp lý
doanh nghiệp cần tính đến đặc điểm của tài sản hoặc nợ phải trả nếu các đối tượng
tham gia thị trường có tính đến đặc điểm tài sản hoặc nợ phải trả tại thời điểm xác
định.
- Giao dịch: Xác định giá trị hợp lý giả định rằng tài sản hoặc nợ phải trả
được trao đổi trong giao dịch có trật tự giữa các đối tượng tham gia thị trường để
bán tài sản hoặc chuyển giao nợ phải trả tại thời điểm xác định giá trị theo các điều
kiện hiện tại của thị trường.
- Phương pháp xác định giá trị hợp lý giả định rằng giao dịch bán tài sản
hoặc chuyển giao nợ phải trả được diễn ra: tại thị trường chính đối với tài sản hoặc
nợ phải trả; hoặc trong trường hợp không có thị trường chính, tại thị trường thuận
lợi nhất với tài sản hoặc nợ phải trả.
- Các đối tượng tham gia thị trường: Doanh nghiệp cần xác định giá trị hợp
lý của tài sản hoặc nợ phải trả sử dụng giả định rằng các đối tượng tham gia thị
trường sẽ sử dụng khi định giá tài sản hoặc nợ phải trả, giả định rằng các đối tượng
tham gia thị trường sẽ hành động vì lợi ích kinh tế có lợi nhất cho mình.
- Về giá: Giá trị hợp lý là giá trị sẽ nhận được khi bán tài sản hoặc thanh toán
để chuyển giao nợ phải trả trong giao dịch có trật tự tại thị trường chính (hoặc thị
trường thuận lợi nhất) tại thời điểm xác định với các điều kiện hiện tại của thị
trường (ví dụ như giá bán ra) không tính tới giá được lấy trực tiếp hay được ước
tính bởi kỹ thuật định giá khác.
- Các kỹ thuật định giá: các kỹ thuật định giá phải phù hợp với hoàn cảnh và
có dữ liệu đầy đủ để xác định giá trị hợp lý, tận dụng tối đa các yếu tố đầu vào có
liên quan có thể quan sát được và hạn chế tối đa việc sử dụng các yếu tố đầu vào
không thể quan sát được; Các yếu tố đầu vào cho các kỹ thuật định giá như các yếu
tố đầu vào dựa trên giá mua và giá bán và các cấp độ xác định giá trị hợp lý.
- Thuyết minh báo cáo tài chính: Doanh nghiệp sẽ trình bày các thông tin
giúp cho người sử dụng báo cáo tài chính có thể đánh giá:
134
+ Đối với tài sản và nợ phải trả được xác định theo giá trị hợp lý trên cơ sở
định kỳ hoặc không định kỳ sau khi ghi nhận ban đầu, các kỹ thuật định giá và các
yếu tố đầu vào được sử dụng để xác định giá trị hợp lý.
+ Đối với các phương pháp xác định giá trị hợp lý định kỳ bằng cách sử
dụng các yếu tố đầu vào quan trọng không thể quan sát theo cấp độ dẫn đến thuyết
minh ảnh hưởng của phương pháp định giá đến báo cáo kết quả kinh doanh hoặc
báo cáo thu nhập toàn diện khác trong kỳ.
(ii) Chuẩn mực kế toán về suy giảm giá trị tài sản
Chuẩn mực này nhằm quy định các thủ tục mà một đơn vị áp dụng để đảm
bảo tài sản được ghi nhận không vượt quá giá trị có thể thu hồi. Một tài sản được
ghi nhận vượt quá giá trị có thể thu hồi nếu giá trị ghi sổ lớn hơn giá trị có thể thu
hồi khi sử dụng hoặc bán tài sản. Trong trường hợp đó, tài sản được xem như bị suy
giảm giá trị và Chuẩn mực yêu cầu đơn vị ghi nhận một khoản lỗ do suy giảm giá
trị.
Sự cần thiết ban hành Chuẩn mực về suy giảm giá trị tài sản: Các tài sản có
thể bị suy giảm giá trị do nhiều nguyên nhân, như tình trạng hư hỏng, xuống cấp
mà không thể khắc phục, lạc hậu về kỹ thuật; Ảnh hưởng tiêu cực do sự thay đổi
nhanh chóng về công nghệ, thị trường…, dẫn đến năng lực hoạt động của tài sản
hoặc lợi ích kinh tế thu hồi từ tài sản giảm xuống một cách đáng kể. Trong những
trường hợp như vậy, nếu không ghi nhận kịp thời việc suy giảm giá trị của tài sản
sẽ cung cấp thông tin sai lệch trong việc đánh giá tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Vì vậy, việc ban hành Chuẩn mực về suy giảm giá trị tài sản là rất cần thiết,
giúp Việt Nam tiếp cận với các thông lệ quốc tế, qua đó nâng cao đáng kể tính
trung thực, minh bạch của báo cáo tài chính, bảo toàn vốn cho doanh nghiệp, tránh
tình trạng lãi giả - lỗ thật.
(iii) Chuẩn mực công cụ tài chính
Một số nội dung liên quan đến công cụ tài chính cần ban hành:
- Xác định giá trị ban đầu của tài sản tài chính và nợ tài chính: Khi một tài
sản tài chính hoặc nợ tài chính được ghi nhận ban đầu, thì tổ chức phải xác định giá
trị của nó theo giá trị hợp lý cộng với các chi phí giao dịch phát sinh trực tiếp từ
135
việc mua hoặc phát hành tài sản hoặc nợ tài chính, trong trường hợp tài sản hoặc nợ
tài chính đó không được ghi nhận theo giá trị hợp lý thông qua lãi/lỗ.
- Việc đo lường sau khi ghi nhận ban đầu của tài sản tài chính được xác định
như sau: Sau ghi nhận ban đầu, một tổ chức sẽ xác định giá trị các tài sản tài chính,
bao gồm cả các công cụ phái sinh là tài sản theo giá trị hợp lý mà không giảm trừ
cho bất cứ một khoản chi phí giao dịch nào có thể phát sinh trong quá trình bán
hoặc thanh lý các tài sản này.
Đo lường sau ghi nhận ban đầu của nợ tài chính: Sau khi ghi nhận ban đầu,
một tổ chức sẽ xác định tất cả các nợ tài chính theo chi phí phân bổ sử dụng
phương pháp lãi suất thực, ngoại trừ: các nợ tài chính phản ánh theo giá trị hợp lý
thông qua lãi/lỗ. Những khoản nợ này, bao gồm công cụ phái sinh là nợ phải trả, sẽ
được xác định theo giá trị hợp lý; Các khoản nợ phải trả tài chính phát sinh từ việc
chuyển giao một tài sản tài chính không đủ điều kiện dừng ghi nhận hoặc khi áp
dụng quy định về tiếp tục liên quan; Các hợp đồng bảo lãnh tài chính; Các cam kết
cung cấp các khoản cho vay với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường.
Các khoản nợ phải trả tài chính được xác định là đối tượng phòng ngừa rủi
ro sẽ được ghi nhận theo các yêu cầu của phương pháp kế toán phòng ngửa rủi ro.
Phân loại lại một công cụ phái sinh ra khỏi nhóm ghi nhận theo giá trị hợp lý thông
qua lãi lỗ trong thời gian tổ chức nắm giữ hoặc phát hành công cụ đó.
Các tài sản tài chính ghi nhận theo chi phí phân bổ: Nếu có bằng chứng
khách quan cho thấy khả năng xảy ra một khoản lỗ do giảm giá trị của các khoản
cho vay và phải thu hoặc các khoản đầu tư giữ đến ngày đáo hạn được ghi nhận
theo chi phí phân bổ, thì khoản lỗ sẽ được xác định bằng mức chênh lệch giữa giá
trị ghi sổ và giá trị hiện tại của các dòng tiền ước tính trong tương lai (không tính
đến các khoản lỗ tín dụng trong tương lai chưa xảy ra) được chiết khấu theo lãi suất
thực (là lãi suất thực được xác định tại ngày ghi nhận ban đầu). Giá trị ghi sổ của
tài sản sẽ bị giảm trừ trực tiếp hoặc thông qua tài khoản dự phòng. Khoản lỗ sẽ
được ghi nhận vào báo cáo thu nhập toàn diện (lãi/lỗ).
Nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro: Nếu có một mối quan hệ phòng ngừa rủi ro
xác định trước giữa công cụ phòng ngừa rủi ro và đối tượng được phòng ngừa rủi
ro, việc ghi nhận kế toán đối với các khoản lãi hoặc lỗ phát sinh từ công cụ phòng
136
ngừa rủi ro và đối tượng được phòng ngừa rủi ro sẽ được ghi nhận vào lãi, lỗ hoặc
ghi nhận trực tiếp vào vốn chủ.
Kế toán phòng ngừa rủi ro: Kế toán phòng ngừa rủi ro ghi nhận những ảnh
hưởng bù trừ vào lãi hoặc lỗ của các thay đổi giá trị hợp lý của các công cụ phòng
ngừa rủi ro và đối tượng được phòng ngừa rủi ro.
(2) Hoàn thiện những chuẩn mực kế toán Việt Nam đã ban hành để triển
khai được giá trị hợp lý trong kế toán
Các chuẩn mực kế toán Việt Nam cần được hoàn thiện gồm các chuẩn mực
sau:
(i) Hoàn thiện VAS 01: Chuẩn mực chung
Theo khuôn khổ về việc lập và trình bày Báo cáo tài chính của quốc tế thì tài
sản của doanh nghiệp có thể được ghi nhận theo giá hiện tại, giá trị có thể thực hiện
được hoặc giá trị hiện tại. VAS 01 cần bổ sung các nội dung này cụ thể:
Giá hiện tại: Tài sản được ghi nhận tương ứng với số tiền hoặc khoản tương
đương tiền sẽ phải trả tại thời điểm hiện tại để có thể mua một tài sản giống hoặc
tương đồng.
Giá trị có thể thực hiện được (thỏa thuận): Tài sản được ghi nhận tương ứng
với số tiền hoặc khoản tương đương tiền có thể thu được nếu bán tài sản đó tại thời
điểm hiện tại.
Giá trị hiện tại: Tài sản được ghi nhận theo giá trị chiết khấu của dòng tiền ước
tính thu được trong tương lai từ việc sử dụng tài sản vào hoạt động sản xuất kinh
doanh.
(ii) Hoàn thiện VAS 03- Tài sản cố định hữu hình và VAS 04- Tài sản cố
định hữu hình. Các chuẩn mực này cần bổ sung một số nội dung liên quan đến mô
hình đánh giá lại:
- Về xác định giá trị sau ghi nhận ban đầu: Bổ sung quy định cho phép doanh
nghiệp lựa chọn mô hình giá gốc hoặc mô hình đánh giá lại. Quy định chi tiết mô
hình đánh giá lại theo hướng: Sau khi được ghi nhận là tài sản, TSCĐ có giá trị hợp
lý được xác định một cách đáng tin cậy sẽ được ghi nhận theo giá trị đánh giá lại là
giá trị hợp lý của tài sản tại ngày đánh giá lại trừ giá trị hao mòn lũy kế và các
khoản lỗ lũy kế do giảm giá trị tài sản sau ghi nhận ban đầu. Nếu một TSCĐ được
đánh giá lại thì toàn bộ TSCĐ khác cùng loại cũng phải được đánh giá lại.
137
- Việc đánh giá lại được thực hiện thường xuyên nhằm đảm bảo rằng giá trị
còn lại không chênh lệch trọng yếu so với giá trị còn lại được xác định theo giá trị
hợp lý tại ngày kết thúc kỳ báo cáo. Một số TSCĐ có những thay đổi lớn và đột
ngột trong giá trị hợp lý cần phải được đánh giá lại hàng năm. Ngược lại, không
cần phải đánh giá lại hàng năm đối với những tài sản chỉ có thay đổi nhỏ trong giá
trị hợp lý, thay vào đó chỉ cần đánh giá lại ba hoặc năm năm một lần.
- Khi TSCĐ được đánh giá lại, giá trị hao mòn lũy kế tại thời điểm đánh giá
lại được xử lý theo một trong hai cách: Được báo cáo lại theo tỷ lệ tương ứng với
những thay đổi trong giá trị còn lại của tài sản để giá trị còn lại của tài sản sau khi
được đánh giá lại ngang bằng với giá trị được đánh giá lại; Được bù trừ với giá trị
còn lại của tài sản và giá trị thuần được báo cáo lại theo giá trị đánh giá lại của tài
sản.
- Về giảm giá trị tài sản: Bổ sung quy định về áp dụng Chuẩn mực tổn thất
tài sản để ghi nhận các khoản tổn thất do suy giảm giá trị TSCĐ, theo đó các khoản
lỗ do suy giảm giá trị cần được ghi nhận ngay là chi phí trong kỳ khi giá trị còn lại
của TSCĐ nhỏ hơn giá trị sử dụng (giá trị có thể thu hồi).
- Về trình bày báo cáo tài chính: Bổ sung thêm nội dung liên quan đến việc trình
bày giá trị tăng hoặc giảm phát sinh từ việc đánh giá lại và các khoản lỗ do giảm
giá trị tài sản được ghi nhận hoặc được hoàn nhập vào Báo cáo thu nhập toàn diện
khác theo chuẩn mực kế toán về tổn thất tài sản.
(iii) Hoàn thiện VAS 05: Bất động sản đầu tư
Chuẩn mực này bổ sung một số nội dung liên quan đến mô hình đánh giá lại:
- Bổ sung quy định cho phép doanh nghiệp ghi nhận bất động sản đầu tư theo
một trong hai mô hình: Giá gốc hoặc giá trị hợp lý. Nếu doanh nghiệp chọn hạch
toán bất động sản đầu tư theo giá trị hợp lý, trong đó giá trị hợp lý của bất động sản
đầu tư đang thi công không thể đo lường được một cách đáng tin cậy, thì bất động
sản đó được đo lường theo giá gốc cho đến thời điểm xảy ra trước giữa ngày hoàn
công và ngày mà giá trị hợp lý trở nên có thể đo lường được một cách đáng tin cậy.
- Bổ sung quy định về giá trị hợp lý của bất động sản đầu tư là mức giá mà
theo đó bất động sản đó có thể được trao đổi giữa các bên có đầy đủ hiểu biết và
sẵn sàng tiến hành giao dịch bình thường. Giá trị hợp lý này phát sinh mà không
138
khấu trừ chi phí giao dịch phải chịu khi bán (hoặc thanh lý) và loại trừ mức giá ước
tính được tăng, giảm bởi các điều khoản đặc biệt. Lãi/lỗ phát sinh từ thay đổi giá trị
hợp lý của bất động sản đầu tư được ghi nhận là lãi/ lỗ phát sinh trong kỳ kế toán.
- Bổ sung yêu cầu về thuyết minh đối với mô hình giá trị hợp lý. Về mô hình
giá gốc, bổ sung yêu cầu thuyết minh đối với tổn thất do sụt giảm giá trị được ghi
nhận hoặc hoàn nhập, chênh lệch tỷ giá hối đoái thuần phát sinh từ việc quy đổi báo
cáo tài chính ở nước ngoài sang một đồng tiền báo cáo khác.
(iv) Hoàn thiện VAS 06: Thuê tài sản
Giá trị sau ghi nhận lần đầu của thuê tài chính đối với bên thuê: cần bổ sung
quy định về việc đánh giá xem tài sản cho thuê có thể bị tổn thất hay không, nếu có
sự giảm giá đối với tài sản cho thuê thì đơn vị phải áp dụng chuẩn mực IAS 36–
Tổn thất tài sản để xem xét, đánh giá và ghi nhận khoản tổn thất tài sản.
(v) Hoàn thiện VAS 21: Trình bày báo cáo tài chính
Thứ nhất, đối với Bảng cân đối kế toán
- Sửa đổi tên của báo cáo “Bảng Cân đối kế toán” bằng “Báo cáo tình hình tài
chính”
- Bổ sung các chỉ tiêu liên quan đến thay đổi giá trị hợp lý như:
+ Tài sản tài chính (giá trị hợp lý)
+ Tài sản cố định hữu hình (Giá trị đánh giá lại)
+ Tài sản cố định vô hình (Giá trị đánh giá lại)
+ Bất động sản đầu tư (Theo giá trị hợp lý)
+ Nợ Tài chính (giá trị hợp lý)
Thứ hai, đối với Báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh
- Sửa đổi tên của báo cáo “Báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh” bằng
“Báo cáo thu nhập toàn diện”.
- Nội dung và cấu trúc báo cáo: Báo cáo được chia ra 2 phần: Phần Lãi, lỗ và
Phần thu nhập toàn diện khác.
+ Phần Lãi lỗ trình bày toàn bộ kết quả kinh doanh trong kỳ trong đó có bao
gồm lãi lỗ do đánh giá lại giá trị tài sản tài chính và nợ tài chính.
139
+ Phần Thu nhập toàn diện khác phản ánh kết quả ảnh hưởng đến phần vốn
chủ sở hữu như: Chênh lệch đánh giá lại tài sản cố định, Chênh lệch do chuyển đổi
báo cáo tài chính ở nước ngoài…
Thứ ba, bổ sung báo cáo Vốn chủ sở hữu vào hệ thống báo cáo tài chính
- Nội dung báo cáo Vốn chủ sở hữu
Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu bao gồm các thông tin sau:
+ Tổng thu nhập toàn diện trong kỳ;
+ Đối với từng thành phần của vốn chủ sở hữu, ảnh hưởng của việc áp dụng
hồi tố hoặc trình bày lại hồi tố được ghi nhận theo quy định ở CMKTQT số 8;
+ Đối với từng thành phần của vốn chủ sở hữu, thông tin đối chiếu giữa giá
trị ghi sổ tại đầu kỳ và cuối kỳ, thuyết minh riêng biệt những thay đổi xuất phát từ:
(i) Lãi hoặc lỗ từ hoạt động kinh doanh;
(ii) Thu nhập toàn diện khác;
Thứ tư, đối với Thuyết minh báo cáo tài chính
- Bổ sung các nội dung thuyết minh về xác định giá trị hợp lý cụ thể yêu cầu
thuyết minh về:
+ Nguyên tắc và phương pháp kế toán tài sản tài chính, nợ tài chính.
+ Nguyên tắc ghi nhận và phương pháp kế toán ghi nhận giá trị đánh giá lại các
khoản đầu tư theo giá thị trường hoặc giá trị hợp lý: Đối với cổ phiếu, Đối với trái phiếu.
+ Nguyên tắc ghi nhận và trình bày về sự suy giảm giá trị của tài sản phi tiền
tệ.
+ Nguyên tắc và phương pháp ghi nhận doanh thu và dự thu cổ tức, tiền lãi
từ các tài sản tài chính.
+ Nguyên tắc và phương pháp ghi nhận thu nhập, lỗ và chi phí giao dịch các
tài sản tài chính.
* Hoàn thiện, ban hành các hướng dẫn về giá trị hợp lý
(1) Hoàn thiện thông tư hướng dẫn kế toán cho công ty chứng khoán về giá
trị hợp lý
Thông tư 334/2016/TT-BTC (TT 334) quy định về ghi nhận và trình bày đối
với nợ phải trả theo giá gốc. Quy định này cần được sửa lại theo hướng các khoản
nợ phải trả cũng được ghi nhận và trình bày theo giá trị hợp lý. Theo IFRS 09 –
140
Công cụ tài chính, tất cả các nợ tài chính được ghi nhận theo chi phí phân bổ sử
dụng phương pháp lãi suất thực.
(2) Ban hành các hướng dẫn liên quan đến xác định giá trị hợp lý
Ban hành các hướng dẫn liên quan đến xác định giá trị hợp lý gồm các nội dung
sau:
(i) Quy định về danh mục các tài sản và nợ phải trả được xác định và ghi
nhận theo giá trị hợp lý:
+ Tài sản tài chính: các khoản đầu tư cổ phiếu, trái phiếu;
+ Các công cụ tài chính như: hợp đồng quyền chọn, chứng quyền, hợp đồng
tương lai, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi;
+ Các khoản thanh toán bằng cổ phiếu;
+ Các khoản nợ tài chính.
