intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Văn hóa Mỹ - Việt trong hội thoại hàng ngày qua chủ điểm trường học

Chia sẻ: Minh Minh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

38
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài báo này bàn về sự biểu hiện về văn hoá qua chủ điểm nhà trường dưới góc độ đối chiếu Mỹ - Việt. Bài báo sẽ bàn về lối ứng xử hữu ngôn hoặc/ và phi ngôn giữa thầy và trò, giữa trò với trò tại các trường học ở Hoa Kì và đối chiếu với những tương đương trong các trường học ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Văn hóa Mỹ - Việt trong hội thoại hàng ngày qua chủ điểm trường học

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Interdisciplinary Sci., 2014, Vol. 59, No. 1, pp. 98-109 VĂN HÓA MỸ - VIỆT TRONG HỘI THOẠI HÀNG NGÀY QUA CHỦ ĐIỂM TRƯỜNG HỌC Trần Xuân Điệp Khoa Tiếng Anh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Bài báo này bàn về sự biểu hiện về văn hoá qua chủ điểm nhà trường dưới góc độ đối chiếu Mỹ - Việt. Bài báo sẽ bàn về lối ứng xử hữu ngôn hoặc/ và phi ngôn giữa thầy và trò, giữa trò với trò tại các trường học ở Hoa Kì và đối chiếu với những tương đương trong các trường học ở Việt Nam. Từ đó rút ra những kết luận về văn hóa và ngôn ngữ được sử dụng trong bối cảnh nhà trường từ góc độ đối chiếu Mỹ - Việt. Từ khóa: Văn hóa Mỹ - Việt, đối chiếu, chủ điểm trường học, Hoa Kì, Việt Nam, ngôn ngữ. 1. Mở đầu Một trong những chủ điểm của hội thoại hàng ngày là nhà trường, trong đó ngôn ngữ và văn hoá đan xen với nhau, giúp cho giao tiếp diễn ra được suôn sẻ. Do đó, để xem xét sự khác biệt về văn hoá phải tính đến ngôn ngữ và để nghiên cứu ngôn ngữ phải xem xét nó trên cơ sở một nền tảng văn hoá nhất định. Là một phần của đề tài nghiên cứu dài hạn, công trình này chủ trương xem xét sự tương tác giữa văn hoá và ngôn ngữ trong chủ điểm nhà trường qua góc độ đối chiếu Mỹ - Việt. Do đề tài là dài hạn nhưng để đảm bảo tính khả thi và độ sâu sắc cần thiết, bài báo này chỉ dừng lại ở việc khảo sát một số yếu tố văn hoá và một số hội thoại dễ thấy, mang tính tiêu biểu cho sinh họat hàng ngày tại trường học mà thôi. Là cơ sở của ngôn ngữ, các yếu tố văn hoá sẽ được xem xét trước. Do giới hạn của một văn bản thông tin khoa học chúng tôi chỉ đề cập đến kết quả nghiên cứu và thảo luận. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Về quan hệ liên nhân tại trường học Phải nói ngay rằng các kết quả nghiên cứu khẳng định một chân lí, đó là: tuy đã có rất nhiều định nghĩa về văn hoá nhưng trong khuôn khổ công trình nghiên cứu này văn Ngày nhận bài: 15/1/2013 Ngày nhận đăng: 31/12/2013 Liên hệ: Trần Xuân Điệp, e-mail: dieptranxuan@gmail.com 98
  2. Văn hóa Mỹ - Việt trong hội thoại hàng ngày qua chủ điểm trường học hoá chỉ lối sống, là toàn bộ hoàn cảnh mà chúng ta tồn tại, suy nghĩ, cảm giác và liên hệ với người khác [1]. Ở trường học, mối quan hệ trong sinh hoạt hàng ngày chủ yếu là giữa học sinh/ sinh viên với nhau và với giáo viên. Sau đây là kết quả cụ thể: - Quan hệ giữa người học và người dạy: Quan hệ này trong văn hoá Mỹ là quan hệ thân mật, bình đẳng thiên về quan hệ bạn bè trong khi quan hệ này trong văn hoá Việt Nam về cơ bản vẫn là quan hệ mang tính tầng bậc, trên dưới rõ rệt mà trong tiếng Việt được biểu đạt qua lối nói "thầy - trò". Điều này có thể giải thích bằng quan niệm cho rằng văn hoá Việt Nam còn in nặng dấu ấn của Khổng giáo, theo đó người dạy là "thầy" - cha, ở đây là người cha thứ hai [5]. Kết quả thống kê cho thấy phần lớn người học, kể cả sinh