intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Văn học dân gian của người Kinh Trung Quốc và người Kinh Việt Nam dưới góc nhìn so sánh

Chia sẻ: ViVatican2711 ViVatican2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

62
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung tìm hiểu những đặc trưng của văn học dân gian người Kinh Trung Quốc và người Kinh Việt Nam dựa trên ba hệ thống thể loại chính là truyện kể dân gian, ca dao dân ca và thơ tự sự dân gian.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Văn học dân gian của người Kinh Trung Quốc và người Kinh Việt Nam dưới góc nhìn so sánh

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL<br /> ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY<br /> Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019)<br /> Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn<br /> <br /> <br /> VĂN HỌC DÂN GIAN CỦA NGƯỜI KINH TRUNG QUỐC<br /> VÀ NGƯỜI KINH VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN SO SÁNH<br /> Chinese Kinh’s and Vietnamese Kinh’s folklore from comparative perspective<br /> <br /> ThS. Nguyễn Thanh Phong<br /> Trường Đại học An Giang<br /> <br /> <br /> Tóm tắt<br /> Bài viết tập trung tìm hiểu những đặc trưng của văn học dân gian người Kinh Trung Quốc và người<br /> Kinh Việt Nam dựa trên ba hệ thống thể loại chính là truyện kể dân gian, ca dao dân ca và thơ tự sự dân<br /> gian. Bằng phương pháp so sánh, bài viết chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt của hai bên ở từng<br /> thể loại. Qua đó, phân tích sự tiếp nhận và ảnh hưởng, sự chuyển hóa và sáng tạo của văn học dân gian<br /> người Kinh Trung Quốc từ cội nguồn của nó là văn học dân gian người Kinh Việt Nam.<br /> Từ khóa: dân tộc Kinh, Trung Quốc, văn học dân gian, Việt Nam<br /> Abstract<br /> The article focuses on understanding the characteristics of the Chinese Kinh’s folklore and the<br /> Vietnamese Kinh’s folklore based on three main systems: folk stories, folk songs and folk tales. By<br /> using comparative method, the article shows the similarities and differences of the both. Thereby, it<br /> analyzes the reception and influence, transformation and creation of the Chinese Kinh’s folklore from<br /> its roots, the Vietnamese Kinh’s folklore.<br /> Keywords: Kinh, China, folklore, Vietnam<br /> <br /> <br /> 1. Người Kinh và văn học dân gian Cát, Hồng Khảm, Trúc Sơn) thuộc thành<br /> của người Kinh Trung Quốc phố Đông Hưng (cấp huyện), thị trấn<br /> Nếu ở Việt Nam, người Kinh là dân Giang Bình, thành phố Phòng Thành Cảng<br /> tộc chủ thể chiếm phần lớn dân số thì ở (cấp thị), Khu tự trị dân tộc Choang, tỉnh<br /> Trung Quốc, người Kinh (Kinh tộc) là một Quảng Tây.