(ii) Quy định về phương pháp xác định giá trị hợp lý
+ Phương pháp tiếp cận thị trường: Phương pháp này được áp dụng khi có
giá tham chiếu trên thị trường, dựa trên tiền đề rằng một người tham gia thị trường
sẽ không trả nhiều hơn chi phí để mua một tài sản tương tự. Giá trị hợp lý dựa vào
giá tham chiếu, điều chỉnh nếu cần thiết. Những trường hợp phải điều chỉnh giá
tham chiếu ban đầu: Giá tham khảo không lấy từ thị trường hiện tại mà là giá cũ,
do vậy DN nên xem xét thời gian của giao dịch thực tế, những thay đổi trong điều
kiện tín dụng, lãi suất, những nhân tố khác để điều chỉnh cho phù hợp.
+ Phương pháp tiếp cận thu nhập: Theo phương pháp này, Giá trị hợp lý của
một tài sản hay một khoản nợ được xác định bằng cách sử dụng các phương pháp
kỹ thuật để quy đổi các khoản tiền trong tương lai về giá trị hiện tại (Dòng tiền
vào từ việc khai thác, sử dụng tài sản hoặc dòng tiền ra để thanh toán nợ phải trả).
Phương pháp này dựa trên tiền đề rằng một người tham gia thị trường sẵn sàng trả
giá trị hiện tại của các lợi ích sẽ thu được của một tài sản trong tương lai.
+ Phương pháp tiếp cận chi phí: Giá trị hợp lý của một tài sản được xác định
trên cơ sở xem xét các chi phí phải bỏ ra để có được một tài sản thay thế tương
đương về năng lực sản xuất (Dòng tiền phải chi để mua, sản xuất tài sản). Phương
pháp chi phí thường không xem xét điều kiện thị trường nên thường không được
sử dụng trong thực tế, ngoại trừ để xác định giá trị hợp lý của một phần máy móc
141
thiết bị hoặc giá trị các công trình xây dựng cơ bản.
(iii) Ban hành các hướng dẫn giải thích về giá trị hợp lý, các cấp độ dữ liệu đầu
vào tạo sự cân đối giữa các đặc tính chất lượng và các tiêu chuẩn định giá.
3.3.2 Hoàn thiện về việc đo lường các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính
Việc áp dụng phương pháp tiếp cận thị trường, phương pháp tiếp cận thu
nhập hay phương pháp tiếp cận chi phí thì tùy thuộc vào từng loại tài sản hoặc nợ
phải trả để áp dụng cho phù hợp. Đối với các công ty chứng khoán niêm yết thì
việc xác định giá trị cho các tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu một cách đáng tin
cậy trong điều kiện hiên nay thì CTCK có thể sử dụng Phương pháp tiếp cận thị
trường khi đo lường các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính. Hầu hết các tài sản của
công ty chứng khoán là các khoản đầu tư được niêm yết trên thị trường chứng
khoán nên việc xác định giá trị hợp lý là không quá khó.
Công ty chứng khoán thực hiện lựa chọn các dữ liệu đầu vào theo 3 cấp độ như
sau:
Cấp độ 1: Dữ liệu đầu vào cấp độ 1, là giá niêm yết của các tài sản và khoản
nợ hoàn toàn giống nhau trên các thị trường tích cực mà DN có thể tiếp cận tại
ngày xác định GTHL, thường không cần điều chỉnh. Giá cả được niêm yết trên thị
trường của các tài sản và khoản nợ giống hệt trên thị trường tích cực cung cấp
bằng chứng đáng tin cậy nhất của GTHL và được sử dụng mà không cần điều
chỉnh, để xác định GTHL bất cứ khi nào có sẵn.
Cấp độ 2: Dữ liệu đầu vào cấp độ 2, không phải là giá niêm yết của các tài
sản/nợ phải trả được phân loại là dữ liệu đầu vào cấp 1 mà là giá của các tài sản/nợ
phải trả có thể quan sát trực tiếp hoặc gián tiếp trên thị trường.
Dữ liệu đầu vào cấp độ 2 bao gồm: Giá niêm yết của các các tài sản/nợ phải
trả tương tự trên thị trường tích cực hoặc giá niêm yết của các các tài sản/nợ
phải trả giống hệt, tương tự trên thị trường không tích cực sau đó điều chỉnh theo
các yếu tố cụ thể liên quan đến các tài sản/nợ phải trả như điều kiện hoặc vị trí của
tài sản, khối lượng hoặc mức độ hoạt động trên thị trường nơi mà dữ liệu đầu vào
quan sát được,... Ngoài ra, trong trường hợp các dữ liệu không phải là giá trị niêm
yết nhưng có thể quan sát được cho các tài sản/nợ phải trả như các mức biến động
ngầm định, biên độ rủi ro tín dụng, lãi suất hoặc đường cong lãi suất thu thập được
142
ở khoảng giá niêm yết phổ biến.
Cấp độ 3: Dữ liệu đầu vào đối với các tài sản/nợ phải trả không quan sát
được trên thị trường. Đây là trường hợp xảy ra, khi có rất ít các hoạt động thị
trường liên quan đến các tài sản/nợ phải trả cần tính giá. Các dữ liệu thuộc cấp độ
này được hình thành trên cơ sở DN sẽ xây dựng các yếu tố đầu vào không quan
sát được, sử dụng các thông tin sẵn có tốt nhất trong các trường hợp, có thể bao
gồm dữ liệu của chính DN, dựa trên giả định của DN về cách thức các đối tượng
tham gia thị trường sẽ định giá tài sản/nợ phải trả.
Việc xác định GTHL thể hiện qua biểu đồ sau:
143
Tài sản và nợ phải trả
Thị trường chính
(Hoặc thị trường thuận lợi nhất)
Việc sử dụng cao nhất, tốt nhất và cơ sở định giá
Những đặc điểm người tham gia thị trường
(Chỉ đối với tài sản phi tài chính)
Các yếu tố đầu vào
Kỹ thuật xác định giá trị
Biểu đồ 3.1 Khuôn mẫu xác định GTHL
Giá trị hợp lý
Nếu cần, phân bổ cho từng đơn vị kế toán
(Giá trong một giao dịch có trật tự giữa các bên tham gia thị trường)
Các thuyết minh bao gồm phân loại giá trị hợp lý theo cấp bậc (Dựa theo đầu vào mức độ thấp nhất có trọng yếu đối với giá trị hợp lý)
Việc xác định GTHL đối với một số tài sản được giao dịch trên thị trường
chính thức dễ dàng và minh bạch hơn so với các tài sản khác không được giao dịch
trên thị trường chính thức. Việc xác định GTHL dựa trên từng tài sản và nợ phải
trả riêng biệt dựa theo giá niêm yết cho từng tài sản và nợ phải trả và số lượng đơn
vị nắm giữ; hoặc nhóm tài sản, nhóm nợ phải trả hoặc nhóm tài sản và nợ phải trả
144
(ví dụ là đơn vị tạo tiền hoặc một hoạt động kinh doanh).
3.3.3 Hoàn thiện về việc ghi nhận chênh lệch đánh giá lại các chỉ tiêu trên
Báo cáo tài chính sau khi xác định theo giá trị hợp lý tại các công ty chứng
khoán niêm yết
- Đối với tài sản tài chính:
Do các tài sản tài chính có GTHL biến động thường xuyên và thời gian biến
động GTHL được thực hiện là ngắn nên các CTCK niêm yết cần ghi nhận biến
động GTHL vào báo cáo lãi/lỗ vào kỳ hiện tại.
Các CTCK niêm yết đã phản ánh vào báo cáo lãi lỗ đối với chênh lệch đánh
giá lại các chỉ tiêu tài sản đang niêm yết do có thể xác định giá thị trường từ các
giao dịch trên thị trường. Tuy nhiên, đối với các tài sản chưa niêm yết thì CTCK
niêm yết vẫn ghi nhận theo giá gốc do không có cơ sở xác định giá thị trường đáng
tin cậy. Để việc ghi nhận trên báo cáo theo chính sách đồng nhất, các CTCK niêm
yết cần phải ghi nhận các tài sản tài chính chưa niêm yết trên Báo cáo tình hình tài
chính theo GTHL thay vì theo giá gốc như hiện nay.
- Đối với tài sản phi tài chính:
Khi GTHL được sử dụng để đánh giá tài sản phi tài chính sau ghi nhận ban
đầu biến động thì chênh lệch GTHL được ghi nhận vào thu nhập toàn diện khác.
Các biến động này được trình bày riêng biệt và trên cơ sở thuần. Khi các biến động
GTHL (Gains or loses) đã được trình bày vào thu nhập toàn diện khác thì khi khi
bán tài sản, CTCK niêm yết không trình bày các khoản lãi, lỗ từ việc bán vào báo
cáo lại/lỗ.
Hiện nay các CTCK niêm yết vẫn đang ghi nhận theo giá gốc. Để đảm bảo
phản ánh trung thực hợp lý các chỉ tiêu trên BCTC, CTCK niêm yết khi lựa chọn
mô hình giá đánh giá lại cho các TSCĐ thì cần phải ghi nhận các TSCĐ theo
GTHL và ghi nhận chênh lệch đánh giá lại TSCĐ trên báo cáo thu nhập toàn diện
(Phần thu nhập toàn diện khác).
- Đối với nợ phải trả tài chính:
Do nợ phải trả tài chính có GTHL biến động thường xuyên và thời gian biến
động GTHL được thực hiện là ngắn nên các CTCK niêm yết cần ghi nhận biến
động GTHL vào báo cáo lãi/lỗ vào kỳ hiện tại.
145
Để việc ghi nhận trên báo cáo theo chính sách đồng nhất, các CTCK niêm
yết cần phải ghi nhận nợ phải trả tài chính trên Báo cáo tình hình tài chính theo
GTHL thay vì theo giá gốc như hiện nay.
3.3.4 Hoàn thiện việc lập và trình bày thông tin trên Báo cáo tài chính
Thứ nhất, đối với Báo cáo tình hình tài chính
Các tài sản tài chính là các chứng khoán chưa niêm yết, các tài sản phi tài
chính, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu được trình bày theo GTHL.
Bổ sung chỉ tiêu Chênh lệch đánh giá tài sản theo giá trị hợp lý để ghi nhận
khoản đánh giá giá trị TSCĐ.
Báo cáo tình hình tài chính của CTCK hiện nay đang phân loại các tài sản tài
chính dựa theo IAS 39 – Xác định công cụ tài chính theo đó có 4 loại gồm: Tài sản
tài chính ghi nhận thông qua lãi lỗ; Tài sản tài chính sẵn sàng để bán; Phải thu và
cho vay; và Tài sản nắm giữ đến ngày đáo hạn. Khi áp dụng IFRS 09 – Công cụ tài
chính, tài sản tài chính phân loại gồm tài sản theo chi phí phân bổ (amortized cost)
hoặc tài sản theo GTHL mà không phân loại thành 4 loại như hiện nay.
NCS đề xuất mẫu Báo cáo tình hình tài chính dựa theo thông lệ quốc tế như
sau:
BÁO CÁO TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH Tại ngày ... tháng ... năm ...(1)
Chỉ tiêu Mã số Thuyết minh Số đầu năm
A B C Số cuối năm 1 2
TÀI SẢN
100
A. TÀI SẢN NGẮN HẠN (100 = 110 + 130)
I. Tài sản tài chính ngắn hạn 110
1.Tiền và các khoản tương đương tiền 111 ..... .....
2. Các khoản đầu tư ngắn hạn 112 ..... ......
4. Các khoản phải thu ngắn hạn 117 ..... ......
II. Tài sản ngắn hạn khác 130
146
200
B. TÀI SẢN DÀI HẠN (200 = 210 + 220 + 230 + 240)
I. Tài sản tài chính dài hạn 210
1. Các khoản phải thu dài hạn 211
2. Các khoản đầu tư dài hạn 212
..... ..... II. Tài sản cố định 220
1. Tài sản cố định hữu hình 221 ..... .....
2. Tài sản cố định thuê tài chính 224 ..... .....
3. Tài sản cố định vô hình 227 ..... .....
..... ..... III. Bất động sản đầu tƣ 230
..... ...... IV. Tài sản dài hạn khác 240
..... .....
TỔNG CỘNG TÀI SẢN (270 = 100 + 200) 270
..... .....
C. NỢ PHẢI TRẢ 1. Phải trả người bán 300 320
2. Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước 322
3. Phải trả người lao động 323 ..... ......
4..Các khoản trích nộp phúc lợi nhân viên 324
5.Các khoản phải trả, phải nộp khác 329
6. Quỹ khen thưởng, phúc lợi 331
7. Quỹ bảo vệ Nhà đầu tư 333
8. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ 335
D. VỐN CHỦ SỞ HỮU (400 = 410 + 420) 400
..... ..... I. Vốn chủ sở hữu 410
1. Vốn đầu tư của chủ sở hữu 411 ..... .....
. Chênh lệch đánh giá tài sản theo giá trị hợp lý 412 ..... .....
3. Chênh lệch tỷ giá hối đoái 413 ..... .....
4. Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ 414 ..... ......
415 ..... ......
5. Quỹ dự phòng tài chính và rủi ro nghiệp vụ
6. Các Quỹ khác thuộc vốn chủ sở hữu 416 ..... .....
7. Lợi nhuận chưa phân phối 417 ..... .....
II. Nguồn kinh phí và quỹ khác 420
147
..... ...... 440
TỔNG CỘNG NỢ VÀ VỐN CHỦ SỞ HỮU
(440 = 300 + 400)
Thứ hai, đối với Báo cáo Kết quả hoạt động
- Sửa đổi tên của báo cáo “Báo cáo Kết quả hoạt động” bằng “Báo cáo thu
nhập toàn diện”.
- Nội dung và cấu trúc báo cáo: Báo cáo được chia ra 2 phần: Phần Lãi, lỗ và
Phần thu nhập toàn diện khác.
+ Phần Lãi lỗ trình bày toàn bộ kết quả kinh doanh trong kỳ trong đó có bao
gồm lãi lỗ do đánh giá lại giá trị tài sản tài chính và nợ tài chính.
+ Phần Thu nhập toàn diện khác phản ánh kết quả ảnh hưởng đến phần vốn
chủ sở hữu như: Chênh lệch đánh giá lại TSCĐ, Chênh lệch do chuyển đổi BCTC ở
nước ngoài…
NCS đề xuất mẫu Báo cáo thu nhập toàn diện dựa theo thông lệ quốc tế như
sau:
BÁO CÁO THU NHẬP TOÀN DIỆN
Năm 201...
Đơn vị tính: Đồng Việt Nam
Mã Thuyết Năm Năm Chỉ tiêu Số minh nay trƣớc
A C 1 2 B
PHẦN I- LÃI, LỖ
1. Doanh thu hoạt động 10
2. Chi phí hoạt động 20
3. Doanh thu hoạt động tài chính ..... 30
4. Chi phí tài chính 40
5. Chi phí bán hàng 50
6. Chi phí quản lý 60
7. Kết quả hoạt động 70
(70=10- 20+30-40-50-60)
148
8. Thu nhập khác 80
9 Chi phí khác 90
10. Tổng lợi nhuận kế toán trƣớc thuế (100 = 100
70 + 80-90)
11. Chi phí thuế TNDN 110
11.1. Chi phí thuế TNDN hiện hành 111
11.2. Chi phí thuế TNDN hoãn lại 112
12. Lợi nhuận kế toán sau thuế TNDN (200 200
=100 - 110)
PHẦN II- THU NHẬP TOÀN DIỆN KHÁC 300
1. Lãi/(lỗ) chênh lệch tỷ giá của hoạt động tại 301
nước ngoài
2. Lãi, lỗ đánh giá lại TSCĐ theo mô hình 302
GTHL
3. Lãi, lỗ toàn diện khác 303
Tổng thu nhập toàn diện 400
Thứ ba, bổ sung báo cáo Vốn chủ sở hữu vào hệ thống BCTC
- Nội dung báo cáo Vốn chủ sở hữu
Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu bao gồm các thông tin sau:
+ Tổng thu nhập toàn diện trong kỳ;
+ Đối với từng thành phần của vốn chủ sở hữu, ảnh hưởng của việc áp dụng
hồi tố hoặc trình bày lại hồi tố được ghi nhận theo quy định ở CMKT Việt Nam số
29 – Thay đổi chính sách kế toán, ước tính kế toán và các sai sót;
+ Đối với từng thành phần của vốn chủ sở hữu, thông tin đối chiếu giữa giá
trị ghi sổ tại đầu kỳ và cuối kỳ, thuyết minh riêng biệt những thay đổi xuất phát từ:
(i) Lãi hoặc lỗ từ hoạt động kinh doanh;
(ii) Thu nhập toàn diện khác;
- Kết cấu báo cáo Vốn chủ sở hữu
Báo cáo Vốn chủ sở hữu gồm các thông tin về: Số dư đầu năm; Số tăng/
giảm trong năm; Số dư cuối năm của các chỉ tiêu sau:
149
I. Biến động vốn chủ sở hữu
1. Vốn đầu tư của chủ sở hữu
2. Cổ phiếu quỹ (*)
3. Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ
4. Quỹ dự phòng tài chính và rủi ro nghiệp vụ
5. Chênh lệch đánh giá lại tài sản theo GTHL
6.Chênh lệch tỷ giá hối đoái
7. Các Quỹ khác thuộc vốn chủ sở hữu
8. Lợi nhuận chưa phân phối
8.1. Lợi nhuận sau thuế đã thực hiện
8.2. Lợi nhuận chưa thực hiện
II. Thu nhập toàn diện khác
1. Lãi/lỗ từ đánh giá lại các TSTC sẵn sàng để bán
2. Lãi, lỗ đánh giá lại TĐ theo mô hình GTHL
3. Lãi, lỗ chênh lệch tỷ giá của hoạt động tại nước ngoài
4. Lãi, lỗ toàn diện khác
NCS xin đề xuất mẫu Báo cáo vốn chủ sở hữu dựa theo thông lệ quốc tế như sau:
BÁO CÁO TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG VỐN CHỦ SỞ HỮU
Năm….
Đơn vị tính: Đồng Việt Nam
Số tăng/giảm
CHỈ TIÊU Thuyết minh N-1 N Số dƣ cuối năm N-1 N Số dƣ đầu năm N N-
1 Tăng Giảm Tăng Giảm
A B 2 3 4 5 6 7 8 1
I. Biến động vốn chủ
sở hữu
1. Vốn đầu tư của chủ
sở hữu
2. Cổ phiếu quỹ (*)
3. Quỹ dự trữ bổ sung
150
vốn điều lệ
4. Quỹ dự phòng tài
chính và rủi ro nghiệp
vụ
5. Chênh lệch đánh
giá lại tài sản theo
GTHL
6.Chênh lệch tỷ giá
hối đoái
7. Các Quỹ khác
thuộc vốn chủ sở hữu
8. Lợi nhuận chưa
phân phối
8.1. Lợi nhuận sau
thuế đã thực hiện
8.2. Lợi nhuận chưa
thực hiện
Tổng cộng
II. Thu nhập toàn
diện khác
1. Lãi, lỗ đánh giá lại
TS theo mô hình
GTHL
2. Lãi, lỗ chênh lệch
tỷ giá của hoạt động
tại nước ngoài
3. Lãi, lỗ toàn diện
khác
Tổng cộng
Thứ tư, đối với Thuyết minh BCTC
151
- Bổ sung các nội dung thuyết minh về xác định GTHL cụ thể yêu cầu thuyết
minh về:
+ Nguyên tắc và phương pháp kế toán tài sản tài chính, nợ tài chính.
+ Nguyên tắc ghi nhận và phương pháp kế toán ghi nhận giá trị đánh giá lại
các khoản đầu tư theo giá thị trường hoặc GTHL: Đối với cổ phiếu, Đối với trái
phiếu.
+ Nguyên tắc ghi nhận và trình bày về sự suy giảm giá trị của tài sản phi tiền
tệ.
+ Nguyên tắc và phương pháp ghi nhận doanh thu và dự thu cổ tức, tiền lãi
từ các tài sản tài chính.
+ Nguyên tắc và phương pháp ghi nhận thu nhập, lỗ và chi phí giao dịch các
tài sản tài chính.
