ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------- SENGSOULATH YOUBI VĂN HÓA RỪNG Ở TÂY BẮC LÀO VÀ TÂY BẮC
VIỆT NAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học
Hà Nội - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------
SENGSOULATH YOUBI
VĂN HÓA RỪNG Ở TÂY BẮC LÀO VÀ TÂY BẮC VIỆT
NAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học Mã số: 60 22 01 13
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Hoài Giang
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung của luận văn “Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào
và Tây Bắc Việt Nam” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao
chép bất cứ các công trình nào khác, các tài liệu tham khảo và trích dẫn đều
được liệt kê và ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 10 năm 2019
Học viên
SENGSOULATH Youbi
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn với đề tài “Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào
và Tây Bắc Việt Nam ”, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô
ở khoa Việt Nam học và Tiếng Việt, trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong khoa Việt Nam học và
Tiếng Việt đã giảng dạy tôi những kiến thức quý giá trong quá trình học tập,
đặc biệt tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Đặng Hoài Giang,
người trực tiếp hướng dẫn luận văn, đã tận tình hướng dẫn tôi tìm ra hướng
nghiên cứu, cách tìm tài liệu, và đã dành rất nhiều thời gian chỉnh sửa bản
thảo luận văn này. Tôi xin cảm ơn Ông Saly, Trưởng làng Suandara và người
dân trong làng đã tạo điều kiện cho tôi đi thực địa để thu thập tài liệu. Tôi xin
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cha mẹ và những người thân trong gia đình đã
hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian qua và đặc biệt
trong thời gian tôi theo học khóa thạc sĩ tại trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Do kiến thức và kinh nghiệm của bản thân người viết còn hạn chế,
những thiếu sót trong luận văn là không thể tránh khỏi. Vì vậy tôi kính mong
sẽ nhận được sự góp ý và chỉ bảo của quý thầy cô để luận văn này được
hoàn chỉnh hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2019
Học viên
SENGSOULATH Youbi
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 4 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 4 3. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................ 8 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 8 4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................ 8
4.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và các nguồn tài liệu ................................... 9 5.1. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 9
5.2. Các nguồn tài liệu ............................................................................. 10
6. Đóng góp của luận văn .......................................................................... 10 7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 10 Chƣơng 1 ........................................................................................................ 12 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ................................... 12 1.1. Khái niệm văn hóa rừng .................................................................... 12 1.1.1. Một số khái niệm về văn hóa ........................................................ 12
1.1.2. Một số khái niệm về rừng ............................................................. 13
1.1.3. Văn hóa rừng ................................................................................. 16
1.2. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Lào ....................................................... 16 1.2.1. Vị trí địa lý, khí hậu ...................................................................... 16
1.2.2. Con người, tín ngưỡng, tôn giáo và các lễ hội ở vùng Tây Bắc Lào ................................................................................................................. 18
1.2.3. Giới thiệu về làng Suandara .......................................................... 22
1.2.4. Giới thiệu về dân tộc Lào ở Tây Bắc Lào ..................................... 22
1.3. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Việt Nam .............................................. 24 1.3.1. Vị trí địa lý, khí hậu ...................................................................... 24
1.3.2. Con người, tín ngưỡng, tôn giáo và các lễ hội ở vùng Tây Bắc Việt Nam ......................................................................................................... 27
1.3.3. Giới thiệu về dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt Nam .......................... 30
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ........................................................................... 33
1
Chƣơng 2 ........................................................................................................ 34 VĂN HÓA RỪNG: NHÌN TỪ TÂY BẮC LÀO VÀ TÂY BẮC VIỆT NAM ............................................................................................................... 34 2.1. Văn hóa rừng của ngƣời Lào ở Tây Bắc Lào .................................. 34 2.1.1. Nhận thức của con người về thế giới rừng .................................... 34
2.1.2. Cách phân loại rừng của người Lào .............................................. 34
2.1.3. Chức năng sinh kế của rừng .......................................................... 39
2.1.4. Các nghi lễ và thực hành văn hóa gắn với rừng ............................ 40
2.1.4.1. Lễ cúng thần làng (khăm hó) ................................................. 41
2.1.4.2. Lễ báo ma trong rừng ma (Phị thí khọp phi pa sạ) ................ 46
2.2. Văn hóa rừng của ngƣời Việt ở vùng Tây Bắc Việt Nam .............. 48 2.2.1. Nhận thức của con người về thế giới rừng .................................... 48
2.2.2. Cách phân loại rừng của người Thái ............................................. 50
2.2.3. Chức năng sinh kế của rừng .......................................................... 52
2.2.4. Các nghi lễ và thực hành văn hóa gắn với rừng ............................ 53
2.2.4.1. Lễ Xên Bản ............................................................................ 54
2.2.4.2. Lễ Xên mường ....................................................................... 55
2.2.4.3. Lễ cúng rừng ma của người Thái Mường Mô ....................... 61
2.2.4.4. Nghi thức cầu ma rừng phù hộ ............................................... 63
2.2.4.5. Lễ cúng chuộc gỗ rừng ........................................................... 63
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ........................................................................... 65 Chƣơng 3 ........................................................................................................ 66 BIẾN ĐỔI VĂN HÓA RỪNG VÀ MỘT VÀI SO SÁNH BƢỚC ĐẦU ................................................................................................................ 66 3.1. Những biến đổi của văn hóa rừng trong thời gian hiện nay .......... 66 3.1.1. Biến đổi văn hóa rừng của người Lào ........................................... 66
3.1.2. Biến đổi văn hóa rừng của người Thái .......................................... 68
3.2. Những nét tƣơng đồng ....................................................................... 70 3.3. Những nét khác biệt ........................................................................... 72 3.4. Các nguyên nhân dẫn đến sự tƣơng đồng và khác biệt .................. 73 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ........................................................................... 77
2
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81 ............................................................................................................. 92
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa đến nay, Lào vẫn được biết đến như là một đất nước của
rừng.Cuộc sống của người dân Lào từ xưa luôn gắn bó với rừng và thế giới tự
nhiên.Rừng góp phần hình thành thế giới quan, nhân sinh quan của người
Lào.Nhiều phong tục tập quán cũng gắn với không gian rừng.Lối ứng xử coi
trọng tự nhiên, coi trọng tinh thần hài hòa, bất bạo động của người Lào cũng
là sản phẩm của quá trình thích nghi với thế giới tự nhiên, với rừng, cộng
thêm tác động của Phật giáo Nam tông. Ngày nay mặc dù điều kiện chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội ở Lào đã thay đổi nhiều, nguồn tài nguyên rừng của
Lào đã bị suy giảm nhiều, nhưng “ văn hóa rừng” của người Lào vẫn còn tồn
tại – tất nhiên là có nhiều thay đổi so với truyền thống.
Mặc dù vậy, cho đến nay, gần như chưa có nghiên cứu nào tập trung
phân tích các biểu hiện và vai trò của rừng trong văn hóa Lào.Nói cách khác,
chưa có ai thật sự đi giải mã “văn hóa rừng” của người Lào. Theo hiểu biết
của tôi, cũng chưa có ai nghiên cứu văn hóa rừng của người Lào trong sự đối
sánh với văn hóa rừng của người Việt Nam để thấy được những tương đồng
và dị biệt giữa hai tộc người trong quan hệ ứng xử với rừng. Là một học viên
cao học chuyên ngành Việt Nam học, được sống trong môi trường văn hóa
của hai nước Lào và Việt, tôi muốn thực hiện đề tài “Văn hóa rừng ở Tây Bắc
Lào và Tây Bắc Việt Nam” để đóng góp một điều gì đó cho lĩnh vực nghiên
cứu còn nhiều khoảng trống này. Tôi chọn khảo sát vùng Tây Bắc Lào –
chính xác là tỉnh Luangprabang bởi tỉnh này là một trong những tỉnh giáp với
Tây Bắc Việt Nam, cũng là quê hương của tôi.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
4
Đề tài này có mối liên hệ mật thiết với các công trình liên quan đến văn
hóa rừng của người Thái (Tây Bắc) và các tộc người khác ở Việt Nam (nhóm
1); và các công trình nghiên cứu về văn hóa rừng của người Lào nói chung
(nhóm 2).
Trong nhóm 1, có các công trình đáng chú ý sau đây:
Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam (NXB KHXH, 1978) của Cầm Trọng:
Đây là một trong những chuyên khảo đầu tiên trình bày một cách có hệ thống
về lịch sử, ngôn ngữ, chế độ ruộng đất, cấu trúc xã hội và đời sống tín ngưỡng
của người Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Những miêu tả về đời sống tín
ngưỡng của tác giả đã giúp chúng ta hình dung phần nào về văn hoá rừng của
người Thái. Một thời gian sau đó, Cầm Trọng cùng với Phan Hữu Dật tiếp tục
xuất bản một chuyên khảo khác về văn hoá Thái – nhưng không còn bó hẹp
trong người Thái ở Tây Bắc mà người Thái trên toàn Việt Nam: Văn hóa Thái
Việt Nam(NXB Văn hóa dân tộc, năm 1995).
Tri thức bản địa của người Thái ở miền núi Thanh Hóa (Luận án TS
Lịch sử - chuyên ngành Dân tộc học, 2009) của Vũ Trường Giang: Tác giả đã
nghiên cứu sâu về những tri thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp và bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên; tri thức bản địa về y học dân gian và chăm sóc sức
khỏe; tri thức bản địa trong tổ chức và quản lý xã hội ở xã Yên Khương
(huyện Lang Chánh) và Xuân Lệ (huyện Thường Xuân). Trong năm này, tác
giả Nguyễn Thị Hồng Viên cũng xuất bản một công trình có chủ đề tương tự:
Kiến thức bản địa của người Thái trong canh tác nương rẫy ở vùng ven thành
phố Sơn La (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009). Công trình của Nguyễn
Thị Hồng Viên cho thấy người Thái ở ven thành phố Sơn La đã tạo lập được
hệ sinh thái nhân văn của mình khá hoàn hảo, hệ canh tác nương rẫy đóng vai
5
trò quan trọng trong việc quản lý bảo vệ đất, cũng như trong đời sống hàng
ngày của họ.
Gần đây, nhóm tác giả Đặng Thị Oanh, Đặng Thị Ngọc Lan, Nguyễn
Văn Thủy đã công bố công trình Ứng xử với rừng trong văn hóa truyền thống
của người Thái ở Điện Biên(Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội, năm 2015). Nhóm tác giả đã tập trung nghiên cứu về kinh
nghiệm quản lý và khai thác lợi ích từ rừng để phục vụ cuộc sống hàng ngày,
cũng như đời sống tinh thần và tín ngưỡng gắn với rừng của người Thái ở tỉnh
Điện Biên.
Về chủ đề văn hoá rừng của các tộc người khác ở Việt Nam, trước hết,
phải kể đến công trình Chúng tôi ăn rừng của nhà dân tộc học người Pháp
George Condominas. Đây là một bút ký dân tộc học mô tả toàn bộ đời sống
của làng Sar Luk thuộc bộ lạc M’Nông Gar trong chu kỳ một năm nông
nghiệp – từ lúc hạ cây, đốt rẫy cho đến khi thu hoạch: tìm đất làm rẫy, thử đất,
đám cưới, đám tang, các lễ hội… [G. Condominas (2008), Chúng tôi ăn rừng
(bản tiếng Việt), NXB Thế giới, Hà Nội]. Bên cạnh đó, có thể nhắc đến hàng
loạt các công trình khác, như:
Ứng xử của người Dao đỏ ở Sapa trong việc cư trú, khai thác và bảo vệ
rừng, nguồn nước của tác giả Phạm Công Hoan (NXB Khoa học Xã hội,
2015): Cuốn sách đã khái quát chung về tên gọi, lịch sử tộc người, địa vực cư
trú, đặc điểm kinh tế - xã hội của người Dao Đỏ ở Sa Pa, tỉnh Lào Cai và phân
tích cách ứng xử của người Dao Đỏ ở Sapa trong khai thác và bảo vệ rừng,
nguồn nước.
Rừng thiêng ở Mường Khủn Tinh của Trần Văn Hạc và Sầm Văn Bình
(NXB Khoa học Xã hội, 2015): Các tác giả đã tập trung viết về rừng thiêng và
6
những quy ước cũng như những điều cấm kỵ liên quan đến rừng của người
Thái ở Mường Khủn Tinh, huyện Qùy Hợp, miền Tây Bắc Nghệ An.
Ứng xử với môi trường tự nhiên của người Dao vùng Tây Bắc (NXB
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội năm 2018) của tác giả Trần Hữu Sơn - đã tổng quan
về người Dao và ứng xử với môi trường tự nhiên của người Dao ở vùng Tây
Bắc. Trong cuốn sách này, ứng xử với môi trường tự nhiên của người Dao
vùng Tây Bắc được phản ánh qua các hoạt động sinh kế truyền thống, cách ăn
mặc, lập làng, dựng nhà ở, giữ rừng thiêng, giữ nguồn nước, tín ngưỡng tôn
giáo và những biến đổi trong ứng xử với môi trường tự nhiên của họ.Ở nhóm
2, các công trình nghiên cứu về văn hóa Lào cũng có nhiều nhưng phần lớn
tập trung nghiên cứu về các lễ hội nói chung, còn nghiên cứu về văn hóa liên
quan đến rừng dường như còn ít. Có thể điểm qua một số công trình tiêu biểu
như sau:
Lào đất nước và con người (NXB Giáo Dục, 1987) của Nguyễn Trọng
Điều:Tác giả tập trung miêu tả những nét đặc trưng về thiên nhiên đa dạng
của nước Lào, về con người với nền văn hóa nhiều màu sắc và về tiềm năng
kinh tế cũng như sự phát triển của kinh tế của nước Lào.
Đất nước Lào lịch sử và văn hoá (NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội,
1996) do GS.Lương Ninh chủ biên, tái bản tại. Tác giả tập trung trình bày quá
trình lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do của nhân dân các bộ tộc Lào từ
thời tiền sử đến khi nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời, đồng thời
qua đó giới thiệu một số nét khái quát nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc
cùng những thành tựu văn hóa nổi bật của Lào.
Ngôn ngữ và văn hoá Lào trong bối cảnh Đông Nam Á (NXB CTQG,
1998) của Phạm Đức Dương trình bày các đặc điểm của ngôn ngữ và văn hoá
Lào xét trong bối cảnh Đông Nam Á.
7
Đối thoại với các nền văn hoá Lào do Trịnh Huy Hóa biên dịch (NXB
Trẻ 2002). Nội dung của sách tập trung tìm hiểu về lịch sử và văn hoá của các
dân tộc ở Lào như các phương diện:nguồn gốc dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, lễ
hội, phong tục.
Ngoài các công trình nghiên cứu trên, còn có nhiều bài viết về văn hóa
Lào như: Lễ hội Xuông Hưa (đua thuyền) và lễ hội Lay Hưa Phay (thả bè
nến) trên sông của người Lào của PGS.TS Nguyễn Lê Thị - tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam Á số 11(92),2007; Chức năng và vai trò lễ hội Thạt Luổng
trong đời sống văn hóa của nhân dân Lào của Bounnam Phongbouapheuane –
Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 6(183), 2015.
Như vậy, có thể nói, các nghiên cứu liên quan đến văn hóa rừng của
người Thái nói riêng và của các tộc người ở Việt Nam nói chung có khá nhiều
nhưng số lượng và chất lượng của các nghiên cứu về văn hóa rừng ở Lào còn
rất hạn chế. Đặc biệt, hầu như chưa có bất kỳ nghiên cứu so sánh nào giữa
văn hóa rừng của các tộc người ở Lào và ở Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của luận văn là chỉ ra sự giống và khác nhau giữa “ văn
hóa rừng”của người Lào với “văn hóa rừng” của người Việt Nam (qua so
sánh giữa vùng Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam). Để thực hiện mục tiêu
này chúng tôi phải tập trung nghiên cứu cách ứng xử của người Lào và người
Việt Nam với rừng, cách khai thác rừng cho đến phong tục tập quán và các
nghi lễ, tín ngưỡng liên quan đến rừng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
8
Đối tượng nghiên cứu là văn hóa rừng của người Lào (dân tộc Lào) ở
vùng Tây Bắc Lào và văn hóa rừng của người Việt (dân tộc Thái) ở vùng Tây
Bắc Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, chúng tôi tập trung nghiên cứu ở vùng Tây Bắc Lào và
vùng Tây Bắc Việt Nam.Tây Bắc Lào (làng Suanđara, huyện Xiêng Ngơn,
tỉnh Luangprabang) tôi chọn vùng này để nghiên cứu bởi vì Luangprabang là
một trong những tỉnh giáp với Tây Bắc Việt Nam. Ngoài ra, do thời gian hạn
chế nên tôi đã chọn một làng để tập trung nghiên cứu.Về thời gian, đề tài sẽ
khảo sát vấn đề nghiên cứu kể từ giai đoạn trước thế kỷ 20 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và các nguồn tài liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này tôi sẽ sử dụng phương pháp phân tích tài
liệu, phương pháp nghiên cứu thực địa và phương pháp so sánh/đối chiếu.
- Phương pháp phân tích tài liệu: Được sử dụng để tham khảo các
nguồn tài liệu thành văn liên quan đến đề tài luận văn, đặc biệt là nghiên cứu
của các tác giả đi trước.
- Phương pháp nghiên cứu thực địa: Tôi đã dành khoảng một tháng để
đi thực địa ở làng Suanđara – huyện Xiêng Ngơn – tỉnh Luangprabang. Trong
thời gian thực địa, tôi đã sử dụng các phương pháp phỏng vấn sâu, quan sát
tham dự và thảo luận nhóm nhằm thu thập các thông tin nói về văn hóa rừng
của người Lào. Trong các phương pháp này, phỏng vấn sâu là phương pháp
quan trọng nhất.
- So sánh, đối chiếu: Đề tài Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc
Việt Nam nên tác giả đã sử dụng phương pháp này để chỉ ra những tương
9
đồng và khác biệt trong cách ứng xử với rừng của các cộng đồng được chọn
nghiên cứu ở hai quốc gia.
5.2. Các nguồn tài liệu
1. Tìm hiểu về văn hóa rừng ở miền Tây Bắc của Lào qua các nguồn
tài liệu sách, trang web, và tài liệu chính là đi thực địa ở làng
Suanđara huyện - Xiêng Ngơn - tỉnh Luangprabang.
2. Tìm hiểu về văn hóa rừng ở miền Tây Bắc của Việt Nam qua các
nguồn tài liệu sách, tạp chí, trang web.
6. Đóng góp của luận văn
- Giới thiệu và làm rõ khái niệm văn hóa rừng.
- Chỉ ra được những chiều cạnh cấu thành văn hoá rừng của người
Lào ở Tây Bắc Lào và người Thái ở Tây Bắc Việt Nam.
- Chỉ ra những tương đồng và dị biệt giữa văn hóa rừng ở vùng Tây
Bắc Lào và văn hóa rừng ở Tây Bắc Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm có 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
1.1. Khái niệm “văn hóa rừng”
1.2. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Lào
1.3. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Việt Nam
Chƣơng 2: Văn hóa rừng nhìn từ Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt
Nam
10
2.1. Văn hóa rừng của người Lào ở Tây Bắc Lào
2.2. Văn hóa rừng của người Việt ở Tây Bắc Việt Nam
Chƣơng 3: Biến đổi về văn hóa và một vài so sánh bƣớc đầu
3.1. Những biến đổi của văn hóa rừng trong thời gian hiện nay
3.2. Những nét tương đồng
3.3. Những nét khác biệt
3.4. Các nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng và khác biệt.
11
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm văn hóa rừng
1.1.1. Một số khái niệm về văn hóa
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn
hóa (culture). Người đầu tiên đưa ra định nghĩa về văn hóa là Taylor – một
nhà nhân loại học người Anh. Ông viết: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa
rộng của tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con
người chiếm lĩnh với tư cách là thành viên của xã hội”[14, tr.13].
Dựa trên quan điểm duy vật lịch sử, C.Mác coi văn hóa là toàn bộ
những thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người
– hoạt động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực của con
người.C. Mác đã đồng nhất văn hóa với phương thức hoạt động sống riêng có
của con người. Đó là phương thức mà con người sử dụng lao động sáng tạo
của mình để biến đổi và cải tạo giới tự nhiên, “vận dụng bản chất cố hữu của
mình” để cải tạo hiện thực khách quan, “nhào nặn”, “xây dựng” thực tại
khách quan cho chính mình “theo các quy luật của cái đẹp” [2, tr. 137].
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
12
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
[13, tr 408].
Năm 1986, Tổ chức văn hóa thế giới (UNESCO), đã cho rằng: “Trong
ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật
chất, trí tuệ và cảm xúc, quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm
người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối
sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những
tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người những suy xét
về bản thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc
biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính
nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình
là một phương án chưa hoàn thiện được đặt ra để xem xét những thành tựu
của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩ mới mẻ và tạo nên những
công trình vượt trội lên bản thân”[36, tr. 17].
Hiện nay, đa số học giả cho rằng, văn hóa là tổng thể những giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử [36, tr. 5-6].
1.1.2. Một số khái niệm về rừng
Năm 1930, Morozov đã định nghĩa khái niệm về rừng như sau: Rừng là
một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ với nhau, nó chiếm một phạm vi không
gian nhất định và trong khí quyển, rừng chiếm phần lớn về mặt trái đất và là
một bộ phận của cảnh quan địa lý. Đến năm 1952, M.E. Tcachenco đã phát
biểu rằng: Rừng là một bộ phận cảnh quan địa lý, trong đó bao gồm một tổng
thể cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật. Trong quá trình phát triển
của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng lẫn nhau với hoàn cảnh
bên ngoài. Cho đến năm 1974, I.S. Mê Lê Khôp quan niệm rằng: Rừng là sự
13
hình thành phức tạp của tự nhiên, là thành phần cơ bản của sinh quyển địa cầu
[24, tr. 5].
Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào năm 2007, đã định
nghĩa rừng: “Rừng là tài nguyên thiên nhiên quý giá, có hệ thống sinh thái
riêng gồm có các loài sinh vật, nguồn nước và đất rừng trong đó có các loài
cây cối tự mọc lên theo tự nhiên hoặc có người trồng trong khu vực rừng
phòng hộ, rừng cấm và rừng sản xuất [43].
Theo Luật Lâm Nghiệp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam năm 2017, “Rừng là một hệ sinh thái bao gồm các loài thực vật rừng,
động vật rừng, nấm, vi sinh vật, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong
đó thành phần chính là một hoặc một số loài cây thân gỗ, tre, nứa, cây họ cau
có chiều cao được xác định theo hệ thực vật trên núi đất, núi đá, đất ngập
nước, đất cát hoặc hệ thực vật đặc trưng khác; diện tích liên vùng từ 0,3 ha trở
lên; độ tàn che từ 0,1 trở lên [30].
Như vậy, các định nghĩa trên chủ yếu hiểu rừng như là một hệ sinh thái
tự nhiên, nhưng đối với các tộc người có cuộc sống gần gũi với rừng, môi
trường sống của họ toàn gắn liền với rừng núi thì rừng không chỉ là tự nhiên
thuần túy. Theo nhà văn hóa Nguyên Ngọc, đối với các tộc người ở Tây
Nguyên, họ coi từng cây rừng đúng như một sinh vật sống chẳng hề thua kém
con người, cũng có linh hồn ngang bằng con người, cũng đầy cảm xúc, vui
mừng, hạnh phúc, đau đớn hệt con người. Khi buộc phải chặt hạ một cây gỗ
cho nhu cầu thiết yếu của mình, bao giờ người Tây Nguyên cũng ân cần làm
lễ xin lỗi cây, tạ ơn rừng. Người Tây Nguyên sống “theo đạo đức của rừng”,
quan niệm con người cần phải hiến mình như rừng. Như vậy ở Tây Nguyên,
rừng là cội nguồn của đời sống tâm linh, tức phần sâu xa nhất trong con người
và cộng đồng người, mất rừng thì con người và cộng đồng người mất đi cái
14
nền rộng lớn, bền chặt, sâu thẳm nhất của mình, trở nên bơ vơ, “tha hóa”, mất
gốc, mất cội nguồn [22, tr. 160-161].