<br /> dân tộc thiểu số trong cộng đồng 56 dân Thế kỉ XIX trở về trước, vùng đất này<br /> tộc mà người Hán là dân tộc chủ thể. Dân thuộc địa phận Việt Nam, là nơi tụ cư sinh<br /> số người Kinh ở Trung Quốc khoảng sống lâu đời của người Kinh. Năm 1887,<br /> 28.000 người (năm 2012), thuộc nhóm các chính quyền thực dân Pháp tại Đông<br /> dân tộc thiểu số có tỉ lệ dân số thấp. Người Dương đã kí với triều đình nhà Thanh hiệp<br /> Kinh sống tập trung chủ yếu trên ba hòn ước phân định biên giới Trung Việt, khu<br /> đảo là Vu Đầu, Vạn Vĩ, Sơn Tâm (người vực Kinh tộc Tam Đảo từ đó nằm trong<br /> địa phương quen gọi là Kinh tộc Tam Đảo) lãnh thổ Trung Quốc (Nguyễn Tô Lan &<br /> và một số làng phụ cận (Hằng Vọng, Đàm Nguyễn Đại Cồ Việt, 2015, 29-30). Sau đó,<br /> Email: ntphong@agu.edu.vn<br /> 44<br /> NGUYỄN THANH PHONG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> các nhóm người Hán, Choang cũng lần học dân gian người Kinh Việt Nam mang<br /> lượt di cư đến đây, cùng người Kinh thông tính lục địa rõ rệt; (3) vì hình thành trong<br /> hôn, dẫn đến tình trạng hỗn huyết ngày bối cảnh giao lưu văn hóa mật thiết với<br /> càng phổ biến, tạo thành cộng đồng đa sắc người Hán và người Choang, nên văn học<br /> tộc cùng sinh sống. Trong đó nhiều nhất dân gian người Kinh Trung Quốc cũng thể<br /> vẫn là người Kinh. Môi trường tự nhiên và hiện màu sắc dung hợp văn học bản địa với<br /> xã hội đó là nơi người Kinh sinh tồn qua văn học ngoại lai cao độ, trong khi đó văn<br /> bao thế hệ, là bối cảnh cho các tác phẩm học dân gian người Kinh Việt Nam ít chịu<br /> văn học dân gian lưu truyền bằng phương ảnh hưởng văn học dân gian các dân tộc<br /> thức truyền miệng ra đời. khác hơn; (4) do duy trì truyền thống ca hát<br /> Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã của làng xã Bắc Bộ, kết hợp với hoàn cảnh<br /> chia văn học người Kinh thành 3 thời kì lao động sản xuất gắn liền với biển đảo,<br /> phát triển: (1) Văn học cổ đại (1511 – nên trong văn học dân gian người Kinh<br /> 1839): là thời kì phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc, thể loại ca dao, dân ca gắn<br /> văn học dân gian và văn học viết người liền với nhiều hình thức diễn xướng phát<br /> Kinh trong dòng chảy chung của văn học triển nổi trội hơn so với trong văn học dân<br /> Việt Nam dưới chế độ phong kiến; (2) Văn gian người Kinh Việt Nam; (5) do hành<br /> học cận hiện đại (1840 – 1949): là thời kì trang tinh thần mang theo trong quá trình<br /> văn học dân gian tiếp tục hình thành và di dân là những thành tựu văn học dân gian<br /> phát triển mạnh dưới chế độ thực dân và văn học viết lưu truyền phổ biến từ thế<br /> phong kiến ở Việt Nam và sau đó là Trung kỉ XVI về sau, nên hệ thống thần thoại,<br /> Quốc; (3) Văn học đương đại (1949 – nay): truyền thuyết nguyên thủy gắn liền với quá<br /> là thời kì phát triển mạnh của văn học viết trình dựng nước và giữ nước ở Việt Nam<br /> người Kinh trong công cuộc xây dựng chủ thời kì đầu không được lưu truyền ở đây.