- Bổ sung thuyết minh về việc xác định GTHL của các tài sản tài chính. Cần
thuyết minh rõ xác định theo cấp độ 1, cấp độ 2, hay cấp độ 3. Nếu xác định theo
cấp độ 2, 3 thì cơ sở xác định như thế nào thì cần trình bày rõ trên Thuyết minh
BCTC. Các thông tin này rất hữu ích khi so sánh BCTC của các CTCK do cách xác
định giá trị khác nhau dẫn đến các chỉ tiêu trên BCTC cũng trình bày khác nhau
dẫn đến không thể so sánh được BCTC. Ngoài ra, cần bổ sung thuyết minh về lãi/
lỗ do đánh giá lại các công cụ tài chính (gồm tài sản tài chính và nợ phải trả tài
chính) và có sự so sánh giữa các kỳ báo cáo.
- Thuyết minh BCTC cần bổ sung các chỉ tiêu sau:
Quy định về danh mục các tài sản và nợ phải trả được xác định và ghi nhận
theo GTHL:
+ Tài sản tài chính: các khoản đầu tư cổ phiếu, trái phiếu;
+ Các công cụ tài chính như: hợp đồng quyền chọn, chứng quyền, hợp đồng
tương lai, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi;
+ Các khoản thanh toán bằng cổ phiếu;
+ Các khoản nợ tài chính.
3.4 Lộ trình áp dụng
3.4.1 Trong ngắn hạn
152
- Đối với cơ quan Nhà nước: Kiến nghị Bộ Tài chính sớm ban hành các CMKT
liên quan đến GTHL và các hướng dẫn xác định GTHL và thông tư hướng dẫn kế
toán áp dụng cho công ty chứng khoán.
- Đối với các CTCK: cần tổ chức đào tạo, nâng cao trình độ của các cán bộ
định giá và cán bộ kế toán để có đầy đủ kiến thức có liên quan đến việc xác định,
ghi nhận và trình bày BCTC.
- Đối với các tổ chức dịch vụ thẩm định giá: cần được trang bị kiến thức liên
quan đến việc xác định GTHL đối với các tài sản và nợ phải trả để có thể cung cấp
dịch vụ đảm bảo đưa ra giá có phù hợp, đáng tin cậy.
3.4.2 Trong dài hạn
- Về công tác đào tạo: các cơ sở đào tạo cần trang bị các kiến thức cho sinh
viên về việc áp dụng GTHL trong việc ghi nhận và trình bày BCTC phù hợp thông
lệ quốc tế.
- Về phát triển thị trường: Cần phát triển các thị trường TSCĐ, bất động sản,
hàng hóa để có thể dễ dàng xác định giá thị trường của các tài sản phi tài chính để
có cơ sở tham chiếu giá đảm bảo tính minh bạch của thông tin.
3.5 Đánh giá tính khả thi và phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam
3.5.1 Về khả năng áp dụng giá trị hợp lý ở Việt Nam
Xu hướng chung của các DN đều hướng đến việc trình bày các khoản mục
của BCTC theo GTHL, phù hợp với diễn biến của nền kinh tế thị trường tại thời
điểm báo cáo (Mark To Market). TTCK Việt Nam là cơ sở xác định giá hợp lý của
các cổ phiếu niêm yết trên thị trường. Đối với các tài sản và nợ phải trả chưa có giá
tham chiếu trên thị trường thì sử dụng dịch vụ thẩm định giá. Dịch vụ thẩm định
giá ở Việt Nam phát triển mạnh qua các năm. Mặc dù chất lượng thẩm định giá
hiện nay còn nhiều vấn đề nhưng khi đã thực hiện theo tiêu chuẩn thẩm định theo
thông lệ quốc tế thì chất lượng thẩm định giá dần dần sẽ được cải thiện.
Ngoài ra, bản thân các DN đang xây dựng đội ngũ cán bộ tự tiến hành thẩm
định giá các tài sản. Để đảm bảo chất lượng tự thẩm định đòi hỏi phải có thị trường
hoạt động để cung cấp được các thông số tài chính một cách đáng tin cậy khi thực
hiện một số kỹ thuật như giá tham chiếu của TSCĐ, bất động sản đầu tư... Trước
mắt chưa có đầy đủ thị trường hoạt động nên sẽ khó khăn khi áp dụng GTHL đối
153
với những tài sản và nợ phải trả không có giá tham chiếu. Về lâu dài, khi hoàn
thiện đầy đủ các quy định cụ thể thì hoàn toàn có thể xác định được.
3.5.2 Về khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc áp dụng giá trị hợp lý
Trong những năm qua, việc ghi nhận và trình bày tài sản cao hơn giá trị thực
đã diễn ra phổ biến ở Việt Nam. Khi thông tin được cung cấp bị méo mó, thiếu
trung thực thì tất nhiên việc đánh giá và ra quyết định kinh tế cũng bị sai lệch theo.
Mặt khác, việc không ghi nhận tổn thất tài sản tạo ra nguy cơ che dấu sức khỏe của
DN. Vì vậy, việc ban hành một số chuẩn mực mới liên quan đến GTHL là vừa rất
cần thiết, vừa là yêu cầu tất yếu, khách quan phù hợp để giải quyết thực tiễn tại
Việt Nam.
- Về vấn đề tổn thất do suy giảm giá trị tài sản: Đây là chuẩn mực phức tạp và
việc xác định suy giảm giá trị của tài sản là mang tính xét đoán cao, khá chủ quan
do việc phải thực hiện kỹ thuật ước tính dòng tiền tương lai, đặc biệt là đối với
những tài sản không có thị trường hoạt động để tham chiếu giá trị hoặc đối với
những đơn vị tạo tiền, lợi thế thương mại không phải là những tài sản riêng biệt, cụ
thể. Tuy nhiên, việc ước tính dòng tiền tương lai cũng như xác định giá trị có thể
thu hồi trong phần lớn các trường hợp là hoàn toàn khả thi do Việt Nam đã có các
quy định cụ thể về định giá tài sản, đã có các tổ chức định giá chuyên nghiệp và thị
trường dần có đủ các thông số kỹ thuật cần thiết để đảm bảo việc xác định giảm giá
trị tài sản là tin cậy. Các yêu cầu của Chuẩn mực này về cơ bản là khả thi cho Việt
Nam.
Việc bổ sung quy định về áp dụng Chuẩn mực tổn thất tài sản để ghi nhận
các khoản tổn thất do suy giảm giá trị TSCĐ hữu hình, theo đó các khoản lỗ do suy
giảm giá trị cần được ghi nhận ngay là chi phí trong kỳ khi giá trị còn lại của TSCĐ
nhỏ hơn giá trị sử dụng (giá trị có thể thu hồi) vừa có những thuận lợi và vừa có
những khó khăn nhất định:
Về thuận lợi: Giúp DN phản ánh BCTC trung thực và minh bạch hơn, giúp
phản ánh đúng tiềm lực của DN, tránh tình trạng rỗng ruột (lãi giả - lỗ thật) và đảm
bảo tính thận trọng, từ đó giúp các nhà quản lý, nhà đầu tư, chủ nợ đưa ra quyết
định kinh tế một cách phù hợp.
154
Về khó khăn: Việc đánh giá tổn thất tài sản trong một số tình huống mang
tính chủ quan do việc ước tính dòng tiền trong tương lai, điều đó dẫn đến số tổn
thất ước tính đối với cùng một tài sản có thể khác nhau bởi những DN khác nhau.
Tuy nhiên, cho dù số tổn thất ước tính có thể khác nhau thì cũng vẫn thận trọng hơn
là việc không ghi nhận tổn thất.
Mặc dù có những khó khăn nhất định, làm gia tăng công tác kế toán nhưng
lợi ích của việc bổ sung mô hình này lớn hơn rất nhiều so với khó khăn gặp phải.
Mặt khác Việt Nam không thể không ban hành CMKT VAS 36 - Suy giảm giá trị
tài sản thì việc bổ sung quy định về mô hình đánh giá lại TSCĐ hữu hình là có cơ
sở để thực hiện.
- Về các công cụ tài chính: Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển và hội
nhập sâu với quốc tế, đặc biệt là sự hội nhập của thị trường vốn và thị trường tài
chính, các giao dịch về công cụ tài chính ngày càng sôi động, cung cấp cho các
DN, nhà đầu tư nhiều sự lựa chọn trong việc tìm kiếm lợi nhuận và phòng ngừa rủi
ro thông qua các công cụ tài chính. Việc thiếu một khuôn khổ pháp lý để ghi nhận
công cụ tài chính phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế đã tạo ra nhiều khó
khăn cho DN, làm suy giảm đáng kể tính trung thực, minh bạch của BCTC, không
cung cấp được cho các nhà đầu tư những thông tin tài chính hữu ích để ra quyết
định đầu tư.
Mặt khác Chuẩn mực công cụ tài chính có liên quan chặt chẽ với nhiều
Chuẩn mực khác như trình bày BCTC, đầu tư vào công ty con, liên doanh, liên kết,
hợp nhất kinh doanh, tổn thất tài sản, tài sản dài hạn nắm giữ để bán và hoạt động
không liên tục... Các CMKT nêu trên không thể thực hiện một cách đầy đủ và trọn
vẹn nếu thiếu sự hỗ trợ và bổ sung của Chuẩn mực công cụ tài chính. Vì vậy, việc
ban hành Chuẩn mực về ghi nhận và xác định giá trị công cụ tài chính là cực kỳ
quan trọng, giúp hoàn thiện một phần cơ bản đang thiếu hụt trong hệ thống CMKT
Việt Nam.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của TTCK và các công ty đại
chúng quy mô lớn, sự phát triển của các công cụ tài chính tại Việt Nam đóng vai trò
quan trọng trong việc cung cấp các công cụ đầu tư cũng như công cụ phòng ngừa
rủi ro. Ngày 5/5/2015 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 42/2015/NĐ-CP thiết
155
lập khuôn khổ pháp lý đầu tiên cho chứng khoán phái sinh và TTCK phái sinh, theo
đó quy định chi tiết về tổ chức TTCK phái sinh và giao dịch công cụ phái sinh chỉ
số chứng khoán. Cùng lúc, nhiều DN hoạt động trong lĩnh vực năng lượng, vận tải,
nông nghiệp đã sử dụng các công cụ phái sinh như hợp đồng tương lai, hợp đồng
kỳ hạn, quyền chọn để bảo hiểm rủi ro về tỷ giá và giá cả hàng hóa. Các đơn vị có
lợi ích công chúng khác thường xuyên thực hiện các giao dịch về hoán đổi cổ
phiếu, phát hành trái phiếu ra công chúng, sử dụng các công cụ tài chính để thay
đổi cơ cấu sở hữu và tái cấu trúc …. Nên việc ban hành Chuẩn mực công cụ tài
chính làm khuôn khổ pháp lý cho việc ghi nhận các giao dịch công cụ tài chính là
phù hợp với thực tiễn của các DN.
Chuẩn mực công cụ tài chính mặc dù yêu cầu một số kỹ thuật cao trong việc
xác định giá trị, ghi nhận, ngừng ghi nhận… phù hợp với các quốc gia có thị trường
tài chính phát triển nhưng thị trường hoạt động của Việt Nam cũng đã đáp ứng
được một số yêu cầu cơ bản, như các yếu tố về lãi suất hiệu lực dùng để chiết khấu
dòng tiền tương lai, cơ sở để xác định GTHL của các công cụ tài chính là giá niêm
yết….đã từng bước hoàn thiện, tạo dựng căn cứ tương đối vững chắc cho việc trình
bày BCTC trung thực, hợp lý.
- Về việc áp dụng mô hình đánh giá lại của chuẩn mực TSCĐ:
Việc bổ sung quy định cho phép DN lựa chọn mô hình giá gốc hoặc mô hình
đánh giá lại sẽ yêu cầu làm rõ căn cứ để đánh giá lại và ghi nhận chênh lệch giữa
giá trị còn lại và giá đánh giá lại. Về nguyên tắc, phần chênh lệch tăng thêm phát
sinh từ việc đánh giá lại sẽ được ghi nhận vào vốn chủ sở hữu sau khi đã bù trừ với
khoản lỗ do đánh giá giảm tài sản đó đã được ghi nhận trong Báo cáo lãi, lỗ trước
đây. Nếu sau khi đánh giá lại, giá trị còn lại của một tài sản giảm xuống, phần
chênh lệch giảm sẽ được ghi nhận vào Báo cáo lãi, lỗ sau khi bù trừ với khoản
chênh lệch đánh giá tăng được ghi nhận trong vốn chủ sở hữu trước đây.
- Về bất động sản đầu tư: Thị trường bất động sản Việt Nam đang ngày càng
trở nên minh bạch, có nhiều nhà cung cấp lớn, về cơ bản có đầy đủ giá tham chiếu
thông qua các sàn giao dịch. Vì vậy, có căn cứ để xác định các yếu tố về GTHL và
các nội dung dự kiến được sửa đổi, bổ sung là khả thi.
156
- Về Tài sản dài hạn cho mục đích thanh lý: Về mặt thực tiễn, nhiều DN có
những loại tài sản dài hạn nhưng không còn cần dùng khi các hoạt động kinh doanh
sử dụng những tài sản đó không còn được tiếp tục triển khai, đặc biệt là tại các DN
đang trong quá trình cổ phần hóa có rất nhiều loại tài sản không cần dùng cần phải
thanh lý hoặc trả lại cho chủ sở hữu. Vì vậy việc ban hành Chuẩn mực này là rất
phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Một trong những nội dung chủ yếu của Chuẩn mực là yêu cầu các tài sản dài
hạn không sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh mà nắm giữ để bán phải
được ghi nhận theo GTHL trừ chi phí bán. Như vậy, vấn đề ở đây là làm sao xác
định được GTHL của các tài sản này để phản ánh trung thực trên BCTC. Theo
khảo sát thực tế tại các DN thì nhiều tài sản có thể xác định được GTHL nhưng
cũng có một số tài sản đặc thù của ngành không có thị trường hoạt động nên cũng
khó xác định được GTHL. Tuy nhiên về lâu dài, việc xác định giá trị và ghi nhận
các tài sản này về cơ bản vẫn đảm bảo khả thi do thị trường Việt Nam nói chung
và hoạt động thẩm định giá nói riêng ngày càng phát triển.
3.6. Điều kiện để thực hiện đƣợc giải pháp
3.6.1. Về thị trường
Việt Nam hiện nay đang trong quá trình hoàn thiện hệ thống CMKT quốc
gia theo các IAS/IFRS trong đó như trên đã phân tích, việc ban hành các nhóm
CMKT về GTHL tại Việt Nam gặp phải một vấn đề khó khăn rất lớn, đó là hầu như
chưa có thị trường hoạt động để xác định GTHL của các tài sản và nợ phải trả trên
BCTC của DN mà chủ yếu chỉ là TTCK cho các giao dịch liên quan đến các loại
chứng khoán là tài sản và nợ phải trả của DN. Do đó, với những nguyên tắc kế toán
chủ yếu dựa trên cơ sở ước tính như IFRS thì việc xác định GTHL là rất khó khăn.
Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến của các chuyên gia cho rằng, ngay cả trong
CMKT quốc tế thì GTHL cũng được chia thành 3 cấp độ thị trường hoạt động.
Ở cấp độ 1, các tài sản hay nợ phải trả của DN đều có dữ liệu tham chiếu là
giá niêm yết trên thị trường của từng loại tài sản hay công nợ và các DN có thể thu
thập thông tin ngay tại thời điểm đo lường.
Ở cấp độ 2, các tài sản hay nợ phải trả của DN chưa có dữ liệu tham chiếu
mà chỉ có giá tham chiếu của các tài sản hay nợ phải trả tương tự trên thị trường để
157
DN có thể tham khảo vận dụng, mức độ phù hợp thấp hơn so với giá niêm yết cấp
độ 1;
Ở cấp độ 3, dữ liệu tham chiếu không sẵn có tại ngày đo lường, DN phải
phát triển các dữ liệu tham chiếu bằng cách sử dụng các thông tin tốt nhất đã có mà
có thể bao gồm dữ liệu riêng của DN để có thể đưa ra được những ước tính tốt nhất
về GTHL.
Do đó, trong giai đoạn đầu mới đi vào áp dụng chuẩn mực về GTHL, những
tài sản hay nợ phải trả nào (ví dụ các chứng khoán niêm yết) của DN nếu có thị
trường ở cấp độ 1 thì căn cứ vào giá trên thị trường để xác định GTHL của các tài
sản hay nợ phải trả đó. Những tài sản và nợ phải trả nào có thể xác định được
GTHL ở cấp độ 2 thì căn cứ vào giá thị trường ở cấp độ 2 để xác định và còn một
số tài sản và nợ phải trả của DN không có giá trị trường ở cấp độ 1 và cấp độ 2 thì
chỉ có thể xác định được GTHL ở cấp độ 3. Ngay cả DN ở các quốc gia phát triển,
cũng không phải tất cả tài sản và nợ phải trả đều có thị trường hoạt động ở cấp độ 1
mà cũng có ở cả 3 cấp độ do đó có nhiều ý kiến cho rằng, nhu cầu của nền kinh tế
sẽ thúc đẩy thị trường hoạt động cho các tài sản và nợ phải trả ngày càng phát triển
thì khi đó, các tài sản và nợ phải trả của DN được xác định GTHL ở cấp độ 1 và
cấp độ 2 ngày càng tăng và ở cấp độ 3 ngày càng giảm đi làm cho giá trị các khoản
mục trên BCTC ngày càng được ước tính hợp lý hơn. Như vậy, có thể thấy rằng,
việc áp dụng mô hình GTHL ở Việt Nam cũng không phải quá phức tạp, có thể
chưa được tốt ngay trong giai đoạn trước mắt và ngắn hạn nhưng về lâu dài sẽ tốt
dần lên.
Tuy nhiên, về góc độ của cơ quan quản lý cũng có những vướng mắc vì
trong giai đoạn đầu nếu không có những hướng dẫn chi tiết và cụ thể, các DN có
thể tùy ý vận dụng các quy định chung của chuẩn mực để đưa ra những ước tính
khác nhau dẫn đến tình trạng lộn xộn. Do đó, để việc áp dụng chuẩn mực về GTHL
mang tính khả thi, trước mắt Bộ Tài chính cần sớm ban hành danh mục quy định
chỉ những loại tài sản và nợ phải trả nào của DN mới được áp dụng mô hình GTHL
và GTHL của những tài sản và nợ phải trả đó căn cứ vào đâu để xác định. Những
tài sản và nợ phải trả khác của DN mà chưa có tên trong danh mục thì sẽ chưa áp
dụng mô hình GTHL.
158
3.6.2 Về nguồn nhân lực, vật lực
So với các nước phát triển như Anh, Mỹ, Úc,… việc soạn thảo, cập nhật và
ban hành hệ thống CMKT quốc gia sẽ do Ủy ban CMKT quốc gia đó thực hiện. Ủy
ban CMKT của các quốc gia này có nguồn nhân sự dồi dào bao gồm những chuyên
gia cao cấp trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán đặc biệt là những người đã từng làm
việc tại các vị trí cấp cao trong các DN kiểm toán Big 4. Các quốc gia này ý thức
rất rõ về vai trò của kế toán, kiểm toán đối với sự phát triển bền vững thị trường tài
chính quốc gia nên họ đầu tư kinh phí ở mức độ thỏa đáng để các Ủy ban này có
khả năng thu hút được các chuyên gia cao cấp vào làm việc với mức thù lao xứng
đáng đồng thời có đủ kinh phí để chủ động và kịp thời thực hiện việc xây dựng, cập
nhật và ban hành các CMKT quốc gia theo thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có Ủy ban soạn thảo CMKT quốc gia như các
quốc gia khác. Chức năng nghiên cứu, soạn thảo và cập nhật hệ thống CMKT Việt
Nam theo thông lệ quốc tế được giao cho Cục Quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán
là một đơn vị thuộc Bộ Tài chính thực hiện.