viên, học sinh ở các thành phố lớn đều cảm thấy hết sức dè dặt khi phải hỏi thầy/ cô giáo những câu hỏi. Thậm chí, còn nhiều học sinh, nhất là ở các vùng nông thôn, nơi còn mang nặng tính truyền thống, vẫn quan niệm việc hỏi thầy cô giáo nhiều là vặn vẹo, là vô lễ (?). Vì người dạy được xem là bề trên, là "khuôn vàng thước ngọc", không thể sai trong mọi trường hợp, nên phải được đối xử đặc biệt và việc hỏi nhiều nghĩa là căn vặn và hàm ngôn của việc hỏi như vậy là thầy dạy sai, hoặc có biểu hiện sai trái nào đó (?). - Trong văn hoá Mỹ, vai trò của người dạy chỉ là người khích lệ (stimulator) người học tự suy nghĩ, khích lệ người học đặt câu hỏi, thách thức và thậm chí tranh cãi với người dạy nhằm mục đích là để người học tự rút ra kết luận. Nói ngắn gọn, đây là vai trò của người dạy theo đường hướng lấy người học làm trung tâm. Trong văn hoá Việt Nam, mặc dù tinh thần lấy người học làm trung tâm đã được quán triệt từ lâu, tính chủ động của người học đã được khích lệ nhưng kết quả nghiên cứu vẫn chỉ rõ vai trò của người dạy vẫn là vai trò của người quyết định tối cao, của "khuôn vàng thước ngọc". Do vậy, bất kì điều gì người dạy nói đều được coi là chân lí. Vai trò của người học phần lớn vẫn là thụ động, ghi nhớ máy móc những điều người dạy chỉ ra. Nói vắn tắt, tính chủ động của người học đã được quan tâm nhưng chưa chiếm ưu thế. Một số người học đã thể hiện đủ tự tin để hỏi người dạy những câu hỏi liên quan đến chuyên môn và liên quan đến giáo dục nói chung. Tuy vậy, nhìn chung, thiên hướng dè dặt vẫn thuộc về đa số nhất là đối với học sinh ở nông thôn, xa những thành phố lớn, ở những cộng đồng mang nặng tính truyền thống. - Về quan hệ trong nội bộ những người học, cả 2 nền văn hoá đều thể hiện tính thân mật, bè bạn. Tuy nhiên, do văn hoá Mỹ thuộc về chùm Anh - Mỹ nên một đặc trưng của nó là quan hệ liên nhân hẹp (narrow interpersonal relationships), trong khi đó quan hệ này của người Việt nói chung là rộng (broad interpersonal relationships). Chính vì vậy, trong hội thoại hàng ngày tại trường học, người Việt hay hỏi nhau về kết quả học tập và kết quả học tập được thông báo công khai trước lớp hoặc niêm yết nơi công cộng. Trong khi trong văn hoá Mỹ, việc này được xem là thuộc về đời tư và không công khai. Theo Fishman (1972) thì văn hoá là yếu tố duy trì ngôn ngữ. Là một bộ phận của văn hoá, những quan hệ này có ý nghĩa quyết định đối với hình thức ngôn ngữ hội thoại hàng ngày. 99
  3. Trần Xuân Điệp 2.2. Những tình huống ứng xử thường gặp trong giao tiếp hàng ngày Văn hoá là một vấn đề rất lớn, nên bài báo này mới chỉ dừng lại ở những yếu tố văn hoá đan xen với ngôn ngữ trong những sự kiện giao tiếp thường gặp hàng ngày tại trường học. Những sự kiện giao tiếp này là các cuộc trao đổi không phải chỉ là giữa những người học (học sinh/ sinh viên) với nhau mà còn là giữa những người học và người dạy. Trong đó dễ nhận thấy nhất có thể kể đến chào hỏi, gặp gỡ người dạy để giải quyết các vấn đề mắc mớ liên quan đến học tập. - Hàng ngày, khi gặp một giáo viên tại một trường học ở Hoa Kì, người học thường mỉm cười rồi nói "Hello"/ "Hi" kèm tên riêng của người giáo viên đó. Không nhất thiết phải đứng nghiêm và "chào thầy/ cô" như trong văn hoá Việt Nam. Thói quen này đối với người Việt là khó thay đổi. Phần nhiều các nghiệm thể cho rằng, nếu gặp thầy/ cô giáo nhiều lần trong ngày có thể chào bằng những cách thường tục đậm màu sắc thân mật như: "Thầy/ Cô chưa về ạ?", "Thầy/ Cô làm gì đấy ạ?", hay "Thầy/ Cô ăn cơm chưa ạ?" vv... Khi gặp các tình huống