<br /> nghĩa xã hội ở Trung Quốc (Tô Duy Quang Văn học dân gian của người Kinh<br /> & Qua Vĩ & Vi Kiên Bình, 1993, 8). Trung Quốc, trên thực tế, cũng là một bộ<br /> Kết quả nghiên cứu cho thấy, văn học phận của văn học dân gian người Kinh Việt<br /> người Kinh Trung Quốc mang nhiều điểm Nam. Di sản còn lại sau bao nhiêu biến cố,<br /> chung với văn học người Kinh Việt Nam, tính từ khi khu vực người Kinh cư trú<br /> thế nhưng cũng nổi bật nhiều điểm khác không còn nằm trong lãnh thổ Việt Nam, dĩ<br /> biệt như sau: (1) trong khi văn học viết nhiên là bộ phận tinh túy nhất, giá trị nhất<br /> đang phát triển và lưu truyền mạnh mẽ không thể nào bị mai một trong kho kí ức<br /> trong dòng chảy văn học dân tộc thì văn tinh thần của người lao động. Trong quá<br /> học người Kinh Trung Quốc lại phát triển trình di cư và truyền thừa qua nhiều thế hệ,<br /> theo hướng dân gian hóa, thành tựu chủ bộ phận văn học dân gian tiếp tục nảy nở<br /> yếu là văn học truyền miệng; (2) văn học trên môi trường văn hóa tự nhiên và xã hội<br /> dân gian người Kinh Trung Quốc do hình bản địa. Sự tiếp xúc mạnh mẽ với văn học<br /> thành trên nền tảng địa văn hóa biển đảo, dân gian người Hán và người Choang cũng<br /> nên nội dung phản ánh chủ yếu là thế giới là tác nhân quan trọng làm nên sự tươi mới,<br /> tự nhiên và xã hội biển đảo thông qua con phong phú, đa dạng cho nền văn học dân<br /> mắt quan sát của ngư dân, khác với văn gian người Kinh Trung Quốc.<br /> <br /> <br /> 45<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019)<br /> <br /> <br /> Nếu văn học dân gian người Kinh ở Kinh ở Trung Quốc, xét về mức độ dân<br /> Việt Nam có hệ thống thể loại phong phú, gian hóa, có thể nói đậm đà hơn so với môi<br /> bao gồm thể loại thuộc lời ăn tiếng nói của trường diễn xướng ở Việt Nam. Bởi lẽ, đa<br /> nhân dân (tục ngữ, thành ngữ, câu đố), các số người Kinh ở đây trước kia không biết<br /> thể loại tự sự dân gian (thần thoại, truyền chữ Nôm, nên các tác phẩm này được lưu<br /> thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyền chủ yếu qua phương thức truyền<br /> truyện cười, vè), các thể loại trữ tình dân miệng trong dân gian, kiểu người già ngâm<br /> gian (ca dao, dân ca) và các thể loại sân đọc giải khuây, ông bà ngâm ngợi cho con<br /> khấu dân gian (chèo, tuồng); thì hệ thống cháu nghe, cha mẹ hát ru cho con cái ngủ,<br /> thể loại trong văn học dân gian người Kinh trai gái hát diễn trong hội làng.v.v. Chính<br /> Trung Quốc không đa dạng bằng. Trong hoàn cảnh diễn xướng đó khiến các truyện<br /> nhóm lời ăn tiếng nói của nhân dân, tục thơ này không ngừng được cải biên và<br /> ngữ người Kinh chiếm số lượng đáng kể, sáng tạo, thậm chí thành cả truyện cổ tích,<br /> thế nhưng do giao lưu ngôn ngữ với người truyện văn xuôi; dần mang hình hài, sinh<br /> Hán quá mật thiết, sự tiếp nhận cách dụng mệnh giống như một tác phẩm văn học dân<br /> ngữ của người Hán quá sâu đậm, nên bản gian thực thụ. Hơn nữa, do môi trường địa<br /> sắc riêng của người Kinh trong tục ngữ có văn hóa đặc thù, người dân sống dựa vào<br /> phần hạn chế. Trong nhóm thể loại tự sự nghề đánh cá thường xuyên lênh đênh trên<br /> dân gian người Kinh, thành tựu nổi bật là biển, khoảng cách không gian thường dễ<br /> truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ khơi gợi tâm sự trong lòng người đi kẻ ở.