Thực tế hiện nay, mặc dù công việc hoàn thiện hệ thống CMKT Việt Nam
theo IAS/IFRS là rất nặng nề nhưng sự đầu tư hoặc hỗ trợ cho triển khai các công
việc còn rất hạn chế chưa đem lại hiệu quả. Bởi vì, ngoài việc cập nhật 26 CMKT
đã ban hành phù hợp với những thay đổi của các IAS và IFRS thì Việt Nam còn dự
kiến sẽ ban hành những CMKT rất mới và phức tạp liên quan đến GTHL, đến công
cụ tài chính, các chuẩn mực đặc thù của một số ngành cũng như một số CMKT
khác.
Các chuẩn mực mới dự kiến sẽ ban hành này chưa từng có CMKT Việt Nam
tương ứng, chưa qua áp dụng trong thực tế của nền kinh tế. Việc đào tạo các
chuyên gia trực tiếp soạn thảo hệ thống CMKT Việt Nam một cách bài bản là điều
rất cần thiết nhưng đòi hỏi phải có một nguồn kinh phí tương đối lớn để triển khai
thực hiện. Hiện nay nguồn kinh phí của ngân sách nhà nước cho hoạt động này rất
hạn chế, hầu như chưa đủ kinh phí để in ấn, phôtô tài liệu phục vụ các cuộc họp
trong khi hầu như không có dự án khác hỗ trợ. Mặc dù có một số dự án tài trợ cho
một vài hoạt động như tổ chức hội thảo nhưng rất đơn lẻ và mang tính dời dạc mà
không có những khóa đào tạo sâu về chuyên môn kỹ thuật của từng CMKT mới để
159
các nhà soạn thảo chuẩn mực có thể hiểu rõ ràng, chi tiết và cụ thể về từng CMKT
quốc tế từ đó mới có thể đánh giá các chuẩn mực này áp dụng vào Việt Nam ở mức
độ nào cho phù hợp.
Đồng thời, với cơ chế huy động chuyên gia mang tính hỗ trợ và giúp đỡ từ
các DN kiểm toán, các trường đại học, hội nghề nghiệp như hiện nay thì công việc
hoàn thiện hệ thống CMKT Việt Nam là rất khó thực hiện.
Ngoài ra, nhận sự kế toán tại các DN cần phải được trang bị lại các kỹ năng
và kiến thức, cụ thể:
- Thứ nhất, là kiến thức về nguyên lý kế toán, để hiểu được những vấn đề cơ
bản về kế toán. Nguyên lý kế toán đóng vai trò quan trọng, xuyên suốt trong quá
trình tác nghiệp tại đơn vị vì việc lập và trình bày BCTC đều gắn liền với nguyên
lý, khuôn mẫu kế toán;
- Thứ hai, do phương pháp kế toán là khách quan, không phụ thuộc vào ý
muốn của bất cứ ai mà chỉ bị ảnh hưởng bởi bản chất và cách thức vận hành của
các giao dịch kinh tế, nên người làm kế toán phải được trang bị các kiến thức và có
hiểu biết về giao dịch kinh tế, tài chính chứ không chỉ đơn thuần là kiến thức ghi
chép sổ sách. Do sự đa dạng của thực tiễn, nhiều giao dịch kinh tế phát sinh không
được hướng dẫn trong các văn bản quy phạm pháp luật nên người làm kế toán cần
phải biết lựa chọn các nguyên tắc kế toán phù hợp để phản ánh giao dịch kinh tế
phát sinh, vận dụng các nguyên tắc lý thuyết của chuẩn mực vào từng tình huống
cụ thể của thực tiễn đơn vị;
- Thứ ba, người làm kế toán phải hiểu được yêu cầu của người sử dụng
BCTC để có thể cung cấp thông tin tài chính hữu ích. Như trên đã nói, phần lớn dữ
liệu đầu vào cho kế toán không xuất phát từ bộ phận kế toán, như vậy người làm kế
toán cần biết cách lấy dữ liệu, tức là đưa ra yêu cầu cụ thể đối với các bộ phận liên
quan (bộ phận kỹ thuật, kinh doanh, chiến lược, thẩm định giá...) để họ có thể cung
cấp được dữ liệu theo đúng yêu cầu cho việc lập và trình bày BCTC;
- Thứ tư, khi đã có dữ liệu được cung cấp, người làm kế toán cần có các kỹ
năng để xử lý dữ liệu và trình bày các dữ liệu đó trên BCTC, biến các con số khô
khan trở thành các con số biết nói;
- Thứ năm, nhiều quy định của Chuẩn mực yêu cầu sử dụng các kỹ năng tính
160
toán tài chính, như tính dòng tiền chiết khấu, xác định GTHL, giá trị có thể thu hồi,
ước tính tổn thất...Ngoài ra, do nhiệm vụ của kế toán là cung cấp thông tin hữu ích
cho việc ra quyết định quản lý của chủ DN nên người làm kế toán phải có được các
kiến thức về tài chính, nắm được kỹ năng tổng hợp và phân tích thông tin tài chính
quá khứ và dự báo trong tương lai;
- Thứ sáu, thực nghĩa nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước luôn là một nhiệm
vụ không thể thiếu của DN, vì vậy người làm kế toán phải có các kiến thức về kê
khai, quyết toán thuế.
Tất cả các kỹ năng nêu trên đều có vai trò và vị trí của nó, tuy nhiên các kỹ
năng lập và trình bày BCTC, các hiểu biết về bản chất và cách thức vận hành của
các giao dịch kinh tế đóng vai trò then chốt vì thiếu nó, người làm công tác kế toán
không thể cung cấp được thông tin tài chính hữu ích cho người sử dụng BCTC
phục vụ việc ra các quyết định quản lý, điều hành – mục đích chính của công tác kế
toán. Các kỹ năng ghi sổ kế toán (lập các bút toán định khoản), kê khai thuế đóng
3.6.3 Về sự hợp tác giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp
vai trò thứ yếu, chỉ mang tính chất hỗ trợ cho mục đích chính của công tác kế toán.
Cơ quan soạn thảo CMKT Việt Nam chính là cơ quan quản lý nhà nước về
lĩnh vực kế toán. Việc hợp tác giữa cơ quan quản lý nhà nước với các DN kể cả các
DN dịch vụ kế toán, kiểm toán hoặc các hội nghề nghiệp về kế toán, kiểm toán cần
chặt chẽ thì công việc hoàn thiện hệ thống CMKT Việt Nam theo CMKT quốc tế
mới đem lại những lợi ích thiết thực và đạt hiệu quả cao.
Do CMKT có phạm vi ảnh hưởng rất rộng, đến hầu hết các DN thuộc mọi
thành phần kinh tế vì vậy để hệ thống CMKT Việt Nam sau khi được cập nhật và
hoàn thiện có tính khả khi cao thì trong quá trình xây dựng chuẩn mực cần có sự
đóng góp và tham gia ý kiến của cộng đồng các DN đối với cơ quan soạn thảo
CMKT.
Nhân sự của cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực kế toán thông thường là
những người ít có kinh nghiệm thực tiễn hạch toán kế toán nhưng DN lại là đối
tượng trực tiếp áp dụng những quy định và hướng dẫn của CMKT vào thực tiễn nên
việc hợp tác giữa các đối tượng nêu trên sẽ đem lại một hệ thống CMKT phù hợp
với thông lệ quốc tế nhưng cũng thuận lợi cho việc áp dụng trong thực tế tại Việt
161
Nam.
3.6.4 Về công tác đào tạo, tuyên truyền
Do các quy định liên quan đến GTHL là tương đối phức tạp và khó hiểu và
thị trường hoạt động cho các tài sản và nợ phải trả của DN chưa phát triển nên cần
công tác đào tạo, tuyên truyền cho các kỹ thuật viên xác định giá trị DN, các kế
toán viên và những nhà quản lý của DN, đội ngũ người hành nghề kế toán, kiểm
toán hiểu rõ về việc áp dụng và thực hiện việc lập và trình bày BCTC vận dụng
GTHL là điều cần thiết. Khi đã hiểu rõ được các quy định về GTHL thì việc triển
khai và thực hiện sẽ thuận lợi hơn.
Hơn nữa, không chỉ cơ quan ban hành CMKT, các đối tượng thực hiện cần
phải hiểu rõ về việc xác định GTHL mà người sử dụng thông tin, người sử dụng kết
quả của công tác kế toán trong việc đưa ra các quyết định kinh tế cũng phải có
những hiểu biết nhất định về vấn đề này.
Đồng thời, do đặc thù của Việt Nam là các CMKT liên quan đến GTHL
chưa được ban hành và đưa vào áp dụng, thị trường hoạt động cho các tài sản và nợ
phải trả của DN chưa phát triển nên các xét đoán và ước tính sẽ mang tính chủ quan
của người thực hiện do đó cần phải tuyên truyền phổ biến để nâng cao ý thức đạo
đức nghề nghiệp của đội ngũ nhân viên kế toán của DN cũng như những người
hành nghề thẩm định giá, hành nghề dịch vụ kế toán, kiểm toán để việc áp dụng các
CMKT mới có liên quan đến GTHL đem lại hiệu quả.
Để đáp ứng yêu cầu khi áp dụng GTHL khi trình bày BCTC thì các trường
đại học, các cơ sở đào tạo sẽ phải thay đổi phương pháp đào tạo nguồn nhân lực để
hướng đến đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin tài chính minh bạch đặc biệt khi lập
và trình bày BCTC theo GTHL.
Kết luận chƣơng 3
Chương III luận án đã trình bày khái quát chung về định hướng phát triển
công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam, về yêu cầu hoàn thiện về lập và trình
bày báo cáo tài chính cho các công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam khi vận
dụng giá trị hợp lý. Ngoài ra, luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện việc lập và
162
trình bày báo cáo tài chính cho các công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam
khi vận dụng giá trị hợp lý.
Trong phần giải pháp, luận án đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định
pháp lý của Việt Nam về lập và trình bày BCTC khi vận dụng giá trị hợp lý; các
giải pháp hoàn thiện về việc đo lường các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính; các giải
pháp hoàn thiện về việc ghi nhận chênh lệch đánh giá lại các chỉ tiêu trên Báo cáo
tài chính sau khi xác định giá trị hợp lý tại các công ty chứng khoán niêm yết; và
các giải pháp hoàn thiện việc lập và trình và trình bày thông tin trên BCTC trong đó
tác giải đã đề xuất các mẫu biểu báo cáo tài chính cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ngoài ra, luận án cũng đề xuất lộ trình áp dụng trong ngắn hạn và dài hạn và đánh
giá tính khả thi và phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam.
163
KẾT LUẬN
TPP và các Hiệp định thương mại, đầu tư song phương, đa phương mà Việt
Nam đã đàm phán ký kết mở ra một cơ hội mới cho sự phát triển của nền kinh tế
và các DN để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam
đang phát triển và hội nhập sâu với quốc tế, đặc biệt là sự hội nhập của thị trường
vốn và thị trường tài chính, các giao dịch về công cụ tài chính ngày càng sôi động,
cung cấp cho các DN, nhà đầu tư nhiều sự lựa chọn trong việc tìm kiếm lợi nhuận
và phòng ngừa rủi ro thông qua các công cụ tài chính. Thông lệ quốc tế hướng đến
việc trình bày thông tin tài chính một cách thận trọng, đề cao sự ổn định và an toàn
tài chính lên trên mục tiêu lợi nhuận. Thông lệ quốc tế yêu cầu ghi nhận ngay các
khoản tổn thất do suy giảm giá trị tài sản, do biến động về GTHL, do giá trị thuần
có thực hiện được hoặc giá trị có thể thu hồi của tài sản thấp hơn giá trị ghi sổ…
Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan
đến việc áp dụng GTHL cho phù hợp với thông lệ và CMKT quốc tế với mục đích
minh bạch thông tin tài chính, cung cấp những thông tin tài chính hữu ích cho các
nhà đầu tư để ra quyết định đầu tư.
Hiện nay, CTCK niêm yết của Việt Nam đang bắt đầu triển khai áp dụng
giá trị hợp lý trong công tác kế toán đang gặp rất nhiều khó khăn do không có đầy
đủ cơ sở pháp lý và kinh nghiệm triển khai, với mong muốn đóng góp những kiến
thức của mình vào việc triển khai áp dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam và đặc biệt
giúp các công ty chứng khoán niêm yết khi lập và trình bày báo cáo tài chính, luận
án đã đạt được những kết quả sau:
Thứ nhất: Làm rõ những lý luận cơ bản về việc lập và trình bày BCTC cho
DN theo GTHL, các nguyên tắc, phương pháp lập và trình bày BCTC theo giá trị
hợp lý, phân tích thêm về các yếu tố ảnh hưởng đến việc lập và trình bày báo cáo
tài chính khi áp dụng GTHL, và tổng hợp các kinh nghiệm của một số nước trên thế
giới khi vận dụng giá trị hợp lý và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Thứ hai: Nghiên cứu, khảo sát, mô tả thực trạng vận dụng giá trị hợp lý khi
lập và trình bày Báo cáo tài chính của các công ty chứng khoán niêm yết của Việt
Nam, đánh giá thực trạng với các ưu điểm và những tồn tại và xác định các nguyên
164
nhân của những tồn tại. Ngoài ra, luận án đã phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến
việc vận dụng giá trị hợp lý khi lập và trình bày báo cáo tài chính.
Thứ ba: Từ những tồn tại khi triển khai vận dụng giá trị hợp lý khi lập và
trình bày báo cáo tài chính của công ty chứng khoán niêm yết, kết hợp với lý luận
đã được hệ thống, luận án đã đề xuất những giải pháp hoàn thiện nhằm khắc phục
những bất cập đã nêu. Trong đó:
Giải pháp hoàn thiện quy định pháp lý của Việt Nam về lập và trình bày
BCTC khi vận dụng GTHL;
Giải pháp hoàn thiện về việc đo lường các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính và
ghi nhanaj chênh lệch đánh giá lại các chỉ tiêu trên BCTC sau khi xác định theo
GTHL tại các CTCK niêm yết;
Giải pháp hoàn thiện việc lập và trình bày thông tin trên báo cáo tài chính
theo đó đề xuất các nội dung và mẫu biểu các báo cáo tài chính.
Để đảm bảo tính khả thi của các giải pháp, luận án đã đưa ra các điều kiện
để thực hiện được giải pháp như về thị trường, về nguồn nhân lực, vật lực, về sự
hợp tác giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp, về công tác đào tạo, tuyên
truyền.
Mặc dù luận án đạt được một số kết quả nhất định, nhưng do thời gian và
trình độ của NCS còn hạn chế nên luận án sẽ không tránh khỏi những sai sót, hạn
chế nên NCS kính mong các thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa học, các nhà quản lý
góp ý để nội dung của luận án được hoàn thiện hơn nữa./.
165
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA CÁC TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Vân, "Một số ý kiến về việc áp dụng giá trị hợp lý vào việc lập và trình bày báo cáo tài chính ở Việt Nam", Tạp chí kế toán và kiểm toán số 12/2015, năm 2015, trang 11, 12.
2. Nguyễn Thị Vân, "Một số ý kiến về việc áp dụng giá trị hợp lý khi lập và trình bày báo cáo tài chính tại các công ty chứng khoán tại Việt Nam", Tạp chế kế toán và kiểm toán số tháng 10/2018, năm 2018, trang 7- 9.
3. Nguyễn Thị Vân,"Ghi nhận và trình bày báo cáo tài chính áp dụng cho công ty chứng khoán liên quan đến phát hành chứng quyền có bảo đảm", Tạp chí Thông tin và phát triển số 12/2018, năm 2018 , trang 24-28.
4. Nguyễn Thị Vân, "Kinh nghiệm của Hàn quốc khi vận dụng giá trị hợp lý để lập và trình bày báo cáo tài chính và bài học cho Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu khoa học kiểm toán số 133-11/2018, năm 2018, trang 57- 62.
5. Nguyễn Thị Vân, “Ấp dụng giá trị hợp lý trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính Việt Nam”, Tạp chí kế toán và kiểm toán số 4/2019, năm 2019, trang 10-14.
166
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Dương Thị Thảo (2013), Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về sử
dụng giá hợp lý trong chế độ kế toán doanh nghiệp hiện nay, Luận án
tiến sỹ kinh tế;
2. Hoàng Thị Bích Hà (2018), An toàn tài chính của các công ty chứng
khoán Việt Nam;
3. Nguyễn Thế Lộc (2010), Tính hợp lý của giá trị hợp lý trong hệ thống
chuẩn mực BCTC quốc tế, Tạp chí kiểm toán;
4. Nguyễn Ngọc Lan (2017), Nghiên cứu áp dụng giá trị hợp lý trong kế
toán tại các doanh nghiệp Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế;
5. Lê Hoàng Phúc (2014), Vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế để hoàn
thiện hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp trong điều kiện ở Việt
Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế;
6. Mai Ngọc Anh (2011), Có nên sử dụng giá trị hợp lý là cơ sở tính giá
duy nhất trong kế toán tài chính, Tạp chí nghiên cứu khoa học kiểm toán;
7. Mai Ngọc Anh (2012), Kế toán theo giá trị hợp lý và khủng hoảng tài
chính, Tạp chí nghiên cứu khoa học kiểm toán số 54;
8. Mai Ngọc Anh (2014), Các mô hình tính giá trong cải cách hệ thống kế
toán của Việt Nam, Tạp chí tài chính;
9. Mai Ngọc Anh và Lưu Đức Tuyên (2016), nghiên cứu áp dụng giá trị
hợp lý trong hệ thống kế toán ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ Tài chính;
10. Phạm Thị Minh Hồng (2016), Nghiên cứu áp dụng kế toán suy giảm giá
trị TSCĐ hữu hình tại Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế;
11. Trần Văn Tùng (2017), Vận dụng giá trị hợp lý trong kế toán tại các công
ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM, tạp chí điện tử tài
chính;
12. Trường Đại học Thương Mại (2010), Giáo trình kế toán tài chính, Nhà
xuất bản thống kê;
167
13. Thông tư của Bộ Tài chính ban hành hệ thống 26 chuẩn mực kế toán
Việt Nam
14. Thông tư số 210/2014/TT-BTC (2014), ban hành chế độ kế toán áp dụng
cho Công ty chứng khoán
15. Thông tư số 334/2016/TT-BTC, sửa đổi chế độ kế toán áp dụng cho công
ty chứng khoản.
16. Ủy ban chứng khoán nhà nước (2014), Báo cáo thường niên;
17. Ủy ban chứng khoán nhà nước (2015), Báo cáo thường niên;
18. Ủy ban chứng khoán nhà nước (2016), Báo cáo thường niên;
19. Ủy ban chứng khoán nhà nước (2017), Báo cáo thường niên;
20. World Bank (2016), Đánh giá sự tuân thủ các chuẩn mực và quy tắc lính
vực kế toán kiểm toán, Báo cáo quốc gia.