Theo quan niệm của người Dao Đỏ, “Có rừng là có cuộc sống”, rừng
cung cấp gỗ lạt làm nhà, củi đun; rừng là nơi sinh ra nguồn nước sinh hoạt
và làm ruộng; rừng sản sinh ra các loại rau, củ, quả... đáp ứng nhu cầu thực
phẩm cho các bữa ăn hàng ngày; rừng là nơi nuôi dưỡng các loại cây thuốc
chữa bệnh cứu người; rừng tạo ra các bãi chăn thả vật nuôi. Với môi trường
rừng tạo ra tán che, thanh lọc không khí (mỗi lần đốt lửa lá cây rừng sẽ hút
sạch khói), tạo khí hậu trong lành mát mẻ ở mùa hè; rừng chắn gió bão, lũ
lụt, sạt lở, giảm thiểu thiên tai,....Rừng là biểu tượng cao cả, vĩ đại, tốt lành
mà người Dao Đỏ dùng để răn dạy con cháu thông qua các câu tục ngữ,
thành ngữ, chẳng hạn như:
Giảm tàu pẻ phản nhần khú khí,
Trỉnh tầu tải mụa khú rìa làng.
Tạm dịch:
Không cần cơm trắng ăn ngon
Chỉ cần cây to che bóng mát.
Ý của câu tục ngữ này là: chỉ cần bố mẹ có tấm lòng tốt, thương con
cháu, là chỗ dựa tinh thần, che chở cho con cháu, còn hơn được ăn ngon mà
thiếu đi tình thương yêu vỗ về của đấng sinh thành [26, tr. 121-122].
Trong khi đó, người Hà Nhì quan niệm rằng: rừng và cây rừng, con thú
trong rừng điều có linh hồn như con người.Theo ghi chép của Trần Hữu, khi
gieo hạt cho một vụ mùa mới, người Hà Nhì bao giờ cũng phải khấn hồn cây
và thần rừng A Pố Xả Kha. Khi vào rừng kiếm củi, hái rau, chặt cây, người
Hà Nhì cũng phải cúng thần rừng, cầu xin thần cho hái rau, chặt cây. Một số
15
người chết bất đắc kỳ tử ở trong rừng cũng hóa thành loài ma ác đe dọa con
người khi họ vào rừng và bị rừng trừng phạt như Xá Xí Khà Là Cộ (ma người
chết do hổ vồ), Xá Xí Khà Ngú Cộ (ma người chết do gấu vồ, Xá Xí Ô Ló Tụ
(ma người chết do rắn cắn)... Như vậy quan niệm về rừng, nhìn nhận về rừng
của người Hà Nhì vừa phản ánh mối quan hệ thân thiện hòa hợp với rừng vừa
linh thiêng hóa rừng. Với quan niệm như vậy, người Hà Nhì đặc biệt quan
tâm đến rừng, có thái độ kính trọng, sợ hãi hoặc chăm sóc rừng, cây rừng như
đối với người thân, bề trên của mình. Mặt khác người Hà Nhì còn tạo ra cơ
chế thiêng bảo vệ rừng. Rừng linh thiêng vì trong rừng có nhiều lực lượng
siêu nhiên ảnh hưởng đến đời sống con người, vì mỗi loại cây, mỗi vũng nước
đều có thần chủ. Con người xâm phạm đến rừng cây, tự nhiên sẽ bị trừng
phạt. Cơ chế thiêng tạo ra sức mạnh bảo vệ rừng, tạo ra ý thức tự giác, buộc
con người phải tôn trọng rừng, không được phá loại rừng [27, tr. 644-645].
1.1.3. Văn hóa rừng
Từ các khái niệm “văn hóa” và “rừng” đã trình bày ở phần trên, tác giả
đưa ra cách hiểu của mình về văn hóa rừng như sau: văn hóa rừng là một tập
hợp các ứng xử đặc trưng gắn với hệ sinh thái rừng của các cộng đồng sở tại,
được thể hiện trong quan niệm, các nghi lễ, các hình thức quản lý, khai thác
và bảo vệ rừng của họ, rồi dần dần trở thành phong tục tập quán, tín ngưỡng
tốt đẹp được chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác.
1.2. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Lào
1.2.1. Vị trí địa lý, khí hậu
Theo địa lý Lào, Lào được chia thành 3 miền: miền Bắc, Trung, Nam
nhưng theo cục Khí tượng và Thủy văn Lào phân chia nước Lào thành 4 vùng
gồm có: vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Trung và Nam.
16
Vùng Tây Bắc Lào gồm có 5 tỉnh như: tỉnh Luangnamtha, Oudômxay, Bokeo, Luangprabang, và Xayaboury, tổng diện tích là: 64.115 km2, trong
đó địa hình núi chiếm hơn 90%, phía Bắc giáp với tỉnh Phongsaly và tỉnh
Vân Nam (Trung Quốc), phía Đông giáp tỉnh Điện Biên(Việt Nam), tỉnh
Xiêng Khoảng, tỉnh Hủa Phăn, phía Nam giáp tỉnh Viêng Chăn, phía Tây
Nam giáp tỉnh Chiang Rai, Phayao, Nan, Phrae (Thái Lan) còn phía Tây Bắc
giáp với tỉnh Xhan (Myanmar)[34, tr. 1513]. Đặc điểm địa lý của vùng này
là miền núi, núi cao. “Vùng Tây Bắc có thể nói ngoài cao nguyên Mường
Sing còn một cao nguyên nhỏ đá phiến và cát kết thuộc tỉnh Nặm Thà, đại bộ
phận núi non theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, với độ cao từ 1000 đến
1500m, có những đỉnh vượt quá 2000m. Đông bắc và nam Phongsaly bị
nhiều dãy núi che chắn. Dãy Sanchênpêu dài 60 km và rộng tới 40km. Còn
dãy Saichengkoung ở Tây Bắc Nậm Thà (cách đó 70km) là dãy núi hoa
cương cũng có chiều dài tới 60km, nhưng bề rộng khoảng 20km; đỉnh cao
nhất đạt tới2072m. Đó cũng là đỉnh cao nhất trong vùng. Theo hướng núi,
các dòng Nậm Thà, Nậm U, Nậm Seng, từ các thung lũng hẹp hai bên sườn
dốc, vất vả lắm mới vượt được các hõm để đổ về Mẹ Khoỏng. Nhiều dãy núi
khác không kém phần đồ sộ bao quanh Luangphabăng như những bức tường
thành, di tích của một địa thế tự nhiên để che chắn cố đô của đất nước Triệu
Voi. Dãy Phu Nậm Bang nằm ở phía tây dài tới 60km, có đỉnh cao tới
1933m. Dãy Phu Ba Beng dài 50km, rộng 80km lại án ngữ phía nam tạo thế
cho kinh đô cũ nằm sâu kín trong vùng núi hiểm trở. Hệ núi non đó kéo dài
tận bắc Viêng Chăn mới giảm thế hiểm trở, đổ xuống mạn bờ tây dòng Mẹ
Khoỏng, thế núi thấp dần sang phía Thái Lan”[20, tr. 10-11].
Tây Bắc Lào gồm có 2 mùa: mùa mưa và mùa khô. Đặc điểm của vùng
này vào mùa khô nhiệt độ sẽ thấp hơn nếu so với miền khác nhưng vẫn ấm
hơn ở Đông Bắc.
17
“Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 (Dương lịch) thời tiết lạnh
và khô, sáng sớm có sương mù, nắng nhiều,bởi chịu ảnh hưởng từ khối không
khí lạnh Siberia (Nga) và do ảnh hưởng của địa hình của vùng đã làm cho
nhiệt độ của vùng này thấp hơn so với miền Nam. Nhiệt độ trung bình trong
mùa khô là 15C. Lượng mưa vào mùa này cũng ít nhưng nếu so với vùng
khác thì vùng này có nhiều hơn đặc biệt cuối tháng 2 đến đầu tháng 3 sẽ có
mưa phùn.
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 (Dương lịch), chịu ảnh
hưởng từ gió thổi từ biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương từ phía Tây-
Nam thổi lên,vào mùa này thời tiết luôn thay đổi, có dông, nhiều mây đôi khi
có bão, lượng nước mưa chiếm tới 90% của lượng nước mưa cả năm đặc biệt
tháng 7 và tháng 8 là tháng có mưa nhiều nhất trung bình là 20 - 25
ngày/tháng mùa này nắng không nhiều và độ ẩm cũng cao nhiệt độ trung bình
là 24 C”[41, tr. 16].
1.2.2. Con người, tín ngưỡng, tôn giáo và các lễ hội ở vùng Tây Bắc
Lào
Hiện nay, ở Tây Bắc Lào có khoảng hơn 1 triệu dân, phân bố ở các
tỉnh: Luangnamtha: 175.753 người, Oudomxay: 307.622 người, Bokeo:
179.243 người, Luangprabang: 431.889 người, Xayabouly: 381.376 người
(theo Tổng điều tra dân số nhà ở Lào lần thứ 4, 1-7/3/2015).
Theo thống kê năm 2015 Lào có tất cả 49 dân tộc thuộc 4 nhóm ngôn
ngữ khác nhau như: nhóm các tộc người nói ngôn ngữ Lào– Tai (Lào – Thay),
nhóm các tộc người nói ngôn ngữ Mon- Khơme, nhóm các tộc người nói
ngôn ngữ Hmông- Miến, nhóm các tộc người nói ngôn ngữ Hán-Tạng ngoài 4
nhóm này ra còn có các kiều dân như: người Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ,
Trung Quốc,...[41, tr.49] Và các tộc người tập trung ở vùng Tây Bắc chủ yếu
18
là các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Lào- Tai như: dân tộc Lào, Tày, Phuôn,
Lự, Nhuôn, Thay Nưa, Thái Đen, Thái Đỏ, Thái Trắng,..; dân tộc Khơ Mú
thuộc nhóm ngôn ngữ Mon- Khơme; dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông-
Miến như: Hmông,...; các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Hán -Tạng như:
Akha, Phounoi, Lahu, Sila, Hà Nhì, Lô Lô, Họ. Bởi vì các tộc người sống ở
vùng Tây Bắc khá đa dạng nên các tín ngưỡng, tôn giáo cũng khá phong phú
như các dân tộc sống ở vùng đồng bằng và ven bờ sông chủ yếu họ sẽ theo
Phật giáo tiểu thừa như: Thái Lan, Campuchia, Srilanka, Myanmar,... còn các
đồng bào dân tộc sống ở miền núi cao họ có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thần
linh (thần núi, thần rừng,...), tín ngưỡng phồn thực và các tín ngưỡng đó
người Lào gọi là Phí có nghĩa là ma (thần), và một số người cũng theo Kitô
giáo, Bàlamôn giáo,... Nhưng đặc điểm của người dân Lào nói chung người
Tây Bắc nói riêng dù là dân tộc nào theo tôn giáo nào thậm chí không theo
tôn giáo nào cả cũng có thể hỗn hợp với nhau thí dụ: người theo Phật có thể
thờ cúng thần linh bởi vì cuộc sống của họ chủ yếu gắn bó với thiên nhiên nên
làm cho họ tin vào cái mà họ không thể thấy bằng mắt nhưng họ vẫn tin trong
thứ đó chắc có linh hồn và người theo Phí có thể vào chùa thậm chí có thể đi
tu, dù họ theo Phí nhưng vẫn chịu ảnh hưởng từ Phật và đó là sự thống nhất
trong đa dạng của người dân Lào[41, tr. 50].
Phật giáo chiếm địa vị hết sức quan trọng trong đời sống của người Lào
nói chung và người Lào vùng Tây Bắc nói riêng. Theo các nhà nghiên cứu,
Phật giáo đã được du nhập vào Lào khoảng trước thế kỷ thứ X thời kỳ Lào là
các mương riêng lẻ. Là một tôn giáo với những nghi thức đơn giản, với chủ
thuyết từ bi bác ái Phật giáo được chinh phục người dân Lào. Vốn là một dân
tộc yêu chuộng hòa bình và đầy tình nhân ái, trong quá trình tồn tại và phát
triển dài lâu trên đất nước Lào, Phật giáo đã có những đóng góp quan trọng
đối với sự phát triển của lịch sử Lào. Phật giáo từng là chất keo gắn liền các
19
mương riêng lẻ tạo tiền đề cho sự ra đời của quốc gia thống nhất Lào. Thế kỷ
thứ XIV, quốc gia thống nhất Lào Lạn Xạng ra đời. Phật giáo được tôn lên địa
vị quốc giáo. Từ đấy Phật giáo đã góp phần ngăn chặn tình trạng cát cứ để giữ
sự thống nhất của vương quốc và góp phần vào các cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm giành độc lập cho đất nước Lào. Trải qua hàng trăm năm tồn tại
trên đất nước Lào, Phật giáo đã thấm vào tư tưởng, tình cảm và ý thức của
nhân dân Lào để tạo nên một văn hóa dân tộc Lào thống nhất vừa thấm đượm
tính nhân từ của đạo Phật, vừa mang sắc thái bình yên của người Lào. Sự phát
triển của Phật giáo luôn gắn liền với sự phát triển của lịch sử Lào. Điều đó
được thể hiện rõ ràng hơn trong một thế kỷ qua, thế kỷ nhân dân Lào đấu tranh
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giành độc lập. Lực lượng Phật giáo đã
đi theo xu thế chung của thời đại góp phần cùng nhân dân Lào chiến thắng
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành độc lập cho đất nước Lào. Từ năm 1975,
sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, nhân dân Lào bước vào giai đoạn
lịch sử mới, thời kỳ bảo vệ và xây dựng đất nước mới, Phật giáo cũng có những
biến chuyển để phù hợp với giai đoạn lịch sử mới của đất nước”[32, tr. 136-
137].
Từ góc nhìn Phật giáo, người Lào chia con người thành hai loài “Khôn
đíp” và “Khôn xúc”. “Khôn đíp”(người sống)sống theo lối tự nhiên chưa
được giáo hóa. Vì vậy họ phải được vào chùa để học hành giáo lý, chữ
nghĩa... để trở thành “Khôn xúc”(người chín). Ở người Lào-Tày, con trai đến
độ tuổi bắt đầu lớn (13-14) được gia đình khuyến khích đi vào chùa, cắt tóc,
mặc áo cà sa (Pên buột) để theo các vị sư. Sau một thời gian dù ba tháng, một
năm, ba năm... anh ta được ra chùa (Xít) trở về với cuộc sống gia đình lập
nghiệp làm ăn và được coi là “ Khôn xúc”, được đặt tên có chữ: Thít, Xiêng.
Vì thế “ chùa” đối với người theo Phật ở Lào không phải chỉ là nơi thực hành
nghi lễ, nghe giảng kinh Phật mà còn là nhà trường dạy chữ, dạy kiến thức,
20
dạy nghề, chữa bệnh.., là nơi tụ họp của cộng đồng để tổ chức các hoạt động
văn hóa văn nghệ dân gian,...[10, tr. 196].
Thành phố Luông Pha Bang là một thành phố nhỏ thuộc tỉnh Luông
Pha Bang nằm ở miền Tây Bắc Lào là trung tâm văn hóa, giáo dục, thể thao,
chính trị của miền Bắc Lào, là một thành phố có lịch sử lâu dài, là kinh đô cổ
của vương quốc Lạn Xạng, Luông Pha Bang được UNESCO công nhận là di
sản văn hóa thế giới vào năm 1995. Hiện nay, Luông Pha Bang vẫn giữ được
các phong tục tập quán, các nghi lễ dân gian lối sống tươi đẹp nhẹ nhàng của
người Lào nhất là trung tâm Phật giáo đã thể hiện ở chỗ riêng thành phố
Luông Pha Bang nhỏ bé nhưng có tới 33 ngôi chùa (khu vực phố cổ)[45] các
ngôi chùa đó được xây dựng từ các thời vua khác nhau và được các người dân
phát huy gìn giữ cho đến hiện nay đó đã chứng minh rằng: người Lào nói
trung người Tây Bắc nói riêng họ rất gắn bó với đạo Phật.
Các lễ hội quanh năm phần lớn cũng liên quan đến Phật giáo và nông
nghiệp người Lào gọi lễ hội là “ Bun” có nghĩa là phúc các nghi lễ liên quan
đến Phật giáo như: Bun Pha Vết( kỷ niệm ngày Thích Ca thành Phật, đọc kinh
Pha Vết), Bun Xà Lạc( hiến tiền bạc đồ vật cho nhà chùa để cầu phúc nhưng
dưới hình thức nhờ chuyển cho tổ tiên), Bun Khẩu Văn Xả và Oc Văn Xả
(tuần chay kéo dài ba tháng dành cho công việc ăn chay niệm Phật của các
nhà sư, xét đề bạt, kỷ luật...)[10, tr. 217], Bun Visakhabusa(lễ Phật đản),...
Ngoài các lễ hội này ra còn có Bun Pi May( năm mới, Té nước) được tổ chức
vào tháng Tư Dương lịch (theo lịch Lào gọi là tháng Năm, Bun Khau Chi
(nướng xôi) tổ chức vào tháng Hai Dương lịch là tháng Ba theo lịch Lào, Bun
Xuông Hưa(đua thuyền) được tổ chức vào ngày lễ Oc Văn Xả có một số nơi
tổ chức vào ngày Bun Ho Khau Pa Đap Đin (lễ tưởng nhớ người mất đi rồi)
được tổ chức vào tháng Tám hoặc tháng Chín Dương lịch, lễ hội đón năm mới
của dân tộc Khơ Mú và Hmông, Bun Lay Heua Phay (thả thuyền lửa, thả hoa
21
đăng) được tổ chức vào ban đêm cùng ngày Oc Phan Xã nhưng một số nơi tổ
chức vào đêm hôm sau ngày Oc Phan Xả. Ngoài các lễ hội lớn nói trên còn có
các lễ hội địa phương được tổ chức theo làng như lễ hội cầu mưa (các dân tộc
làm nương rẫy), thờ thần làng, ...
1.2.3. Giới thiệu về làng Suandara
Ông Saly, trưởng làng cho biết làng Suandara thuộc huyện Xiêng
Ngơn, tỉnh Luông Pha Bang, làng nằm cách trung tâm huyện Xiêng Ngơn
khoảng 18km về phía Đông Bắc. Có biên giới phía Bắc giáp với làng Huai
Yen, phía Nam giáp với làng Huai Fai, phía Tây giáp với làng Long O, còn
phía Đông giáp với làng En. Nếu tính từ trung tâm thành phố Luông Pha
Bang, làng Suandara chỉ cách trung tâm khoảng 22 km làng nằm bên bờ sông
Khan là một con sông có vai trò quan trọng đối với người Tây Bắc. 80% dân
làng là dân tộc Lào thuộc nhóm ngôn ngữ Lào-Tai theo Phật giáo, còn 20% là
đồng bào dân tộc Hmông thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông-Miến theo ma, làng
có một ngôi chùa là trung tâm hội tụ tinh thần của dân làng. Dù đạo Phật có
ảnh hưởng rất lớn với cuộc sống của dân làng nhưng bởi một phần của cuộc
sống người ở đây là thiên nhiên nên chúng ta cũng có tín ngưỡng thờ cúng
thần (ma) và phần lớn của phong tục tập quán cũng không chỉ liên quan đến
đạo Phật mà đi đôi với thiên nhiên. Nghề chính của người dân ở đây là trồng
lúa nước, trồng những cây lương thực như: ngô, củ sắn, lạc, vừng, các loài
cây ăn quả,...
1.2.4. Giới thiệu về dân tộc Lào ở Tây Bắc Lào
Dân tộc Lào là dân tộc chiếm đa số dân ở Lào chiếm 53.2% của dân cả
nước (theo Tổng điều tra dân số nhà ở Lào lần thứ 4, 1-7/3/2015). Hiện nay,
dân tộc Lào chiếm 47% dân số ở Tây Bắc[34], là một dân tộc thuộc nhóm
ngôn ngữ Lào – Tai, theo đạo Phật Tiểu thừa, một số gia đình cũng có tín
22
ngưỡng thờ thần (thần đất, thần núi, thần sông,…), họ tập trung cư trú ở vùng
đồng bằng ven bờ sông, nghề chính của họ là buôn bán, trồng trọt, trồng lúa
nước do vậy lương thực chính của họ là gạo nếp.
Kể từ lịch sử của nhóm nói ngôn ngữ Lào – Tai hoặc Lào - Thay:
“Thực ra quá trình người Lào – Thay chuyển dịch vào Lào đã được P.
Boulanger đề cập đến trong công trình Histoire du Laos từ năm 1935 (97),
xong ông chưa định được niên đại cụ thể. Còn Đặng Nghiệm Vạn trong bài
Sơ lược về sự thiên di của các bộ lạc Thái vào Tây Bắc Việt Nam (85) và bài
quá trình hình thành các nhóm Tày – Thái ở Việt Nam (86) đã chỉ ra rằng,
người Lào Thay vào Lào trong thế kỷ thứ VIII và sự hình thành hệ thống
chính trị xã hội kiểu các mường cổ của người Lào – Thay ở Lào đã được
phản ánh trong truyền thuyết Khún Bulôm. Truyền thuyết kể rằng Khún Phạ
Bulôm đã chia đất đai của mình cho bảy người con coi giữ. Khún Lo, con trai
cả vào mường Xoa năm 747 (67) lập nên hệ thống tổ chức chính trị, xã hội ở
đây. Trong khối cư dân nói tiếng Lào – Thay ở Lào, ngoài người Lào còn có
người Phu Thay (Thay Đăm, Thay Đeng, Thay Khảo, Thay Nưa, Thay Mơi,
Phu Thay, người Lự, người Nhuôn, người Dắng (ở việt Nam gọi là người
Giắng), người Xẹc”[19, tr. 21-22].
Trước khi đạo Phật được du nhập vào Lào, lúc đó dân tộc Lào đang
theo đạo Bàlamôn (Lào gọi là Pham hay Phạn) và sau khi đạo Phật vào Lào,
nó đã chiếm địa vị chủ đạo trong đời sống tinh thần và văn hóa truyền thống
của người Lào. “Người Lào tiếp nhận đạo Phật một cách tự nhiên như một
hoạt động tổng thể của đời sống tinh thần và văn hóa theo cách họ “Thứ Phí”
trước khi có đạo Phật. Đức Phật đã mang đến cho họ những điều khuyên răn
làm cho các quan hệ giữa con người với con người trong cộng đồng trở nên
hiền hòa êm thấm, tránh được lòng tham thói xấu”[10, tr. 196]. Mặc dù
người Lào theo Phật, nhưng họ vẫn thờ thần (Phi) đó là tác động của đạo
23
Bàlamôn. “Đến thế kỷ XVI, vua Phothi Sararat đã ra sắc lệnh cấm thờ Phi để
thờ Phật lúc đó đạo Phạn đã mờ nhạt chỉ con được giữ lại một số nghi lễ
như; Ba Xi là tục buộc chỉ cổ tay để cầu phúc, khẩn, cầu may mắn,…”[10,
tr. 197]. Do vậy, lễ hội quanh năm của họ mới liên quan đến Phật giáo và có
một phần là liên quan đến đạo Bàlamôn.