<br /> ngôn, các thể loại khác tuy cũng có nhưng Truyện thơ Nôm với muôn vàn cảnh<br /> số lượng không nhiều. Trong nhóm thể huống thế sự, là phương tiện kí thác nỗi<br /> loại trữ tình dân gian, ca dao - dân ca niềm, tâm trạng hữu hiệu nhất của ngư<br /> người Kinh chiếm số lượng khá lớn, đặc dân. Vì tính dân gian sâu đậm đó, đồng<br /> biệt là dân ca lao động, dân ca sinh hoạt và quan điểm với tác giả Kiều Thu Hoạch,<br /> dân ca lễ nghi phong tục. Chèo sân đình trong bài viết này, chúng tôi xem truyện<br /> không phổ biến trong cộng đồng người thơ Nôm như các thành tựu văn học dân<br /> Kinh, thế nhưng các hình thức diễn xướng gian khác của người Kinh.<br /> dân gian gắn liền với lễ nghi ở đình làng Người Kinh Trung Quốc có một nền<br /> lại khá phổ biến. văn học dân gian khá đặc sắc. Nó là tấm<br /> Truyện thơ Nôm bác học hay bình dân gương phản chiếu toàn bộ đời sống vật<br /> của người Kinh từ trước đến nay không chất lẫn tinh thần của họ dưới xã hội phong<br /> được các nhà khoa học Việt Nam xếp vào kiến trong hành trình di cư, định cư và<br /> hệ thống thể loại văn học dân gian, mặc dù chinh phục biển cả. Với tư cách là một<br /> nó vẫn được phổ biến khá rộng rãi trong cộng đồng dân cư trong lãnh thổ Việt Nam<br /> quần chúng lao động. Nguyên nhân là vì từ trước 1887, người Kinh Trung Quốc sở<br /> chúng là những sáng tác thành văn do giới hữu một nền văn học dân gian mà một bộ<br /> quan lại tầng lớp trên hoặc giới trí thức phận trong đó hoàn toàn có thể quy thuộc<br /> Nho học sáng tác hoặc phỏng tác, diễn vào văn học dân gian người Kinh Việt<br /> Nôm từ nguyên tác chữ Hán của Trung Nam. Còn với tư cách là nền văn học dân<br /> Quốc. Còn truyện thơ Nôm của người gian của một dân tộc thiểu số ở Trung<br /> <br /> <br /> 46<br /> NGUYỄN THANH PHONG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> Quốc, văn học người Kinh ngang hàng về thuyết hình thành địa hình, địa danh Tam<br /> tư cách với văn học các dân tộc thiểu số Đảo và truyền thuyết về anh hùng chống<br /> khác, cùng góp phần làm đa dạng hơn nền Pháp như Kinh đảo truyền thuyết, Tam đảo<br /> văn học dân gian của quốc gia này. truyền thuyết, Làng chài chống giặc, Kế<br /> 2. Truyện kể dân gian người Kinh đậu vàng, Quân bay trên vách núi, Đóng<br /> Trung Quốc bè vượt biển.v.v. Điều này chắc chắn có<br /> Số lượng truyện kể dân gian của người liên quan đến việc người Kinh sinh sống<br /> Kinh Trung Quốc hiện nay chúng tôi sưu gần khu vực người Hán và chịu ảnh hưởng<br /> tầm được còn khá hạn chế (khoảng 70 bởi thói quen tư duy và lập trường dân tộc<br /> truyện). Chúng lại đối mặt với khả năng bị Hán. Có khả năng thời kì đầu, những<br /> mai một dần do thất truyền. Điều này là truyền thuyết này vẫn lưu truyền khá phổ<br /> khó tránh khỏi bởi lẽ dân số người Kinh biến trong cộng đồng người Kinh Tam<br /> Tam Đảo ít, phạm vi lưu truyền nhỏ hẹp, Đảo, thế nhưng trong quá trình truyền<br /> những nghệ nhân lớn tuổi có khả năng kể thừa, nó bị mai một dần và đến nay