Tiếng Anh
21. Cain (2013), Giá trị hợp lý (Fair value), Tạp chí Charter;
22. Christian Laux và Christian Leuz (2009), Khủng hoảng kế toán theo giá
trị hợp lý, ý nghĩa của các cải cách gần đây (The crisis of fair value
accounting, making sense of the recent debate), Tạp chí Accouting,
Organizations and Society;
23. David Cairns, Dianne Masoudi và Ann Tarca (2005), về ghi nhận giá trị
hợp lý theo chuẩn mực kế toán quốc tế và lựa chọn chính sách kế toán ở
Anh và Australia (IFRS fair value measurement and accounting policy
choice in the United Kingdom and Australia), The Bristish Accounting
Review;
24. Deloitte (2010), Financial Reporting in Hong Kong, IAS plus;
25. Demand for Fair value accounting: the case of the asset revaluation
Boom in Korea during the Global Financial Crisis, tác giả Choong- Yuel
Yoo tháng 5/2017;
26. E&Y (2017), International GAAP, volume 1;
27. E&Y (2017), International GAAP, volume 2;
28. E&Y (2017), International GAAP, volume 3;
168
29. Hội đồng chuẩn mực kế toán doanh nghiệp (ASBJ) (2018), Hội nghị với
Bộ Tài chính Việt Nam;
30. Korea Accounting Standards Board (2010), IFRS adoption and
implementation in Korea, and the Lessons learned, IFRS country Report;
31. Korea – IAS plus;
32. International Financial Reporting Standards 2009;
33. International Finacial Reporting Standards 2011;
34. International Financial Reporting Standards 2015;
35. International Fiancial Reporting Standards 2016;
36. IFRS adoption in Korea and its effects in stock market and valuation, tác
giả Ye Ji;
37. IFRS adoption and implementation in Korea, and the lessons learned,
Korea accounting Standards Board;
38. John Wiley & Sons Australia, Ltd, 2000, Accounting Theory 4th edition;
39. John Wiley & Sons Australia, Ltd, 2010, Accounting Theory 7th edition;
40. Omiros Georgious – Norwich Business School, University of East
Anglia- Norwich và Lisa Jack - Ports mouth Business school, University
of Ports mounth (2005), lịch sử kế toán theo giá trị hợp lý (A history
behind fair value accouting), The Bristish Accounting Review;
41. Peter William (2002), IFRS đã đưa ra một cuộc cải cách thầm lặng đối
với BCTC, Tạp chí “Giám đốc tài chính”;
42. The theory and measurement of Business Income (1961)
43. Vera Palea (2014), Kế toán theo giá trị hợp lý và tác dụng của nó đối với
người sử dụng BCTC,Tạp chí kế toán tài chính (Journal of Financial
reporting and Accounting);
44. Website: www.ifrs.org.
169
PHỤ LỤC 1
DANH SÁCH CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NIÊM YẾT CỦA VIỆT NAM Tính đến tháng 4 năm 2018
STT
Năm thành lập
Ngày niêm yết
Tên công ty
Mã giao dịch
HNX (APS)
2006
2010
Công ty Cổ phần Chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương
HNX (BVS)
1999
2006
1 2 Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt
HNX (CTS)
2000
2009
Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam
2008 2007 HNX (MBS) 2000 2006 HNX (ORS) 2006 HNX (PSI)
2010 2011 2016 2010 2010
3 4 Công ty Cổ phần Chứng khoán Hòa Bình HNX (HBS) 5 Công ty Cổ phần Chứng khoán Đầu tư Việt Nam HNX (IVS) 6 Công ty Cổ phần Chứng khoán MB 7 Công ty cổ phần chứng khoán Phương Đông 8 Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí
HNX (SHS)
2007
2009
Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội
HNX (VDS)
2006
2010
9 10 Công ty Cổ phần Chứng khoán Rồng Việt
HNX (VIG)
2008
2009
Công ty Cổ phần Chứng khoán Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
HNX (VIX) 2007 HNX (VND) 2006
2009 2010
11 12 Công ty cổ phần chứng khoán IB 13 Công ty Cổ phần Chứng khoán VNDIRECT
Hose (AGR)
2000
2009
Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
Hose (APG)
2007
2010
14 15 Công ty Cổ phần Chứng khoán An Phát
Hose (BSC)
1999
2011
Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
Hose (FTS)
2007
2016
16 17 Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
Hose (HCM) 2003
2009
Công ty Cổ phần Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
1999 2007
2006 2015
18 19 Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn 20 Công ty Cổ phần Chứng khoán Thiên Việt
Công ty cổ phần Chứng khoán Hải Phòng
2003
2006
21
2006
2014
22
Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
Hose (SSI) Hose (TVS) Upcom (HAC) Upcom (SBS)
PHỤ LỤC 2
170
DANH SÁCH CÁC CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM
Stt
Số hiệu
Tên chuẩn mực
1
CM số 01
Chuẩn mực chung
2
CM số 02
Hàng tồn kho
3
CM số 03
Tài sản cố định hữu hình
4
CM số 04
Tài sản cố định vô hình
5
CM số 05
Bất động sản đầu tư
6
CM số 06
Thuê tài sản
7
CM số 07
Kế toán các khoản đầu tư vào công ty liên kết
8
CM số 08
Thông tin tài chính về những khoản vốn góp liên doanh
9
CM số 10
Ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối đoái
10
CM số 11
Hợp nhất kinh doanh
11
CM số 14
Doanh Thu và thu nhập khác
12
CM số 15
Hợp đồng xây dựng
13
CM số 16
Chi phí đi vay
14
CM số 17
Thuế thu nhập doanh nghiệp
15
CM số 18
Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng
16
CM số 19
Hợp đồng bảo hiểm
17
CM số 21
Trình bày báo cáo tài chính
18
CM số 22
Trình bày bổ sung báo cáo tài chính của các ngân hàng và tổ chức tài chính tương tự
19
CM số 23
Các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm
20
CM số 24
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
21
CM số 25
Báo cáo tài chính hợp nhất và kế toán khoản đầu tư vào công ty con
22
CM số 26
Thông tin về các bên liên quan
23
CM số 27
Báo cáo tài chính giữa niên độ
171
24
CM số 28
Báo cáo bộ phận
25
CM số 29
Thay đổi chính sách kế toán, ước tính kế toán và các sai sót
26
CM số 30
Lãi trên cổ phiếu
PHỤ LỤC 3
1- Danh mục Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế liên quan đến
giá trị hợp lý cần đƣợc bổ sung
172
STT Số hiệu
Tên Chuẩn mực/Mục đích áp dụng
IAS 36 Lỗ do suy giảm giá trị tài sản
1
IFRS 7 Công cụ tài chính: Trình bày (Thay thế IAS 32)
2
IFRS 9 Công cụ tài chính
3
IFRS 13 Xác định giá trị hợp lý
4
2- Danh mục Chuẩn mực Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung liên quan
đến giá trị hợp lý
STT
Số hiệu
Tên Chuẩn mực/Mục đích áp dụng
1
VAS 01 Khuôn khổ về việc lập và trình bày Báo cáo tài chính
VAS 03
Tài sản cố định hữu hình
2
VAS 04
Tài sản cố định vô hình
3
VAS 05
Bất động sản đầu tư
4
VAS 06
Thuê tài sản
5
6
VAS 21 Trình bày báo cáo tài chính
PHỤ LỤC 04
Danh mục các đối tƣợng khảo sát
STT
Loại phiếu
Đối tƣợng khảo sát/ phỏng vấn
Số phiếu gửi đi
1
22
Số phiếu trả lời đã thu về 18
Các đối tượng tham gia vào quá trình lập BCTC
Công ty chứng khoán niêm yết
173
Nhà đầu tư Kiểm toán viên
50 25
2 3
32 22
Các đối tượng sử dụng BCTC Các đối tương cung cấp dịch vụ tài chính cho công ty chứng khoán
20
18
30
4
27
Cơ quan quản lý Nhà nước
25
13
Thẩm định giá viên Chuyên gia Bộ Tài chính Chuyên gia ủy ban chứng khoán
Tổng
172
130
Danh sách phỏng vấn trực tiếp
Ngƣời đƣợc phỏng vấn
Tên đơn vị
MBS Hội sở
STT 1
2
Lê Thị Thu Hiền Phó Phòng Kế toán Nguyễn Hà Ninh Kế toán kiểm soát
VNDIRECT Securities Company
SSI
3
PwC Việt Nam
4
5
6
Công ty kiểm toán và thẩm định giá Việt Nam E&Y Việt Nam
7
Deloitte Việt Nam
8 9
Deloitte Việt Nam KPMG Việt Nam
10
Nguyễn Thu Thủy Kế toán trưởng Nguyen Hoang Nam Partner/Deputy General Director | Assurance Đặng Thị Trinh KTV Trần Mai Thảo - KTV Nguyễn Thanh Vân Nguyễn Tuấn Anh Đặng Thị Vƣơng KTV Đặng Xuân Trƣờng Thẩm định giá viên
Công ty thẩm định giá Việt Nam
PHỤ LỤC 05 Giới thiệu tóm tắt về Chuẩn mực báo cáo tài chính số 13 đo lƣờng giá trị hợp lý (IFRS 13)
Chuẩn mực này áp dụng cùng với một Chuẩn mực khác yêu cầu hoặc cho phép đo lường giá trị hợp lý hoặc các công bố về các phép đo giá trị hợp lý (và các phép đo, chẳng hạn như giá trị hợp lý trừ đi chi phí bán, dựa trên giá trị hợp lý hoặc các công bố về những phép đo này), ngoại trừ trong những trường hợp cụ thể.
174
Chuẩn mực này sẽ được áp dụng cho các năm tài chính bắt đầu vào ngày hoặc sau ngày 1/1/2013. Việc áp dụng sớm hơn được cho phép … Một số Chuẩn mực yêu cầu hoặc cho phép các đơn vị đo lường hoặc thông tin giá trị hợp lý của các công cụ tài sản, nợ phải trả hoặc vốn chủ sở hữu. Bởi vì các Chuẩn mực này được phát triển qua nhiều năm, những yêu cầu để đo lường giá trị hợp lý hoặc các thông tin về đo lường giá trị hợp lý đã bị phân tán và trong nhiều trường hợp không tạo thành một công cụ đo lường rõ ràng hoặc mục tiêu công bố. Kết quả là, một vài Chuẩn mực có những hướng dẫn hạn chế làm sao để đo lường giá trị hợp lý, trong khi những Chuẩn mực khác có những hướng dẫn mở rộng, và những hướng dẫn đó không phải lúc nào cũng thống nhất với nhau khi tham chiếu đến giá trị hợp lý. Sự không nhất quán trong các yêu cầu đo lường giá trị hợp lý và công bố thông tin về đo lường giá trị hợp lý góp phần làm phân tán trong thực tế và giảm tính có thể so sánh của thông tin trong các báo cáo tài chính. Chuẩn mực này là biện pháp khắc phục tình trạng đó. IFRS 13 định nghĩa giá trị hợp lý là giá có thể nhận được từ việc bán một tài sản hoặc trả tiền để chuyên một khoản nợ phải trả trong một giao dịch có trật tự giữa những thành phần thị trường tại thời điểm đo lường. Các tài sản hoặc nợ phải trả được định giá trị hợp lý có thể là một trong các trường hợp sau: một tài sản hoặc một khoản nợ phải trả độc lập (ví dụ một công cụ tài chính hoặc một tài sản phi tài chính); hoặc một nhóm tài sản, một nhóm nợ phải trả hoặc một nhóm tài sản và nợ phải trả (ví dụ một đơn vị hoặc một việc kinh doanh có khả năng tạo ra dòng tiền). Việc giá trị hợp lý được xác định cho một tài sản hoặc nợ phải trả độc lập hay, một nhóm tài sản, một nhóm nợ phải trả hoặc một nhóm tài sản và nợ phải trả cho mục đích ghi nhận và công bố phụ thuộc vào đơn vị kế toán. Giá trị hợp lý được xác định với giả định rằng tài sản hoặc nợ phải trả được trao đổi trong một giao dịch có tổ chức giữa các bên tham gia thị trường để bán tài sản hoặc chuyển nhượng khoản nợ phải trả vào ngày định giá với các điều kiện thị trường hiện tại. Giao dịch được sử dụng làm cơ sở để xác định giá trị hợp lý được giả định là giao dịch bán tài sản hoặc chuyển nhượng khoản nợ phải diễn ra trên: thị trường chính để giao dịch tài sản hoặc khoản nợ phải trả đó, hoặc thị trường thuận lợi nhất cho việc giao dịch tài sản và khoản nợ phải trả đó, trong trường hợp không có thị trường chính. Giá trị hợp lý của một tài sản hoặc một khoản nợ phải trả được xác định dựa trên các giả định mà các bên tham gia thị trường sẽ sử dụng khi định giá tài sản hoặc khoản nợ phải trả nhằm đem lại lợi ích kinh tế cao nhất cho họ. Giá trị hợp lý là giá trị có thể nhận được khi bán một tài sản hoặc chuyển nhượng một khoản nợ phải trả trong một giao dịch có tổ chức trên thị trường chính (hoặc thị trường thuận lợi nhất) tại thời điểm định giá trong các điều kiện thị trường hiện tại (tức là giá bán), bất kể giá trị đó được quan sát trực tiếp trên thị trường hoặc được ước tính bằng kỹ thuật định giá khác. Khi xác định giá trị hợp lý của một tài sản phi tài chính, phải xem xét đến khả năng tạo ra lợi ích kinh tế cho các bên tham gia thị trường khi sử dụng tài sản đó một cách tốt nhất ở mức độ cao nhất, hoặc bán cho một bên tham gia thị trường khác có thể sử dụng tài sản đó một cách tốt nhất ở mức độ cao nhất.
175
Việc sử dụng tốt nhất ở mức độ cao nhất một tài sản phi tài chính là sẽ tạo cơ sở định giá sử dụng cho việc xác định giá trị hợp lý của tài sản. Cụ thể: Việc sử dụng tài sản phi tài chính tốt nhất ở mức độ cao nhất có thể đem lại giá trị lớn nhất cho các bên tham gia thị trường thông qua việc sử dụng một nhóm tài sản bao gồm cả tài sản đó (như được lắp đặt hoặc cấu hình để sử dụng) hoặc thông qua việc sử dụng tài sản đó cùng với các tài sản và nợ phải trả khác (ví dụ: một đơn vị kinh doanh); Việc sử dụng tốt nhất ở mức độ cao nhất một tài sản phi tài chính cũng có thể đem lại giá trị tối đa cho các bên tham gia thị trường thông qua việc sử dụng tài sản đó một cách độc lập. Khi đó, giá trị hợp lý của tài sản là giá trị có thể nhận được từ một giao dịch với điều kiện hiện tại để bán tài sản cho các bên tham gia thị trường để sử dụng tài sản đó một cách độc lập. Giá trị hợp lý của một khoản nợ tài chính hoặc khoản nợ phi tài chính hoặc công cụ vốn được xác định với giả định khoản nợ hoặc công cụ vốn chủ sở hữu đó (ví dụ cổ phần phát hành để mua một đơn vị khác) được chuyển nhượng cho các bên tham gia thị trường tại ngày định giá. Việc chuyển nhượng khoản nợ hoặc công cụ vốn đó được thực hiện dựa trên các giả định sau: Khoản nợ phải trả được chuyển nhượng phải vẫn còn tồn tại và bên nhận chuyển nhượng sẽ phải hoàn thành nghĩa vụ nợ. Khoản nợ này sẽ không được thanh toán hoặc tất toán bằng một cách nào đó vào ngày định giá. Công cụ vốn chủ sở hữu được chuyển giao sẽ vẫn tồn tại và bên nhận chuyển nhượng sẽ có đầy đủ quyền và nghĩa vụ liên quan đến công cụ vốn đó. Công cụ này không được bị huỷ bỏ hoặc tất toán bằng một cách nào đó vào ngày định giá. Khi không thể thu thập được giá niêm yết hoặc giá chuyển nhượng của cùng loại công cụ nợ hoặc công cụ vốn đó hoặc công cụ tương tự nhưng, các công cụ cùng loại này đang được nắm giữ như là tài sản của một đơn vị khác, giá trị hợp lý của các công cụ nợ hoặc công cụ vốn này phải được ước tính theo quan điểm đánh giá của bên tham gia thị trường đang nắm giữ công cụ cùng loại như là một tài sản tại ngày định giá. Khi không có giá niêm yết cho giao dịch chuyển nhượng công cụ nợ hoặc công cụ vốn đó hoặc các công cụ tương tự và các công cụ đó được không các bên khác nắm giữ như là tài sản, một doanh nghiệp cần đo lường giá trị hợp lý của công cụ nợ và công cụ vốn đó dựa trên kỹ thuật định giá từ góc độ của một bên tham gia thị trường phát hành công cụ nợ hoặc bên nắm giữ công cụ vốn. Các kỹ thuật định giá được một doanh nghiệp áp dụng phải phù hợp với các trường hợp và đảm bảo có đủ số liệu để xác định giá trị hợp lý, sử dụng tối đa các đầu vào có thể quan sát được trên thị trường và tối thiểu việc sử dụng các đầu vào không quan sát được trên thị trường. Ba kỹ thuật định giá được sử dụng rộng rãi là phương pháp thị trường, phương pháp chi phí và phương pháp thu nhập. Các kỹ thuật định giá được sử dụng để xác định giá trị hợp lý cần phải sử dụng tối đa các đầu vào có thể quan sát được và giảm thiểu việc sử dụng các đầu vào không quan sát được. Nếu tài sản hoặc khoản nợ phải trả được đo lường ở giá trị hợp lý có giá đặt mua và giá đặt bán (ví dụ về một đầu vào từ thị trường đại lý), mức giá trong khoảng giá đặt mua và giá đặt bán phản ánh chính xác nhất giá trị hợp lý trong các trường hợp sẽ được sử dụng làm cơ sở để đo lường giá trị hợp lý bất kể đầu vào được phân loại trong hệ thống phân cấp đầu vào cho việc xác định giá trị hợp lý ở cấp nào (tức
176
là Cấp 1, 2 hoặc 3). Việc sử dụng giá đặt mua tài sản và giá đặt bán khoản nợ phải trả được cho phép, nhưng không bắt buộc. Các đầu vào Cấp 1 là giá niêm yết của các tài sản hoặc khoản nợ phải trả (không được điều chỉnh) trên các thị trường hoạt động mà doanh nghiệp có thể tiếp cận vào ngày định giá. Các đầu vào cấp 2 là các dữ liệu đầu vào có thể quan sát một cách trực tiếp hoặc gián tiếp được trên thị trường ngoài giá niêm yết được phân loại vào Cấp 1 của tài sản hoặc khoản nợ phải trả. Các đầu vào Cấp 3 là những đầu vào không thể quan sát được đối với tài sản hoặc nợ phải trả. Một doanh nghiệp cần công bố thông tin để giúp người sử dụng báo cáo tài chính đánh giá cả hai vấn đề sau: các kỹ thuật định giá và các đầu vào sử dụng trong quá trình đo lường giá trị hợp lý đối với tài sản và nợ phải trả được đo lường giá trị hợp lý trên cơ sở định kỳ hoặc không thường xuyên sau thời điểm ghi nhận ban đầu và được trình bày trên bản cân đối kế toán; ảnh hưởng của các đo lường giá trị hợp lý với kết quả hoạt động kinh doanh hoặc thu nhập toàn diện khác trong kỳ đối với các việc đo lường giá trị hợp lý định kỳ sử dụng các đầu vào không quan sát được (Cấp 3).
PHỤ LỤC 06 PHIẾU KHẢO SÁT (Sử dụng để khảo sát các công ty chứng khoán niêm yết)
Kính gửi Ông/bà,
Để thực hiện đề tài nghiên cứu “lập và trình bày báo cáo tài chính cho công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam khi vận dụng giá trị hợp lý”, tác giả đã thiết kế Phiếu khảo sát và gửi tới Ông/Bà nhằm tổng hợp những thông tin thực tế về khả năng áp dụng giá trị hợp lý khi lập và trình bày báo cáo tài chính cho công ty chứng khoán niêm yết.
Để một nghiên cứu có căn cứ thực tiễn và đạt hiệu quả, sự giúp đỡ của
Ông/Bà trong việc đưa ra ý kiến của mình trong phiếu khảo sát là rất quan trọng đối
177
với nghiên cứu sinh. Tác giả gửi kèm theo thư này một phiếu khảo sát gồm 7 trang. Số liệu thu thập được tác giả sẽ sử dụng để phân tích tình hình lập và trình bày báo cáo tài chính khi vận dụng giá trị hợp lý trong các công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu sẽ góp thêm căn cứ khoa học cho việc hoàn thiện các hướng dẫn về việc lập và trình bày báo cáo tài chính của công ty chứng khoán nói chung và công ty chứng khoán niêm yết nói riêng.
Thông tin thu thập sẽ được mã hóa và được giữ bí mật. Kết quả nghiên cứu sẽ không nhắc đến danh tính cụ thể của người tham gia khảo sát hoặc tên các công ty mà thay vào đó sẽ sử dụng các ký hiệu chung chung (ví dụ, công ty A, công ty B,…). Tác giả xin đảm bảo mọi dữ liệu được cung cấp sẽ không được sử dụng vào bất kỳ mục đích nào ngoài việc tổng hợp thông tin thực tế cho nghiên cứu này.
Việc trả lời phiếu khảo sát của ông/bà có ý nghĩa rất quan trọng đối với thành công của đề tài nghiên cứu này. Tác giả rất mong nhận được trả lời của quý Ông/Bà.
Xin chân thành cảm ơn Ông/Bà.