1.3. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Việt Nam
1.3.1. Vị trí địa lý, khí hậu
Nằm ở phía Tây- Bắc lãnh thổ Việt Nam, Tây Bắc có diện tích vào khoảng 36.000 km2, chiếm 1/4 diện tích miền Bắc. Phía Bắc giáp Trung Hoa,
với 700 km đường biên giới; phía Tây giáp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào;
phía Nam giáp Thanh Hóa, Hà Tây; ranh giới phía Đông giữa Tây Bắc với Đông
Bắc, vùng trung du Bắc Bộ là sông Hồng và dãy Hoàng Liên Sơn[28, tr. 12].
Hiện nay, theo các nhà nghiên cứu văn hóa, địa văn hóa, dân tộc học,
...lãnh thổ Tây Bắc gồm các tỉnh: Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên,
Sơn La và Hòa Bình. Cũng cần chú ý, một số ngành khác có quan niệm về
lãnh thổ Tây Bắc khác với các hiểu trên. Ví dụ: theo Tổng cục Thống kê, Tây
Bắc bao gồm các tỉnh: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Hòa Bình. Còn trong
sách 500 Câu Hỏi Đáp Sắc Màu Văn Hóa Việt Nam đã viết rằng : “Tiểu vùng
văn hóa Tây Bắc bao gồm các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Sơn La và một phần
các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hòa Bình. Với một địa bàn khá rộng nên Tây Bắc
giáp Lào ở phía Tây, giáp Trung Quốc ở phía Tây Bắc, giáp vùng Đông Bắc
Bắc Bộ ở phía Đông và giáp tỉnh Thanh Hóa ở phía Tây Nam. Mở rộng ra,
tiểu vùng văn hóa Tây Bắc là một phần của vùng văn hóa Tây Bắc và miền
núi Bắc Trung Bộ, bao gồm các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai,
Yên Bái, Hòa Bình và miền núi các tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An[ 12, tr. 99].
Tây Bắc là vùng lãnh thổ bao gồm nhiều dãy núi và cao nguyên. Nếu tính từ
24
thung lũng sông Hồng thuộc địa phận phía Đông của Lào Cai, Yên Bái... cho
đến biên giới phía Tây giáp với Công hòa Dân chủ Nhân dân Lào(
CHDCDL), địa hình hết sức phức tạp. Phía Đông lãnh thổ Tây Bắc là dãy
Hoàng Liên Sơn, dài tới 180km từ biên giới Việt – Trung cho đến tận Vạn
Yên, có chiều rộng trung bình khoảng 30km. Đa số các đỉnh núi thuộc dãy núi
này đều có độ cao trung bình từ 1.500 đến trên 3000m, thấp nhất cũng là
1.069m (đèo Khau Cọ). Nếu không kể dòng sông Hồng Hà cuồn cuộn nước
phù sa, Hoàng Liên Sơn chính là ranh giới chia đôi phần lãnh thổ Bắc Việt
Nam thành hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Thuộc phần đất giáp biên giới với
CHDCDL là dãy núi sông Mã. Tuy không cao bằng Hoàng Liên Sơn, nhưng
sông Mã được xếp vào loại núi có độ cao trung bình (có đỉnh cao tới 1.800m).
Sông Mã chạy dài tới 500km, tỏa rộng sang cả Samneau thuộc lãnh thổ
CHDCDL và miền núi Tây Thanh – Nghệ. Giữa hai dãy núi đồ sộ trên là
phần đất thuộc vùng núi thấp tương đối rộng lớn thuộc lưu vực sông Đà với
nhiều cao nguyên đá vôi (dài 400km, rộng 10 – 20 km, cao 600 – 1.000m)
chạy suốt từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Quan Sơn, Quan Hóa... (Thanh Hóa).
Đây là vùng lãnh thổ bị chia cắt rất dữ dội và chỉ cách nay khoảng hơn vài
chục năm vẫn còn tương đối hoang vu. Xen giữa những dãy núi lớn nhỏ là các
bồn địa, các cánh đồng Mường Than (Than Uyên, Lai Châu), Mường Lò
(Nghĩa Lộ), Mường Tấc (Phù Yên, Bắc Yên), Mường Muổi (Thuận Châu),
Mường Vạt (Yên Châu), Mường Xang (Mộc Châu) thuộc tỉnh Sơn La;
Mường Ẳng, Mường Then (Điện Biên), Mường Lay (Lai Châu), Mường Mùn
(Mai Châu), Mường Bi (Tân Lạc), Mường Vang (Lạc Sơn), Mường Thàng
(Kỳ Sơn) và Mường Động (Kim Bôi) thuộc tỉnh Hòa Bình... Ngoài các cánh
đồng bồn địa lớn, nằm xen cài giữa các vùng núi đồi Tây Bắc còn có hàng
trăm cánh đồng diện tích vào loại trung bình và nhỏ. Tất cả những cánh đồng
bồn địa đó chính là những vùng tụ cư, lập làng khai phá đất đai thành ruộng
25
nước và sinh sống bằng nghề trồng lúa nước của các dân tộc nói ngôn ngữ
Tày – Thái, Việt – Mường và Hoa – Hán[28, tr. 15-17].
Nếu so sánh với các vùng khác ở Việt Nam, Tây Bắc là xứ sở của các
hiện tượng tự nhiên tương đối cực đoan. Khí hậu vùng này ấm hơn ở Đông
Bắc, nhờ có Hoàng Liên Sơn chắn bớt gió lạnh thổi từ Đông – Bắc xuống vào
mùa đông. Tuy vậy mùa đông ở Tây Bắc cũng không kém khắc nghiệt, nhất là
các vùng có độ cao trên 1.000m. Nhìn chung Tây Bắc thuộc vùng khí hậu
nhiệt đới ẩm, gió mùa.
Mùa mưa ở Tây Bắc thường kéo dài từ tháng Tư, tháng Năm đến
tháng Mười Dương lịch. Về mùa mưa khí hậu nóng bức, mưa rất nhiều, độ
ẩm không khí cao. Đầu mùa mưa thường hay có mưa đá. Từ giữa tháng Tư,
các cơn mưa thường kéo dài và kèm theo dông lớn. Mưa nhiều nhất tập
trung vào tháng Sáu, tháng Bảy Âm lịch (tháng Tám Dương lịch).Trong
khoảng thời gian các tháng mùa mưa, Tây Bắc thường có tổng lượng mưa
trung bình vào khoảng 1.500 – 2.300mm. Nhiệt độ trung bình vào mùa mưa
ở Tây Bắc thường ở mức 25C đến 35C.
Mùa khô lạnh ở Tây Bắc thường kéo dài từ tháng Mười một đến tháng
Tư năm sau (Dương lịch). Đặc điểm nổi bật của khí hậu Tây Bắc mùa này là
khô và hanh kèm theo lạnh buốt. Có những tháng về mùa này ở Tây Bắc
lượng mưa chỉ đạt tới 5 – 20mm. Vào những đợt rét nhất, nhiều nơi có nhiệt
độ trung bình xuống tới 4C hoặc 5C. Kèm theo lạnh là sương mù dày đặc,
gió Bấc và sương muối. Vào thời điểm giao mùa, tức là vào khoảng từ tháng
Hai đến tháng Tư (Dương lịch), ở Tây Bắc trời chuyển dần từ lạnh sang
nóng. Vào thời gian này, chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và đêm ở Tây
Bắc rất cao, nhiều khi buổi trưa nhiệt độ lên tới 38C, nhưng về đêm nhiệt
độ lại xuống chỉ còn 18C - 20C. Chính quãng thời gian này, Tây Bắc rất
26
hay có gió khô nóng từ Lào thổi sang, cư dân Tây Bắc gọi đó là Nôm
Lào[28, tr. 23].
1.3.2. Con người, tín ngưỡng, tôn giáo và các lễ hội ở vùng Tây Bắc Việt
Nam
Hiện nay, dân số ở Tây Bắc có khoảng hơn năm triệu dân, phân bố ở
các tỉnh: Lào Cai: 614.595 người; Yên Bái: 740.397 người; Điện Biên:
490.306 người; Lai Châu: 370.502 người; Sơn La: 1.076.055 người; Hòa
Bình: 785.217 người (theo tổng điều tra dân số nhà ở Việt Nam 1/4/2009)[28,
tr. 35]. Tây Bắc là vùng tập trung đông các dân tộc anh em thuộc ba ngữ hệ
lớn Đông Nam Á đó là ngữ hệ Thái - Ka Đai, ngữ hệ Nam Á và ngữ hệ Hán –
Tạng. Ngữ hệ Thái – Ka Đai bao gồm các dân tộc: Thái, Tày, Nùng, Giáy,
Lào, Lự, Bố Y, Sán Chay, La Ha. Ngữ hệ Nam Á bao gồm các tộc người
nhóm Môn – Khamer là Khơ Mú, Xinh Mun, Kháng, Mảng; các tộc người
nhóm Việt – Mường là Mường, Kinh (Việt), Thổ; các tộc người nhóm
H’mông – Dao là H’mông – Dao. Ngữ hệ Hán – Tạng bao gồm các tộc người
Hoa (Hán), Hà Nhì, Lô Lô, Phù Lá, La Hủ, Cống, Si La[12, tr. 104-105].
Trong số các dân tộc vùng này thì người Thái có số dân đông nhất,
trình độ phát triển về mọi mặt đều cao hơn và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các
dân tộc khác, nhất là các dân tộc nói tiếng Môn – Khơme. Thời xưa quý tộc
người Thái là tầng lớp thống trị đối với đồng tộc và các dân tộc khác trong
vùng [11, tr. 485].
Vạn vật hữu linh, là tín ngưỡng của các cư dân vùng thấp. Họ quan
niệm muôn vật đều có linh hồn (phi). Sống dựa hoàn toàn vào tự nhiên, họ tin
vào sức mạnh của các thế lực siêu nhiên. Vì thế cầu cúng xin sự phù hộ mưa
thuận gió hòa, được mùa, người an, vật thịnh,... là cách phổ biến trong ứng
xử với tự nhiên của họ. Đó cũng là cơ sở phát sinh và tồn tại của các nghi lễ
27
truyền thống của các cư dân Tây Bắc. Về vũ trụ quan các dân tộc Tây Bắc
đều cho rằng có:
Mường trời (Mường Then), nơi ở của thần linh (Then), thế lực cai quản
vũ trụ và tổ tiên (phi đẳm) của con người ở mặt đất. Trên Mường Then, theo
họ gồm có: Mường một (nơi ở của phi một, chăm lo sức khỏe), Mường phi
cướt (nơi cư ngụ của linh hồn trẻ con chết yểu do phi cướt cai quản), Mường
ha (nơi cư ngụ của các ma chết do bệnh dịch, chết trận, hổ vồ, rắn cắn, chết
đuối, ngã cây), Mường hịt, Mường hạy (nơi trú ngụ của ma những người
khốn khỏ), Mường khlốc, khlái (nơi ở của ma cô đơn), Mường đẳm đoi, (nơi ở
của ma tổ tiên thường dân), Mường liên pan luông (nơi cư ngụ của ma tổ tiên
dòng họ quý tộc), Mường Then (mường của các thần linh trong coi vũ trụ)
bao gồm: Then luông (ông chủ Mường Then), Then chăng, then bun (coi phúc
lộc), Then hịt, Then hạy (coi người nghèo khổ), Then ló (then đúc ra con
người), Then chất then chát (quản sự sống chết), Then khơ then khọc (trông
coi sự sống), Then Xội (luật tục, tội lỗi), Then Chương (quản anh hùng, cứu
nhân độ thế), Then vi/Then thỏng (trông coi một nửa Mường Then và một nửa
Liên pan luông/mường tổ tiên quý tộc), Then hung, Then khao (trông coi mưa
gió,...), Then xính (trông coi các dòng họ).
Mường pưa/Mường bằng: thế giới của người trần gian.
Tầng dưới cùng ở dưới mặt đất (mường pa tịn), thế giới của những
người bé nhỏ, ăn bằng nước; và ở dưới nước (mương bua khú), thế giới của
ma thuồng luồng (phi to nguok)[ 28, tr. 394-395].
Về tín ngưỡng của các tộc người ở Tây Bắc, cũng cần phải nói thêm
rằng: Hầu hết, các tộc người còn lưu giữ nhiều hình thức tín ngưỡng lâu đời.
Đó là tục thờ vật tổ (totem) của các dòng họ Khơ Mú, Thái, Xinh Mun,
Kháng La Ha, Dao; tục cúng ma bản, ma mường (xên bản, xên mường; Tục
28
thờ cúng tổ tiên (xên phi hươn); ma thuật chữa bệnh; ma thuật làm hại (bằng
phăn, lắng lượt,...); Tục thờ thần săn bắn và các nghi lễ nông nghiệp như thờ
thần chăn nuôi, cầu mưa (xên xó phón), cúng thần gió (phí lôm/mô hả), tục
mẹ lúa (me ngo), cúng thần nước (xên phi nặm/to nguok), cúng ma rừng, ma
núi (xên phi pá), cúng cơm mới (xên khảu mớ), cúng xuống đồng...[28, tr.
396].
Cúng bái, kêu cầu ở Tây Bắc thường gắn chặt với các hoạt động kiếm
sống, vì thế mỗi mùa mỗi tiết cư dân trong vùng thường tổ chức một số nghi
thức cầu cúng nhất định. Đầu năm các tộc người Tây Bắc đều ăn tết Nguyên
đán. Người Mường vẫn gọi tết này là tết Cả, người Thái, người Tày, người
Nùng và người Giáy đều ăn Kin Chiêng (ăn tết tháng Giêng), người H’mông
ăn tết H’mông vào cuối tháng Mười hai Dương lịch, nhưng thông thường họ
cũng ăn tết Nguyên đán. Lễ hội xuống đồng (khai hạ/khuổng mùa) của người
Mường tổ chức từ mồng Bảy đến mồng Mười tháng Giêng. Ở Mường Bi (Tân
Lạc, Hòa Bình) theo tục lệ Mường, họ tổ chức đi săn, tu sửa mương, cúng
thần tại đình. Lồng tồng của người Tày, Nùng tổ chức từ mồng Năm đến Rằm
tháng Giêng, trên ruộng, với mục đích cầu mùa, không khác gì mấy so với
lồng tồng.Đoòng Chứ Thu Lùng của người Nùng là lễ cúng thần rừng, thần
núi, tổ chức vào tháng Giêng, cũng là lễ cầu an, cầu mùa. Kin Lảu Ló của các
mo Thái, Doông Mợi của mo Mường, Then của các Then Tày, Then Nùng...
cũng đều tổ chức vào tháng Giêng, hay đầu xuân để tạ ơn Phi Hươn và Phi
Tay của Mo Một và cầu an cho mọi người. Vào đầu xuân, người Thái ở các
mường thường tổ chức Xên Bản, Xên Mường (cúng Bản, cúng Mường), tại
Đông Sựa (rừng Bản) hay Đông Tu Mương (rừng Mường) để cầu an, cầu
mùa[28, tr. 396-397]. Khi đã kết thúc mùa màng (cuối hè, đầu thu), người
Thái Trắng, Tày, Nùng, Giáy... ăn Tết Xíp Xí (mười Bốn, tháng Bảy), hoặc
29
tết trẻ con (chiêng ninh nọi)[28, tr. 398]. Thu lúa mùa xong, các dân tộc Tây
Bắc đều cúng cơm mới (Xên Khảu Mớ) để tạ ơn tổ tiên [28, tr. 399].
1.3.3. Giới thiệu về dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt Nam
Tộc người Thái ở Việt Nam là dân tộc nằm trong cộng đồng ngôn ngữ
Đông Nam Á thuộc ngành Tày – Thái và hiện nay, là dân tộc chiếm đa số ở
vùng Tây Bắc Việt Nam, người Thái đang sinh sống tại đó gồm có hai nhóm
ngành như: Thái Đen và Thái Trắng và trong hai nhóm này cũng có sự phân
chia thành nhiều nhóm địa phương.
Ngành Thái đen (Táy Đăm) cư trú chủ yếu ở tỉnh Sơn La, huyện Than
Uyên (Lai Châu), huyện Văn Chấn (Yên Bái) và Tuần Giáo, Điện Biên (tỉnh
Điện Biên). Ở miền Tây Nghệ An có nhóm Táy Thanh (hay Man Thanh), từ
Mường Thanh (Điện Biên) qua Lào, vào Thanh Hóa, đến Nghệ An cách đây
hai, ba trăm năm. Nhóm này gần gũi với nhóm Thái ở huyện Yên Châu (Sơn
La) và chịu ảnh hưởng nhiều văn hóa Lào. Nhóm Táy Mười ban đầu là một
bộ phận cư dân Thái ở Mường Muổi (Sơn La) và chịu ảnh hưởng nhiều văn
hóa Lào, đi vào Thanh Hóa và Nghệ An từ thời vua Lê Thái Tổ (đầu thế kỷ
thứ XV) nay cư trú xen kẽ với người Táy Khăng từ Lào sang. Ngành Thái
trắng (Táy Khao hay Táy Đón) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu và các huyện
Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên (Sơn La).Ở Đà Bắc (Hòa Bình) có nhóm tự
nhận là Táy Đón được gọi là thổ. Ở vùng Văn Bàn, Dương Quỳ thuộc tỉnh
Lào Cai, có một số Thái Trắng sống lẫn với Thái Đen, nay đã chịu ảnh hưởng
của văn hóa Tày và tự nhận là Tày, mặc dù vẫn tự gọi mình là Táy Đón, Táy
Đăm. Từ hai ngành chia thành nhiều nhóm phức tạp cư trú ở Mộc Châu (Sơn
La), Mai Châu (Hòa Bình), miền núi Thanh Hóa và Nghệ An chịu ảnh hưởng
nhiều của văn hóa Lào và văn hóa Mường. Những ngành Thái ở Việt Nam
30
đều chung một gốc với các nhóm Thái ở Nam Trung Hoa, ở Lào, ở Thái Lan
và Miến Điện[25, tr. 19-20].
Đặc biệt đáng chú ý là Mường Then, Mường Theng hay Mường Thanh
tức huyện Điện Biên, nơi diễn ra trận đánh Điện Biên Phủ làm chấn động địa
cầu. Xưa Mường Then có lẽ rộng hơn bây giờ, bao gồm cả miền Mường Tè
(Lai Châu) sông Mã (Sơn La) và một phần tỉnh Phong Sa Ly thuộc Lào nữa.
Hầu hết các tộc người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, ở Lào và ở cả Thái Lan đều
nhận Mường Then là nơi quê tổ của mình. Sử Lào có sự tích Khun Bôrom
được nhà trời phái xuống, đầu tiên đến đất Mường Theng, từ đấy để lập nước
ở Luông Pha Bang và các nơi[25, tr. 24].
Trong tiếng Thái từ Bản Mường có nghĩa như sau: Bản là làng “người
Thái sống định cư thành từng bản. Mỗi bản là một địa vực cư trú riêng. Ranh
giới bản được xác định bằng các mốc tự nhiên như: đèo dốc, con đường, con
mương, gốc cây cổ thụ, chỗ ngoặt,...” [27, tr. 54]. Còn Mường là: “một danh
từ trong ngôn ngữ Thái (“Mường” trong bản mường”) là “đơn vị hành chính
cấp trên bản” (trong xã hội Thái trước đây). “Mường thường được hiểu theo
hai nghĩa: a) Là vùng đất rộng lớn cư trú một cộng đồng người như Mường
Thay/Thái, Mường Keo/Kinh, Mường Lào; hay là một nước như Mường Hán
(Trung Quốc), Mường Liên Xô, Mường Việt Nam...; b) Là khu vực đất đai do
một chúa đất (trước cách mạng tháng Tám 1945) cai quản. Khu vực đó xưa có
thể tương ứng với một vùng rộng lớn đứng đầu bởi một “chẩu phen đen”
(chúa đất); với một châu, một huyện như Mường Lay, Mường Mộc (Tây
Bắc), đứng đầu là một chúa đất lớn (“án nha”) hay với một xã như Mường Bú
(Sơn La) đứng đầu là một chúa đất nhỏ (“phìa”)[29, tr. 243].
Người Thái đã tạo dựng nên một nền văn hóa tộc người độc đáo từ rất
sớm. Nền văn hóa này được các nhà nghiên cứu gọi là văn hóa thung lũng,
31
cũng được coi là tiền thân của văn hóa đồng bằng. Những đặc điểm văn hóa
được thể hiện trong mọi mặt đời sống tộc người Thái ở Tây Bắc. Trong đó
lúa nước sớm trở thành cây lương thực chính của đồng bào Thái với các
giống lúa nếp dẻo, thơm, thậm chí còn có một loại lúa nếp được gọi là nếp
quên chồng (khạu lưm phua). Tập quán ăn cơm nếp với các dạng thức ăn
khô như nướng, đồ, vùi tro bếp... đã trở thành điểm đặc trưng trong văn hóa
ẩm thực của người Thái. Người Thái sớm định cư thành các bản mường
đông đúc, tụ cư theo quan hệ láng giềng, vận hành theo chế độ dân chủ cộng
xã mà tạo bản là người đứng đầu, được coi là ông bố chung (Po bản). Là cư
dân trồng lúa nước lâu đời nên các lễ hội của người Thái thường liên quan
đến nông nghiệp và cầu mùa [12, tr. 109].
Bởi dân tộc Thái có tín ngưỡng đa thần nên thầy cúng trong văn hóa
Thái có vị trí rất quan trọng được gọi là thầy mo. Trong đời sống tâm linh tín
ngưỡng, vai trò của thầy mo được thể hiện rất rõ trong các nghi lễ từ khi con
người sinh ra cho đến khi mất đi. Thầy mo được cho là người có khả năng
giao tiếp với ma, thần – những thế lực siêu nhiên, nên người Thái thường gắn
cuộc đời của họ với những câu chuyện kỳ lạ[27, tr. 208]
32
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Văn hoá rừng là một tập hợp các ứng xử đặc trưng gắn với hệ sinh thái
rừng của các cộng đồng sở tại, được thể hiện trong quan niệm, các nghi lễ, các
hình thức quản lý, khai thác và bảo vệ rừng của họ, rồi dần dần trở thành
phong tục tập quán, tín ngưỡng tốt đẹp được chuyển từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Trong luận văn này, tác giả sẽ dựa trên khái niệm văn hoá rừng để trình
bày và so sánh văn hoá rừng của các cộng đồng sở tại – mà chủ yếu là của
người Lào ở vùng Tây Bắc Lào và người Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam.
Vùng Tây Bắc Lào là một khu vực không rộng lắm, phần lớn địa hình
là núi cao và rừng..., là nơi hội tụ của khoảng 20 dân tộc, có tín ngưỡng,
phong tục tập quán, và các lễ hội khác nhau như một cây hoa đa màu. Trong
cộng đồng các tộc người sinh sống ở vùng Tây Bắc Lào, người Lào là một
trong nhóm người đông. Từ xưa đến nay Phật giáo có vai trò rất quan trọng và
ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của người Lào. Bên cạnh đó, người Lào
cũng thực hành tín ngưỡng đa thần.
Tây Bắc Việt Nam là khu vực có địa hình hiểm trở, đa phần lãnh thổ là
đồi núi xen lẫn các thung lũng, là nơi sinh sống của khoảng 20 dân tộc, trong
đó người Thái là dân tộc đông nhất ở Tây Bắc với hai nhóm: Thái Tắng và
Thái Đen. Trong hai nhóm này còn chia thành nhiều ngành khác nhau cư trú ở
vùng Tây Bắc. Họ là tộc người chuyên trồng lúa nước vì thế các lễ hội của họ
cũng liên quan đến nông nghiệp. Người Thái không theo một tôn giáo lớn nào
mà theo các tín ngưỡng đa thần.