có lẽ<br /> chuyện dần dần qua đời, nhu cầu tiếp nhận đã mất hẳn. Trong phạm vi truyện kể dân<br /> truyện kể dân gian của thế hệ sau ngày gian người Kinh Trung Quốc mà chúng tôi<br /> càng mất đi do các phương tiện truyền có thể tiếp cận, vẫn còn khá rõ dấu ấn của<br /> thông nghe nhìn chiếm ưu thế và sức mạnh truyền thuyết người Kinh Việt Nam như<br /> văn hóa người Hán không ngừng lấn át. Thánh Gióng, Sơn Tinh – Thủy Tinh qua<br /> Một nguyên nhân quan trọng nữa là do đời một số tình tiết, chi tiết đan xen trong tác<br /> sống chính trị Trung Quốc suốt thế kỉ XX phẩm. Cũng có khả năng những truyền<br /> quá nhiều biến động, cuộc Cách mạng Văn thuyết này vẫn được lưu hành ở phạm vi<br /> hóa (1966-1969) đã thi hành những chính hẹp nào đó trong cộng đồng người Kinh,<br /> sách sai lầm về văn hóa khiến cho nền văn mà đứng từ lợi ích quốc gia và lập trường<br /> học dân gian người Kinh, cũng giống như dân tộc, chúng không được giới thiệu rộng<br /> số phận nền văn học cổ điển Trung Quốc, rãi trong xã hội.<br /> phải chuốc lấy bao nhiêu tai họa. Cũng giống như trong văn học dân<br /> Trong hệ thống truyền thuyết người gian người Kinh Việt Nam, truyện cổ tích<br /> Kinh Việt Nam, truyền thuyết về nguồn chiếm giữ một vai trò quan trọng trong kho<br /> gốc dân tộc và quá trình dựng nước giữ tàng truyện kể dân gian người Kinh Trung<br /> nước trong thời kì Văn Lang, Âu Lạc Quốc. Tuy nhiên, truyện cổ tích người<br /> chiếm số lượng đến hàng chục truyện. Kinh ở Việt Nam ra đời trong khoảng thời<br /> Tiếp theo là nhóm truyền thuyết về các gian dài từ sau thời Âu Lạc bị thôn tính kéo<br /> anh hùng dân tộc lãnh đạo các cuộc khởi dài suốt hai nghìn năm đến hết thời phong<br /> nghĩa chống lại các triều đại phong kiến kiến, trong khi truyện cổ tích người Kinh<br /> Trung Quốc xâm lược trong suốt chiều dài Trung Quốc đa phần ra đời trong vòng 500<br /> lịch sử đất nước. Trong khi đó, truyền năm trở lại đây gắn liền với địa bàn định<br /> thuyết người Kinh Trung Quốc về nguồn cư mới. Phần lớn truyện kể dân gian người<br /> gốc lịch sử dân tộc và quá trình chống Kinh Trung Quốc do chính bản thân họ<br /> phong kiến phương Bắc xâm lược hoàn sáng tạo ra, gắn liền với hoàn cảnh tự nhiên<br /> toàn thiếu vắng, thay vào đó là truyền và văn hóa bản địa vùng Tam Đảo như<br /> <br /> <br /> 47<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019)<br /> <br /> <br /> Thiên thần chuộc tội, Bia võ sĩ, Người đi Kinh Trung Quốc đã phản ánh nhiều<br /> săn trừ yêu, Châu Tử diệt rồng tinh, Điền phương diện đời sống vật chất và tinh thần<br /> Đầu Công, Hải Hoa và Hải Sinh, Cuộc kì của các tầng lớp cư dân, đặc điểm diện mạo<br /> ngộ của tiều phu, Tướng quân cóc.v.v. Bên xã hội nơi mà họ từng tụ cư trong quá khứ.