Trân trọng kính chào!
PHẦN 1 - THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Tên đề tài nghiên cứu: Vận dụng giá trị hợp lý để Lập và trình bày báo cáo tài chính cho
công ty chứng khoán niêm yết
Tác giả:
NCS. Nguyễn Thị Vân
Đơn vị công tác:
Phòng quản lý, giám sát kế toán Ngân hàng và các tổ chức tài chính
- Cục quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán - Bộ Tài chính
PHẦN 2 - THÔNG TIN VỀ ĐỐI TƢỢNG ĐƢỢC KHẢO SÁT
1. Ông/Bà vui lòng điền đầy đủ các thông tin cá nhân sau:
Họ và tên: …………………………………………………
178
Đơn vị công tác: …………………………………………...........
Vị trí công việc: ………………………………………………
Điện thoại: ………… Email: .…………………
2. Trình độ học vấn
Tiến sĩ
Thạc sĩ
Cử nhân
Cao đẳng trung cấp
3. Chứng chỉ nghề nghiệp kế toán
Chứng chỉ quốc tế
Chứng chỉ hành nghề Việt Nam
Chứng chỉ khác
(ACCA, CPA Aus, CIMA…) (CPA VN, APC…) (Kế toán trưởng, kế toán tổng hợp
kế toán viên chính, kế toán viên…)
4.Độ tuổi
22-27 28-35 36-45
Từ 46 trở lên
5. Giới tính
NAM
NỮ
PHẦN 3 – CÂU HỎI KHẢO SÁT
Ông/Bà vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây bằng cách tích X vào ô lựa chọn và có thể tích vào nhiều lựa chọn:
1. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn kế toán quy định tại chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán về việc sử dụng GTHL:
Đã đầy đủ
Chưa đầy đủ
Ý kiến khác
2. Đơn vị Ông/Bà căn cứ vào quy định nào để áp dụng giá trị hợp lý
Hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và các văn bản hướng dẫn kế toán khác
Các Thông tư hướng dẫn chế độ kế toán áp dụng cho công ty chứng khoán
Cả hai hệ thống trên
3. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn về phương pháp xác định GTHL:
179
Đã đầy đủ
Chưa đầy đủ
Ý kiến khác ……………
4. Theo Ông/Bà, các yếu tố đầu vào phục vụ việc xác định GTHL:
Đã đầy đủ
Chưa đầy đủ
Ý kiến khác……………………
5. Theo Ông/Bà, thông tin giá cả trên thị trường:
Đã minh bạch
Chưa minh bạch
Ý kiến khác……………………..
6. Các phương pháp được sử dụng để xác định giá trị hợp lý tại đơn vị của Ông/Bà
Đối tượng
Khác
Các công cụtài chính
Các khoản đầu tƣ
Tài sản cố định
Bất động sản đầu tƣ
Phương pháp
Phương pháp tiếp cận thị trường
Phương pháp tiếp cận chi phí
Phương pháp tiếp cận thu nhập
7. Các yếu tố đầu vào được sử dụng để xác định giá trị hợp lý tại đơn vị của Ông/Bà?
Đối tƣợng
Doanh thu
Các công cụ tài chính
Tài sản cố định
Bất động sản đầu tƣ
Các khoản đầu tƣ
Yếu tố đầu vào
Khác
Cấp độ 1
Cấp độ 2
Cấp độ 3
8. Theo Ông/Bà, sự phát triển của các dịch vụ định giá trong doanh nghiệp kiểm toán và doanh nghiệp định giá:
Đã đáp ứng nhu cầu
Chưa đáp ứng nhu cầu
Ý kiến khác
180
9. Trong quá trình xác định giá trị hợp lý đơn vị Ông/bà thường tham khảo những thông tin và những dữ liệu lấy được từ các thị trường nào:
Thị trường chứng khoán
Thị trường bất động sản
Thị trường khác: ……………………………………………………
10. Khi ước tính giá trị hợp lý đơn vị Ông/bà thường sử dụng các thông tin nào sau đây:
Giá tham chiếu niêm yết trên thị trường
Các dữ liệu thống kê thích hợp khác được công khai
Sử dụng dịch vụ thẩm định giá
Đơn vị có bộ phận tự phân tích và tính toán
Khác:………………………………………………………………………..
11. Danh mục đối tượng kế toán đã áp dụng giá trị hợp lý trong đơn vị của Ông/Bà
Các tài sản tài chính niêm yết
Các tài sản tài chính chưa niêm yết
Tài sản cố định (Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình; Tài sản cố định
thuê tài chính; Tài sản nhận bàn giao của Nhà nước; Quyền sử dụng đất)
Bất động sản đầu tư
Các khoản cho vay
Nợ thương mại
Vốn chủ sở hữu
Khác:…………………………
12. Việc xác định giá trị hợp lý cho các đối tượng kế toán trên được thực hiện khi nào
Tại thời điểm ghi nhận ban đầu
Tại thời điểm sau ghi nhận ban đầu
Cả hai thời điểm trên
Thời điểm khác:...........................................
181
13. Đơn vị ông/Bà sử dụng giá trị hợp lý đối với:
Đo lường và ghi nhận tài sản cố định hữu hình, vô hình, bất động sản đầu tư
Đo lường và ghi nhận tài sản tài chính và nợ tài chính
Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty con
Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết
Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư khác
Đo lường và ghi nhận nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
Khác: ………………………………………………………………………..
Không phát sinh.
14. Các tài sản tài chính có được đánh giá lại theo giá thị trường không? Nếu có thì chênh lệch đánh giá lại có được trình bày trên báo cáo tài chính không?
Có
Trên báo cáo tài chính nào: …………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………….
Không
15. Các tài sản phi tài chính có được đánh giá lại theo giá thị trường không? Nếu có thì chênh lệch đánh giá lại có được trình bày trên báo cáo tài chính không?
Có
Trên báo cáo tài chính nào: …………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………….
Không
16.Nợ phải trả có được đánh giá lại theo giá thị trường không? Nếu có thì chênh lệch đánh giá lại có được trình bày trên báo cáo tài chính không ?
Có
Trên báo cáo tài chính nào: …………………………………………………………………
182
……………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………….
Không
17.Vốn chủ sở hữu có được đánh giá lại theo giá thị trường không? Nếu có thì chênh lệch đánh giá lại có được trình bày trên báo cáo tài chính không ?
Có
Trên báo cáo tài chính nào: …………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………….
Không
18. Đơn vị của Ông/Bà có thuyết minh trên BCTC các thông tin về giá trị hợp lý không?
Có
Cụ thể những thông tin nào:…………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………….
Không
19. Trình độ, năng lực của nhân viên trong công ty có đáp ứng được yêu cầu khi áp dụng GTHL:
Đã đáp ứng
Chưa đáp ứng
Ý kiến khác:………………………………………………………………………..
20. Theo Ông/bà, lợi ích của việc sử dụng giá tri hợp lý trong kế toán là:
183
Sư dụng giá trị hợp lý đáp ứng tốt mục tiêu cung cấp thông tin tài chính
Sử dụng giá trị hợp lý đảm bảo thông tin tài chính là thích hợp
Sử dụng giá trị hợp lý đáng tin cậy
Sử dụng giá trị hợp lý nâng cao tính so sánh của thông tin tài chính
Khác:……………………………………………………………………………..
Không thấy có lợi ích gì.
21. Đơn vị Ông/bà có kế hoạch sử dụng các dịch vụ hỗ trợ cho việc xác định giá trị hợp lý nào sau đây:
Dịch vụ định giá tài sản
Dịch vụ tư vấn
Dịch vụ khác:...
Tự bản thân nhân viên trong đơn vị thực hiện mà không sử dụng các dịch vụ hỗ trợ
trong
mình
toán
hiện
của
tại
kế
ty
Bên cạnh những vấn đề trên ông/Bà có thể chia sẻ thêm những đề xuất trong việc áp dụng GTHL nay. công ……………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………….
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của Ông/Bà!
184
PHỤ LỤC 07 PHIẾU KHẢO SÁT (Sử dụng để khảo sát các kiểm toán viên và thẩm định giá viên)
Kính gửi Ông/bà,
Để thực hiện đề tài nghiên cứu về “lập và trình bày báo cáo tài chính cho công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam khi vận dụng giá trị hợp lý”, tác giả đã thiết kế Phiếu khảo sát và gửi tới Ông/Bà nhằm tổng hợp những thông tin thực tế về khả năng áp dụng giá trị hợp lý khi lập và trình bày báo cáo tài chính cho công ty chứng khoán niêm yết.
Để nghiên cứu có căn cứ thực tiễn và đạt hiệu quả, sự giúp đỡ của Ông/Bà trong việc đưa ra ý kiến của mình trong phiếu khảo sát là rất quan trọng đối với nghiên cứu sinh. Tác giả gửi kèm theo thư này một phiếu khảo sát gồm 5 trang. Số liệu thu thập được tác giả sẽ sử dụng để phân tích tình hình lập và trình bày báo cáo tài chính khi vận dụng giá trị hợp lý trong các công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu sẽ góp thêm căn cứ khoa học cho việc hoàn thiện các hướng dẫn về việc lập và trình bày báo cáo tài chính của công ty chứng khoán nói chung và công ty chứng khoán niêm yết nói riêng.
Thông tin thu thập sẽ được mã hóa và được giữ bí mật. Kết quả nghiên cứu sẽ không nhắc đến danh tính cụ thể của người tham gia khảo sát hoặc tên các công ty mà thay vào đó sẽ sử dụng các ký hiệu chung chung (ví dụ, công ty A, công ty B,…). Tác giả xin đảm bảo mọi dữ liệu được cung cấp sẽ không được sử dụng vào bất kỳ mục đích nào ngoài việc tổng hợp thông tin thực tế cho nghiên cứu này.
Việc trả lời phiếu khảo sát của ông/bà có ý nghĩa rất quan trọng đối với thành công
của đề tài nghiên cứu này. Tác giả rất mong nhận được trả lời của quý Ông/Bà.
Xin chân thành cảm ơn Ông/Bà.
Trân trọng kính chào!
185
PHẦN 1 - THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Tên đề tài nghiên cứu: Lập và trình bày báo cáo tài chính cho công ty chứng khoán niêm yết theo giá trị hợp lý
Tác giả:
NCS. Nguyễn Thị Vân
Đơn vị công tác:
Phòng quản lý, giám sát kế toán Ngân hàng và các tổ chức tài chính
- Cục quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán - Bộ Tài chính
PHẦN 2 - THÔNG TIN VỀ ĐỐI TƢỢNG ĐƢỢC KHẢO SÁT
1. Ông/Bà vui lòng điền đầy đủ các thông tin cá nhân sau:
Họ và tên: …………………………………………………………………
Đơn vị công tác: ……………………………………………………………...........
Vị trí công việc: ……………………………………………………………………
Điện thoại: …………………… Email: .…………………
2. Trình độ học vấn
Tiến sĩ
Thạc sĩ
Cử nhân
Cao đẳng trung cấp
3. Chứng chỉ nghề nghiệp kế toán
Chứng chỉ quốc tế
Chứng chỉ hành nghề Việt Nam
Chứng chỉ khác
(ACCA, CPA Aus, CIMA…) (CPA VN, APC…) (Kế toán trưởng, kế toán tổng hợp, kế toán viên chính, kế toán viên…)
4.Độ tuổi
22-27 28-35 36-45
Từ 46 trở lên
5. Giới tính
NAM
NỮ
186
PHẦN 3 – CÂU HỎI KHẢO SÁT
Ông/Bà vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây bằng cách tích X vào ô lựa chọn và có thể tích vào nhiều lựa chọn:
1. Ông/Bà đã bao giờ biết tới khái niệm giá trị hợp lý trong kế toán
Rồi Chưa
2. Theo Ông /Bà việc áp dụng giá trị hợp lý trong công tác kế toán có cần thiết hay không?
Có cần thiết Không cần thiết Ý kiến khác
………………………………………………………………………………………………
3. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn kế toán quy định tại chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán về việc sử dụng GTHL:
Đã đầy đủ Chưa đầy đủ Ý kiến khác
………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………
4. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn về phương pháp xác định GTHL:
Đã đầy đủ Chưa đầy đủ Ý kiến khác
………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………
5. Theo Ông/Bà, các yếu tố đầu vào phục vụ việc xác định GTHL:
Đã đầy đủ Chưa đầy đủ Ý kiến khác
6. Theo Ông/Bà, thông tin giá cả trên thị trường:
187
Đã minh bạch Chưa minh bạch Ý kiến khác
7. Theo Ông/Bà, Sự phát triển của các dịch vụ định giá trong doanh nghiệp kiểm toán và doanh nghiệp định giá:
Đã đáp ứng nhu cầu Chưa đáp ứng nhu cầu Ý kiến khác
8. Theo Ông/Bà, năng lực của người làm kế toán thực hiện kế toán theo GTHL:
Đã đầy đủ Chưa đầy đủ Ý kiến khác
9. Theo Ông/Bà, các doanh nghiệp có sẵn sàng đáp ứng được các điều kiện để vận dụng GTHL:
Đã sẵn sàng Chưa sẵn sàng Ý kiến khác
10. Theo Ông/Bà, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay có thể tổ chức công tác kế toán theo giá trị hợp lý hay không?
Có thể Không thể Ý kiến khác
………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………….
11. Theo Ông/Bà, giá trị hợp lý ở Việt Nam có thể xác định được hay không?
Có thể Không thể Ý kiến khác
………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………
12. Theo Ông/Bà, lợi ích của việc sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán là:
Sử dụng giá trị hợp lý đáp ứng tốt mục tiêu cung cấp thông tin tài chính Sử dụng giá trị hợp lý đảm bảo thông tin tài chính là thích hợp Sử dụng giá trị hợp lý đáng tin cậy Sử dụng giá trị hợp lý làm giảm bớt sự phức tạp và đảm bảo sự dễ hiểu của thông tin tài chính Sử dụng giá trị hợp lý nâng cao tính so sánh của thông tin tài chính Khác:…………………………………………………………………………….. Không thấy có lợi ích gì.
188
13. Ông/Bà hiểu Giá trị hợp lý là:
Giá gốc Giá hiện hành – giá mua Giá trị thực hiện – giá bán Giá trị chiết khấu dòng tiền Giá trị khác:………………………………………………… Không hiểu
14. Theo Ông/bà, lợi ích của việc sử dụng giá tri hợp lý trong kế toán là:
Sử dụng giá trị hợp lý đáp ứng tốt mục tiêu cung cấp thông tin tài chính Sử dụng giá trị hợp lý đảm bảo thông tin tài chính là thích hợp Sử dụng giá trị hợp lý đáng tin cậy Sử dụng giá trị hợp lý nâng cao tính so sánh của thông tin tài chính Khác:…………………………………………………………………………….. Không thấy có lợi ích gì.
15. Theo Ông/Bà việc sử dụng giá trị hợp lý cho các đối tượng kế toán được áp dụng vào những thời điểm nào sau đây?
Tại thời điểm ghi nhận ban đầu Tại thời điểm sau ghi nhận ban đầu Cả hai thời điểm trên Khác:……………………………………………………………………
16. Danh mục đối tượng kế toán nào cần phải áp dụng giá trị hợp lý?
Các tài sản tài chính niêm yết
Các tài sản tài chính chưa niêm yết
Tài sản cố định (Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình; Tài sản cố định thuê tài chính; Tài
sản nhận bàn giao của Nhà nước; Quyền sử dụng đất)
Bất động sản đầu tư Các khoản cho vay Nợ phải trả tài chính Nợ thương mại Vốn chủ sở hữu Khác:……………………………………………………………
17. Việc xác định giá trị hợp lý cho các đối tượng kế toán trên được thực hiện khi nào
Tại thời điểm ghi nhận ban đầu Tại thời điểm sau ghi nhận ban đầu Cả hai thời điểm trên Thời điểm khác:.................................................................................
18. Theo Ông/Bà sử dụng giá trị hợp lý đối với:
Đo lường và ghi nhận tài sản cố định hữu hình
Đo lường và ghi nhận tài sản và nợ tài chính Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty con
189
Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư khác Đo lường và ghi nhận nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
Khác: ……………………………………………………………………….. Không phát sinh.
19. Theo Ông/Bà, việc trình bày các thông tin trên báo cáo tài chính liên quan đến giá trị hợp lý của các công ty chứng khoán niêm yết đã đúng và đầy đủ chưa:
Hoàn toàn đúng Chưa đúng Ý kiến khác
…………………………………………………………................................................................................................. ………………………………………………………………………………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………………………………. 20. Theo Ông/Bà, việc trình bày trên báo cáo tài chính các khoản mục có liên quan đến giá trị hợp lý của các công ty chứng khoán niêm yết đã đáp ứng yêu cầu của pháp luật hiện hành chưa?
Đã đáp ứng Chưa đáp ứng Ý kiến khác
Bên cạnh những vấn đề trên ông/Bà có thể chia sẻ thêm những đ ề xuất trong việc áp dụng GTHL trong kế toán tại doanh nghiệp của mình hiện nay.
Tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của Ông/Bà!
190
PHỤ LỤC 08 PHIẾU KHẢO SÁT (Sử dụng để khảo sát các nhà đầu tư)
Kính gửi Ông/bà,
Để thực hiện đề tài nghiên cứu về “lập và trình bày báo cáo tài chính cho công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam khi vận dụng giá trị hợp lý”, tác giả đã thiết kế Phiếu khảo sát và gửi tới Ông/Bà nhằm tổng hợp những thông tin thực tế về khả năng áp dụng giá trị hợp lý khi lập và trình bày báo cáo tài chính cho công ty chứng khoán niêm yết.
Để nghiên cứu có căn cứ thực tiễn và đạt hiệu quả, sự giúp đỡ của Ông/Bà trong việc đưa ra ý kiến của mình trong phiếu khảo sát là rất quan trọng đối với nghiên cứu sinh. Tác giả gửi kèm theo thư này một phiếu khảo sát gồm 5 trang. Số liệu thu thập được tác giả sẽ sử dụng để phân tích tình hình lập và trình bày báo cáo tài chính khi vận dụng giá trị hợp lý trong các công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu sẽ góp thêm căn cứ khoa học cho việc hoàn thiện các hướng dẫn về việc lập và trình bày báo cáo tài chính của công ty chứng khoán nói chung và công ty chứng khoán niêm yết nói riêng.
Thông tin thu thập sẽ được mã hóa và được giữ bí mật. Kết quả nghiên cứu sẽ không nhắc đến danh tính cụ thể của người tham gia khảo sát hoặc tên các công ty mà thay vào đó sẽ sử dụng các ký hiệu chung chung (ví dụ, công ty A, công ty B,…). Tác giả xin đảm bảo mọi dữ liệu được cung cấp sẽ không được sử dụng vào bất kỳ mục đích nào ngoài việc tổng hợp thông tin thực tế cho nghiên cứu này.
Việc trả lời phiếu khảo sát của ông/bà có ý nghĩa rất quan trọng đối với thành công
của đề tài nghiên cứu này. Tác giả rất mong nhận được trả lời của quý Ông/Bà.
Xin chân thành cảm ơn Ông/Bà.
Trân trọng kính chào!
PHẦN 1 - THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
191
Tên đề tài nghiên cứu: Lập và trình bày báo cáo tài chính cho công ty chứng khoán niêm yết
theo giá trị hợp lý
Tác giả:
NCS. Nguyễn Thị Vân
Đơn vị công tác:
Phòng quản lý, giám sát kế toán Ngân hàng và các tổ chức tài chính
- Cục quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán - Bộ Tài chính
PHẦN 2 - THÔNG TIN VỀ ĐỐI TƢỢNG ĐƢỢC KHẢO SÁT
1. Ông/Bà vui lòng điền đầy đủ các thông tin cá nhân sau:
Họ và tên: ……………………………………………………
Đơn vị công tác: ………………………………………………......