tương tự tại các trường học ở Hoa Kì họ có thiên hướng chuyển nghĩa đen những lối chào như vậy sang tiếng Anh. Tương tự, khi chào "Hello/ Hi" kèm tên riêng của giáo viên họ đều cảm thấy "áy náy" vì thấy chưa thể hiện sự kính trọng tới mức cần thiết. - Trong văn hoá Mỹ, sau một kì kiểm tra, nếu một người học nào đó làm bài không tốt thì thường được người dạy yêu cầu gặp tại phòng riêng (ở trường) để nói về việc đó. Trong trường hợp này, trong khi nói chuyện với người dạy, người học phải nhìn thẳng vào mắt người đang nói chuyện với mình. Văn hoá Mỹ quy định làm như vậy là thể hiện sự tôn trọng đối với người đang giao tiếp với mình. Nếu nhìn đi chỗ khác, xuống nền nhà, trần nhà, chẳng hạn, là thể hiện sự thờ ơ, thiếu lịch sự, thiếu tôn trọng đối với người kia. Trong tình huống tương tự trong văn hoá Việt Nam, phần lớn các nghiệm thể đều cho rằng, nhìn thẳng vào mặt người nói là vô lễ, là thách thức, và cho rằng để thể hiện sự hối lỗi phải nhìn xuống. Tuy thuộc về địa hạt giao tiếp phi ngôn nhưng đây là một đặc điểm hết sức quan trọng trong đào tạo tiếng Anh nhằm mục đích giao tiếp cho người Việt. - Trong trường hợp không hiểu hết một vấn đề gì đó trong bài giảng, chẳng hạn, trên lớp, người Mỹ thường giơ tay xin phép phát biểu và nói thẳng là chưa hiểu và đề nghị người dạy giảng giải lại. Trái lại, sinh viên/ học sinh Việt Nam thường thể hiện sự rụt rè, không đủ mạnh dạn để hỏi thẳng trên lớp nhất là trong trường hợp lớp đông, nhiều người lạ, và có thể chỉ hỏi lại bạn bè hoặc giữ mãi tình trạng không hiểu đó và/ hoặc tự tìm hiểu. - Trong trường hợp có hẹn gặp phải đến trường nhưng do một lí do bất khả kháng (ốm chẳng hạn...) không đến được thì một học sinh/ sinh viên Mỹ thường liên hệ ngay bằng điện thoại trình bày lí do và xin hoãn cuộc hẹn gặp đến khi khác (đến khi khỏi ốm...). Người Việt, trong trường hợp này, thì hoặc là nhờ cha/ mẹ/ người nhà đến xin phép hộ hoặc đơn giản là không đến và giải thích sau. Sự khác biệt này có thể giải thích bằng một thực tế, đó là việc dùng điện thoại chưa có, chưa phổ biến, chưa trở thành hẳn một nét văn hoá trong sinh hoạt hàng ngày, ngay cả ở những nơi đã có lắp điện thọai. Kết qủa khảo sát cho thấy rất nhiều nghiệm thể vẫn cho rằng dùng điện thọai trong trường hợp này là thiếu tôn trọng đối với các thầy cô giáo, nên cha/ mẹ/ người nhà phải đến trực tiếp báo 100
  4. Văn hóa Mỹ - Việt trong hội thoại hàng ngày qua chủ điểm trường học cáo hộ. Hơn nữa, như trên đã trình bầy, thói quen như vậy cũng có thể giải thích bằng mối quan hệ liên nhân trong văn hoá Việt Nam là rộng hơn so với quan hệ liên nhân trong văn hoá Mỹ nơi việc hẹn gặp và hoãn gặp này chỉ được xem là việc riêng của học sinh/ sinh viên đó mà thôi. - Giáo dục đại học ở Hoa Kì là theo hệ thống tín chỉ. Tuỳ theo khả năng và sự tính toán cá nhân về thời gian mà một sinh viên có thể đăng kí một hay nhiều môn học khác nhau. Trong trường hợp không thể hoàn thành hết các yêu cầu của các môn đã đăng kí, sinh viên Mỹ có thể gặp cán bộ tư vấn học tập (academic advisor) để được tư vấn và xin phép giáo viên bộ môn bỏ bớt môn hoặc xin phép giáo viên để học vào học kì tới. Việc làm tương tự như vậy ở các trường đại học Việt Nam không phải là luôn khả thi do Việt Nam mới áp dụng hệ thống đào tạo tín chỉ và các nguồn lực không phải lúc nào cũng thỏa mãn được các nhu cầu cụ thể của người học. Do vậy các thông tin về tình huống này chưa đủ nhiều để đưa ra kết luận thoả đáng. - Một tình huống thực tế có thể có trong cả 2 nền văn hoá đó là: một học sinh/ sinh viên