<br /> cạnh đó, một số ít truyện kể ra đời sớm hơn 3. Ca dao, dân ca người Kinh<br /> có nguồn gốc lục địa Việt Nam như Chị Trung Quốc<br /> Tấm và em Cám, Chiếc nồi thần, Cây khế, Cũng giống ca dao, dân ca người Kinh<br /> Đánh trống bắt trộm.v.v. Có thể thấy nhiều Việt Nam, bộ phận văn học này của người<br /> dấu ấn của truyện cổ tích người Kinh Việt Kinh Trung Quốc có nguồn gốc hình thành<br /> Nam ẩn tàng một cách vừa rõ rệt, vừa vi tế từ rất lâu đời, tích lũy qua nhiều thế hệ,<br /> trong các truyện kể dân gian người Kinh sáng tác và lưu truyền kéo dài hàng mấy<br /> Trung Quốc. Điều này rõ ràng cho thấy thế kỉ. Người Kinh nói chung vốn rất ưa<br /> mối quan hệ sâu sắc của văn học dân gian chuộng thơ ca, bao gồm cả thơ chữ Hán<br /> người Kinh hai nước, đồng thời thể hiện óc lẫn thơ chữ Nôm. Thế nhưng, đối với tầng<br /> sáng tạo của người Kinh Trung Quốc trong lớp bình dân, thơ chữ Hán vẫn khá xa lạ<br /> hành trình chinh phục tự nhiên và quan sát, bởi tính bác học, hàm súc, trừu tượng khó<br /> lí giải cuộc sống. Truyện kể dân gian người hiểu của nó. Còn thơ ca sử dụng ngôn ngữ<br /> Hán, người Choang cũng được người Kinh dân tộc, dù đa số người dân không biết chữ<br /> hấp thu, dung nạp để làm giàu thêm cho Nôm nhưng vẫn có thể diễn ngâm chúng,<br /> kho tàng văn học dân gian của dân tộc lưu truyền rộng rãi chúng qua phương thức<br /> mình. Đó là những biểu hiện hoàn toàn truyền miệng. Đó là lí do tại sao Chinh<br /> bình thường, nhưng cũng không kém phần phụ ngâm của Đặng Trần Côn lại không<br /> thú vị của một nền văn học dân gian đang được biết đến nhiều như Chinh phụ ngâm<br /> tồn tại và hành chức. khúc diễn ca của Đoàn Thị Điểm, hay Tì<br /> Trong khi truyện ngụ ngôn người Kinh bà hành của Bạch Cư Dị lại không nổi<br /> Việt Nam có số lượng khá lớn, thế giới tiếng bằng bản dịch Tì bà hành của Phan<br /> nhân vật trong đó tương đối đa dạng, phần Huy Thực. Đối với cư dân người Kinh chủ<br /> lớn là loài vật, cây cỏ, trăng sao, các bộ yếu sinh sống bằng lao động chân tay, thì<br /> phận cơ thể người, còn triết lí phản ánh vô hiện tượng này càng hiển nhiên và phổ<br /> cùng phong phú; thì truyện ngụ ngôn của biến hơn.<br /> người Kinh Trung Quốc hiện sưu tầm được Về ngôn ngữ, trong khi truyện kể dân<br /> rất ít, chỉ còn thấy 3 truyện là Lươn trắng gian được kì lão người Kinh lưu truyền<br /> và Hạc cổ dài, Hổ và ốc, Cua đực và cua bằng cả tiếng Kinh, tiếng Hán nói theo âm<br /> cái. Nhân vật hầu hết đều là loài vật, bao địa phương (tiếng Pạc-và) và cả tiếng Hán<br /> gồm các loài vật dưới biển, loài vật trên phổ thông thì ca dao, dân ca người Kinh<br /> rừng núi, nên trước mắt triết lí được ngụ chủ yếu được diễn xướng bằng tiếng Kinh.<br /> ngôn còn thấy nghèo nàn. Dĩ nhiên, thứ tiếng này có chung nguồn<br /> Mặc dù không phong phú về số lượng, gốc ngữ âm với tiếng Việt của người Kinh<br /> tiểu loại, đề tài so với truyện kể dân gian Việt Nam, tuy nhiên do quá trình di cư lâu<br /> người Kinh Việt Nam, thế nhưng nhìn dài, lại sống cách biệt trong lãnh thổ Trung<br /> chung, bộ phận văn học này của người Quốc, thường xuyên tiếp xúc với ngôn ngữ<br /> <br /> <br /> 48<br /> NGUYỄN THANH PHONG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> các tộc người khác nên vỏ ngữ âm của miền, nên đạt được sự thuần nhất cao độ, là<br /> tiếng Kinh Trung Quốc cũng khác nhiều so tài sản tinh thần chung của cả cộng đồng.