Vị trí công việc: ……………………………………………………
Điện thoại: …………… Email: .…………………
2. Trình độ học vấn
Tiến sĩ
Thạc sĩ
Cử nhân
Cao đẳng trung cấp
3. Chứng chỉ nghề nghiệp kế toán
Chứng chỉ quốc
Chứng chỉ hành nghề Việt Na
Chứng chỉ khác
(ACCA, CPA Aus, CIMA…) (CPA VN, APC…) (Kế toán trưởng, kế toán tổng hợp, kế toán viên chính, kế toán viên…) 4.Độ tuổi
22-27 28-35 36-45
Từ 46 trở lên
5. Giới tính
NAM
NỮ
PHẦN 3 – CÂU HỎI KHẢO SÁT
Ông/Bà vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây bằng cách tích X vào ô lựa chọn và có thể tích vào nhiều lựa chọn:
192
1. Xin Ông/Bà cho biết hiện nay khi cân nhắc đầu tư cổ phiếu, Ông/Bà quan tâm đến các chỉ tiêu tài chính nào của doanh nghiệp niêm yết
Chỉ tiêu Lãi/Lỗ Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) Lợi nhuận trên 1 cổ phiếu (EPS) Hệ số giá cổ phiếu trên thu nhập của một cổ phần (P/E) Giá trị sổ sách theo giá gốc của cổ phiếu Giá trị sổ sách theo giá thị trường của cổ phiếu Thông tin khác. Xin nêu rõ
2. Ông/Bà đã bao giờ biết tới khái niệm giá trị hợp lý trong kế toán
Rồi Chưa
3. Theo Ông /Bà việc áp dụng giá trị hợp lý trong công tác kế toán có cần thiết hay không?
Có cần thiết Không cần thiết Ý kiến khác
………………………………………………………………………………
4 . Theo Ông/Bà, lợi ích của việc sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán là:
Sử dụng giá trị hợp lý đáp ứng tốt mục tiêu cung cấp thông tin tài chính Sử dụng giá trị hợp lý đảm bảo thông tin tài chính là thích hợp Sử dụng giá trị hợp lý đáng tin cậy Sử dụng giá trị hợp lý làm giảm bớt sự phức tạp và đảm bảo sự dễ hiểu của thông tin tài
chính
Sử dụng giá trị hợp lý nâng cao tính so sánh của thông tin tài chính Khác:…………………………………………………………………………….. Không thấy có lợi ích gì.
5. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn về phương pháp xác định giá trị hợp lý:
Đã đầy đủ Chưa đầy đủ Ý kiến khác
……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………
193
6. Theo Ông/Bà, các yếu tố đầu vào phục vụ việc xác định GTHL:
Đã đầy đủ Chưa đầy đủ Ý kiến khác
7. Theo Ông/Bà, thông tin giá cả trên thị trường:
Đã minh bạch Chưa minh bạch Ý kiến khác
8. Theo Ông/Bà, Báo cáo tài chính có cần báo cáo theo giá trị hợp lý không:
Rất cần Chưa cần Ý kiến khác
9. Theo Ông/Bà, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay có thể tổ chức công tác kế toán theo giá trị hợp lý hay không?
Có thể Không thể Ý kiến khác
……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………
10. Theo Ông/Bà, giá trị hợp lý ở Việt Nam có thể xác định được hay không?
Có thể Không thể Ý kiến khác
……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………
11. Ông/Bà hiểu Giá trị hợp lý là:
Giá gốc Giá hiện hành – giá mua Giá trị thực hiện – giá bán Giá trị chiết khấu dòng tiền
194
Giá trị khác:………………………………………………… Không hiểu
12. Theo Ông/Bà việc sử dụng giá trị hợp lý cho các đối tượng kế toán được áp dụng vào những thời điểm nào sau đây?
Tại thời điểm ghi nhận ban đầu Tại thời điểm sau ghi nhận ban đầu Cả hai thời điểm trên Khác:………………………………………………………
13. Danh mục đối tượng kế toán nào cần phải áp dụng giá trị hợp lý?
Các tài sản tài chính niêm yết
Các tài sản tài chính chưa niêm yết Tài sản cố định (Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình; Tài sản cố định
thuê tài chính; Tài sản nhận bàn giao của Nhà nước; Quyền sử dụng đất)
Các khoản cho vay
Khác
14. Theo Ông/Bà sử dụng giá trị hợp lý đối với:
Đo lường và ghi nhận TSCĐ hữu hình, TSCĐ VH, Bất động sản đầu tư Đo lường và ghi nhận tài sản tài chính và nợ tài chính Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty con Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư khác Đo lường và ghi nhận nợ phải trả và vốn chủ sở hữu Khác: ……………………………………………………………….. Không phát sinh.
15. Theo Ông/Bà, việc đo lường các đối tượng kế toán theo giá trị hợp lý làm tốn kém thời gian và chi phí để thu thập và xử lý thông tin:
Hoàn toàn đúng Chưa đúng Ý kiến khác
16. Theo Ông/Bà, việc trình bày các chênh lệch đánh giá lại các tài sản và nợ phải trả theo
195
giá trị hợp lý trên những báo cáo tài chính nào:
Báo cáo tình hình tài chính Báo cáo kết quả kinh doanh Báo cáo tình hình biến động vốn chủ sở hữu Ý kiến khác
Bên cạnh những vấn đề trên ông/Bà có thể chia sẻ thêm những đề xuất trong việc áp dụng GTHL trong kế toán tại doanh nghiệp của mình hiện nay.
Tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của Ông/Bà!
PHỤ LỤC 09 PHIẾU KHẢO SÁT (Sử dụng để khảo sát các nhà nghiên cứu, chuyên gia Bộ Tài chính)
Kính gửi Ông/bà,
Để thực hiện đề tài nghiên cứu về “lập và trình bày báo cáo tài chính cho công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam khi vận dụng giá trị hợp lý”, tác giả đã thiết kế Phiếu khảo sát và gửi tới Ông/Bà nhằm tổng hợp những thông tin thực tế về khả năng áp dụng giá trị hợp lý khi lập và trình bày báo cáo tài chính cho công ty chứng khoán niêm yết.
Để nghiên cứu có căn cứ thực tiễn và đạt hiệu quả, sự giúp đỡ của Ông/Bà trong việc đưa ra ý kiến của mình trong phiếu khảo sát là rất quan trọng đối với nghiên cứu sinh. Tác giả gửi kèm theo thư này một phiếu khảo sát gồm 5 trang. Số liệu thu thập được tác giả sẽ sử dụng để phân tích tình hình lập và trình bày báo cáo tài chính khi vận dụng giá trị hợp lý trong các công ty chứng khoán niêm yết của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu sẽ
196
góp thêm căn cứ khoa học cho việc hoàn thiện các hướng dẫn về việc lập và trình bày báo cáo tài chính của công ty chứng khoán nói chung và công ty chứng khoán niêm yết nói riêng.
Thông tin thu thập sẽ được mã hóa và được giữ bí mật. Kết quả nghiên cứu sẽ không nhắc đến danh tính cụ thể của người tham gia khảo sát hoặc tên các công ty mà thay vào đó sẽ sử dụng các ký hiệu chung chung (ví dụ, công ty A, công ty B,…). Tác giả xin đảm bảo mọi dữ liệu được cung cấp sẽ không được sử dụng vào bất kỳ mục đích nào ngoài việc tổng hợp thông tin thực tế cho nghiên cứu này.
Việc trả lời phiếu khảo sát của ông/bà có ý nghĩa rất quan trọng đối với thành công
của đề tài nghiên cứu này. Tác giả rất mong nhận được trả lời của quý Ông/Bà.
Xin chân thành cảm ơn Ông/Bà.
Trân trọng kính chào!
PHẦN 1 - THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Tên đề tài nghiên cứu: Lập và trình bày báo cáo tài chính cho công ty chứng khoán niêm yết
theo giá trị hợp lý
Tác giả:
NCS. Nguyễn Thị Vân
Đơn vị công tác:
Phòng quản lý, giám sát kế toán Ngân hàng và các tổ chức tài chính
- Cục quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán - Bộ Tài chính
PHẦN 2 - THÔNG TIN VỀ ĐỐI TƢỢNG ĐƢỢC KHẢO SÁT
1. Ông/Bà vui lòng điền đầy đủ các thông tin cá nhân sau:
Họ và tên: ……………………………………………………
197
Đơn vị công tác: ………………………………………………......
Vị trí công việc: ……………………………………………………
Điện thoại: …………… Email: .…………………
2. Trình độ học vấn
Tiến sĩ
Thạc sĩ
Cử nhân
Cao đẳng trung cấp
3. Chứng chỉ nghề nghiệp kế toán
Chứng chỉ quốc
Chứng chỉ hành nghề Việt Na
Chứng chỉ khác
(ACCA, CPA Aus, CIMA…) (CPA VN, APC…) (Kế toán trưởng, kế toán tổng hợp, kế toán viên chính, kế toán viên…) 4.Độ tuổi
22-27 28-35 36-45
Từ 46 trở lên
5. Giới tính
NAM
NỮ
PHẦN 3 – CÂU HỎI KHẢO SÁT
Ông/Bà vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây bằng cách tích X vào ô lựa chọn và có thể tích vào nhiều lựa chọn:
1. Ông/Bà đã bao giờ biết tới khái niệm giá trị hợp lý trong kế toán
Rồi Chưa
2. Theo Ông /Bà việc áp dụng giá trị hợp lý trong công tác kế toán có cần thiết hay không?
Có cần thiết Không cần thiết Ý kiến khác
………………………………………………………………………………
3. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn kế toán quy định tại chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán về việc sử dụng GTHL:
198
Đã đầy đủ Chưa đầy đủ Ý kiến khác
……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………
4. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn về phương pháp xác định GTHL:
Đã đầy đủ Chưa đầy đủ Ý kiến khác
……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………
5. Theo Ông/Bà, các yếu tố đầu vào phục vụ việc xác định GTHL:
Đã đầy đủ Chưa đầy đủ Ý kiến khác
6. Theo Ông/Bà, thông tin giá cả trên thị trường:
Đã minh bạch Chưa minh bạch Ý kiến khác
7. Theo Ông/Bà, năng lực của người làm kế toán thực hiện kế toán theo GTHL:
Đã đầy đủ Chưa đầy đủ Ý kiến khác
8. Theo Ông/Bà, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay có thể tổ chức công tác kế toán theo giá trị hợp lý hay không?
Có thể Không thể Ý kiến khác
……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………
199
9. Theo Ông/Bà, giá trị hợp lý ở Việt Nam có thể xác định được hay không?
Có thể Không thể Ý kiến khác
……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………
10. Theo Ông/Bà, lợi ích của việc sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán là:
Sử dụng giá trị hợp lý đáp ứng tốt mục tiêu cung cấp thông tin tài chính Sử dụng giá trị hợp lý đảm bảo thông tin tài chính là thích hợp Sử dụng giá trị hợp lý đáng tin cậy Sử dụng giá trị hợp lý làm giảm bớt sự phức tạp và đảm bảo sự dễ hiểu của thông tin tài
chính
Sử dụng giá trị hợp lý nâng cao tính so sánh của thông tin tài chính Khác:…………………………………………………………………………….. Không thấy có lợi ích gì.
11. Ông/Bà hiểu Giá trị hợp lý là:
Giá gốc Giá hiện hành – giá mua Giá trị thực hiện – giá bán Giá trị chiết khấu dòng tiền Giá trị khác:………………………………………………… Không hiểu
12. Theo Ông/Bà việc sử dụng giá trị hợp lý cho các đối tượng kế toán được áp dụng vào những thời điểm nào sau đây?
Tại thời điểm ghi nhận ban đầu Tại thời điểm sau ghi nhận ban đầu Cả hai thời điểm trên Khác:………………………………………………………
13. Việc xác định giá trị hợp lý cho các đối tượng kế toán trên được thực hiện khi nào
Tại thời điểm ghi nhận ban đầu Tại thời điểm sau ghi nhận ban đầu Cả hai thời điểm trên Thời điểm khác:.................................................................................
200
14. Theo Ông/Bà sử dụng giá trị hợp lý đối với:
Đo lường và ghi nhận TSCĐ hữu hình, TSCĐ VH, Bất động sản đầu tư Đo lường và ghi nhận tài sản tài chính và nợ tài chính Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty con Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư khác Đo lường và ghi nhận nợ phải trả và vốn chủ sở hữu Khác: ……………………………………………………………….. Không phát sinh.
15. Theo Ông/Bà, Chênh lệch đánh giá lại các tài sản và nợ phải trả theo giá trị hợp lý có được phản ánh trên BCTC không?
Có Không Ý kiến khác
……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………
16. Theo Ông/Bà, việc trình bày các chênh lệch đánh giá lại các tài sản và nợ phải trả theo giá trị hợp lý trên những báo cáo tài chính nào:
Báo cáo tình hình tài chính Báo cáo kết quả kinh doanh Báo cáo tình hình biến động vốn chủ sở hữu Ý kiến khác
Bên cạnh những vấn đề trên ông/Bà có thể chia sẻ thêm những đề xuất trong việc áp dụng GTHL trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam.
……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………
Tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của Ông/Bà!
201
PHỤ LỤC 10 KẾT QỦA KHẢO SÁT Đối tượng khảo sát: các công ty chứng khoán niêm yết
Số phiếu phát ra: 22
Số phiếu thu về: 18
Nội dung khảo sát
Ghi chú
Số lƣợng
Tỷ lệ (%)
I Những vấn đề chung
1. Trình độ học vấn
Tiến sĩ
0
Thạc sĩ
22
4
Cử nhân
73
14
Cao đẳng trung cấp
0
2.Chứng chỉ nghề nghiệp kế toán - Chứng chỉ quốc tế - Chứng chỉ hành nghề Việt Nam - Chứng chỉ khác
17 83
3 15
3. Độ tuổi
72 28
13 5 0
- - 20-27 - - - 28-35 - - 36-45 - - Từ 46 trở lên
202
4. Giới tính - Nam - Nữ
4 14
22 78
II Về giá trị hợp lý
1. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn kế toán quy định tại chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán về việc sử dụng GTHL: - Đã đầy đủ - Chưa đầy đủ
18
100
- Ý kiến khác
18
100
2. Đơn vị Ông/Bà căn cứ vào quy định nào để áp dụng giá trị hợp lý - Hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và các văn bản hướng dẫn kế toán khác - Các Thông tư hướng dẫn chế độ kế toán áp dụng cho công ty chứng khoán
- Cả hai hệ thống trên
3. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn về phương pháp xác định GTHL: - Đã đầy đủ - Chưa đầy đủ
18
100
- Ý kiến khác
4. Theo Ông/Bà, các yếu tố đầu vào phục vụ việc xác định GTHL: - Đã đầy đủ - Chưa đầy đủ
18
100
- Ý kiến khác
5. Theo Ông/Bà, thông tin giá cả trên thị trường: - Đã minh bạch - Chưa minh bạch
18
100
- Ý kiến khác
18
100
6. Các phương pháp được sử dụng để xác định giá trị hợp lý tại đơn vị của Ông/Bà - Các công cụ tài chính: phương pháp tiếp cận thị trường
- Các khoản đầu tư
0
- Tài sản cố định
0
- Bất động sản đầu tư
0
- Khác
0
7. Các yếu tố đầu vào được sử dụng để xác định giá trị hợp lý tại đơn vị của Ông/Bà? - Các công cụ tài chính - Các khoản đầu tư - Tài sản cố định - Bất động sản đầu tư - Doanh thu
203
- Khác 8. Theo Ông/Bà, sự phát triển của các dịch vụ định giá trong doanh nghiệp kiểm toán và doanh nghiệp định giá: - Đã đáp ứng nhu cầu - Chưa đáp ứng nhu cầu
18
100
- Ý kiến khác
18
100
9. Trong quá trình xác định giá trị hợp lý đơn vị Ông/bà thường tham khảo những thông tin và những dữ liệu lấy được từ các thị trường nào: - Thị trường chứng khoán - Thị trường bất động sản
- Thị trường khác
18
100
10. Khi ước tính giá trị hợp lý đơn vị Ông/bà thường sử dụng các thông tin nào sau đây: - Giá tham chiếu niêm yết trên thị trường
- Các dữ liệu thống kê thích hợp khác được công khai
- Sử dụng dịch vụ thẩm định giá
- Đơn vị có bộ phận tự phân tích và tính toán
-Khác:…………………………………………………..
18
100
11. Danh mục đối tượng kế toán đã áp dụng giá trị hợp lý trong đơn vị của Ông/Bà - Các tài sản tài chính niêm yết
- Các tài sản tài chính chưa niêm yết
- Tài sản cố định
- Bất động sản đầu tư -
- Nợ phải trả tài chính
-
- Vốn chủ sở hữu
- Khác:………
12. Việc xác định giá trị hợp lý cho các đối tượng kế toán trên được thực hiện khi nào - Tại thời điểm ghi nhận ban đầu - Tại thời điểm sau ghi nhận ban đầu
- Cả hai thời điểm trên
18
100
- Thời điểm khác:............................
204
13. Đơn vị ông/Bà sử dụng giá trị hợp lý đối với: - Đo lường và ghi nhận tài sản cố định hữu hình, vô hình, bất động sản đầu tư
- Đo lường và ghi nhận tài sản tài chính và nợ tài chính
18
100
- Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty con
- Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết - Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư khác
- Đo lường và ghi nhận nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
- Khác: ……………………………………………………………..
- Không phát sinh.
18
100
18
100
18
100
18
100
5 13
28 72
14. Các tài sản tài chính có được đánh giá lại theo giá thị trường không? Nếu có thì chênh lệch đánh giá lại có được trình bày trên báo cáo tài chính không? - Có, chỉ đánh giá tài sản tài chính niêm yết Trên báo cáo tài chính nào: Báo cáo tình hình tài chính và báo cáo kết quả kinh doanh - Không 15. Các tài sản phi tài chính có được đánh giá lại theo giá thị trường không? Nếu có thì chênh lệch đánh giá lại có được trình bày trên báo cáo tài chính không? - Có Trên báo cáo tài chính nào: ………………………………………. - Không 16.Nợ phải trả có được đánh giá lại theo giá thị trường không? Nếu có thì chênh lệch đánh giá lại có được trình bày trên báo cáo tài chính không ? - Có Trên báo cáo tài chính nào: …………………………………………… - Không 17.Vốn chủ sở hữu có được đánh giá lại theo giá thị trường không? Nếu có thì chênh lệch đánh giá lại có được trình bày trên báo cáo tài chính không ? - Có Trên báo cáo tài chính nào: …………………………………………… - Không 18. Đơn vị của Ông/Bà có thuyết minh trên BCTC các thông tin về giá trị hợp lý không? - Có Cụ thể những thông tin nào: Danh mục chứng khoán niêm yết - Không
205
18
100
Lựa chọn nhiều phương án
19. Trình độ, năng lực của nhân viên trong công ty có đáp ứng được yêu cầu khi áp dụng GTHL: - Đã đáp ứng - Chưa đáp ứng - Ý kiến khác:……………………………………………………….. 20. Theo Ông/bà, lợi ích của việc sử dụng giá tri hợp lý trong kế toán là: - Sư dụng giá trị hợp lý đáp ứng tốt mục tiêu cung cấp thông tin tài chính
- Sử dụng giá trị hợp lý đảm bảo thông tin tài chính là thích hợp
15
83
- Sử dụng giá trị hợp lý đáng tin cậy
- Sử dụng giá trị hợp lý nâng cao tính so sánh của thông tin tài chính
18
100
- Khác:…………………………………………………………………
- Không thấy có lợi ích gì.