có cảm giác một giáo viên có ác cảm với mình. Trong văn hoá Mỹ, cách ứng xử duy nhất là vẫn phải học đầy đủ, chăm chỉ, và tốt đồng thời có thể trình bầy cảm nghĩ của mình với cán bộ tư vấn. Kết quả khảo sát cho thấy ở Việt Nam phần lớn các nghiệm thể cho rằng, học sinh/ sinh viên đó thường trao đổi với bố/ mẹ/ người thân hi vọng tìm cách khắc phục. Và thường thì lời khuyên cuối cùng vẫn là cố gắng học chăm chỉ và học tốt mà thôi. - Điểm học tập trong văn hoá Mỹ thường được xác định bằng tổng của các điểm thành phần như sau: Quizzes (bài kiểm tra ngắn, 15’ chẳng hạn) 40% Tests (kiểm tra hết môn) 30% Reports (Thu họach) 20% Class participation (Đóng góp vào bài giảng trên lớp) 10% Khi không hoàn toàn đồng ý với cách tính điểm như vậy, học sinh/ sinh viên Mỹ thường xin gặp giáo viên để trình bày ý kiến riêng của mình, trong khi người Việt thường chấp nhận, hoặc nếu có chăng nữa thì lại phàn nàn với bạn bè hoặc người khác. Việc chấp nhận như vậy có thể xuất phát từ 2 nguyên nhân khác nhau: hoặc là do quan niệm "thầy luôn luôn đúng" hoặc là do rụt rè nên không dám nói thẳng suy nghĩ của mình (như đã trình bày ở trên). - Trong khi thi/ kiểm tra, trên nguyên tắc, cả người Mỹ và người Việt đều phải có trách nhiệm không cho người khác chép bài của mình vì việc để người khác chép bài đều là vi phạm quy chế thi. Khảo sát cho thấy: cả người Mỹ và người Việt đều tìm cách bảo vệ bài của mình nhưng không hành xử gay gắt đến mức báo cáo giám thị, hoặc to tiếng ngăn cản; ngược lại, cũng không tế nhị đến mức tạo điều kiện thuận lợi để người khác chép bài. - Trong giờ trả bài kiểm tra khi phát hiện bài bị chấm sai, người Mỹ thường tìm cách gặp và trình bầy vấn đề riêng với thầy/ cô giáo. Tuy thẳng thắn nhưng không đến mức đứng dạy thắc mắc ngay trong giờ học. Số ít sinh viên đại học ở Việt Nam cũng 101
  5. Trần Xuân Điệp có thể hành xử như vậy nhưng không phổ biến. Tuy nhiên, học sinh Việt Nam, nhất là ở những vùng nông thôn, thường có khuynh hướng chấp nhận hoặc/ và phàn nàn với người khác, hoặc là bạn, hoặc là các bậc phụ huynh. Nguyên nhân, cũng như đã trình bày ở trên, việc thẳng thắn hỏi lại thầy/ cô giáo thường bị xem là vô lễ, trái đạo lí đối với thầy (vì thầy luôn luôn đúng!) - Trên lớp, khi thầy/ cô giáo hỏi, cả người Mỹ và người Việt đều phải giơ tay khi muốn phát biểu. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy hai khuynh hướng: một số học sinh, nhất là ở các lớp dưới, thường tranh lấy cơ hội phát biểu số khác lại có xu hướng ngồi yên vì quá rụt rè, sợ như vậy là "khoe khoang"(?) Như vậy: Những tương đồng và dị biệt về quy tắc ứng xử ở trường học mang đậm mầu sắc văn hoá có thể được khái quát thành bảng so sánh đối chiếu Mỹ - Việt sau đây: Hoa Kì Việt Nam Từ Mầm non đến... Trung học 1. Luôn gọi thầy/ cô giáo bằng chức danh khoa Luôn gọi giáo viên bằng "Thầy"/ học/ học vị hay từ tôn xưng (nếu không có "Cô" kèm tên riêng. Ngay cả những chức danh khoa học hoặc không có học vị người không trực tiếp dạy học, hoặc TS) kèm họ của thầy/ cô giáo đó: Dr. Walker vốn là giáo viên, những người công (TS Walker), Mr. Fields (Ông Fields), Mrs. tác trong ngành giáo dục, nhân viên, Ramirez (Bà Ramirez), Professor McGuinness cán bộ ở các cơ sở đào tạo cũng (GS McGuinness) - Không bao giờ gọi thầy/ cô được gọi bằng "thầy"/ "cô" (giáo). giáo bằng "Thầy", "Cô" như trong tiếng Việt. 2. Luôn đến lớp đúng hoặc trước giờ học một Tương tự chút. 3. Khi cần hỏi trên lớp phải giơ tay. Tương tự 4. Khi phát biểu trên lớp không phải đứng dậy. Luôn phải đứng dậy 5. Khi