33
Chƣơng 2
VĂN HÓA RỪNG NHÌN TỪ TÂY BẮC LÀO VÀ TÂY BẮC VIỆT
NAM
2.1. Văn hóa rừng của ngƣời Lào ở Tây Bắc Lào
2.1.1. Nhận thức của con người về thế giới rừng
Theo ông Khamman, phó trưởng làng Suandara cho rằng: “Rừng là thế
giới rộng lớn mà con người không thể hiểu được, là nơi con người phải tôn
trọng, lo sợ bởi có lực lượng siêu nhiên cai quản, nếu con người ứng xử với
rừng tốt rừng sẽ bù cái tốt lại cho con người. Do vậy những người sống cùng
với rừng, rừng không chỉ là vật chất mà là tinh thần có giá trị vô cùng cao”.
Ông Thongchanh, Kuan chặm của làng Suandara (người hướng dẫn
làm các tục lễ trong làng) cho biết:“Ngoài các vật chất mà rừng đã đáp ứng
nhu cầu của con người, rừng còn là điểm tựa của người dân về tinh thần bởi
các thần linh đều trú ngụ ở rừng và phù hộ cho những con người làm tốt,
nhưng đối với kẻ làm xấu các thần linh và các loại ma sẽ không phù hộ. Vì
thế con người mới thể hiện cách tôn trọng, sợ hãi thế giới này thông qua các
nghi lễ, có các nghi lễ và phong tục tập quán liên quan đến rừng và phải tổ
chức ở rừng mà không thể tổ chức ở nơi khác thay rừng được”.
Ông Saly, trưởng làng cho biết thêm: “Hiện nay dù cuộc sống vật chất
thay đổi rất nhiều so với ngày xưa con người có nhiều cách để khai thác tự
nhiên nói chung, rừng nói riêng nhưng trong đó con người cũng phải biết kính
trọng, bảo vệ tự nhiên sống cùng nhau hai bên đều có ích và chúng ta vẫn tin
rừng là nơi rất thiêng”.
2.1.2. Cách phân loại rừng của người Lào
34
Ở làng Suandara, rừng được chia thành 3 loại và mỗi loại rừng cũng có
chức năng khác nhau như: rừng thiêng, rừng cấm, rừng sản xuất.
Rừng thiêng gồm có:
Rừng ma (pa sạ, pa khăm):Theo quan niệm của Phật giáo, không có gì
tồn tại mãi mãi, không có gì hoàn toàn chắc chắn, chỉ có một sự thật chắc
chắn nhất đó là cái chết –điều không ai trên thế giới này tránh được. Người
Lào luôn tuân theo quan niệm của Phật giáo, có nhân có quả nếu khi còn sống
ai đã làm những thứ gì sau khi chết người đó cũng phải chịu những thứ mà
mình làm, cụ thể như: nếu khi còn sống đã làm những thứ tốt khi mất linh hồn
sẽ đi và được sắp xếp theo đường đó, ngược lại nếu khi còn sống chỉ làm
những thứ ác tất nhiên thế giới sau khi mất sẽ không lành. Và chúng ta sẽ
không thể biết được sau khi mất linh hồn của người chết sẽ đi đâu vì vậy (pa
sạ) là nơi cuối mà người nhà, họ hàng, bạn bè của người mất có thể đi tiễn họ.
Rừng ma của làng Suandara có diện tích tất cả là hai ha, rừng được đặt ở cuối
làng. Trong rừng có nhiều cây to cổ thụ nhiều năm, có tổ ong, và các loại
động thực vật khác. Nói chung, hệ sinh thái của rừng không thay đổi nhiều
lắm bởi không ai được khai thác mọi thứ trong rừng trừ những ngày hỏa táng,
ngày thiêu xác người chết – là thời điểm mà dân trong làng có thể chặt cây,
lấy củi để thiêu và cùng ngày đó dân làng có thể lấy mật ong, hái rau, hoặc
săn bắt. Nhưng nếu sau ngày thiêu rồi mà ai đó vẫn cứng đầu lấy của trong
rừng thì anh ta sẽ gặp phải những rủi ro: bị ốm đau, đôi khi có thể bị chết.
Rừng ma (pa sạ) ngoài có vai trò thiêu những xác người chết nó còn là nơi đất
thiêng mọi người phải tôn trọng, khi qua lại rừng phải đi nhẹ nói khẽ, không
được nói tục, chửi nhau. Ai làm trái những qui định này sẽ gặp ma - đó là lời
khuyên của các ông bà từ thế hệ trước và người già hiện nay vẫn tiếp tục
khuyên con cháu như vậy.
35
Rừng thần làng (pa hó, đồng hó): Là nơi trú ngụ của thần làng, cũng
là rừng thiêng. Trong rừng có một cây to, to nhất trong rừng này, dân trong
làng tin rằng cây đó là nhà của thần làng trong khu vực rừng này. Người
làng không được phép chặt cây nhưng có thể lấy củi từ cây tự chết theo tự
nhiên, có thể hái rau, nhặt nấm theo mùa, ... Mỗi năm, dân làng tổ chức nghi
lễ cúng thần làng hai lần ở khu vực này, nếu năm nào bị mất mùa, vật nuôi
của dân bị bệnh dịch lây lan hoặc chết nhiều, họ cũng tổ chức lễ cúng thần
làng ở khu vực rừng này. Khi có ai ra hoặc vào làng, có bé mới sinh, đám
cưới, xây nhà mới, ... các già làng và ông Kuan Chặm phải đi khấn thần làng
thông báo cho họ biết. Rừng đồng hó đóng vai trò rất quan trọng, là điểm tựa
về tinh thần của dân làng Suandara.
Rừng cấm (pa sa nguôn, pa huông hạm): Loại rừng này không liên
quan đến các tổ chức nghi lễ của làng. Khu vực rừng cấm được dân làng
quyết định chọn khu vực rừng đầu suối, có nhiều cây cổ thụ -là nguồn cung
cấp nước uống, nước dùng, gỗ, lâm sản. Rừng này không được khai thác hoặc
sản xuất theo cá nhân bởi nó là tài sản chung của làng. Mọi thứ trong rừng sẽ
được khai thác khi làng cần dùng vào việc chung. Nếu ai vi phạm sẽ bị phạt
bằng tiền, ít nhiều tùy theo trường hợp và bị thu lại những thứ đã lấy, nhưng
hiện nay các hình thức phạt như ngày xưa không còn tồn tại nữa nếu ai vi
phạm cũng phải tuân theo pháp luật. Ngày xưa, rừng này dân làng có thể khai
thác gỗ, lâm thổ sản, săn bắt, hái nhặt rau theo mùa được bình thường, nhưng
khi nào có nhu cầu chặt cây để xây nhà các thành viên trong làng phải họp
nhau và xin ý kiến của già làng và trưởng làng, nếu mọi người đồng ý họ sẽ
cùng nhau vào rừng để giúp nhau chọn cây rồi chặt. Trong trường hợp ai tìm
thấy tổ ong nhưng chưa lấy được nó phải làm dấu hiệu như: đan mảnh phên
bằng tre hoặc bằng cỏ và đặt nó ở dưới gốc cây đó để báo cho người khác đi
vào rừng biết, tổ ong đó có người thấy rồi. Nếu có người nào đó vào rừng và
36
gặp những dấu hiệu đó mà vẫn cứng đầu lấy của người ta người đó sẽ bị phạt;
hình thức phạt của ngày xưa, chủ yếu là không phạt bằng tiền nhưng người
nào bị phạt phải ra chùa uống nước để hứa lần sau sẽ không làm thế nữa, và
người bị phạt sẽ cảm thấy rất xấu hổ và người Lào xưa tin rằng: những người
bị phạt hay bị người khác chửi, người đó sẽ làm ăn không ra mọi thứ trong
đời sẽ thành đen, do vây, người xưa họ luôn tin rằng: ở hiền sẽ gặp được lành.
Hình thức phạt bằng tiền cũng có nhưng không phổ biến lắm. Ông
Xiengkham đã kể rằng: “Ngày xưa, mỗi năm cứ đến ngày Khẩu Văn Xả (tuần
chay kéo dài ba tháng dành cho công việc ăn chay niệm Phật của các nhà sư,
xét để bạt, kỷ luật…)[10, tr. 217] bắt đầu từ tháng Bảy – Chín (Dương lịch) –
là tháng Tám – Tháng Mười Lào, có một số năm là từ tháng Chín – Tháng
Mười Một Lào, trong ba tháng đó các thành viên trong làng không ai vào rừng
này với mục đích săn bắn các thú trong rừng bởi thời gian này người Lào sẽ
kiêng: không sát sinh và cố gắng không làm những thứ ác,…”
Rừng sản xuất (pa phạ lịt): Theo Cục Lâm nghiệp của nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân Dân Lào (2006), rừng sản xuất “là rừng và đất rừng, được phân
chia để đáp ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội quốc gia và cuộc
sống của người dân về gỗ và sản phẩm rừng bằng cách thức thông thường
vĩnh viễn, mà không có tác động nghiêm trọng tới môi trường [42, tr. 4]. Khu
vực rừng sản xuất cấp làng hoặc nhóm làng: về việc quản lý rừng sản xuất lâu
dài (2002) là khu vực rừng hoặc khu vực đất rừng được quy định trong khu
vực quản lý rừng sản xuất cấp huyện, theo biên giới của một hoặc nhiều làng
để thực hiện việc quản lý và sử dụng bền vững [42, tr. 5].
Bộ Nông và Lâm nghiệp của Lào (2006) đã quy định rằng: rừng và lâm
sản mà nhà nước đã trao cho làng tự quản lý, nhưng vẫn là quyền sở hữu của
quốc dân, nhà nước nhất định không cho phép cho cá nhân hoặc một tổ chức
nào đó khai thác gỗ bằng cách thức kinh tế nhưng cho phép cho gia đình
37
người dân trong làng khai thác để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và có thể sử
dụng trong gia đình nhưng phải được phép từ trưởng làng hoặc văn phòng
nông và lâm nghiệp của huyện. Còn gỗ mà cá nhân hoặc một tổ chức nào đó
đã tự trồng và khôi phục bằng vốn và sức của mình bằng cách nhà nước đã
công nhận là quyền sở hữu của họ, họ có quyền quản lý sử dụng, nhận được
thành quả, chuyển nhượng, trao quyền và thừa kế [ 42, tr. 8].
Pa phạ lịt của làng Suandara được nhà nước phân chia cho làng tự quản
lý nhưng khi đóng thuế hoặc trong trường hợp có người dân bị phạt, phải
đóng cho văn phòng nông và lâm nghiệp của huyện. Diện tích rừng sản xuất
tùy theo mỗi gia đình, rừng sản xuất chủ yếu là tài sản được chuyển nhượng
từ ông bà bố mẹ của họ và được chuyển nhượng từ thế hệ này sang thế hệ
khác trừ trường hợp họ bán cho người khác, mỗi năm họ phải đóng thuế cho
nhà nước theo diện tích đất của mình. Ông Saly - trưởng làng Suandara cho
biết rằng: “Nghề chính của dân ở đây là trồng trọt và chăn nuôi, do vậy, khu
vực rừng sản xuất của làng cũng có nhiều, có một số gia đình trồng các loài
cây công nghiệp - cụ thể như: cây cao su, cây tếch, cây đót,... các cây lương
thực như: vừng, hạt bo bo, lạc,... còn các đồng bào dân tộc H’mông họ cũng
trồng ngô, làm nương rẫy trồng lúa,...
Ông Thongchanh – già làng cho rằng: “Luật lệ để bảo vệ rừng ngày xưa
không có biên bản chính thức, nhưng theo hình thức chuyển miệng của ông bà
xưa đã dặn dạy làm cho mọi người phải tuân theo, như trong khu vực rừng
thiêng không ai dám làm linh tinh, dù bị phạt hay không mọi thành viên trong
làng cũng không dám khai thác gỗ hay săn bắt các thú trong rừng mỗi năm cứ
đến mùa ăn chay (Bun Khẩu Phăn Xả) mọi người sẽ không vào rừng khai thác
gỗ, bởi nếu khai thác trong mùa này gỗ sẽ bị mọt, mối ăn gỗ hết do mùa này
là mùa mưa trời ẩm, một điều nữa mùa này, người Lào không sát sinh”
(Phỏng vấn sâu ngày 19 tháng 3 năm 2019).
38
2.1.3. Chức năng sinh kế của rừng
Trong xã hội truyền thống của người Lào cũng như hiện nay, rừng đóng
vai trò như một nguồn sinh kế rất quan trọng.
Theo ông Thongchanh, “Sau khi dựng bản lập mường, theo truyền
thống của người Lào là ở nhà sàn. Rừng là nơi cung cấp gỗ và các vật liệu
khác cho chúng ta để xây được nhà che chở nắng mưa. Không chỉ thế nó còn
là kho dược liệu. Người xưa, mỗi năm, các thầy thuốc sẽ vào rừng để tìm
thuốc rồi mang về phơi khô hoặc bất kỳ lúc nào cần dùng đặc biệt khi trong
làng có phụ nữ sắp sinh, người nhà phải đi nhờ thầy thuốc vào rừng tìm các
loại cây thuốc để đến khi nào sinh họ sẽ đun cho mẹ bé uống để phục hồi sức
khỏe cho người mẹ. Rừng còn là kho cung cấp đồ ăn cho chúng ta cụ thể như:
các loại rau, nấm, măng, các thú rừng, …”(Phỏng vấn sâu ngày 19 tháng 3
năm 2019).
Ông Khamman - phó trưởng làng, cho biết: “Từ khi tôi nhớ được, lúc
đó, đường đi lại không thuận tiện như hiện nay, muốn giao lưu giao tiếp với
làng bên cạnh kể cả vận chuyển mọi thứ phải nhờ đường thủy. Làng của
chúng ta có một điều rất hay là được dựng ở bên cạnh sông Khan, nó đã tạo
điều kiện thuận lợi cho dân làng nhưng muốn giao thông trên sống cái phương
tiện quan trọng nhất là thuyền. Hồi đó, dường như gia đình nào cũng có
thuyền. Để đóng được một con thuyền, nhất định phải có gỗ để đóng, tất
nhiên gỗ đó phải vào rừng mà tìm rồi chặt về đóng thuyền. Rừng còn là nơi
làm ăn sản xuất các lương thực thực phẩm như: lúa, ngô, hạt bo bo, vừng, lạc,
… Khi nào đến mùa sản xuất, dân ở đây sẽ tập trung làm việc ở trên nương
cho đến ngày rằm của mỗi tháng hoặc trong làng có việc như: có người mất,
ăn cưới, … mới được nghỉ và trong ngày nghỉ đó họ phải lên rừng tìm củi để
phục vụ cho việc nấu nướng trong gia đình. Hồi xưa, trong mùa nông nhàn,
39
các nam luôn rủ nhau vào rừng tìm lâm thổ sản như: mây, mật ong, một số
loại nhựa cây, … Nói chung, cuộc sống ngày xưa, của dân đây chủ yếu là tựa
vào rừng có thể nói nhờ có rừng chúng ta mới sống được” (Phỏng vấn sâu
ngày 19 tháng 3 Năm 2019).
Ông Thongchanh nói thêm: “Hồi đất nước có chiến tranh, rừng đóng
vai tròng như nơi che chở bom cho chúng ta cho đến ngày nay rừng còn tiếp
tục che bão cho chúng ta cũng như các lương thực mà ta trồng ở trên rẫy”
(Phỏng vấn sâu ngày 19 Tháng 3 Năm 2019).
Sau nay sẽ kể đến vai trò trong đời sống tinh thần, ông Thongchanh cho
biết thêm: “Ngoài rừng đã đáp ứng cho ta nhưng nhu cầu vật chất rừng còn là
điểm tin tựa của dân làng. Theo nhận thức của chúng tôi, rừng là nơi trú ngụ
của lực lượng siêu nhiên cái mà chúng ta không thể nhìn thấy bằng con mắt vì
thế một số phong tục tập quán của làng mới liên quan đến rừng cũng như
thiên nhiên, rừng là nơi tổ chức một số nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng của
người Lào” (Phỏng vấn sâu ngày 19 tháng 3 Năm 2019).
2.1.4. Các nghi lễ và thực hành văn hóa gắn với rừng
Do điều kiện tự nhiên tác động vào cuộc sống của con người, nó đã tạo
nên thói quen và dần dần trở thành văn hóa, phong tục tập quán của những
người sống ở vùng đó. Đối với người sống ở vùng đồng bằng với nền văn hóa
lúa nước, cuộc sống phần lớn sẽ liên quan đến nông nghiệp chắc chắn các
phong tục tập quán của họ sẽ không thể không liên quan đến nông nghiệp,
cũng không khác gì những người sống ở vùng ven bờ biển hoặc bờ sông các
nghi lễ quanh năm của họ luôn gắn liền với sông biển hay sông nước.
Đối với người sống ở vùng núi rừng, thế giới siêu nhiên là thế giới mọi
người phải tôn trọng, bởi họ tin rằng mọi thứ đều có hồn, có chủ do vậy hằng
năm họ phải tổ chức các nghi lễ liên quan đến tự nhiên, nói cụ thể là rừng.
40
Các nghi lễ liên quan đến rừng của làng Suandara sẽ được tổ chức hằng năm
hoặc trong trường hợp có nhiều sự kiện đột ngột xảy ra, có người vi phạm luật
lệ của làng. Thời gian tổ chức các nghi lễ, lễ hội dân gian ở Lào phần lớn sẽ
tính theo lịch Lào.
Lịch Lào: Phật lịch Lào dựa trên chuyển dịch của mặt trời và mặt
trăng. Theo đó, Tết năm mới được tính bắt đầu vào tháng Mười hai, nhưng
người Lào chọn lễ mừng Năm mới vào tháng Tư, là tháng lành hơn cả. Lịch
Lào là sự kết hợp của lịch Thái – Khmer cổ và lịch Hoa – Việt mà trong đó
tên mỗi năm được đặt theo tên của một con vật. Vì năm Phật lịch Lào tính
theo âm lịch, nên việc xác định thời điểm cho ngày Tết thay đổi theo từng năm
[ 33, tr. 142-143].
Các nghi lễ dưới đây được tổ chức theo lịch Lào và mỗi tháng trong
năm người Lào sẽ gọi các tháng đó là Đươn Lào (tháng Lào), lịch Lào tính bắt
đầu từ tháng Mười hai (Dương lịch) nên nó nhanh hơn Dương lịch 1 tháng.
Thí du: tháng Một (Dương lịch) là tháng Hai Lào.
2.1.4.1. Lễ cúng thần làng (khăm hó)
“Khăm hó” nếu dịch từ tiếng Lào sang là “kiêng nhà” - từ “ nhà” ở đây
là nhà của thần làng. Lễ Khăm hó hoặc cúng thần làng được tổ chức thường
xuyên mỗi năm hai lần. Lần đầu của năm tổ chức vào hai ngày trước ngày
rằm tháng Bảy Lào (tháng Sáu Dương lịch) và kéo dài trong vòng 3 ngày; lần
thứ hai tổ chức trước ngày rằm tháng Mười hai hai ngày (tháng Mười một
Dương lịch) và diễn ra chỉ 1 ngày. Mục đích chính của nghi lễ này là cúng
thần làng, cầu mong những thứ tốt đẹp cho các người dân trong làng, cho mùa
màng bội thu, vật nuôi không bị dịch bệnh, ...
Những người già trong làng kể rằng: Ngày xưa, một đêm trước ngày
Khăm hó, khoảng 7 giờ tối sẽ nghe thấy tiếng ngựa chạy quanh làng có lúc
41
nhanh lúc chậm khoảng 2-3 vòng, dân làng tin rằng đó là thần làng đang cưỡi
ngựa đi quan sát làng. Ông Xiêngkhăm, già làng cho biết thêm: “Khi ông còn
là thanh niên ông còn nhớ và sẽ không bao giờ quên, hôm đó là một ngày
trước ngày Khăm hó gia đình nào cũng phải chuẩn bị cho lễ ngày mai nếu ai
đang xây nhà hoặc bất cứ làm việc gì cũng phải dừng lại. Và trong ngày đó,
có một gia đình bên cạnh nhà ông Xiêngkhăm đang lập rào bằng tre quanh
nhà nhưng chưa xong và họ để tre ở chỗ đường đi cuối làng. Đến khoảng 7
giờ tối cùng ngày, thần làng cưỡi ngựa đi qua chỗ đó và thấy họ đặt tre không
đúng chỗ làm cho mọi người đi lại không tiện nên thần tức giận và làm đổ tất
cả hàng rào của nhà đó. Sau khi tiếng ngựa đi qua mọi người ra ngoài xem ai
cũng giật mình khi thấy rào bị đổ như có người nào đó cố tình làm đổ nó. Ông
còn kể rằng: Có một năm các làng trong khu vực xung quanh bị bệnh dịch lây
lan rất nặng đến mức chỉ cần thấy người này chết thì người bên cạnh cũng ngã
xuống và chết theo. Lúc đó, dân làng Suandara đã đóng cửa làng, người trong
không được ra, người ngoài không được vào và tổ chức lễ cúng thần làng dù
chưa đến ngày nhưng các già làng cũng phải chọn ngày đẹp. Nhờ thế, dân
trong làng không ai bị bệnh lây và không bị chết. Sau khi sự kiện này đã qua
đi, các làng bên cạnh cũng hỏi sao dân làng này không bị chết như làng họ.
Dù không có bằng chứng rõ ràng nhưng mọi người đều tin rằng đó là do sự
bảo hộ của thần làng. Cuộc phỏng vấn còn cho tác giả biết thêm rằng, đã
nhiều lần người dân muốn bỏ đi các nghi lễ này nhưng không thể làm được
bởi nếu không cúng thần cũng như không tôn trọng thiên nhiên, thì thiên
nhiên sẽ bù lại cho chúng ta những hậu quả tai hại mà không ai mong muốn.
Lễ cúng thần làng lần đầu của năm được tổ chức trong vòng 3 ngày bởi
trong tháng đó dân làng đã trồng trọt và làm nương rẫy xong rồi, là thời gian
nông nhàn chỉ đợi trồng lúa nước thôi. Một điều nữa là vào tháng đó, ở Lào
42
chuẩn bị bước sang mùa mưa, đi lại cũng khó khăn nên thời gian kiêng làng
cũng hơi dài.
Cách thức cúng thần làng của làng suandara: Trước ngày rằm tháng
Bảy Lào hai ngày cho đến ngày rằm gồm có ba ngày là ngày đẹp nhất mà họ
chọn làm lễ Khăm hó. Đến ngày lễ, nam giới chuẩn bị con gà, rượu cần, và
cùng nhau đi vào rừng thần làng trước mọi người để xây nhà cho thần làng
(gồm có: chuồng ngựa, chuồng vịt, gà, nhà chính). Mỗi năm sẽ xây hai lần
hoặc lần nào sẽ cúng mới xây, việc chuẩn bị củi mọi thứ cho việc nấu gà cũng
là việc của nam còn nữ đưa mâm ngọt của gia đình mình lên nhà Kuan Chặm
(người hướng dẫn làm lễ của làng) mỗi gia đình 1 mâm, trong mâm gồm có
bánh ngọt, hoa quả, xôi, khoai,...mấy món cũng được nhưng không được cho
món mặn vào. Sau khi đưa các mâm lên nhà Kuan Chặm rồi, ông Kuan chặm
sẽ làm Khăn hạ (lễ vật là khay gồm bông, nhang, đèn mỗi loại năm cặp)[34,
tr. 184] rồi dẫn mọi người nhấc mâm của gia đình mình đi rừng Đồng hó
(rừng thần làng), sau khi mọi người trong làng (không tính các gia đình đồng
bào dân tộc H’mông) kể cả các trẻ con đã đến rừng Đồng hó rồi, ông Kuan
chặm sẽ bắt đầu nhấc một mâm ngọt, lên chỗ nhà thần làng và khấn rằng:
Hay Chạu Hó Mà Khốp Mà Kín Năm Cắn
Kín Lẹo Hay Hặc Sốm Hặc Sá Lục Lán Hai Du Đí Mì Heng
Việc Ăn Đạy Nay Bạn Co Hai Hắc Sôm Hắc Sa Mốt Đáy.