16
89
2
11
21. Đơn vị Ông/bà có kế hoạch sử dụng các dịch vụ hỗ trợ cho việc xác định giá trị hợp lý nào sau đây: - Dịch vụ định giá tài sản - Dịch vụ tư vấn - Dịch vụ khác:... - Tự bản thân nhân viên trong đơn vị thực hiện mà không sử dụng các dịch vụ hỗ trợ
206
PHỤ LỤC 11 KẾT QỦA KHẢO SÁT Đối tượng khảo sát: các kiểm toán viên và thẩm định giá viên
Số phiếu phát ra: 45
Số phiếu thu về: 40
Nội dung khảo sát
Số lƣợng
Ghi chú
Tỷ lệ (%)
I Những vấn đề chung
1. Trình độ học vấn
Tiến sĩ
-
Thạc sĩ
10
25%
Cử nhân
30
75%
Cao đẳng trung cấp
-
2.Chứng chỉ nghề nghiệp kế toán - Chứng chỉ quốc tế - Chứng chỉ hành nghề Việt Nam - Chứng chỉ khác
8 20 12
20% 50% 30%
3. Độ tuổi
30% 50% 20%
12 20 8 -
- - 20-27 - - - 28-35 - - 36-45 - - Từ 46 trở lên
4. Giới tính - Nam - Nữ
28 12
70% 30%
II Về giá trị hợp lý
40
100 %
1. Ông/Bà đã bao giờ biết tới khái niệm giá trị hợp lý trong kế toán - Rồi - Chưa
207
2. Theo Ông /Bà việc áp dụng giá trị hợp lý trong công tác kế toán có cần thiết hay không?
38 2 2 38
95% 5% 5 % 95%
40
100 %
- Có cần thiết - Không cần thiết - Ý kiến khác: Tùy thuộc vào người sử dụng thông tin kế toán có mục đích như thế nào. 3. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn kế toán quy định tại chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán về việc sử dụng GTHL: - Đã đầy đủ - Chưa đầy đủ - Ý kiến khác 4. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn về phương pháp xác định GTHL: - Đã đầy đủ - Chưa đầy đủ - Ý kiến khác 5. Theo Ông/Bà, các yếu tố đầu vào phục vụ việc xác định GTHL: - Đã đầy đủ - Chưa đầy đủ
40
100 %
- Ý kiến khác
6 32 2
15% 80% 5%
6 26 8
15% 65% 20%
2 34 4
5% 85% 10%
40
100 %
36 2 2
90% 5% 5%
6. Theo Ông/Bà, thông tin giá cả trên thị trường: - Đã minh bạch - Chưa minh bạch - Ý kiến khác 7. Theo Ông/Bà, Sự phát triển của các dịch vụ định giá trong doanh nghiệp kiểm toán và doanh nghiệp định giá: - Đã đáp ứng nhu cầu - Chưa đáp ứng nhu cầu - Ý kiến khác Đáp ứng được 1 phần 8. Theo Ông/Bà, năng lực của người làm kế toán thực hiện kế toán theo GTHL: - Đã đầy đủ - Chưa đầy đủ - Ý kiến khác 9. Theo Ông/Bà, các doanh nghiệp có sẵn sàng đáp ứng được các điều kiện để vận dụng GTHL: - Đã sẵn sàng - Chưa sẵn sàng - Ý kiến khác 10. Theo Ông/Bà, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay có thể tổ chức công tác kế toán theo giá trị hợp lý hay không? - Có thể - Không thể - Ý kiến khác
208
32 8
80% 20%
11. Theo Ông/Bà, giá trị hợp lý ở Việt Nam có thể xác định được hay không? - Có thể - Không thể - Ý kiến khác
Chọn nhiều phương án
34 10 4 14
70% 25% 10% 35%
Chọn nhiều phương án
2 12 6 20
5% 30% 15% 50%
Chọn nhiều phương án
28 10 4 12
70% 25% 10% 30%
2 30 8
5% 75% 20%
Chọn nhiều phương án
12. Theo Ông/Bà, lợi ích của việc sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán là: - Sử dụng giá trị hợp lý đáp ứng tốt mục tiêu cung cấp thông tin tài chính - Sử dụng giá trị hợp lý đảm bảo thông tin tài chính là thích hợp - Sử dụng giá trị hợp lý đáng tin cậy - Sử dụng giá trị hợp lý làm giảm bớt sự phức tạp và đảm bảo sự dễ hiểu của thông tin tài chính - Sử dụng giá trị hợp lý nâng cao tính so sánh của thông tin tài chính - Khác:…………………………………………….. - Không thấy có lợi ích gì. 13. Ông/Bà hiểu Giá trị hợp lý là: - Giá gốc - Giá hiện hành – giá mua - Giá trị thực hiện – giá bán - Giá trị chiết khấu dòng tiền - Giá trị khác:…………………………………… - Không hiểu 14. Theo Ông/bà, lợi ích của việc sử dụng giá tri hợp lý trong kế toán là: - Sử dụng giá trị hợp lý đáp ứng tốt mục tiêu cung cấp thông tin tài chính - Sử dụng giá trị hợp lý đảm bảo thông tin tài chính là thích hợp - Sử dụng giá trị hợp lý đáng tin cậy - Sử dụng giá trị hợp lý nâng cao tính so sánh của thông tin tài chính - Khác:………………………………………………………………….. - Không thấy có lợi ích gì 15. Theo Ông/Bà việc sử dụng giá trị hợp lý cho các đối tượng kế toán được áp dụng vào những thời điểm nào sau đây? - Tại thời điểm ghi nhận ban đầu - Tại thời điểm sau ghi nhận ban đầu - Cả hai thời điểm trên - Khác: Tùy vào đối tượng ghi nhận và cách tức phân loại 16. Danh mục đối tượng kế toán nào cần phải áp dụng giá trị hợp lý? - Các tài sản tài chính niêm yết - Các tài sản tài chính chưa niêm yết - Tài sản cố định (Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình; Tài sản cố định thuê tài chính; Tài sản nhận bàn giao của Nhà nước; Quyền sử dụng đất) - Bất động sản đầu tư - Các khoản cho vay - Nợ phải trả tài chính - Nợ thương mại - Vốn chủ sở hữu
24 24 16 20 2 8 14
60% 60% 40% 50% 5% 20% 35%
209
- Khác
Chọn nhiều phương án
2 38 10
5% 95% 25%
17. Việc xác định giá trị hợp lý cho các đối tượng kế toán trên được thực hiện khi nào - Tại thời điểm ghi nhận ban đầu - Tại thời điểm sau ghi nhận ban đầu - Cả hai thời điểm trên - Thời điểm khác:..Tùy cách thúc phân loại và mục đích nắm giữ 18. Theo Ông/Bà sử dụng giá trị hợp lý đối với:
Chọn nhiều phương án
12 16 6 8 18 2 12
30% 40% 15% 20% 45% 5% 30%
10 30
25% 75%
28 2 10
70% 5% 25%
- Đo lường và ghi nhận tài sản cố định hữu hình - Đo lường và ghi nhận tài sản và nợ tài chính - Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty con - Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết - Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư khác - Đo lường và ghi nhận nợ phải trả và vốn chủ sở hữu - Khác: …………………………………………………….. - Không phát sinh 19. Theo Ông/Bà, việc trình bày các thông tin trên báo cáo tài chính liên quan đến giá trị hợp lý của các công ty chứng khoán niêm yết đã đúng và đầy đủ chưa: - Hoàn toàn đúng - Chưa đúng - Ý kiến khác: + Chưa hoàn toàn phù hợp với lệ quốc tế + Đã thực hiện nhưng chưa đầy đủ vẫn còn thiếu thông tin, hoặc thông tin chưa đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy. + Đúng nhưng chưa đủ, còn cần thuyết minh giá trị hợp lý theo 3 cấp độ dựa trên căn cứ xác định như IFRS 13. + Việc xác định giá trị hợp lý của các TSTC chưa niêm yết gặp khó khăn do không có đủ thông tin. 20. Theo Ông/Bà, việc trình bày trên báo cáo tài chính các khoản mục có liên quan đến giá trị hợp lý của các công ty chứng khoán niêm yết đã đáp ứng yêu cầu của pháp luật hiện hành chưa? - Đã đáp ứng - Chưa đáp ứng - Ý kiến khác
210
PHỤ LỤC 12 KẾT QỦA KHẢO SÁT Đối tượng khảo sát: các nhà đầu tư
Số lượng phiếu phát ra: 50
Số phiếu thu về: 32
Nội dung khảo sát
Ghi chú
Số lƣợng
Tỷ lệ (%)
I Những vấn đề chung
1. Trình độ học vấn
Tiến sĩ
0
Thạc sĩ
15 47
Cử nhân
17 53
Cao đẳng trung cấp
0
2.Chứng chỉ nghề nghiệp kế toán - Chứng chỉ quốc tế - Chứng chỉ hành nghề Việt Nam - Chứng chỉ khác
32
100
3. Độ tuổi
- - 20-27
4
12
- - 28-35
28 88
- - 36-45
- - Từ 46 trở lên
4. Giới tính - Nam - Nữ
8 24
25 75
II Về giá trị hợp lý
Chọn nhiều câu trả lời
32
100
1. Xin Ông/Bà cho biết hiện nay khi cân nhắc đầu tư cổ phiếu, Ông/Bà quan tâm đến các chỉ tiêu tài chính nào của doanh nghiệp niêm yết - Chỉ tiêu Lãi/Lỗ - Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
20 62
- Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)
0 0
- Lợi nhuận trên 1 cổ phiếu (EPS)
32 100
32 100
- Hệ số giá cổ phiếu trên thu nhập của một cổ phần (P/E) - Giá trị sổ sách theo giá gốc của cổ
17 53
211
phiếu
32 100
- Giá trị sổ sách theo giá thị trường của cổ phiếu -Thông tin khác. Xin nêu rõ
40 59
13 19
2. Ông/Bà đã bao giờ biết tới khái niệm giá trị hợp lý trong kế toán - Rồi - Chưa 3. Theo Ông /Bà việc áp dụng giá trị hợp lý trong công tác kế toán có cần thiết hay không?
100
32
- Có cần thiết - Không cần thiết
0
- Ý kiến khác
0
3. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn kế toán quy định tại chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán về việc sử dụng GTHL: - Đã đầy đủ
- Chưa đầy đủ
32 100
- Ý kiến khác
Chọn nhiều phương án
14 44
4. Theo Ông/Bà, lợi ích của việc sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán là: - Sử dụng giá trị hợp lý đáp ứng tốt mục tiêu cung cấp thông tin tài chính - Sử dụng giá trị hợp lý đảm bảo thông tin tài chính là thích hợp - Sử dụng giá trị hợp lý đáng tin cậy
0
0
32 100
- Sử dụng giá trị hợp lý làm giảm bớt sự phức tạp và đảm bảo sự dễ hiểu của thông tin tài chính - Sử dụng giá trị hợp lý nâng cao tính so sánh của thông tin tài chính -Khác:……………………………………………..
- Không thấy có lợi ích gì.
5. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn về phương pháp xác định GTHL: - Đã đầy đủ - Chưa đầy đủ
32 100
- Ý kiến khác
6. Theo Ông/Bà, các yếu tố đầu vào phục vụ việc xác định GTHL: - Đã đầy đủ
212
- Chưa đầy đủ
32 100
- Ý kiến khác
7. Theo Ông/Bà, thông tin giá cả trên thị trường: - Đã minh bạch
- Chưa minh bạch
32 100
- Ý kiến khác 8. Theo Ông/Bà, Báo cáo tài chính có cần báo cáo theo giá trị hợp lý không: - Rất cần
32
100
- Chưa cần
- Ý kiến khác
9. Theo Ông/Bà, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay có thể tổ chức công tác kế toán theo giá trị hợp lý hay không? - Có thể
28
87
- Không thể
2 6
2 6
- Ý kiến khác: số ít DN có thể tổ chức kế toán theo GTHL 10. Theo Ông/Bà, giá trị hợp lý ở Việt Nam có thể xác định được hay không? - Có thể
24
75
- Không thể
8 25
- Ý kiến khác: số ít DN có thể xác định. Có thể nhưng cần khung khổ pháp luật rõ ràng minh bạch, chế tài xử lý đủ mạnh 11. Ông/Bà hiểu Giá trị hợp lý là: - Giá gốc
- Giá hiện hành – giá mua
12 37
- Giá trị thực hiện – giá bán
32 100
- Giá trị chiết khấu dòng tiền
20 62
- Giá trị khác:……………………………………
- Không hiểu
12. Theo Ông/Bà việc sử dụng giá trị hợp lý cho các đối tượng kế toán được áp dụng vào những thời điểm nào sau đây? - Tại thời điểm ghi nhận ban đầu - Tại thời điểm sau ghi nhận ban đầu
2 6
- Cả hai thời điểm trên
30 94
213
32
100
- Khác: 13. Danh mục đối tượng kế toán nào cần phải áp dụng giá trị hợp lý? - Các tài sản tài chính niêm yết - Các tài sản tài chính chưa niêm yết
26 81
0
- Tài sản cố định (Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình; Tài sản cố định thuê tài chính; Tài sản nhận bàn giao của Nhà nước; Quyền sử dụng đất) - Bất động sản đầu tư
24 75
- Các khoản cho vay
0
- Nợ phải trả tài chính
0
- Nợ thương mại
0
- Vốn chủ sở hữu
0
14. Theo Ông/Bà sử dụng GTHL đối với: - Đo lường và ghi nhận tài sản cố định hữu hình
- Đo lường và ghi nhận tài sản và nợ tài chính
32 100
- Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty con
0
0
- Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết - Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư khác
0
0
- Đo lường và ghi nhận nợ phải trả và vốn chủ sở hữu - Khác: …………………………………………………..
- Không phát sinh
24
75
15. Theo Ông/Bà, việc đo lường các đối tượng kế toán theo giá trị hợp lý làm tốn kém thời gian và chi phí để thu thập và xử lý thông tin: - Hoàn toàn đúng - Chưa đúng
- Ý kiến khác
8 25
16. Theo Ông/Bà, việc trình bày các chênh lệch đánh giá lại các tài sản và nợ phải trả theo giá trị hợp lý trên những báo cáo tài chính nào: - Báo cáo tình hình tài chính
32
100
- Báo cáo kết quả kinh doanh
23 72
- Báo cáo tình hình biến động vốn chủ sở hữu
0
- Ý kiến khác
214
PHỤ LỤC 13 KẾT QỦA KHẢO SÁT Đối tượng khảo sát: các nhà nghiên cứu và chuyên gia Bộ Tài chính
Số lượng phiếu phát ra: 55
Số phiếu thu về: 40
Nội dung khảo sát
Ghi chú
Số lƣợng
Tỷ lệ (%)
I Những vấn đề chung
1. Trình độ học vấn
Tiến sĩ
0
215
Thạc sĩ
36
90
Cử nhân
4
10
Cao đẳng trung cấp
0
2.Chứng chỉ nghề nghiệp kế toán - Chứng chỉ quốc tế - Chứng chỉ hành nghề Việt Nam - Chứng chỉ khác
8 32
20 80
3. Độ tuổi 4
- - 2-27
10
- - 28-35
8
20
- - 36-45
28
70
- - Từ 46 trở lên
4. Giới tính - Nam - Nữ
8 32
20 80
II Về giá trị hợp lý
100
40 0
1. Ông/Bà đã bao giờ biết tới khái niệm giá trị hợp lý trong kế toán - Rồi - Chưa 2. Theo Ông /Bà việc áp dụng giá trị hợp lý trong công tác kế toán có cần thiết hay không?
40
100
- Có cần thiết - Không cần thiết
0
- Ý kiến khác
0
3. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn kế toán quy định tại chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán về việc sử dụng GTHL: - Đã đầy đủ
- Chưa đầy đủ
40
100
- Ý kiến khác
4. Theo Ông/Bà, các hướng dẫn về phương pháp xác định GTHL: - Đã đầy đủ - Chưa đầy đủ
40
100
- Ý kiến khác
5. Theo Ông/Bà, các yếu tố đầu vào phục vụ việc xác định GTHL:
216
- Đã đầy đủ - Chưa đầy đủ
40
100
- Ý kiến khác
6. Theo Ông/Bà, thông tin giá cả trên thị trường: - Đã minh bạch
0,8
3
- Chưa minh bạch
92
37
- Ý kiến khác 7. Theo Ông/Bà, năng lực của người làm kế toán thực hiện kế toán theo GTHL: - Đã đầy đủ
- Chưa đầy đủ
40
100
- Ý kiến khác
8. Theo Ông/Bà, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay có thể tổ chức công tác kế toán theo giá trị hợp lý hay không? - Có thể - Không thể
0,5
2
0,5
2
- Ý kiến khác: số ít DN có thể tổ chức kế toán theo GTHL 9. Theo Ông/Bà, giá trị hợp lý ở Việt Nam có thể xác định được hay không? - Có thể
90
36
- Không thể
10
4
- Ý kiến khác: số ít DN có thể xác định Có thể nhưng cần khung khổ pháp luật rõ ràng minh bạch, chế tài xử lý đủ mạnh
Chọn nhiều phương án
25
10
35
14
10. Theo Ông/Bà, lợi ích của việc sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán là: - Sử dụng giá trị hợp lý đáp ứng tốt mục tiêu cung cấp thông tin tài chính - Sử dụng giá trị hợp lý đảm bảo thông tin tài chính là thích hợp - Sử dụng giá trị hợp lý đáng tin cậy
65
26
10
4
95
38
- Sử dụng giá trị hợp lý làm giảm bớt sự phức tạp và đảm bảo sự dễ hiểu của thông tin tài chính - Sử dụng giá trị hợp lý nâng cao tính so sánh của thông tin tài chính -Khác:……………………………………………..
- Không thấy có lợi ích gì.
217
11. Ông/Bà hiểu Giá trị hợp lý là: - Giá gốc
Chọn nhiều phương án
- Giá hiện hành – giá mua
10
25
- Giá trị thực hiện – giá bán
36
90
- Giá trị chiết khấu dòng tiền
24
60
- Giá trị khác:……………………………………
14
35
- Không hiểu
12. Theo Ông/Bà việc sử dụng giá trị hợp lý cho các đối tượng kế toán được áp dụng vào những thời điểm nào sau đây? - Tại thời điểm ghi nhận ban đầu - Tại thời điểm sau ghi nhận ban đầu
4
10
- Cả hai thời điểm trên
36
90
- Khác: 13. Danh mục đối tượng kế toán nào cần phải áp dụng giá trị hợp lý? - Các tài sản tài chính niêm yết
Chọn nhiều phương án
40
100
- Các tài sản tài chính chưa niêm yết
34
85
16
40
- Tài sản cố định (Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình; Tài sản cố định thuê tài chính; Tài sản nhận bàn giao của Nhà nước; Quyền sử dụng đất) - Bất động sản đầu tư
37
92
-
15
37
- Nợ phải trả tài chính
26
65
-
8
20
- Vốn chủ sở hữu
16
40
14. Theo Ông/Bà sử dụng GTHL đối với: - Đo lường và ghi nhận tài sản cố định hữu hình
Chọn nhiều phương án
- Đo lường và ghi nhận tài sản và nợ tài chính
34
85
- Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty con
20
50
20
50
- Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết - Đo lường và ghi nhận các khoản đầu tư khác
20
50
15
37
- Đo lường và ghi nhận nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
218
- Khác: …………………………………………………..
- Không phát sinh
35
87
15. Theo Ông/Bà, Chênh lệch đánh giá lại các tài sản và nợ phải trả theo giá trị hợp lý có được phản ánh trên BCTC không? - Có - Không
- Ý kiến khác
5
13
18. Theo Ông/Bà, việc trình bày các chênh lệch đánh giá lại các tài sản và nợ phải trả theo giá trị hợp lý trên những báo cáo tài chính nào: - Báo cáo tình hình tài chính
40
100
- Báo cáo kết quả kinh doanh
40
100
- Báo cáo tình hình biến động vốn chủ sở hữu
5
13
- Ý kiến khác
PHỤ LỤC 14: Hộp thông tin qua phỏng vấn
# Hộpthông tin 1 Câu hỏi các kế toán trưởng của công ty chứng khoán: Việc xác định giá trị hợp lý của các khoản mục trên BCTC như thế nào?
Câu trả lời: - Đối với tài sản tài chính: Giá trị thị trường của chứng khoán niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và sở giao dịch chứng khoán TP. HCM là giá đóng cửa tại ngày gần nhất có giao dịch tính đến ngày đánh giá giá trị chứng khoán. - Đối với các chứng khoán của các công ty chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán nhưng đã đăng ký giao dịch trên thị trường giao dịch của các công ty đại chúng chưa niêm yết (UPcom) thì giá thị trường được xác định là giá đóng cửa bình quân tại ngày gần nhất có giao dịch tính đến ngày đánh giá giá trị chứng khoán. - Tài sản phi tài chính như tài sản cố định, hàng tồn kho, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu theo giá gốc
219