nghỉ học vẫn phải học và làm bài đầy đủ. Hỏi thầy/ cô hoặc bạn về phần việc giao trên Tương tự lớp. 6. Do có lí do cấp thiết có thể phải nghỉ học phải báo cáo thầy/ cô giáo trước và xin thầy/ bù phần Tương tự bài bị mất. 7. Phải tự làm lấy các bài tập. Tương tự 8. Không được gian lận khi thi/ kiểm tra. Tương tự 9. Nếu gặp khó khăn trong học tập xin gặp thầy/ cô giáo để được giúp đỡ. Thầy/ cô giáo rất phấn Tương tự khởi giúp học sinh. 10. Học sinh phải có giấy xin phép của bố/ mẹ Tương tự nhưng thực hiện không giải thích về việc nghỉ học hay đi muộn. đều 102
  6. Văn hóa Mỹ - Việt trong hội thoại hàng ngày qua chủ điểm trường học 11. Lí do nghỉ học duy nhất có thể chấp nhận được là ốm, gia đình có tang, hoặc ngày nghỉ Tương tự theo tôn giáo. Mọi lí do nghỉ học khác đều vi phạm nội quy. 12. Khi thầy/ cô giáo hỏi một câu hỏi mà không gọi cụ thể học sinh nào thì bất cứ ai biết phải Tương tự giơ tay xin phát biểu. Đại học 1. Trượt môn nào phải học lại môn đó. Tương tự 2. Mọi sinh viên đều phải học chăm tất cả các Tương tự môn Luôn được phép trao đổi với cha/ 3. Khi không được sự đồng ý của sinh viên thì mẹ nhưng trong thực tế ít xảy ra vì không trao đổi với cha/ mẹ sinh viên về việc học quan niệm rằng sinh viên đã lớn nên hành của sinh viên đó. đã đủ khả năng tự chịu trách nhiệm. 4. Sau khi đã theo học tất cả những môn học bắt buộc, sinh viên có thể lựa chọn học thêm những Tương tự môn khác. 5. Tất cả sinh viên đều được đối xử bình đẳng Tương tự trên lớp và đánh giá bằng thực lực. 6. Sinh viên phải tự chịu trách nhiệm về sự tiến bộ trong học tập của mình. Tuy sinh viên phải Tương tự được thầy giúp đỡ nếu họ cần. 7. Bất cứ sinh viên nào có khả năng và có ý Tương tự muốn đều được vào học đại học. 2.3. Một số đặc điểm của ngôn ngữ học đường Theo lí thuyết về tính đa dạng của ngôn ngữ [5] và phân tích diễn ngôn, ngôn ngữ biến đổi theo trường diễn ngôn; nghĩa là lĩnh vực hoạt động nào thì ngôn ngữ ấy. Nền tảng văn hoá nói trên đã là cơ sở và đan xen với các thành ngữ Anh-Mỹ. Dưới đây là là một số thành ngữ mà học sinh/ sinh viên Mỹ thường dùng và tương đương trong tiếng Việt: Thành ngữ học sinh/ sinh viên Mỹ Tương đương trong tiếng Việt thường dùng Cut the chatter; Button your lip Im đi! Ít mồm chứ mày!... Move it! Hop to it! Nhanh lên, nhanh chân lên Grab a seat! Ngồi xuống đi mày! To run something into the ground Làm/ nói về (việc gì đó) quá nhiều In hot water; up the creek (Đang) "căng", "hết hơi", "gẫy", "khốn khổ" 103
  7. Trần Xuân Điệp To put in an all-nighter; to burn the Ôn thi mất ăn mất ngủ/ "cầy" khuya/ "Bò ra" ôn midnight oil thi/ Học ngày, học đêm Darn! drat! phooey! rats! "Chết dở rồi"!, "Gẫy răng rồi!", "Bỏ mẹ rồi!" "Khốn khổ!", "Tai họa!", "Gay quá!" (một điều Toughie; bad news gì đó/ một người nào đó không hay...) You guys Tất cả chúng mày/ Tất cả các bạn... To look down on someone "Tinh tướng", "sĩ", "lên mặt" ... với To look up to someone Ngưỡng mộ/ thờ phụng (người nào đó) To look something up Tra cứu, tìm thông tin (sách/ từ điển/ báo chí...) Hộ một tay/ hỗ trợ/ ... (giúp làm một việc, báo To help out cho biết...) Theo đường hướng lấy người học làm trung tâm, trong các lớp học ở Hoa Kì, học sinh/ sinh viên phải tham gia tích cực vào bài học, phải hỏi và trả lời các câu hỏi, có thể hỏi các câu hỏi ngắn trên lớp, cũng có thể gặp riêng thầy/ cô giáo để được giúp thêm hoặc giảng giải cặn kẽ hơn về nội dung bài học trên lớp. Đan xen với lề lối làm việc này là những thành ngữ và đoản ngữ thường được dùng để hỏi và tìm hiểu thông tin