Lời dịch:
Xin mời thần đến ăn cùng nhau
Ăn rồi xin thần phù hộ cho con cháu có sức khỏe dồi dào
Có việc gì trong làng cũng xin thần phù hộ cho.
43
Sau khi ông Kuan chặm khấn xong ông sẽ xuống và nhấc mâm ngọt đi
đặt ở chỗ chuồng ngựa và chuồng con thú của thần làng mỗi chuồng một mâm
sau đó các con trai sẽ bắt đầu nấu gà (luộc gà) tại chỗ rừng đó, sau khi gà
chín, ông Kuan chặm nhấc gà và một chum rượu cần lên đặt ở nhà thần làng
và khấn thêm rằng:
Bát Nị Khua Súc Luộc Đi Lẹo Nọ
Pha Căn Mà Khốp Mà Kín Đơ
Kín Mắn Im Thoong Nứa Kín Mắn Lứa Thoong Tạy
Kín Leo Hạy Hắc Sốm Hặc Sá Lục Nay Bạn Lán Nay Suốn
Thúc Khôn Hay Du Đi Mi Heng Đơ.
Lời dịch:
Giờ đây nấu nướng luộc chín rồi
Cùng nhau đến ăn nhé
Ăn cho no bụng Bắc ăn cho thừa bụng Nam
Ăn rồi xin thần bảo hộ con trong làng cháu trong vườn
Phù hộ cho mọi người có sức khỏe dồi dào nhé.
Sau khi khấn xong, ông sẽ xuống và lấy gà đi đặt ở chỗ chuồng ngựa,
chuồng con thú của thần làng mỗi chuồng một con, khoảng vài phút sau ông
Kuan chặm quay lại nhà thần làng và lên nói:
Ờ! Hót Nị Co Sôm Mà Phà Khuôn Lẹo Nọ
Si Đại Lậc Đại Là La Nọ.
Lời dịch:
Ờ!đến đây là vừa giờ đúng giờ rồi
44
Sẽ được tan được kết thúc rồi nhé.
Rồi mang các thứ xuống cho mọi người cùng ăn, người Lào khi làm các
lễ họ có một câu nói rằng: “Phi kín ái khôn kín ton” có nghĩa là: “Ma ăn hơi
người ăn miếng”, nhưng các đồ ăn không được mang về nhà nói chung là
không được mang ra ngoài khu vực đó (nấu ở đó, ăn ở đó, bỏ ở đó). Các vật lễ
như: gà, rượu cần, ... là tiền của mọi gia đình trong làng góp nhau mua. Lễ
cúng thần làng được tổ chức trong ngày đầu tiên thôi nhưng sao họ lại bảo là ba
ngày, lý do là hai ngày còn lại là những ngày kiêng, tức là ngày đầu tiên của lễ
là ngày tổ chức, từ ngày bắt đầu lễ cho đến ngày rằm họ sẽ kiêng làng trong
vòng ba ngày.
Những kiêng kỵ trong ngày lễ: từ sáng sớm của ngày đầu tiên của lễ
trưởng làng, Kuan chặm và các già làng sẽ dẫn các thanh niên lấy chỉ màu
trắng (chỉ sợi được các thầy sư sử dụng lúc cầu kinh) vây quanh làng, và ở
cổng làng họ sẽ cắm “Tá leo hang” ( mảnh phên được đan bằng tre lối mắt
cáo thành hình lục lăng, vật chống ma, tránh được những thứ ác), họ tin rằng
Tá leo hang nếu cắm ở cổng làng có thể chống được ma, mọi thứ không tốt từ
bên ngoài làng không thể vào được làng, có thể chống những hồn đi lang
thang trên đường, các người ở làng khác nếu họ thấy Tá leo hang cắm ở cổng
làng nào họ sẽ biết rằng là làng đó đang cấm người khác vào làng, người
trong không được ra người ngoài không được vào nếu có trường hợp có người
trong làng đi chỗ khác và muốn vào làng trong ngày đó có thể vào làng nhưng
không được vào nhà, phải ngủ tạm ở chùa cho đến hết ba ngày đó, mọi gia
đình trong làng không được làm sản xuất, không được buôn bán với làng
khác, không được làm ồn ào, vào rừng hoặc làm bất cứ việc gị. Lễ Khăm hó
lần thứ hai được tổ chức vào một ngày thôi là trước ngày rằm tháng Mười hai
Lào tức là tháng Mười một Dương, lý dó chỉ chọn một ngày bởi thời gian đó
ở Lào là mùa khô và chuẩn bị sang năm mới, do thời tiết mùa đó là tiện nhất
45
cho mọi người có thể đi chơi thăm dò họ hàng ở nơi khác và một lý do nữa là
hiện nay có thành viên trong làng phải đi làm việc ở nơi khác nên thời gian
kiêng làng cũng ngắn gọn thôi khác với ngày xưa thời gian kiêng là ba ngày.
Còn cách thức tổ chức và những kiêng kỵ cũng không khác gì với lần
đầu của năm, chỉ khác nhau ở chỗ thời gian kiêng làng là ngắn hơn lần đầu
thôi.
Ông Saly (trưởng làng) cho biết: “Trong thời gian qua những kiêng kỵ
trong ngày Khăm hó ở làng của chúng ta vẫn chưa có ai vi phạm hoặc làm sai
tục lệ, cũng có một số gia đình quên làm một số việc không hợp lệ nhưng không
phải trong lễ Khăm hó. Nếu ai cư trú ở làng này, có việc gì ở nhà như: xây nhà
chuyển nhà, có người ra hoặc vào làng hoặc bất cứ việc gì cũng phải làm mâm
nhấc lên nhà Kuan chặm và Kuan chặm sẽ đi khấn ở rừng thần làng như thông
báo cho thần trong trường hợp họ quên một thành viên trong gia đình sẽ bị
ốm”.
2.1.4.2. Lễ báo ma trong rừng ma (Phị thí khọp phi pa sạ)
Lễ này, sẽ diễn ra khi có người trong làng mất (phải báo cho ma chủ
rừng trước khi làm nghi lễ thiêu xác, hoặc trong trường hợp có ai vi phạm luật
lệ của rừng này như: trong rừng này mọi thứ không được khai thác chỉ trừ
ngày thiêu xác, mới có thể khai thác bởi vì mọi thứ trong rừng này là tài sản
chung, phải khai thác chung trong ngày đó.
Cách thức của lễ: Nếu trong làng có người mất, các già làng sẽ chuẩn bị
vật lễ gồm có: Khăn hạ, một quả chứng, tiền vài nghìn đi khấn báo cho ma
chủ rừng đó rồi sẽ bảo cho các thanh niên trong làng đi chặt cây, củi để dịch
vụ cho việc thiêu, theo phong tục của người Lào nếu làng nào có người mất,
tất cả mọi người nếu đang làm gì họ sẽ dừng lại, và cùng nhau đi giúp việc ở
nhà có người bị mất, sau khi thiêu xong, trưởng làng sẽ quan sát trong rừng
46
ma có gì có thể khai thác như: mật ong, cây đoác (quả có nhân như nhân dừa
nước ở Nam Bộ)[34, tr.694], mây, các loài rau,... rồi có thể lấy và chia cho
mọi người.
Thời gian qua, cũng có người vi phạm lệ rừng ma, tất cả mọi người
trong làng từ người già lẫn trẻ con không ai không biết đến rừng ma và nhất
định không được khai thác nếu không phải ngày ấy nhưng vẫn có một số
thanh niên cứng đầu cố tình vào rừng này săn bắt hoặc lấy mật ong. Ông Saly
(trưởng làng) đã kể rằng: “Thời gian cách đây không xa, cùng năm nay có vài
thanh niên trong làng, họ đi qua chỗ rừng ma và tình cờ thấy con rắn trăn to,
họ đuổi bắt và rốt cuộc, nó trườn vào khu rừng ma nhưng các thanh niên vẫn
theo vào khu đó, bắt nó cho được và mang về nhà nấu. Sau khi họ nấu xong
và đang chuẩn bị ăn, có một trong thanh niên đó hét lên và ngã xuống đất rồi
trườn đi như rắn rồi nói linh tinh và nhìn vào người khác như đang tức giận
ai đó làm cho các bạn còn lại lo sợ, họ không biết làm gì họ chỉ nghĩ là thằng
này bị ma nhập rồi bảo nhau chạy lên nhà Kuan chặm. Khi đến nhà Kuan
chặm, ông ấy hỏi là: các mày đi làm gì về thế? làm cho chủ rừng ma không
hài lòng, sau khi thanh niên kể cho ông Kuan chặm nghe ông ấy mới biết
được người đã bị ma nhập là người giết rắn, rồi ông đã bảo các thanh niên
đó lấy sợi buộc người bị ma nhập không cho đi đâu và ông đã làm Khăn hạ đi
khấn hỏi ở rừng ma và hỏi lý do tại sao họ mới bị như thế, sau khi thấu hiểu
rồi ông sẽ xin lỗi thay người làm và hỏi chủ rừng về vật lễ (vật lễ thường
xuyên khi có người vi phạm lệ rừng là vịt, dê) vật lễ lần này là vịt, sau khi mọi
thứ rõ ràng rồi ông Kuan chặm sẽ bảo cho gia đình người bị ma nhập cho họ
chuẩn bị vật lễ đưa đi khu rừng ma rồi nấu tại đó và ông Kuan chặm sẽ là
người hướng dẫn làm lễ và đưa vật lễ lên cúng sau khi chủ rừng vừa lòng rồi
ông Kuan chặm sẽ nhấc vật lễ xuống cho người tham gia ăn và bỏ tại đó, sau
khi mọi thứ kết thúc người bị ma nhập khỏi ngay lập tức và không nhớ được
47
gì, hỏi mấy lần thanh niên đó cũng bảo là chỉ nhớ đến lúc chuẩn bị ăn rồi
không nhớ gì cả, những vấn đề nhỏ nhoi mà ông Kuan Chặm giải quyết được
ông sẽ giải quyết ngay, trừ trường hợp nếu ông không thể giải quyết được,
người trong làng phải đi thuê thầy Mó ở nơi khác. Ông còn cho biết thêm:
rừng ma là khu rừng thiêng dù không được khai thác linh tinh nhưng nếu
người dân đi làm nương rẫy xa quá họ có thể đi qua rừng ma được để tiết
kiệm thời gian nhưng không được nói linh tinh, nói tục hoặc làm ồn ào nếu
không nghe sẽ bị ma dọa, chỉ suy nghĩ không tốt dù chưa làm xấu có thể
người khác không biết được nhưng các thần và ma sẽ cảm nhận được những
thứ đó. Thời gian qua trong làng, cũng có nhiều người trong làng đi qua rừng
ma và bị ma dọa, ma có tóc dài đen che mặt treo chân ở cây to và thả tóc
xuống, người bị ma dọa chủ yếu là phụ nữ.
2.2. Văn hóa rừng của ngƣời Việt ở vùng Tây Bắc Việt Nam
2.2.1. Nhận thức của con người về thế giới rừng
“Trong đời sống người Thái dù truyền thống hay hiện đại thì rừng luôn
chiếm một vị trí quan trọng. Là tài sản chung quý giá của cộng đồng được sử
dụng và bảo vệ. Rừng là kho dự trữ các nguồn nguyên liệu, lâm sản, dược
liệu, nước, đất nuôi sống của cộng đồng tại đó [ 27, tr. 260].
Trong quan niệm của người Thái, rừng già có ma cai quản nên khi chặt
hạ cây to thì phải làm lễ cúng ma rừng. Lễ cúng gồm có trầu, cau, gà, rượu.
Nếu chặt nhiều cây to thì phải cúng lợn, dê. Khi vào rừng phải đi nhẹ nhàng,
không la ó, không hát hò, không đùa nghịch..., nếu không sẽ bị ma rừng làm
cho ốm, thậm chí có thể chết [39, tr. 124].
Người Thái ở xã Xuân Lẹ (huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa) lưu
truyền câu chuyện rằng: “ Ngày xưa có một ông mo chết ở trong rừng và biến
thành con ma có tên là Nha Háng rất thiêng. Con ma này có thể biến hóa ra
48
nhiều loài vật: sóc, chim, đại bàng, cáo, trâu... và còn biết làm mưa, gió. Khi
có người vào trong rừng lấy củi thì con ma Nha Háng biến thành con vật ngồi
bên cạnh, khi nó đã cầm được mấy cây củi của ai có nghĩa nó đã rút được ruột
của người đó. Người nào nếu chẳng may gặp chuyện này thì về nhà sẽ chảy
máu và chết. Nếu bị nhẹ thì đau bụng, sốt dai dẳng, phải mời thầy cúng cao
tay đến cúng mới hóa giải được” [15, tr. 23].
Rừng, với người Thái là không gian sinh tồn và phát triển, đầu tiên là
nơi cung cấp thức ăn cho họ, đáp ứng các vật liệu để xây nhà, quần áo, … Nói
chung rừng có vị trí rất quan trọng.Tục ngữ Thái có câu: “é kin hư bấng pá”
(muốn có ăn phải giữ lấy rừng). Rừng còn nhắc nhở, khuyên bảo và răn dạy
con người về cách sống, cách ứng xử với môi trường sinh thái. Người dân thờ
“thần núi”, tôn kính rừng “thiêng”, lạy cây gỗ (tô tem cây) trước khi chặt hạ
làm nhà.Bề ngoài là quan niệm thần linh, nhưng bên trong là văn hóa sống
với rừng. Con người được sinh ra ở rừng, được rừng nuôi dưỡng và đùm bọc
đến khôn lớn. Con người khi chết được trả về với rừng, nằm mãi với rừng
thiêng[39, tr. 136].
Người Thái rất xem trọng rừng được thể hiện thông qua ý thức và trách
nhiệm gìn giữ, bảo vệ rừng, tổng kết thành tục ngữ, thành ngữ:
Pa đống xống cột, mạy pín khún, cân pín nuốt
Pa cắm đống khéo, mạy húa tá, nga húa bó
Pa tắm đín piêng, pa heo đống cắm, pa cắm đông xên...
Nghĩa là: Cây có lông như người già có râu, rừng xanh bát ngát là
rừng đầu nguồn, rừng đầu mó nước, rừng cúng tế, rừng kiêng, rừng linh
thiêng...
Hay:
49
Dón pa vại lùn lắng chăng ma
Vạy hơ nặm chú bo láy nùng
Phơ chứ đạy khoàm nặn mằn chăng pín cần.
Nghĩa là: Giữ rừng cho đời sau phát triển, để cho muôn mó nước chảy
về, ai nhớ được câu đó thì mới nên người.
Mi pa, mi nặm sớ dín, đín loán, huối khố sớ họn (có rừng, có nước thì
mát, đất trọc, suối cặn thì nóng)
Khèo háy mi đón, hặp còn mi mự (phát rừng có vùng, đắp nước cạn bắt cá có
ngày.v.v...[6, tr. 826-827].
2.2.2. Cách phân loại rừng của người Thái
Rừng của người Thái được chia thành nhiều loại tùy theo người Thái ở
mỗi vùng như người Thái huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa, họ phân chia
rừng thành ba loại chính đó là:rừng thiêng, rừng cấm và rừng sản xuất, mỗi
loại rừng cũng có chức năng khác nhau:
Rừng thiêng: người Thái quan niệm, rừng thiêng là nơi trú ngụ của
thần rừng, thần cây. Đối với họ, nó là trái tim của cộng đồng vì trong đó nó
thể hiện các quy ước, tập quán cộng đồng và đặc biệt là các giá trị truyền
thống được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đối với các cộng đồng
người Thái, mỗi ngọn núi, mỗi con suối và mỗi khu rừng đều có những giá trị
tinh thần mà người ta tôn thờ. Rừng thiêng là biểu hiện tập trung nhất của
các niềm tin thiêng liêng [23, tr. 52].
“Rừng đầu nguồn (pá hổ nặm): rừng đầu suối, khe, có nhiều cây to, đất
tốt hay còn gọi là rừng già (pá ké).
Rừng khoanh nuôi (pá vàng đu).
50
Rừng tái sinh hay còn được gọi là rừng non (pá on): cây nhỏ, đất
không tốt, nhiều cỏ.
Rừng cấm (pá cấm).
Hoặc phân loại dựa trên kích thước cây trong rừng:
Rừng cây to (pá luông), rừng cây nhỏ (pá noi)[6, tr. 260-261].
Và sau đây là một số loại rừng tiêu biểu của người Thái Điện Biên:
“Rừng chuyên dụng: khu rừng này, người dân có thể tự do vào rừng
khai thác và sử dụng các lâm thổ sản trong rừng.
Rừng cò săn (đon húa).
Rừng măng cấm (Pá ló hảm): dành cho việc hái măng, rau.
Rừng lấy cây (pá téng au mạy): dành cho việc khai thác nguyên vật liệu
để làm nhà cửa.
Rừng làm nương rẫy – đất nương (đin hay)
Đông tu sửa: là khu rừng cấm để cho linh hồn của đất mường ngụ[8,
tr. 237].
Rừng sản xuất là rừng ở ngoài vùng cấm hoặc là rừng thường. Theo
quan niệm của người Thái rừng sản xuất “ Pa ệt kín” là rừng để làm nương,
khai hoang ruộng nước, khai thác lâm sản, săn bắt thú, chăn nuôi tự
do.Trước kia, diện tích rừng này chiếm đa số khoảng 70-80% đất rừng của
bản. Tuy nhiên, những bản không có rừng thiêng, rừng cấm thì rừng sản xuất
sẽ nhiều hơn [6, tr. 825].
Ngoài các loại rừng đã nói trên người Thái còn có rừng ma, “ Rừng ma
là đất chuyên dùng cho mỗi bản, tiếng thái gọi là đông pá heo. Đây phần lớn
là những khu rừng già, nhiều cây cổ thụ và dây leo nhẳng nhịt, biểu hiện một
51
thế giới hoang vu của “ma quỷ” như các câu chuyện thần thoại Thái. Tại đây
người ta chôn xác hoặc than tro của những người chết sau khi đã làm xong tục
thiêu (hỏa táng). Xưa kia rừng ma thường bố trí chôn cất theo từng khu của
từng đẳm. Bởi vì theo quan niệm của họ, khi chết linh hồn ở “thế giới bên
kia” sống theo đẳm”[ 27, tr. 56].Với người Thái, khu rừng ma là khu rừng
không được khai thác.
Các loại rừng đã nói trên, người Thái cũng có cách khai thác và có
nhiều kinh nghiệm trong việc chọn mùa để khai thác lâm thổ sản như: người
Thái thường chọn chặt gỗ vào mùa thu bởi mùa này trời khô và các loại cây
cỏ phát triển chậm,…Và để bảo vệ khu vực rừng đầu nguồn (là nơi lưu giữ
nguồn nước cho dân trong bản) người ta, đã xây dựng lên các câu chuyện,
huyền thoại, truyền thuyết về khu vực rừng này bằng cách truyền miệng làm
cho khu vực rừng đó trở thành thiêng hóa.“Đối với người Thái, việc săn bắn
muông thú vừa để bảo vệ mùa màng, vừa kiếm thêm thực phẩm cho bữa ăn
của gia đình. Tuy vậy, để bảo tồn các loài thú, bản – mường quy định cấm
săn bắn từ tháng 3 đến tháng 6 (Âm lịch) vì đây là mùa sinh sản của các loài
thú,…”[39, tr. 125].
2.2.3. Chức năng sinh kế của rừng
Rừng là nơi cung cấp nguyên vật liệu: gỗ, tre, nứa, trúc, mây, gianh…
để người Thái làm nhà, các công trình xây dựng, chế tạo các đồ dùng, dụng cụ
trong gia đình. Những ngôi nhà sàn truyền thống của người Thái được làm từ
các nguyên vật liệu sẵn có trong rừng những nguyên vật liệu này vừa tạo cho
những ngôi nhà sàn có phong cách độc đáo, riêng biệt, vừa tiện dụng và rất
phù hợp với môi trường sinh sống của tộc người [8, tr. 17].“Ở người Thái
Trắng – Lai Châu, trước khi con trai lấy vợ thường buộc phải lên rừng lấy gỗ
đóng thuyền độc mộc cho mình”[18, tr. 18]. Ngoài rừng đã cung cấp các vật
52
liệu cho họ rừng còn là nguồn thức ăn phục vụ cho cuộc sống hằng ngày như:
rau rừng, các loài hoa quả, nấm, măng, loại củ… Đối với người sống gần gũi
với thiên nhiên, dân tộc Thái cũng như dân tộc khác, việc hái lượm có vai trò
vô cùng quan trọng đối với cuộc sống. Công cụ dùng để hái lượm rất đơn
giản, gồm gạy dài để móc, kiểu hoa quả trên cao; dao để chặt, thuồng để đảo
củ… Thu hái ngọn hoặc lá thì không hái quá mức để cây vẫn còn lá quang
hợp; với cây lấy củ thì sau khi lấy xong củ phải trồng lại cây; với cây lấy rễ
thì không lấy hết bộ rễ.v.v… [6, tr. 828]. Rừng là nơi cung cấp nguồn dược
liệu quý giá.Trong các dân gian về thuốc chữa trị bệnh tật của người Thái có
đến hàng vài nghìn loại dược liệu lấy từ các loại cây cối, con vật và côn trùng
trong rừng. Trong xã hội truyền thống các loại dược liệu này đã giúp người
Thái có thể chữa trị các loại bệnh tật, bồi bổ cơ thể, đảm bảo cho họ có thể
sống khỏe sống thọ. Người thái xưa thường dùng củi để nấu chín thức ăn để
sưởi ấm trong mùa đông giá lạnh và thắp sáng trong đêm. Hơn nữa ngày xưa,
khi bị lạc trong rừng người Thái thường đốt lửa để ra hiệu cho người khác
biết mà tìm đến[8, tr. 17].
Rừng còn là chỗ làm việc chủ yếu của người Thái, ở những vùng điều
kiện tự nhiên không cho phép làm ruộng nước (có ít nước) họ canh tác chủ
yếu ở trên nương rẫy trồng các loài hoa màu, cây lương thực. Rừng không chỉ
là nơi sản xuất mà còn đóng một vai trò vô cùng quan trọng nữa là: chắn gió,
bão, bảo vệ đất khi có lũ cũng như bảo vệ các bản làng và các loài cây họ
trồng trên nương.
2.2.4. Các nghi lễ và thực hành văn hóa gắn với rừng
Điều kiện tự nhiên đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của đồng bào
các dân tộc Tây Bắc nói chung, đồng bào dân tộc Thái nói riêng và nó đã làm
cho các lễ hội, phong tục tập quán của họ có tính đặc trưng riêng biệt.