trong lớp học. Về tính phù hợp với ngữ cảnh, một số thành/ đoản ngữ phù hợp cho việc đặt câu hỏi trên lớp và phù hợp với lợi ích chung của cả lớp, số khác phù hợp cho việc hỏi riêng thầy/ cô giáo vì lợi ích riêng của người học. Tính tương đồng và dị biệt văn hoá cũng thấy được thông qua tương đương bằng tiếng Việt trong cùng một kiểu diễn ngôn. Cùng một mục đích giao tiếp (communicative purpose), cùng trường diễn ngôn (field of discourse), cùng phương thức diễn ngôn (mode of discourse) và cùng phong cách diễn ngôn (tenor of discourse) nhưng được hiện thực hoá thông qua những mẫu lời nói khác nhau do xảy ra trong hai nền văn hoá khác nhau. Sau đây là một số những diễn ngôn mà đa số các nghiệm thể cho là tiêu biểu, diễn ra trong hai khu vực chính, trong nội bộ học sinh/ sinh viên và giữa học sinh/ sinh viên với giáo viên. Các diễn ngôn trong nội bộ học sinh/ sinh viên được xác lập trên cơ sở tình huống giao tiếp (situation), các diễn ngôn xảy ra giữa học sinh/ sinh viên với giáo viên là trên cơ sở chức năng giao tiếp (function): Giao tiếp giữa học sinh/ sinh viên với học sinh/ sinh viên: Tình huống 1. A bước vào nhà ăn, buồn vì vừa bị điểm thấp, A bước về phía bàn các bạn đang ăn Ngôn ngữ/ Tiếng Anh Tương đương trong tiếng Việt Người giao tiếp Hi, there. Why don’t you grab Này. Cứ đứng đấy làm gì? Tao Bạn 1 a seat? I have to go to class. phải lên lớp đây. A Thanks. Drats! Đang chán đời đây! Này. Sao trông mày có vẻ sầu đời Bạn 2 Hey, you look kind of down. vậy? 104
  8. Văn hóa Mỹ - Việt trong hội thoại hàng ngày qua chủ điểm trường học Bài kiểm tra vừa qua không qua A I got an F for the last test! mất rồi! Don’t worry about it. Mr. Việc gì mà lo. Có bao giờ thầy Bạn 2 Calderwood always drops the Calderwood lại tính cả điểm thấp lowest test grade. nhất đâu. A Sure? Có chắc thế không? Yeah. I had him last year and Còn sao nữa. Năm ngoái tao học Bạn 3 he did the same thing then. thầy ấy. Thầy ấy thế đấy mà! A Yes. Let’s hope for the best! Ừ. Cũng hi vọng vậy thôi! Tình huống 2. Hai học sinh đang bàn về bài thi vừa làm ở hành lang Ngôn ngữ/ Tiếng Anh Tương đương trong tiếng Việt Người giao tiếp A Bad news! Bài làm chán ghê! B Yes, it really was a tough test. Còn sao nữa. Đề "xương" thật! A How about you? Mày thế nào? I think I passed, but I’m not May ra thì qua, nhưng không chắc B sure. lắm. The results are not known un- A Mãi đến thứ Năm mới biết điểm. til Thursday. Yeah! Well, we’ll find out for Ừ. Đến hôm ấy mới biết chắc B sure then. được. A Darn! Chán quá! See you later. I told Jennifer Đi nhé! Tao hẹn đón Jennifer ở B I’d meet her at the bus stop at bến xe lúc 3h. three o’ clock. I just can’t keep from think- Làm sao mà quên đi được, không A ing! biết nữa! B Take it easy. ’Bye. Cứ cho qua đi. Tao đi đây. Giao tiếp giữa học sinh/ sinh viên và giáo viên Trên lớp: 1. Yêu cầu nhắc lại: Ngôn ngữ/ Tiếng Anh Tương đương trong tiếng Việt Người giao tiếp I’m not sure I understand. Có lẽ em chưa hiểu. Thầy/ cô vui HS/ SV Will you please repeat lòng nhắc lại cho em ạ. that? Thầy/ cô giáo Yes, I said that... Ừ/ Được rồi. Tôi nói rằng... 105
  9. Trần Xuân Điệp 2. Yêu cầu nói chậm lại Ngôn ngữ/ Tiếng Anh Tương đương trong tiếng Việt Người giao tiếp Please say that again more Thầy/ Cô vui lòng nói chậm lại một HS/ SV slowly. I didn’t get what chút ạ. Thầy/ Cô nói gì em không you said. nghe rõ ạ. Thầy/ cô giáo I said... Tôi nói... 3. Yêu cầu giải thích lại Ngôn ngữ/ Tiếng Anh Tương đương trong tiếng Việt Người giao tiếp Would you mind reword- Thầy/ Cô làm ơn giải thích lại cho HS/ SV ing that? em với ạ. Thầy/ cô giáo No. I said... Được thôi. Tôi nói là... Gặp riêng giáo viên: 1. Xin gặp giáo viên: Ngôn ngữ/ Tiếng Anh Tương đương trong tiếng Việt Người giao tiếp HS/ SV Do you have a minute? Em xin gặp thầy/ cô một chút ạ. I can’t talk right now. How Ngay bây giờ thì không được em ạ. Thầy/ cô giáo about tomorrow at this Giờ này ngày mai nhé? time? Dạ, được ạ. Ngày mai vào giờ này HS/ SV Fine. See you then. em xin gặp thầy/ cô ạ. 2. Xin hỏi ý kiến giáo viên về việc học tập của mình Ngôn ngữ/ Tiếng Anh Tương đương trong tiếng Việt Người giao tiếp Can you tell me how I’m Em xin hỏi thầy/ cô em học trên lớp HS/ SV doing in class? có được không ạ? Thầy/ cô giáo I’d be happy to. Được thôi, em ạ. 3. Xin ý kiến tư vấn Ngôn ngữ/ Tiếng Anh Tương đương trong tiếng Việt Người giao tiếp How can I improve my Thưa thầy/ cô, bài làm của em nên HS/ SV work? sửa thế nào ạ? 106
  10. Văn hóa Mỹ - Việt trong hội thoại hàng ngày qua chủ điểm trường học Thầy/ cô giáo You could... Có thể... What other changes do you Thưa thầy/ cô, còn phải thay đổi gì HS/ SV suggest? nữa không ạ? Thầy/ cô giáo I think you should... Theo tôi, em nên... 2.4. Một số đặc điểm văn hoá của lối ứng xử trên lớp thấy được qua ngôn ngữ giao tiếp - Một điều đáng chú ý về cách ứng xử của giáo viên trong lớp học ở Hoa Kì là: thay vào việc trả lời các câu hỏi ở trên lớp họ thường động viên những học sinh/ sinh viên khác trả lời. Điều này có thể thấy được qua diễn ngôn dưới đây: Tình huống 1. Cả lớp đang thảo luận về giáo dục ở Hoa Kì Ngôn ngữ/ Tiếng Anh Tương đương trong tiếng Việt Người giao tiếp That’s how students act in the Sinh viên/ học sinh ở Mỹ là thế Thầy/ cô giáo United States. đấy. Liệu học sinh/ sinh viên nói là họ Can they say that they dis- HS/ SV không nhất trí với thầy/ cô có được agree with the teacher? không ạ? That’s an excellent question. Câu hỏi hay quá! Em nào trả lời Thầy/ cô giáo Can anyone answer it? được nào? Why not? You can even say Có gì mà không nói! Thậm chí nói HS/ SV (khác) that the teacher is wrong! thầy/ cô sai cũng được cơ mà! Good answer! Can anyone Trả lời hay quá! Ai có ý kiến bổ Thầy/ cô giáo add to her answer? sung cho bạn nữa nào? - Một nét đặc biệt khác nữa là giáo viên Mỹ không cảm thấy có điều gì không thoải mái khi nói là họ không trả lời được một câu hỏi của học sinh/ sinh viên. Tuy vậy, đôi khi họ không trả lời các câu hỏi mà khuyến khích học sinh/ sinh viên tự suy nghĩ thông qua việc yêu cầu họ tự tìm lấy thông tin: Tình huống 2. Lớp học đang thảo luận về những con sông lớn ở Hoa Kì. Một học sinh/ sinh viên muốn biết độ dài của sông Mississippi. Ngôn ngữ/ Tiếng Anh Tương đương trong tiếng Việt Người giao tiếp How long is the Mississippi Thưa thầy/ cô, sông Mississippi HS/ SV River, please? dài bao nhiêu ạ? 107
  11. Trần Xuân Điệp I’m not sure exactly how long the Mississippi River is. Why Tôi cũng không biết rõ. Em tra Thầy/ cô giáo don’t you look it up in the en- trong Bách khoa toàn thư rồi ngày cyclopedia and tell the class mai cho lớp biết nhé. tomorrow? - Cũng như học sinh/ sinh viên Việt Nam, học sinh/ sinh viên Mỹ cũng mong muốn được điểm cao, do vậy, thường thì họ không hài lòng với điểm C (70 - 79 - tương đương Trung bình khá trong hệ thống cho điểm Việt Nam). Trong trường hợp cảm thấy điểm của mình không đến nỗi quá thấp như thầy/ cô đã cho, học sinh/ sinh viên được hỏi thẳng thầy/ cô giáo về lí do điểm thấp và cách thức làm để bài làm được tốt hơn. Diễn ngôn dưới đây cho thấy nhận xét