53
Các địa điểm tổ chức lễ hội thường trong phạm vi một bản, mường,
nằm ở những nơi nhất định như đầu bản, rừng cấm của tộc người, hang động
khu ruộng, ven sông suối... Đó là những địa điểm tự nhiên và mang tính linh
thiêng. Việc chọn những địa điểm tự nhiên làm nơi tổ chức lễ hội cho thấy
mối quan hệ gắn bó giữa con người với tự nhiên, và cũng thể hiện quan niệm
vạn vật hữu linh của các dân tộc Tây Bắc. Đối tượng thờ cúng chủ yếu là các
vị thần của thế giới tự nhiên, như thần núi, thần sông, thần rừng... Có thể nói
thực chất của các lễ hội ở Tây Bắc chính là những lễ hội nông nghiệp, cầu
mùa, cầu nước và cầu an cho con người [12, tr. 108].Các nghi lễ gắn với
rừng của đồng bào dân tộc Thái.
2.2.4.1. Lễ Xên Bản
Xên trong tiếng Thái có nghĩa là cúng lớn, được dùng để chỉ lễ cúng
cho người nào ốm nặng, lâu ngày không khỏi mà các ông mo đã có phần bất
lực [12, tr. 121].
“Lễ xên bản thường được tổ chức vào đầu tháng Một Âm lịch, sau khi
ăn Tết Nguyên đán xong. Mục đích của lễ xên bản là cầu mong các vị thần
thổ địa, hồn ma và các thế lực siêu nhiên khác về thưởng thức lễ vật của dân
bản dâng lên và cầu mong sự phù hộ cho toàn bản năm đó bình an, con người
có sức khỏe, làm ăn thịnh đạt, mùa màng bội thụ, nhà nhà ấm no.
Lễ cúng bản diễn ra trong ba ngày tại khu rừng già của bản, trước khi
diễn ra nghi lễ này, trưởng bản, các trưởng họ và thầy mo phải họp nhau để
bàn bạc những vấn đề cụ thể của nghi lễ này như ngày giờ, số tiền/hiện vật mà
mỗi gia đình phải đóng góp (tùy theo số ruộng công mà gia đình đó nhận
làm).
Trong ba ngày đó, người dân bản kiêng người lạ vào bản, người nào
đã ở trong bản rồi thì kiêng ra ngoài bản, nghĩa là nội bất xuất, ngoại bất
54
nhập; kiêng lao động sản xuất, kiêng vào rừng đốn củi. Người ta cấm hai cây
nêu to, một ở đầu bản, một ở cuối bản để báo hiệu người lạ. Nếu ai vi phạm
sẽ bị phạt một con lợn, năm đồng bạc trắng và một chum rượu. Dân bản
dùng số vật nộp phạt này để làm mâm cơm xin lỗi tại chính nơi diễn ra lễ
cúng” [27, tr. 218-219].
Có một số tài liệu cho biết thêm: Xên bản diễn ra tại đông sựa (khu
rừng cấm ở đầu bản thường là khu rừng cấm phái Tây), gần vực nước. Lễ vật
cúng do các gia đình trong bản đóng góp theo số ruộng mà họ được bản phân
chia cho. Dự lễ xên bản chỉ có các chủ hộ gia đình, nghiêm cấm phụ nữ tham
dự.Lễ xên bản chỉ được mổ lợn, dê để cúng thần đông sựa mà không được
cúng bò, trâu. Ba ngày sau lễ xên bản, cả bản sẽ thực hiện lễ cấm bang, tức là
cấm mọi hoạt động trong bản gây ồn ào, các gia đình tự ăn uống, thăm hỏi
nhau nhưng không được lao động sản xuất, các hoạt động vui chơi cũng rất
hạn chế...[12, tr. 121-122].
2.2.4.2. Lễ Xên mường
“Cúng mường” là dịch từ “xên mường”. “xên mường” là tục lệ hàng
năm vào dịp đầu xuân (của người Thái). Chúa đất (trước đây) và toàn thể bản
mường tổ chức lễ cúng bái trời đất, thần linh, các tổ tiên dòng họ chúa, các
ma quỷ v.v. phù hộ cho chúa và bản mường một năm tốt đẹp. Lễ “xên
mường” thường cúng vào dịp khai mạc một năm sản xuất, lao động. Lễ tổ
chức rất to, toàn mường về tham dự, ăn uống hai, ba ngày. Phí tổn đều do dân
phải đóng góp. Lễ tôn giáo tín ngưỡng này thực chất là nhằm củng cố khối
cộng đồng của toàn mường và khẳng định quyền thống trị của giai cấp dân tộc
Thái[7, tr. 482].
Địa điểm cúng mường có thể là đền chùa, ranh giới mường – nơi cắm
cột mốc mường (“lắc mường”), hang động, khu rừng, nguồn suối... mà người
55
ta cho là thuận tiện và linh thiêng. Ở Tây Bắc thường người ta chọn các khu
rừng nguyên sinh gọi là “đông xên” (rừng cúng)[29, tr. 244-245].
Người chủ trì lễ cúng mường là thầy mo có đẳng cấp cao nhất trong
môn phái mo (đẳng cấp thứ 9). Thầy mo này gọi là “mó mương” (mo
mường), hoặc “mo thầu” (mo già), có thể “lên” (bằng cách cúng mời) mường
Trời để mời Then/Bôn (chúa tể ở đó) xuống hưởng lễ, đủ tư cách mời thần
linh, tổ tiên đến, có khả năng áp chế được ma quỷ (bằng phép thuật), có khả
năng chém trâu (“mó phăn quai”),v.v. “thầy mo” ở đây có thể là đàn ông và
cũng có thể là đàn bà (như trường hợp bà mo Ủ Mó ở đền Chín gian Quế
Phong). Khi mo cúng thì cấm gươm, có người giương ô cho khỏi nắng, có thể
sấp ngửa để mo “bói”.Phụ giúp cho mo là các ông “chẩu xửa” (chủ
áo).Nguyên “chẩu xửa” ngày xưa là “thần áo” (pủ chẩu xửa), tức là thần khai
bản lập mường. Còn những “chẩu xửa” ở đây là những người “đóng vai”
(thần) mà thôi. Những người này được chọn trong số những người đàn ông có
uy tín trong bản mường, số lượng tùy quy mô của lễ (có thể 2 người, 4 người
v.v.). Ngoài ra còn rất nhiều người khác (đàn ông, thanh niên khỏe mạnh) để
mổ trâu, lợn, gà, cá, v.v., bày biện mâm lễ, bưng bê mâm, nấu nướng, v.v.
Đặc biệt đàn bà, phụ nữ chỉ được phục vụ ở vòng ngoài mà thôi [29, tr. 245-
246].
Các bước chuẩn bị cho cúng mường:
Trước hết Người Thái sẽ cúng ma nhà chủ áo (xở phí hươn chẩu xửa)
mâm lễ gồm xôi, gà, rượu cần. cúng mời ma nhà “chẩu xửa” về, báo với các
“vị” ấy là bản mường có cúng mường, “chẩu xửa” tham gia, mong được phù
hộ. Bài cúng ngắn gọn: “Bây giờ dân mường lấy mâm trầu lên dâng/Lấy
mâm cau đến báo/ Ông “đẳm” (tổ tiên) ông quan (bố/ “chẩu xửa”)/ Bà
“đẳm” Bà nànn (mẹ “chẩu xửa”)/Gọi nhau nhai miếng trầu thơm miệng/
56
Nhai miếng cau thơm họng/ Gà lớn bằng con công/ Chân cao bằng chân
ngỗng/ ăn cả miếng xôi nương xôi ruộng/ Miếng xôi ruộng xôi dẻo/ Rượu ủ
trấu mường trần thơm cay/ Hãy phù hộ con cháu/ Thắng ma tà, kẻ xấu đấy
nhé![15, tr. 15-16].
Bước tiếp theo là:Trình mâm lễ thiêng “lẩu khắt lẩu khánh”; “lẩu khắt
lẩu khánh” có nghĩa là “ rượu thiêng”. Phải trình báo trước các “thần”.
Trong mâm có trầu cau; túi hành nghề của mo; kiếm (“kiếm sắc để chém
ma”); kìm, búa, đe để “đánh thức thần Ý Khi” (vị thần rèn) “Dậy đúc sắt đúc
đồng trong khuôn/ Đúc thành chủ thành tạo cai quản mường bản đừng lụi”;
bung thóc (nuôi ngựa nuôi rồng); chài “xăng lẩu khắt” (lưới che rượu
thiêng) để mo yểm bùa, chặn ma, nhưng “Đừng kỵ súc vải trên khung cửi/
Đừng kỵ con trai con gái trong nhà/ Đừng kỵ tình chồng vợ trăm năm”; lưỡi
mác trừ khử ma, kẻ xấu, bảo vệ sự bình yên; rượu cần cho thần và người
uống[15, tr. 17].
Tiếp theo là: Tế rừng “đông xên” Mục đích là báo với thần rừng (tám
lẩu đông xên), nơi sẽ diễn ra lễ cúng mường, để thần bảo vệ cho mọi người,
mọi người cũng có khả năng “tự bảo vệ” mình; diệt tà ma (khổm khuống);
mời các thần linh nhận lễ; lý do phải cúng mường “việc muôn dân không
thuận/ Cá ngoài sông không lên bên cũ/ Tấm vải “khít” mường bản không
dày/ Ong làm tổ trên vách đá không san sát như xưa/ Tạo nói không ai góp
lời hay/ Nàng nói không ai thêm lời giàu/ Làm nương lúa không xanh...[15,
tr. 36-37].
Rồi họ sẽ: Mời Then ở mường trời, mời thần ở hạ giới; Bắc chum rượu
cần “lẩu phi pha” (rượu thần trời) để mời Then xuống hưởng lễ và phù hộ;
bắc chum rượu “lẩu phi mướng lum” (rượu thần trần gian) để mời các vị
thần dưới trần gian (trong đó có các vị thần Ngã ba sông suối; núi đá mật
57
ong; thần cửa mường cửa bản, v.v.) về uống, phù hộ cho dân bản dân mường.
Bước tiếp theo là: Dựng sạp bày mâm lễ: Theo trên đây thì có 4 mâm lễ chính
(mỗi mâm lễ chính có các mâm lễ phụ). Phải dựng 4 cái sạp làm bằng tre
nứa, cao ngang đầu gối, để bày các mâm lễ. Mâm lễ mời Then mường Trời
phải có cọc cắm ô che. Các thức ăn thì cúng mời Then và ma quỷ phải có món
tươi sống (cho rằng các vị này thường ăn như vậy, các vị thần “lành” thì
cúng mời bằng thức ăn chín (nấu nướng).Sau đó là: Mời các ma ăn; Cúng
mời ma nhà chẩu xửa, ma nhà mo, ma ha ma héo (ma quỷ), thuồng luồng, rắn
rết, ma cổng bản, cổng mường, v.v. ăn. “Ăn” để không hại người, bảo vệ
người trong bản trong mường[29, tr. 248-249].
Bước sau là: Cắm “ta leo” cổng mường; “Ta leo” là mảnh phên đan
bằng tre lối mắt cáo hình lục lăng để tượng trưng cho chiếc chài (vật kỵ ma).
Có nhiều loại “ta leo”. Loại được coi là thiêng hơn cả là “ta leo 9 lớp” (cảu
chặn). Chài hay “ta leo” có ma lực thần bí xưa đuổi được ma quỷ, bảo vệ
được hồn người, che mắt được trời đất. Đó là công cụ vạn năng giúp người
thắng được mọi lực lượng siêu nhiên, “dựng ở nương, ma không dám về ăn
hạt; dựng trước nhà ma không dám đến hại nhà chủ[7, tr. 438]. Trong văn
hóa thái, chỗ nào cắm “ta leo” đó là báo hiệu không cho người lạ hay ma qua
lại đó và trong lễ Xên mường có nghĩa là “kiêng mường”. “Ta leo vàng, ta
leo bạc đến cắm/ Cọc vàng bạc đến chèn, đến ngăn/ Đến cắm bốn phương
bản/ Chèn chặt bốn góc mường/ Không cho ma và người qua đường này![15,
tr. 421].
Sau khi cắm ta leo xong họ sẽ: Đánh trống khai hội (tám lẩu nả cống);
Bắc chum rượu cần mời thần linh uống, xin được khai hội vui chơi. “Xin phép
thần cột bản thuở xưa/ Thần cột mường thuở trước/ Hãy gọi nhau đến/ Gọi
nhau ăn/ Bây giờ chiếc trống nhở dân bản xin đánh/ Chiếc trống thiêng dân
58
mường khai hội/ Phù hộ cho cháu chắt nhiều lứa/ Phù hộ cho chít chắt nhiều
đàn/ Cho tốt đẹp cả bản/ An khang cả mường”[15, tr. 423].
Trong hội họ sẽ hát ném “còn”; Nữ hát (nhính khắp): “Thấy điềm gở,
“án nha” mới phải “xên bản”/ Ông “phìa” lớn mới phải “xên mường”/ Dân
mường ta mới được cầm “dây bản” đến ném, gạt điểm dở/ Cầm dây “còn”
đến ném, gạt điểm xui/ Bắt “còn” đi, người tình ơi, người yêu hỡi!”. Nam hát
(chái khắp): “ Dây bản” nở hoa sen của anh ơi!/ “ Dây mường” nở hoa ban/
Người tình, mặt duyên dáng khéo ném “còn” đôi của anh hỡi!/ Xin mời, tình
xin mời!/ Yêu nhau cùng “dây còn” của bản đừng lụi/ Thương nhau cùng
“dây còn” của mường đừng tàn/ Cho thành duyên khăng khít qua lại, em
ơi![15, tr. 427].Bên cạnh ném “còn”, người ta tổ chức kéo co; trèo cây trơn
(tượng trưng cho trèo núi “pha bun, pha chăng” mường trời) gồm 12 bậc
(tương ứng với 12 chức quan); chơi “phắn liếng” (múa gươm); chơi “ tó mác
lẹ” (chọi quả lẹ)[29, tr. 250].Ca ngợi lễ “xên mường” nhà tạo: Cúng mường
xong, tất cả đều tốt đẹp: “Được “xên” rồi ở yên, ngủ yên/ Khỏe mạnh như
trăng rằm/ Lộc phát như ngọn tre/ Như ngọn dưa leo giàn/ Tài lộc như cơn lũ
tháng tám/ Thành cây như cây dừa/ Nhà tạo đầy tiền của/ Của quý xếp đầy
kho/ Của cải chất đầy đống/ Làm nương lúa tốt cây/ Làm nương bông tốt
quả...[15, tr. 435].
Lễ tan 3 ngày “xên mường” (tế nhá): Chọn ngày Kỷ (mự cắt), bày 4
mâm: chẩu xửa; bu xá (hương hoa chua ngọt); then luông; then thóng và các
ma khác. Cúng rằng: “Ba ngày bỏ hết phép bùa, rào chông gai/ Các thần linh
trên trời, dưới trần gian khắc kiêng kỵ lấy nhé!/ Dân bản dân mường không
kiêng kỵ được nữa rồi...”[15, tr. 442]. Để cuộc sống trở lại bình thường (hết
lễ).
59
Tại nhà “chẩu xửa”: “ Khắp páo khuôn” (báo hồn, tìm hồn), để gọi
hồn, tìm hồn “chẩu xửa” (tham gia “xên mường”) về với mường, bản, về với
vợ con, với nhà cửa của mình; kẻo hồn lạc lối ở đâu đó (mường trời, trần gian,
mường Lào xa xôi, mường Kinh đông vui, v.v.), rồi người lại ốm đau, bệnh tật,
đen đủi, v.v. “Khắp páo khuôn” chẳng khác gì một “liệu pháp tâm lý” (trấn
an) đối với người đã từng “giao tiếp” với thần linh, ma quỷ, v.v.[29, tr. 251-
252].
Sau đó Trả áo cho “ chủ áo” (cọp xửa tạo/tám cọp xửa): “Chẩu xửa”
(những người có uy tín được chọn tham gia lễ “xên mường”) trước đã “đóng
vai” là “phìa, tạo” (chủ mường), mặc áo phìa, tạo; nay phải làm lễ để “trả
lại” áo đó cho “phìa tạo” (hồn ma), kẻo “lôi thôi” về sau; để “hồn người”
nhập về với “thần người” như cũ, đặng sống mà làm ăn bình thường[29, tr.
252].
Gom hồn tạo với dân mường (xú khuôn tạo cắp tay mướng): Bày mâm
lễ gồm xôi lợn, rượu, v.v. để mời hồn tạo về cùng với dân bản mường, xây
dựng bản mường ngày một tươi đẹp. “Nay có mâm lễ lớn lợn to/ Đến mời hồn
mời vía “chủ áo”/ Mời tạo lên ngồi giường nhận lễ/ Mời tạo lên ngồi trên
uống rượu/ Hồn “chủ áo” dân mường tôn kinh/ Từ đây tạo mường luôn mạnh
khỏe/ Hãy sống lâu, thọ lâu, hồn ơi!”[15, tr. 510,519].
Cuối cùng là: Hưởng lộc lễ cúng mường: Cảm ơn mo. Đại diện dân
mường có lễ cảm ơn mo đã giúp dân, làm chủ lễ “xên mường” thành công.
“con cháu biết ông là mo mạnh, mo thiêng/ Có uy có tiếng, con cháu vô phép
lên nhà nhờ cậy/ Ông mo đã có lòng tốt; ống nước đặt, điếu cày mời/ Mở lời
hay, lời đẹp, nhận lời”[15, tr. 520-521]. Mo hát mừng hồn. Hồn đã trở về, mo
mời hồn “Lên nhà cùng chủ/ Hãy vào nhà cùng mo/ Người trong nhà đã thấy/
Dân trong mường đã hay/ Thọ ở nhà cột kê/ Sống lâu ở nhà hồn tạo dựng/
60
Tạo cao quý, sống lâu muôn tuổi”[15, tr. 530-531]. Ca ngợi ngày lễ. Mo hát
mừng từ nay mọi người “Yên lành như chim yểng/ Khỏe mạnh như gà rừng/
(Tạo) Giàu sang hơn thiên hạ/ Yêu thương nhau như vợ chồng chim
yểng...”[15, tr. 542]. Mo hát “xoay số phận tạo”(mo kháp pín bun tạo). Tạo
(chủ mường) trước đây “Phận thấp dưới đám cỏ may/ Phận đen giòn phơi
mưa phơi nắng/ Chưa có phúc lớn như phúc rồng/ Phúc to như phúc voi”, thì
nay: “ Được sống cùng vận may mãi mãi/ Lên năm chắc sừng trâu/ Lên giữ
luật mường bản/ Lên giữ ngai vàng bạc dân giao...”[15, tr. 545,548]. Đuổi tà
ma (khắp xắp hính). Từ đây tà ma hãy ở chỗ của mình: “Ở mường trời tự đi
kiếm ăn/ Chớ quay mặt xuống mường trần vu vơ nhé!/ Xuống lần này, lần nữa
sẽ bắn/ Xuống lần sau, bắn chết, không tha!”[15, tr. 553]. Sau khi xong hết
tất cả, họ bưng các mâm lễ xuống, món nào chưa chín thì nấu cho chín và mọi
gia đình góp thêm rượu, thịt,… Dân cả bản mường cùng ăn uống vui chơi
trong ngày đó.
2.2.4.3. Lễ cúng rừng ma của người Thái Mường Mô
Đối với người Thái, rừng ma là khu vực không được khai thác.“Người
Thái Mường Mô có rừng ma Na Hán (pá heo) – nơi cấm chặt phá và xâm
phạm, mỗi năm người trong bản phải cúng rừng Na Hán một lần vào tháng
Hai Âm lịch trên đồi ma làng (pi lang han) và chỉ là con trai là trụ cột gia
đình mới đi cúng.
Thầy cúng họ Lò được mời đến cúng với lễ vật là một con trâu, một
chai rượu, một bát gạo, hai bát cơm. Khi mổ xong trâu, lấy mỗi thứ được lấy
một chút bày lên ban thờ ở chòi: đầu trâu sống, bốn chân, lông, thịt, mời thần
rừng (tồ pá) về và khấn: Cúng cho về ăn nhé, cầu mong dân làng làm ăn phát
đạt, không ai ốm đau... rồi vái ba lần.
61
Nghi lễ hoàn thành, mọi người tổ chức ăn uống, vui chơi, múa xòe. Cả
đàn ông, đàn bà đều được tham gia, khi đi mang theo một chai rượu, một bát
cơm góp vào đó. Trong thời gian cúng thần rừng cấm không ai ra, vào bản
trong ba ngày. Nếu ai vi phạm sẽ phạt trâu, lợn, tiền. Nay không còn kiêng kỵ
như vậy nữa bởi lễ cúng thần rừng không còn được duy trì mà chỉ cúng khi
gia đình có người mất.
Khi gia đình có người mất cũng phải có lễ mang lên rừng cúng. Buổi
sáng, nhà có người mất chuẩn bị một con lợn con (lợn sữa) khoảng 7 – 8kg
mang lên rừng mổ tại chỗ, luộc chín nguyên con, hai nắm sỏi, một chai rượu
và cúng. Gia đình có thể tự cúng hoặc nhờ thầy cúng cho gia đình.Ý nghĩa
của lễ cúng này tiến hành sau khi chôn cất người mất xong và đến báo cáo
với thần rừng, không cho người chết quay về nhà nữa. Buổi chiều, làm một
cái lễ gồm một con gà trống màu đỏ đã làm thịt, luộc sẵn ở nhà, một chai
rượu, một bó hương, một đĩa xôi mang lên méo (miếu) trên núi, có người
trông méo làm lễ, chủ nhà mặc áo tang, đến méo thì cởi ra đặt lên ban thờ với
mục đích sau khi làm lễ này người trong gia đình sẽ trở lại cuộc sống bình
thường, sạch sẽ.
Rừng ma cũng được người già bản Bò, Mường Bum kể lại rằng: bên
trái khe Huổi Mù Lóng có một thác nước, bên trên thác nước là một bãi rộng 800 – 900m2 với những cây gỗ to. Đây được coi là rừng kiêng (pá cấm)
của bản Bo, con ma (pi sở) cao, to, tóc trắng, râu dài thi thoảng xuất hiện
và có người nhìn thấy được. Có một số trường hợp, người bản Bo vào rừng
kiêng lấy củi, hái măng thì sau đó người nhà (con dâu) đột nhiên bị liệt.
Phải mời thầy về cúng, lễ vật là một con dê/con chó, cơm, rượu, hương, hoa
mới khỏi bệnh”[27, tr. 263-264].
62
2.2.4.4. Nghi thức cầu ma rừng phù hộ
Một số tài liệu viết rằng: Người Thái không có lễ cúng rừng riêng, mà
chỉ cúng trong các trường hợp vào rừng bị ngã, hay đổ bệnh vì một lý do nào
đó khi được thầy bói cho biết nguyên nhân người nhà mới mổ gà hoặc lợn,
nấu chín dọn ra mâm, đem đặt nơi miệng khe suối, chân dốc cúng cầu xin ma
rừng tha thứ. Mỗi khi đi khai thác gỗ, săn thú, lấy mật ong... trước khi vào
rừng người Thái thường đọc nhẩm lời cầu khấn nhằm xin ma rừng, ma núi
phù hộ độ trì cho may mắn, tai qua nạn khỏi. Đặc biệt, mỗi khi phải ăn cơm
trong rừng, trước khi ăn, bao giờ người ta cũng phải hú mời ma rừng, ma núi
rồi mới ăn. Nếu có rượu thì trước khi uống, phải rót vài giọt xuống đất mời
ma rừng, ma đất [35, tr. 299].
2.2.4.5. Lễ cúng chuộc gỗ rừng
“Có một lễ cúng khác liên quan đến rừng tồn tại phổ biến đến tận ngày
nay là lễ cúng chuộc gỗ. Loại lễ cúng rừng này chỉ thấy ở vùng người Thái
(nhóm Tày Mường) đường 48 như Quỳ Châu, Quế Phong, và không thấy ở
các nhóm Thái vùng đường 7A. Thông thường, các gia đình người Thái phải
chuẩn bị gỗ làm nhà cho các con trai ra ở riêng sau thời gian lấy vợ, nên họ
phải.Số gỗ đó được khai thác trong rừng trong vòng 1-3 năm một số được kéo
về nhà, một số mới chỉ kéo đến nửa đường, một số vấn để trong rừng. Trong
quan niệm của người Thái, gỗ trong rừng do Ông Trời và ma rừng cai quản,
con người được phép khai thác để sử dụng nhưng phải tuân theo nguyên tắc,
thời hạn nhất định. Nguyên tắc đó là, khi có tiếng sấm đầu mùa, nội trong 3
ngày sau tiếng sấm mà không cúng thì trước Tết Nguyên đán năm đó, gia súc,
gia cầm của gia chủ sẽ bị chết dịch hoặc gặp tai nạn... Vì thế, khi có sấm, các
gia đình còn để gỗ dọc đường trong rừng phải đóng góp lễ vật: gà rượu, gạo,
63
tập trung tại một nhà nào đó nấu nướng, dọn mâm, mời thầy mo về cúng để
xin Ông Trời và ma rừng cho mang số gỗ còn lại về nhà[35, tr. 300].
64
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Rừng đối với người Lào là một thế giới rộng lớn mà mọi người phải tôn
trọng và lo sợ bởi rừng là nơi thiêng, nơi trú ngụ của các lực lượng siêu nhiên
mà con người không thể điều khiển được, đồng thời cũng là nơi có công ơn
lớn lao đối với con người - nó vừa đáp ứng nhu cầu vật chất vừa đáp ứng nhu
cầu tinh thần cho con người. Rừng có trách nhiệm ngăn chặn thiên tai, bảo vệ
đất đai làm cho hệ thống sinh thái không mất cân bằng. Rừng là cái nôi của
nhiều nghi lễ liên quan đến rừng của người Lào, nó đã trở thành văn hóa riêng
biệt được thực hành từ thế hệ này chuyển sang thế hệ khác.
Theo quan niệm của người Thái rừng già có ma cai quản, có nhiều câu
chuyện về các lực lượng siêu nhiên trong rừng đã chứng minh rằng thế giới
rừng là thế giới thiêng đối với họ, do vậy họ mới thờ thần núi, tôn kinh rừng
thiêng, bề ngoài là quan niệm thần linh nhưng bề trong là văn hóa rừng của
họ. Rừng có vai trò rất quan trọng với cuộc sống của người Thái, là tài sản
chung của họ, là nơi giữ gìn nguồn nước đồng thời cũng là nơi cung cấp vật
liệu cho họ. Ngoài các nhu cầu vật chất, rừng còn đáp ứng các nhu cầu văn
hoá tinh thần cho con người, trở thành điểm tựa tinh thần của họ từ xưa đến
nay.
65
Chƣơng 3
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA RỪNG VÀ MỘT VÀI SO SÁNH BƢỚC ĐẦU
3.1. Những biến đổi của văn hóa rừng trong thời gian hiện nay
3.1.1. Biến đổi văn hóa rừng của người Lào
Hiện nay, do điều kiện kinh tế, văn hóa – xã hội đã thay đổi nhiều nên
văn hóa rừng trong cuộc sống của người Lào cũng đã thay đổi đến mức một
số phong tục tập quán liên quan đến rừng không được còn duy trì nữa và nếu
còn duy trì thì hình thức tổ chức cũng thay đổi.
Nhân tố quan trọng nhất dẫn đến sự biến đổi văn hoá rừng ở vùng Tây
Bắc Lào là sự suy giảm rõ rệt của hệ sinh thái rừng địa phương trong những
năm gần đây – hiệu quả trực tiếp của việc phát triển hạ tầng cơ sở cùng với
việc chặt cây rừng trái phép[44, tr. 2]. Việc đầu tư trực tiếp từ nước ngoài ở
Lào chủ yếu tập trung vào lĩnh vực tài nguyên thiên nhiên –chiếm 80% các dự
án đầu tư nước ngoài (2008). Trong ngành nông và lâm nghiệp, việc trồng cây
và chế biến gỗ là kiểu đầu tư phổ biến nhất. Chính phủ Lào đã khuyến khích
việc đầu tư trong ngành trồng cây, tìm cách chuyển đổi rừng tự nhiên sang
rừng trồng cây công nghiệp để làm cho nông dân ở nông thôn có nguồn thu
nhập mới [44, tr. 5]. Trong thời gian qua, ngành lâm nghiệp cũng gặp nhiều
thách thức như: việc khai thác gỗ trái phép và không bền vững, nạn buôn bán
thú rừng [44, tr. 6].
Các già làng đã kể rằng: “Ngày xưa, làng Suandara không chỉ có 3 loại
rừng mà còn Pa Mun (rừng được thừa kế từ thế hệ trước), mỗi họ sẽ có một
khu vực rừng, nhiều ít tùy theo bố mẹ, ông bà chuyển cho. Trong rừng Pa
Mun, họ chủ yếu trồng những gỗ quý như: gỗ giáng hương, gỗ kiền kiền…
các cây trong rừng này toàn là cây to, khi nào có nhu cầu dùng đến gỗ như:
66
trong nhà có người mất, các con cháu trong nhà phải đi chọn và chặt cây trong
rừng đó về khắc thành quan tài. Hoặc kể cả muốn xây nhà mới… họ sẽ đi chặt
cây trong rừng này, sau khi chặt rồi phải trồng cây mới thay. Nhưng hiện nay,
rừng Pamun này không còn nữa.
Khi nền tảng sinh thái thay đổi thì các thực hành văn hoá gắn liền với
nó tất yếu cũng thay đổi theo. Trước hết, các hệ thống nghi lễ gắn liền với
rừng đang có xu hướng giảm dần cả về số lượng lẫn quy mô. Trước đây,
người Lào tổ chức lễ Khăm hó mỗi năm hai lần và theo tục lệ, sau khi mời
thần xuống ăn rồi, dân làng cũng ăn chơi rồi tổ chức văn nghệ, chơi một số trò
chơi dân gian. Nhưng ngày nay, không còn những trò chơi như trước đây
nữa.Và vào lễ lần thứ hai trong năm, người ta cũng chỉ tổ chức một ngày duy
nhất và chỉ kiêng vào hôm đó mà thôi.
Trước đây, trong điều kiện kinh tế hàng hoá chưa phát triển, dân số
chưa đông và nhu cầu lương thực, thực phẩm của người dân còn hạn chế, con
người chỉ khai thác rừng ở mức vừa đủ. Hàng năm, gia đình nào có khả năng
sản xuất được bao nhiêu và cần bao nhiêu thì làm bấy nhiêu và những cái làm
ra cũng chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu cơ bản trong gia đình như: làm
nương trồng lúa, ngô, vừng, khoai. Nếu cần các loài rau củ, gỗ và mật ong thì
đã có sẵn trên rừng …. Bây giờ, trong bối cảnh kinh tế Lào đã và đang có
những chuyển biến quan trọng theo xu hướng kinh tế thị trường, nhu cầu và
mục đích sản xuất của người dân địa phương cũng dần thay đổi. Thay vì tận
dụng các nguồn lợi có sẵn trên rừng và bên cạnh việc tiếp tục trồng các loại
cây truyền thống, người dân đã bắt đầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng
bằng cách trồng các loại cây công nghiệp mà sản phẩm của chúng có thể tiêu
thụ trên thị trường - đặc biệt là cao su và các loại cây kinh tế khác. Như thế,
chức năng sinh kế của rừng đã thay đổi đáng kể.
67
3.1.2. Biến đổi văn hóa rừng của người Thái
Trong các thập niên gần đây, rừng ở Tây Bắc đã “không cánh mà bay”
mỗi ngày do nhiều nguyên nhân: do cháy rừng, phá rừng làm nương, do khai
thác gỗ trái phép… Tổng hợp riêng tại các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Yên Bái,
Sơn La, Lào Cai, năm 2015, các lực lượng chức năng phát hiện, xử lý gần
2.000 vụ, diện tích rừng bị mất hàng nghìn ha[37].
Với diện tích hàng triệu héc ta, rừng Tây Bắc ngoài vai trò là “mái nhà”
đảm bảo an toàn sinh thái cho 3,7 triệu héc ta nội vùng và cho cả vùng đồng
bằng châu thổ sông Hồng, còn có nhiệm vụ phòng hộ cho các nhà máy thủy
điện: Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Thác Bà. Thế nhưng những năm gần đây,
rừng Tây Bắc lại bị tàn phá nghiêm trọng với những “điểm nóng phá rừng”
nhức nhối đến mức Thủ tướng Chính Phủ phải có ý kiến chỉ đạo như vụ phá
rừng ở Mường Nhé, Điện Biên. Mất rừng, hồ chứa các nhà máy thủy điện về
mùa khô cạn kiệt, mùa mưa xả lũ ngày càng căng thẳng. Mất rừng, lũ quét, lũ
ống, lốc xoáy, sạt lở núi liên tiếp xảy ra với những hậu quả ngày một nặng nề
hơn… Những năm gần đây, bình quân mỗi năm có hàng nghìn héc ta rừng ở
các tỉnh Tây Bắc bị xóa sổ. Chỉ riêng năm 2015, lực lượng chức năng các tỉnh
trung tâm vùng Tây Bắc là Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai và Yên Bái
đã phát hiện và xử lý gần 2.000 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng.
Ông Lò Thế Thi, Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Sơn La cho biết,
trong nhiều nguyên nhân dẫn đến mất rừng thì cháy rừng là nguyên nhân rõ
ràng nhất. Tuy nhiên, việc dân phá rừng làm nương, nhất là khai thác lâm sản
trái phép mới là vấn đề “nóng” khiến Tây Bắc mất nhiều rừng. Như vậy, có
thể thấy, rừng ở Tây Bắc đã và đang bị tàn phá ở mức báo động[37].
Trong sách Văn hóa Thái của Cầm Trọng và Phan Hữu Dật, các tác giả
đã viết rằng: Bây giờ để tiếp tục nhìn lại vấn đề bảo vệ môi sinh thung lũng,
68
chúng tôi thấy trong phong trào “chống mê tín, dị đoan”, “không tin ma
quỷ”, ba khu vực rừng cấm của dân tộc Thái đã bị xóa sổ và cùng với việc
phá vỡ thế luân canh bỏ hóa trong vòng khép, việc làm nương theo phương
pháp cổ truyền đã làm cho rừng thung lũng cạn kiệt. Sau nhiều năm hứng
những trận mưa ngàn suối lũ quét hết lớp màu phủ trên mặt nên rừng đã biến
thành nơi đất cằn cỏ dại [5, tr. 98].
Trong bối cảnh như vậy, tương tự những gì diễn ra ở Lào, có một số
nghi lễ cũng không được duy trì nhưng còn một số vẫn được phát huy như:
Rừng ma theo quan niệm của người Thái một số nơi cho là: khu rừng
thiêng, còn một số nơi cho là rừng cấm, nếu đúc kết có thể nói là nơi quan
trọng liên quan trực tiếp đến cuộc sống văn hóa của họ, bởi nó là nơi chôn cất
hoặc thiêu xác của những người mất có lẽ là họ hàng, người thân, bạn bè của
họ. Nay không còn kiêng kỵ như vậy nữa bởi lễ cúng thần rừng không còn
được duy trì mà chỉ cúng khi gia đình có người mất”[27, tr. 263]. Và có một
số tài liệu đã cho rằng: “Theo luật tục thì rừng ở vùng người Thái được phân
thành hai khu vực rất rõ rệt. Một là để dành cho việc trồng trọt. Và hai là, để
dành cho các khu vực rừng cấm. Trong khu vực rừng cấm lại phân thành hai:
giành để khai thác lâm thổ sản và rừng thiêng để phục vụ cho cuộc sống tâm
linh. Ngày nay, tất cả những quy định này hoàn toàn mất để thay thế vào đó
là sự tàn phá rừng. Từ đó, người ta dương hình thành lại quy hoạch rừng
theo luật pháp của nhà nước một cách nghiêm túc”[18, tr. 19].
Còn lễ “xên bản, xên mường” của đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc
được tổ chức ở khu rừng già của làng “đông xửa, đông xên, pa đống sần” mà
họ cho là khu rừng cấm, rừng thiêng của bản, mường còn được duy trì bởi nó
là lễ cúng lớn của họ có thể nói nếu trong văn hóa Thái vẫn có từ “bản,
mường” các nghi lễ cúng này sẽ còn tồn tại và được phát huy. “Có một lễ
69
cúng khác liên quan đến rừng tồn tại phổ biến đến tận ngày nay là lễ cúng
chuộc gỗ. Loại lễ cúng rừng này chỉ thấy ở vùng người Thái (nhóm Tày
Mường) đường 48 như Quỳ Châu, Quế Phong” [35, tr. 300]. Nhưng có một số
tài liệu đã cho rằng: “ Trước đây và hiện nay ở những nơi xa xôi rừng thiêng
là nơi được bà con bảo vệ với những quy định ngặt nghèo của cộng đồng
trong nhiều thập kỷ qua do rất nhiều lý do rừng thiêng bị quên lãng, bị phá
hủy và việc đó đồng nghĩa với việc mất đi nguồn sinh thủy, nguồn gen và các
giá trị truyền thống vốn vẫn gắn liền với nó” [23, tr. 52].
Mặc dù vậy, đồng bào dân tộc Thái là một dân tộc có nhiều kinh
nghiệm sống với thiên nhiên và họ đã hòa cuộc sống của họ với nó, hiện nay,
dù mọi thứ đã thay đổi nhưng các niềm tin vào thế lực siêu nhiên của họ chưa
bao giờ mất đi và rừng cũng là một phần của thế lực siêu nhiên đó. “Đó vẫn là
điểm tựa tinh thần, là nơi để họ gửi gắm ước vọng về một cuộc sống bình yên,
tốt đẹp hơn” [27, tr. 211-212].
3.2. Những nét tƣơng đồng
Từ những nội dung đã được phân tích và trình bày ở chương 2 và phần
đầu của chương 3, có thể nói rằng, có rất nhiều điểm tương đồng giữa văn hoá
rừng của người Lào ở vùng Tây Bắc Lào và văn hoá rừng của người Thái ở
vùng Tây Bắc Việt Nam. Sự tương đồng ấy được thể hiện qua một vài nét cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, về mặt thế giới quan và nhân sinh quan, cả hai tộc người đều
không chỉ xem rừng như một loại tài nguyên tự nhiên thông thường, mà còn
“thiêng hoá” rừng, coi rừng như một chốn vừa gần gũi vừa linh thiêng với con
người. Gần gũi vì cuộc sống của người dân, từ lúc mới sinh ra cho đến lúc giã
từ trần thế, đều gắn bó với rừng. Linh thiêng vì rừng được cai quản bởi các
lực lượng siêu nhiên có sức mạnh đặc biệt (thần núi, thần rừng) và dựa vào
70
sức mạnh ấy, họ có thể “ban phúc giáng họa” cho con người. Vì thế, các cộng
đồng sở tại đã sáng tạo ra một hệ thống nghi lễ - lễ hội cùng các kiêng kỵ bí
ẩn để duy trì một mối quan hệ an toàn với các lực lượng siêu nhiên ấy.
Thứ hai, cả hai tộc người đều có những tri thức phong phú về rừng.
Một mặt, dựa vào chức năng của rừng, họ đã phân chia rừng thành nhiều loại:
rừng thiêng, rừng cấm, rừng sản xuất. Dĩ nhiên, mỗi loại rừng sẽ có các thực
hành văn hoá tương ứng.Ví dụ, nếu rừng thiêng và rừng cấm là nơi tổ chức
các nghi lễ thì rừng sản xuất lại là nơi mà người dân khai phá, canh tác, gieo
trồng các loại cây trồng. Mặt khác, nhờ hiểu đặc tính của rừng, dưới vỏ bọc
tín ngưỡng, trải qua hàng chục thế hệ, người dân đã luôn biết cách giữ rừng
nhằm trước hết phục vụ cho cuộc sống của họ.
Thứ ba, về phương diện sinh kế, rừng đều đóng vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo đời sống vật chất cho con người. Rừng không chỉ là tài liệu sản
xuất giúp người dân ở đây làm ra lương thực nhằm thoả mãn các nhu cầu thiết
yếu của họ, quan trọng không kém, rừng còn kho dược liệu, kho vật liệu cung
cấp gỗ, củi.v.v…
Thứ tư, về phương diện tín ngưỡng, như đã nói, bởi vì rừng là cội
nguồn đời sống tâm linh, nên cả người Lào và người Thái đã sáng tạo nên
hàng loạt nghi lễ độc đáo - vừa phản ánh thế giới quan của các cộng đồng,
vừa là phương tiện góp phần bảo tồn và lưu giữ các giá trị và các thực hành
văn hoá đặc trưng của tộc người: Lễ cúng thần làng, lễ báo ma trong rừng ma,
lễ xên bản, lễ Xên mường, lễ cúng rừng ma, nghi thức cầu ma rừng phù hộ, lễ
cúng chuộc gỗ rừng… Ngoài ra, những kiêng kỵ trong lễ cúng liên quan đến
rừng của hai tộc người cũng tương đồng với nhau.
Cuối cùng, hiện nay, văn hóa rừng của hai dân tộc đều có biến đổi nhất
định.
71
3.3. Những nét khác biệt
Bên cạnh nhiều nét tương đồng, giữa văn hoá rừng của người Lào ở
Tây Bắc Lào và người Thái ở Tây Bắc Việt Nam cũng có vài điểm khác nhau.
Thứ nhất, về nhận thức, người Thái quan niệm rằng: “Khi chết linh hồn
ở thế giới bên kia” sống theo đẳm (tổ tiên)” [27, tr. 56]. “Con người được sinh
ra ở rừng được rừng nuôi dưỡng và chùm bọc đến khôn lớn. Con người khi
chết được trả về với rừng thiêng”[39, tr. 136]. Ngược lại, người Lào cho rằng:
dù rừng là một phần rất quan trọng liên quan đến tín ngưỡng tinh thần của họ,
nhưng họ vẫn theo quan niệm của đạo Phật, thế giới sau khi chết là kết quả
của lúc khi còn sống và linh hồn sẽ đi theo đường của họ chứ không phải
quay về rừng nữa. Như thế, với người Thái, nếu rừng là nơi bắt đầu và cũng là
điểm kết thúc của chu kỳ tồn tại của con người, thì với người Lào, tùy theo sự
dẫn dắt của “nghiệp lực”, linh hồn con người sẽ đầu thai vào một cảnh giới
tương ứng mà không nhất thiết phải là rừng.
Thứ hai, trong cách phân loại rừng, dù người Lào và người Thái phân
chia rừng thành ba loại giống nhau nhưng trong ba loại đó người Thái còn
chia rừng thành nhiều loại nhỏ hơn nữa. Ba loại rừng đó gồm có: rừng thiêng,
rừng cấm và rừng sản xuất - trong đó rừng thiêng của người Lào chỉ có hai
loại là rừng thần làng (pa hó, đồng hó) và rừng ma (pa sa, pa khăm). Nhưng
rừng của người Thái được chia thành nhiều loại hơn, cụ thể như: rừng thiêng,
rừng đầu nguồn, rừng khoanh nuôi, rừng tái sinh, rừng cấm, rừng chuyên
dụng, rừng có săn, rừng măng cấm, rừng làm nương rẫy, rừng cấm của
mường, rừng sản xuất.
Thứ ba, hệ thống nghi lễ liên quan đến rừng của hai nước được tổ chức
vào các thời điểm khác nhau và theo lịch khác nhau như: dân tộc Lào tổ chức
theo lịch Lào (Đươn Lào) và chọn ngày theo Phật lịch, còn người Thái tổ chức
72
nghi lễ/lễ hội theo lịch Thái - “Số ngày tính tháng theo như Âm lịch. Nhưng
cách tính lại chênh với Âm lịch 6 tháng ví dụ: tháng Giêng lịch Thái là tháng 7
Âm lịch[3]. Bên cạnh đó, các hình thức tổ chức các nghi lễ tất nhiên sẽ khác
nhau, trong đó, lễ cúng của người Thái có phần hội còn người Lào thì không
có.
Thứ tư, người Thái theo tín ngưỡng đa thần nên trong văn hóa của họ
thầy cúng “Mo” có vị trí rất quan trọng, được cho là người có khả năng giao
tiếp với thần, do vậy vị trí của Mo được người Thái để cao. Đối với người
Lào, “Mo” được gọi là “Mó” có vai trò như “Mo” của người Thái nhưng
không được để cao bằng Mo của người Thái, nó chỉ là một nghề nghiệp của
họ nếu ai có nhu cầu thuê mới đi thuê.
3.4. Các nguyên nhân dẫn đến sự tƣơng đồng và khác biệt
Thông qua các so sánh trên, chúng ta có thể đúc kết được những
nguyên nhân đã làm cho hai loại hình văn hóa rừng có những tương đồng và
khác biệt như sau:
Những nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng:
Thứ nhất, do cuộc sống gắn bó mật thiết với thế giới rừng và rừng là
yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với cuộc sống của cả hai tộc người nên họ
có cùng chia sẻ những điểm tương đồng trong nhận thức, quan niệm về rừng,
cũng như những kinh nghiệm khai thác, bảo vệ rừng, kể các các tín ngưỡng
liên quan đến rừng.
Thứ hai, do nhu cầu trong việc sử dụng rừng của họ gần giống nhau
nên cách phân chia rừng cũng như nhau.c.Về mặt ngôn ngữ, tộc người Lào ở
Tây Bắc Lào và tộc người Thái ở Tây Bắc Việt Nam đều thuộc hệ ngôn ngữ
Tày – Thái và đều có nguồn gốc xa xưa ở phía Nam Trung Hoa trước khi di
cư xuống phía Nam.Việccùng gốc ngôn ngữ và văn hoá dĩ nhiên sẽ dẫn đến
73
những tương đồng trong quan niệm và cách ứng xử với rừng dù cư trú ở hai
khu vực khác nhau.
Thứ ba,một số tài liệu đã viết rằng: “Người Thái Đen, Thái Trắng từ
hai ngành chia thành nhiều nhóm phức tạp cư trú ở Mộc Châu (Sơn La), Mai
Châu (Hòa Bình), miền núi Thanh Hóa và Nghệ An, chịu ảnh hưởng nhiều
của văn hóa Lào”[25, tr. 20]. Nếu theo nhận định này, một số nhóm Thái ở
Tây Bắc Việt Nam, vì nhiều lý do khác nhau, đã chịu ảnh hưởng của văn hoá
Lào, do đó, văn hoá giữa các nhóm ở hai bờ biên giới có nhiều nét tương
đồng. Sự gần gũi về vị trí địa lý của vùng Tây Bắc Việt Nam và Tây Bắc Lào
cũng là nguyên nhân góp phần thúc đẩy sự giao lưu và tương đồng văn hoá
ấy.