này: Tình huống 3. Một sinh viên vừa bị điểm thấp gặp giáo viên Ngôn ngữ/ Tương đương trong tiếng Tiếng Anh Người giao tiếp Việt Thầy/ cô giáo Hello. Can I help you? Chào em. Em cần gì nào? Em chào thầy/ cô ạ. Em xin Hello. I’d like to talk about my low hỏi thầy/ cô về điểm kiểm SV grade for the recent paper. tra vừa qua của em hơi bị thấp ạ. The reason you received a low Sở dĩ em bị điểm thấp là grade was that your paper was not dàn bài của em không tốt và Thầy/ cô giáo well organized and contained many có quá nhiều lỗi chính tả và spelling and grammar mistakes. ngữ pháp. Thế ạ? Thưa thầy/ cô, bài HS/ SV Really? How can I improve it? của em thì nên sửa thế nào ạ? If you want to improve your or- Nếu muốn có dàn bài tốt ganization, make an outline before hơn thì phải làm đề cương you write your paper. Read each trước khi viết. Đọc lại từng Thầy/ cô giáo sentence carefully to find mistakes câu một để phát hiện lỗi ngữ in grammar and spelling. You may pháp và chính tả. Có thể nhờ wish to have a friend help you find một bạn phát hiện lỗi hộ errors. cho. That ’s very helpful! Thank you Thầy chỉ cho em tốt quá. HS/ SV very much. Em cảm ơn thầy. 108
  12. Văn hóa Mỹ - Việt trong hội thoại hàng ngày qua chủ điểm trường học Giúp được em thì còn gì I’m glad that will help you. Come bằng nữa! Trước khi nộp bài Thầy/ cô giáo to me before you hand in your next lần sau thì nhớ đến để thầy paper and we’ll go over it together. trò mình cùng soát lại đã nhé. 3. Kết luận Khảo sát về văn hoá, mà cụ thể ở đây là sự tương đồng và dị biệt giữa hai nền văn hoá Mỹ - Việt qua chủ điểm hội thoại trường học vốn là một việc làm gần như không thể có điểm dừng. Tuy vậy, văn hoá luôn đan xen với ngôn ngữ, công trình khảo sát trên đây bước đầu cũng cho thấy những nét tiêu biểu nhất, tuy còn dừng ở mức độ khái quát, của hai nền văn hoá thể hiện cụ thể qua lề lối làm việc, lối xứng xử hữu hoặc/ và phi ngôn. Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin về những kết quả nghiên cứu đối với các chủ điểm sinh hoạt khác như kết bạn, khám bệnh, sử dụng điện thoại, mua sắm, dự lễ hiếu - hỉ v.v. . . Chúng tôi xin chân thành cảm ơn mọi ý kiến đóng góp, thảo luận, xây dựng, TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Emitt, et al, 1989. Language and learning, Melbourne. OUP. [2] Fishman, J.A., 1972. Sociolinguistics: A Brief introduction. Mass, Newbury Publish- ers. [3] Lê Hùng Tiến, 2010. Phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học ứng dụng. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. [4] Trần Xuân Điệp, 2005. Sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. [5] Trần Xuân Điệp, 2005. “Tính đa dạng của ngôn ngữ và việc giảng dạy ngoại ngữ”, Ngôn ngữ (Tạp chí chuyên ngành của Viện Ngôn ngữ học), 10(197)/ 2005, ISNN: 0866-7519, tr. 42–7. [6] Trần Xuân Điệp, 2009. US culture thru speaking. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. ABSTRACT The culture and language are employed at school from will be drawn from US-Vietnamese CA perspectives This article will look at the cultural representations in the topic of “at School” from US-Vietnamese CA perspectives. The article is to dicuss verbal &/or nonverbal behaviors between teachers and students and among students in US schools and contrast these with their equivalents in Vietnamese schools. Consequent conclusions about how culture and language are employed at school from will be drawn from US-Vietnamese CA perspec- tives. 109
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2