Những nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt của hai văn hóa:
Thứ nhất, Phật giáo là một trong những yếu tố quan trọng nhất dẫn
đến sự khác biệt giữa văn hóa rừng của dân tộc Lào và dân tộc Thái. Mặc dù
người Lào cũng có tín ngưỡng đa thần với các tục thờ thần núi, thần rừng
như dân tộc Thái nhưng người Lào đã sớm tiếp nhận Phật giáo và sau đó,
tôn giáo này đã ảnh hưởng rất lớn đến thế giới quan và đời sống sinh hoạt
của người Lào. Ngược lại, đối với các nhóm Thái ở Tây Bắc Việt Nam, tín
ngưỡng đa thần mới là yếu tố chi phối thế giới tinh thần và đời sống thực
tiễn của họ. Đó là nguyên nhân chính đã làm cho hai nền văn hóa khác nhau
trong cách quan niệm về cuộc sống sau khi chết, lịch tổ chức nghi lễ, vai trò
của người điều hành nghi lễ. Cụ thể hơn, trong văn hoá Thái ở vùng Tây Bắc
Việt Nam, nếu thầy Mo có vị trí vô cùng quan trọng và được người dân để
cao, thì“ở Lào –ông mo không còn giữ được vị trí quan trọng như đã nói ở
trên, bởi vì các vị sư, những đệ tử của Đức Phật đã giúp dân cầu nguyện
74
Phật và cầu nguyện ma trong một số nghi lễ. Do đó vai trò của mo được hạn
chế trong một số nghi lễ thờ ma thuần túy”[10, tr.210].
Thứ hai, do thời tiết khí hậu và địa hình của hai vùng khác nhau nên
thời điểm tổ chức các nghi lễ cũng khác nhau và văn hoá sản xuất ở hai nơi
cũng ít nhiều khác nhau.
Bảng so sánh sự giống và khác nhau của hai văn hóa rừng
Sự giống nhau Sự khác nhau
Thứ nhất, về mặt thế giới quan Thứ nhất, về nhận thức, người
, nhân sinh quan cả hai dân tộc không Thái quan niệm rằng: “Khi chết linh
chỉ xem rừng như một loại tài nguyên hồn ở thế giới bên kia” sống theo đẳm
tự nhiên thông thường, mà còn (tổ tiên). “Con người được sinh ra ở
“thiêng hóa” rừng, coi rừng như một rừng được rừng nuôi dưỡng và chùm
chốn vừa gần gũi vừa linh thiêng với bọc đến khôn lớn. Con người khi chết
con người được trả về với rừng thiêng ”[39, tr.
136]. Ngược lại, người Lào cho rằng: Thứ hai, cả hai tộc người đều
dù rừng là một phần rất quan trọng có những tri thức phong phú về rừng.
liên quan đến tín ngưỡng tinh thần Một mặt, dựa vào chức năng của
của họ, nhưng họ vẫn theo quan niệm rừng, họ đã phân chia rừng thành
của đạo Phật, thế giới sau khi chết là nhiều loại rừng: rừng thiêng, rừng
kết quả của lúc khi còn sống và linh cấm, rừng sản xuất. Dĩ nhiên, mỗi
hồn sẽ đi theo đường của họ chứ loại rừng sẽ có các thực hành văn hóa
không phải quay về rừng nữa. Như tương ứng. Ví dụ, nếu rừng thiêng và
thế, với người Thái. Nếu rừng là nơi rừng cấm là nơi tổ chức các nghi lễ
bắt đầu và cũng là điểm kết thúc của thì rừng sản xuất lại là nơi mà người
75
dân khai phá, canh tác, gieo trồng các chu kỳ tồn tại của con người, thì với
loại cây trồng. Mặt khác, nhờ hiểu người Lào, tùy theo sự dẫn dắt của
đặc tính của rừng, dưới vỏ bọc tín “nghiệp lực”, linh hồn con người sẽ
ngưỡng, trải qua hàng chục thế hệ, đầu thai vào một cảnh giới tương ứng
người dân đã luôn biết cách giữ rừng mà không nhất thiết phải là rừng.
nhằm trước hết phục vụ cho cuộc Thứ hai, trong cách phân loại
sống của họ. rừng, dù người Lào và người Thái
Thứ ba, về phương diện sinh phân chia rừng thành ba loại giống
kế, rừng đều đóng vai trò quan trọng nhau nhưng trong ba loại đó người
trong việc đảm bảo đời sống vật chất Thái còn chia rừng đó gồm có rừng
cho con người. Rừng không chỉ là tài thiêng, rừng cấm và rừng sản xuất –
liệu sản xuất giúp người dân ở đây trong đó rừng thiêng của người Lào
làm ra lương thực nhằm thỏa mãn các chỉ có hai loại là rừng thần làng (pa
nhu cầu thiết yếu của họ quan trọng hó, đồng hó) và rừng ma (pa sa, pa
không kém, rừng còn là kho dược khăm). Nhưng rừng của người Thái
liệu, kho vật chất cung cấp gỗ, được chia thành nhiều loại hơn cụ thể
củi.v.v… như: rừng thiêng, rừng khoanh nuôi,
rừng tái sinh, rừng cấm, rừng chuyên Thứ tư, về phương diện tín
dụng, rừng có săn, rừng măng cấm, ngưỡng, bởi rừng là cội nguồn đời
rừng làm nương rẫy, rừng sản xuất. sống tâm linh, nên cả người Lào và
người Thái đã sáng tạo nên hàng loạt Thứ ba, hệ thống nghi lễ liên
nghi lễ độc đáo – vừa phản ánh thế quan đến rừng của hai nước được tổ
giới quan của các cộng đồng, vừa là chức vào các thời điểm khác nhau và
phương tiện góp phần bảo tồn và lưu theo lịch khác nhau như: dân tộc Lào
giữ các giá trị và các thực hành văn tổ chức theo lịch Lào (Đươn Lào) và
hóa đặc trưng của tộc người. chọn ngày theo Phật lịch, còn người
76
thái tổ chức nghi lễ/lễ hội theo lịch Cuối cùng, hiện nay, văn hóa
Thái. Bên cạnh đó, các hình thức tổ rừng của hai dân tộc đều có biến đổi
chức các nghi lễ tất nhiên sẽ khác nhất định.
nhau, trong đó, lễ cúng của người Thái
có phần hội còn người Lào thì không
có
Thứ tư, người Thái theo tín
ngưỡng đa thần nên trong văn hóa của
họ thầy cúng “Mo” có vị trí rất quan
trọng, được cho là người có khả năng
giao tiếp với thần, do vậy vị trí của
Mo được người Thái để cao. Đối với
người Lào “Mo” được gọi là “Mó” có
vai trò như “Mo” của người Thái
nhưng không được để cao bằng Mo
của người Thái, nó chỉ là một nghề
nghiệp của họ nếu ai có nhu cầu thuê
mới đi thuê.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Do sự tác động của nhiều yếu tố kinh tế- xã hội, văn hoá rừng của
người Lào ở vùngTây Bắc Lào và người Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam đang
có nhiều biến đổi. Những biến đổi này được thể hiện trước hết qua việc thay
đổi môi trường sinh thái rừng và những thay đổi trong mục đích sử dụng đất
rừng, trong việc tổ chức và thực hành các nghi lễ - lễ hội liên quan đến
rừng.Mặc dù vậy, rừng vẫn là nền tảng vật chất, là chỗ dựa tinh thần quan
trọng đối với cả hai nhóm tộc người.
77
Do cùng ngữ hệ và có sự gần gũi, tương đồng về vị trí địa lý, môi
trường tự nhiên, giữa văn hoá rừng của người Lào ở Tây Bắc Lào và người
Thái ở Tây Bắc Việt Nam có rất nhiều nét giống nhau cả trong quan niệm lẫn
tri thức và các kinh nghiệm bảo vệ, khai thác rừng, đặc biệt là trong tập quán
tổ chức các nghi lễ - lễ hội phong phú. Với cả hai nhóm tộc người, rừng vừa
nguồn sinh kế thiết yếu, vừa là không gian tâm linh huyền bí cần được bảo vệ
cẩn thận.Trải qua nhiều thế hệ, các tộc người này đã tích lũy được nhiều tri
thức quý về rừng, là cơ sở để họ biết cách thiết lập một mối quan hệ thân
thiện, hài hòa với rừng.
Mặt khác, với sự tác động của Phật giáo và một vài yếu tố tự nhiên
khác, văn hoá rừng giữa của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam và của người
Lào ở bên kia biên giới cũng có vài điểm khác biệt. Điều này được phản ánh
qua nhận thức về rừng, qua cách tổ chức các nghi lễ, cũng như qua vai trò
khác nhau của người điều hành các nghi lễ đó.
78
KẾT LUẬN
1. Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam cùng chung một giải biên giới,là
nơi có vị trí địa lý, điều kiện sinh thái và nhân văn khá đặc thù, là địa bàn sinh
sống nhiều đời của các nhóm tộc người, trong đó, nổi lên hai nhóm quan
trọng là người Lào và người Thái. Đây là hai nhóm dân tộc có cuộc sống gần
gũi với rừng. Vì thế, là người có may mắn được sống giữa hai nền văn hoá
Lào và Việt và vốn được sinh ra ở tỉnh Luông Pha Bang - nơi được bao phủ
bởi trùng điệp các cánh rừng xanh thẳm, tôi rất muốn so sánh văn hoá rừng
của người Lào ở Tây Bắc Lào và văn hoá rừng của người Thái ở Tây Bắc Việt
Nam.
2. Trong nghiên cứu này, văn hoá rừng là một tập hợp các ứng xử đặc
trưng gắn với hệ sinh thái rừng của các cộng đồng sở tại, được thể hiện trong
quan niệm, các nghi lễ, các hình thức quản lý, khai thác và bảo vệ rừng của
họ, rồi dần dần trở thành phong tục tập quán, tín ngưỡng tốt đẹp được chuyển
từ thế hệ này sang thế hệ khác.
3. Người Lào ở Tây Bắc Lào và người Thái ở Tây Bắc Việt Nam đã
sáng tạo nên các mô thức văn hoá rừng đặc trưng của họ với những điểm
tương đồng và dị biệt. Do cùng ngữ hệ và có sự gần gũi, tương đồng về vị trí
địa lý, môi trường tự nhiên, giữa văn hoá rừng của người Lào ở Tây Bắc Lào
và người Thái ở Tây Bắc Việt Nam có rất nhiều nét giống nhau cả trong quan
niệm lẫn tri thức và các kinh nghiệm bảo vệ, khai thác rừng, đặc biệt là trong
tập quán tổ chức các nghi lễ - lễ hội phong phú. Với cả hai nhóm tộc người,
rừng vừa nguồn sinh kế thiết yếu, vừa là không gian tâm linh huyền bí cần
được bảo vệ cẩn thận. Trải qua nhiều thế hệ, các tộc người này đã tích lũy
được nhiều tri thức quý về rừng, là cơ sở để họ biết cách thiết lập một mối
quan hệ thân thiện, hài hòa với rừng. Mặt khác, với sự tác động của Phật giáo
79
và một vài yếu tố tự nhiên khác, văn hoá rừng giữa của người Thái ở Tây Bắc
Việt Nam và của người Lào ở bên kia biên giới cũng có vài điểm khác biệt.
Điều này được phản ánh qua nhận thức về rừng, qua cách tổ chức các nghi lễ,
cũng như qua vai trò khác nhau của người điều hành các nghi lễ đó.
4. Do còn thiếu kinh nghiệm nghiên cứu và tác giả chỉ khảo sát thực địa
ở một làng ở Tây Bắc Lào và phải kế thừa rất nhiều thành quả nghiên cứu của
những người đi trước, luận văn này vẫn còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục.
Hi vọng hướng nghiên cứu của tác giả sẽ được những người đi sau tiếp tục
phát triển, qua đó, góp phần làm giàu cho vốn tri thức của ngành Việt Nam
học.
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Bùi Thiết (2016), 54 dân tộc Việt Nam và các tên gọi khác, Nxb Lao động,
Hà Nội.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000, t. 42.
3. Cầm Trọng – Khà Văn Tiến – Tòng Kim Ơn (1977), Tư liệu về văn hóa xã
hội dân tộc Thái, Nxb Khoa học Xã hội, lịch sử văn hóa dân tộc Thái,
http://lichsuvanhoathai.com/lich-su-thai/cach-tinh-lich-cua-nguoi-thai-
den/175/, cập nhật ngày 12/3/2018.
4. Cầm Trọng (1978), Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
5. Cầm Trọng, Phan Hữu Dật (2018), Văn hóa Thái Việt Nam, Nxb Văn học,
Hà Nội.
6. Đại học Quốc gia Hà Nội, viện Việt Nam học và Khoa học Phát
triển(2017), Phát huy vai trò, bản sắc cộng đồng các dân tộc Thái – Kadai
trong hội nhập và phát triển bền vững, Nxb Thế giới, Hà Nội.
7. Đặng Nghiệm Vạn (chủ biên)(1997), Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc
Thái, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8. Đặng Thị Oanh – Đặng Thị Ngọc Lan – Nguyễn Văn Thủy (2015), Ứng xử
với rừng trong văn hóa của dân tộc Thái ở Điện Biên, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
9. Đỗ Hồng Kỳ (2012), Văn hóa cổ truyền ở Tây Nguyên trong phát triển bền
vững, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
81
10. GS, TS. Phạm Đức Dương (1998), Ngôn ngữ và văn hóa Lào trong bối
cảnh Đông – Nam Á, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. GS, TS. Trần Văn Bính (chủ biên)(2003), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc –
thực trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Hà Nguyễn (2017), 500 câu hỏi đáp sắc màu văn hóa Việt Nam, Nxb
Thông Tấn, Hà Nội.
13. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tập 3.
14. Huyền Giang dịch(2001), Văn hóa nguyên thủy, Tạp chí Văn hóa nghệ
thuật, Hà Nội, Đại học Quốc gia, thành phố Hồ Chí Minh, trường đại học
Khoa học Xẫ hội và Nhân văn, khoa Nhân học, Các nhà nhân học nổi
tiếng http://nhanhoc.hcmussh.edu.vn/?ArticleId=c1678fa5-a8d9-47c9-
a0f0-02dd144adff2
15. Khổng Minh Hằng (2011), Tìm hiểu tri thức về bảo vệ môi trường của
người Thái ở xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, Luận văn
Cử nhân chuyên ngành dân tộc học, Đại học KHXH và nhân văn Hà Nội.
16. Lương Thị Đại (chủ biên)(2013), Lễ Xên mường của người Thái Đen ở
mường Then, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
17. Mai Văn Tùng (2017), Tri thức dân gian trong sử dụng và quản lý nguồn
tài nguyên thiên nhiên của người Mường ở Thanh Hóa, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
18. Ngô Đức Thịnh – Cầm Trọng (2013), Luật tục Thái ở Việt Nam
(Customary Law of the Thai in Vietnam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
19. Nguyễn Duy Thiệu (1996), Cấu trúc tộc người ở Lào (ETHNIC
STRUCTURE OF LAOS, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
82
20. Nguyễn Trọng Điều (1987), Lào đất nước và con người, Nxb Giáo dục,
Hà nội.
21. Nhiều tác giả (1998), Lịch sử Lào, Nxb Văn hóa – thông tin, Hà Nội.
22. Nhiều tác giả (2008), Nông dân nông thôn và nông nghiệp – những vấn đề
đang đặt ra, Nxb Tri thức, Hà Nội.
23. Nhiều tác giả (2015), Rừng thiêng ở Mường Khủn Tinh, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
24. Nhiều tác giả, Rừng và tầm quan trọng của rừng, Bài báo cáo môn khoa
học môi trường, https://tailieu.vn/tag/tam-quan-trong-cua-rung.html, Ngày
cập nhật 03/12/2016.
25. Nhiều tác giả (2016), Tìm hiểu lịch sử - văn hóa người Thái ở Mai Châu,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
26. Phạm Công Hoan (2015), Ứng xử của người Dao Đỏ ở SaPa trọng việc
cư trú, khai thác và bảo vệ rừng nguồn nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
27. PGS. TS Nguyễn Ngọc Thanh (chủ biên) (2016), Văn hóa các dân tộc
vùng lòng hồ thủy điện Lai Châu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. PGS. TS Trần Bình (2017), Tây Bắc vùng văn hóa giàu bản sắc, Nxb Mỹ
thuật, Hà Nội.
29. Quán Vi Miên (2016), Văn hóa Thái tìm hiểu và khám phá, Tập 2, Nxb
Sân khấu, Hà Nội.
83
30. Quốc hội (2017), Luật Lâm Nghiệp, Chương I, Điều 2, Khoản 3,
https://luatvietnam.vn/nong-nghiep/luat-lam-nghiep-2017-118853-
d1.html#noidung, Cập nhật 15/11/2017.
31. Thu Thùy VOV – Tây Bắc, Mưa lũ kinh hoang phải chi Tây Bắc còn rừng
https://baomoi.com/mua-lu-kinh-hoang-phai-chi-tay-bac-con-
rung/c/26672610.epi đăng 27.06.18 .
32. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu Đông
Nam – Á (1991), Tìm hiểu lịch sử văn hóa Lào, Tập 3, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
33. Trịnh Huy Hóa (biên dịch) (2002), Đối thoại với các nền văn hóa Lào,
Nxb Tre, Hà Nội.
34. Từ điển Lào – Việt (2011), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
35. Vi Văn An (2017), Người Thái ở miền Tây Nghệ An, Nxb Thế giới, Hà
Nội.
36. Viện thông tin khoa học xã hội (1999), Truyền thống và hiện đại trong
văn hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Vov.vn, Phá rừng chuyện thường ngày ở Tây Bắc, https://vov.vn/xa-
hoi/pha-rung-chuyen-thuong-ngay-o-tay-bac-508467.vov, đăng ngày
8/5/2016
38. Vũ Dương Ninh (chủ biên) (2014), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội.
84
39. Vũ Trường Giang (2017), Tri thức bản địa của người Thái ở miền núi
Thanh Hóa, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
40. Lao Stastics Bureau, Ministry of Planing and Investment, Results of
Population and Housing Census (2015).
41. ກະຆວຄສຶກສາິກາຌ
Tài liệu tiếng Lào
ແລະ ກິລາ,
ສະຊາຍັຌ຺້ຌວ້າວິະງາສາຈກາຌສຶກສາ (2016),
ແຍຍອຽຌພູມສາຈຆັ້ຌມັຈະງ຺ມສຶກສາຎີີ7,
ພິມີ່ໂອຄພິມ Eastern Printing Public Co.Ltc (ຎະເຈໄ)( Bộ
Giáo dục và Thể thao, viện Nghiên cứu Khoa học Giáo dục (2016),sách
giáo khoa Địa lý lớp 12, Nxb Eastern Printing Public Co.Ltc (Thailand).
42. . ຬຸ່ຌແກ້ວ ຍ຺ວຳໂພິລາຈ, ຌ. ຈຬຌັຌ ັຌະວ຺ຄ, ຌ.
ລຳພູຌ ແກ້ວເມກ (2014),
ສຶກສາກາຌມີສ່ວຌອ່ວມໃຌກາຌຸ້ມຬຄ ແລະ
ຌຳໃຆ້ຎ່າຏະລິຈຈ຺ຄສີວຌຂຬຄຎະຆາຆ຺ຌຍ້າຌຍາກຂຸມຳ,
ເມືຬຄ່າຎາຄຬຄ, ແຂວຄສະຫວັຌຌະເຂຈ,
ຍ຺ຈວິະງາຌິພ຺ຌຎະລິຌງາຉີ,
ສາຂາວິຆາ່ຬຄ່ຽວແຍຍຬາຌຸລັກຳມະຆາຈ,
ະຌະກະເສຈສາຈ ແລະ ສິ່ຄແວຈລ້ຬມ, ມະຫາວິະງາໄລ
85
ສະຫວັຌຌະເຂຈ (Nghiên cứu về sự tham gia trong việc quản lý và sử
dụng rừng sản xuất của người dân làng Bakkhoumkham, huyện
Thapangthong, tỉnh Savannakhet, Khóa luận tốt nghiệp đại học, ngành Du
lịch sinh thái, đại học Savannakhet).
43. ສະພາແຫ່ຄຆາຈ (2007), ກ຺ຈຫມາງວ່າຎ່າໄມ້, ພາກີ
I,ມາຈຉາ2 (Quốc hội (2007), Luật Lâm
nghiệp,http://www.na.gov.la/files/laws/29%20%E0%BA%81%E0%BA%
BB%E0%BA%94%E0%BB%9D%E0%BA%B2%E0%BA%8D%E0%BA
%A7%E0%BB%88%E0%BA%B2%E0%BA%94%E0%BB%89%E0%B
A%A7%E0%BA%8D%20%E0%BA%9B%E0%BB%88%E0%BA%B2%
E0%BB%84%E0%BA%A1%E0%BB%89.pdf.
44. ຍ຺ຈລາງຄາຌຫງໍ້ ສະຍັຍເລກີ07/2010 ກາຌລ຺ຄຶຌ ແລະ
ວາມງືຌງ຺ຄຂຬຄຂະແໜຄຎ່າໄມ້
ໂຄກາຌເຆື່ຬມໂງຄສິ່ຄແວຈລ້ຬມເຂ຺້າໃຌກິຈະກຳແກ້ໄຂ
ວາມຸກງາກ (ຆສຆ) ຢູ່ ສຎຎ ລາວ ( Báo cáo số 07/2010 Việc đầu
tư và sự bền vững của ngành Lâm nghiệp, dự án hội nhập môi trường cùng
với hành động giải quyết vấn đề nghèo nàn ở
Lào)https://www.unpei.org/sites/default/files/e_library_documents/Lao_P
EI_brief_Forestry_2010_lao.pdf
45. ຫ້ຬຄກາຌມໍລະຈ຺ກໂລກຫລວຄພະຍາຄ(Văn phòng Di sản Thế giới,
Luangprabang).
Danh sách các cá nhân trả lời phỏng vấn
46. Ông Khamman, 59 tuổi, Phó trưởng làng Suandara, huyện Xiêng Ngern,
Tỉnh Luangprabang.
86
47. Ông Saly, 58 tuổi, Trưởng làng Suandara, huyện Xiêng Ngern, Tỉnh
Luangprabang.
48. Ông Thongchah, 69 tuổi, Kuan Chặm của làng Suandara (người hướng
dẫn làm các tục lễ trong làng, Huyện Xiêng Ngern, Tỉnh Luangprabang.
49. Ông Xiêngkham, 67 tuổi, già làng Suandara, Huyện Xiêng Ngern, Tỉnh
Luangprabang.
87
PHỤ LỤC
1. Cúng mời thần linh trong lễ Xên bản Mường Sang (Sơn La), ( Ảnh từ
Internet: http://cacdantocvietnam.blogspot.com/2009/12/ac-sac-le-hoi-xen-
ban-muong-sang-son-la.html)
2. Ông mo thực hiện nghi lễ cúng thần linh, đất trời và các tướng lính Mường
Thanh (Ảnh từ Internet: http://dic.gov.vn/vi/news/Thong-tin-doi-
ngoai/Xen-Muong-Thanh-Noi-luu-giu-nhung-gia-tri-van-hoa-dac-biet-
quan-trong-cua-dan-toc-Thai-3788/)
88
3. Thầy mo đang kể sự tích lễ Xên bản (Ảnh từ Internet:
http://cacdantocvietnam.blogspot.com/2009/12/ac-sac-le-hoi-xen-ban-
muong-sang-son-la.html)
4. Lễ cúng rừng thiêng của người Thái Yên Bái (Ảnh từ Internet:
https://dantocmiennui.vn/54-dan-toc-viet-nam/le-cung-rung-thieng-cua-
nguoi-thai-o-yen-bai/166417.html
89
5. Nơi cúng thần rừng Đông Hó mỗi năm của làng Suandara (ảnh tự
chụp18/3/2019)
6. Cổng vào rừng ma (pa sạ, pa khăm) làng Suandara (ảnh tự chụp18/3/2019)
90
7. Các hình ảnh cây trong rừng ma làng Suandara (ảnh tự chụp
18/3/2019)
91
92