<br /> với tiếng Việt của người Kinh Việt Nam. Ở điểm này, ca dao, dân ca người Kinh<br /> Chính loại ngôn ngữ này mới kết hợp hài Trung Quốc có chức năng, đặc tính giống<br /> hòa với các làn điệu dân ca truyền thống, như ca dao, dân ca ở một vùng miền, địa<br /> mới chuyển tải được muôn màu muôn vẻ phương cụ thể của Việt Nam.<br /> đời sống người dân, mới gần gũi với thói Khảo sát khoảng 100 bài ca dao, dân<br /> quen tư duy, đặc điểm tâm lí, tình cảm ca người Kinh sưu tầm được, có thể thấy<br /> người bình dân, mới có thể khiến cho ca chúng đã phản ánh đa diện đời sống kinh<br /> dao, dân ca người Kinh được bảo tồn và tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng này ở<br /> lưu truyền rộng rãi qua nhiều thế hệ. Tuy Trung Quốc. Đa phần các bài ca dao, dân<br /> nhiên, hiện nay, giới sưu tầm ca dao, dân ca đều ra đời trên mảnh đất Tam Đảo, phản<br /> ca người Kinh chủ yếu lại dùng chữ Hán ánh môi trường địa lí, lịch sử, phong tục,<br /> để ghi chép dưới dạng các văn bản Hán văn hóa bản địa, đồng thời thể hiện ý thức<br /> dịch. Dù có nhiều cố gắng trong việc bảo thẩm mĩ có nhiều điểm chung lẫn những<br /> lưu nguyên trạng, nhưng việc đánh mất cái khác biệt với người Kinh Việt Nam. Ở chỗ,<br /> hay của nhịp điệu, gieo vần trong các bài đặc trưng thẩm mĩ của nền sản xuất nông<br /> ca dao, dân ca truyền thống là điều khó nghiệp lúa nước dù còn nhưng đã nhạt<br /> tránh khỏi. nhòa đi, trong khi đó, đặc trưng thẩm mĩ<br /> Ca dao, dân ca người Kinh Việt Nam của nền sản xuất ngư nghiệp ven biển ngày<br /> ra đời và lưu truyền trong một phạm vi càng đậm đà hơn. Chúng phần nào có sự<br /> lãnh thổ rộng lớn từ Bắc chí Nam, chủ thể tiếp nhận chất liệu thơ ca cổ điển và thơ ca<br /> sáng tạo cũng rất đa dạng, bao gồm nhiều dân gian người Hán.<br /> tầng lớp trong xã hội mà cốt yếu là người Nếu ca dao, dân ca của các tộc người<br /> lao động bình dân. Vì vậy, số lượng tác khác ở Trung Quốc thường lấy thể thơ ngũ<br /> phẩm đồ sộ, phản ánh sâu sắc, toàn diện ngôn, thất ngôn làm hình thức chuyển tải<br /> đời sống người dân ở cả ba miền Bắc, chủ yếu, thì ca dao, dân ca người Kinh<br /> Trung, Nam. Do sự trải rộng về mặt địa lí, Trung Quốc lại lấy thể thơ lục bát, song<br /> sự khác biệt về hoàn cảnh sống và đặc thất lục bát và những biến thể của nó làm<br /> trưng văn hóa vùng miền, nên ca dao, dân hình thức chuyển tải chủ yếu, đương nhiên<br /> ca người Kinh có tính đa dạng và phân hóa cũng có những bài sử dụng thể thơ ngũ<br /> cao độ. Chúng thường gắn liền với từng ngôn và thất ngôn nhưng số lượng không<br /> khu vực địa lí, thậm chí từng tỉnh thành, nhiều. Điều này rõ ràng cho thấy mối quan<br /> vùng miền, chẳng hạn miền Bắc có Quan hệ văn học khăng khít xa xưa của ca dao,<br /> họ Bắc Ninh, miền Trung có hát ví giặm dân ca người Kinh hai nước. Hay nói cách<br /> Nghệ Tĩnh, hò Huế, miền Nam có các điệu khác, ca dao, dân ca người Kinh Trung<br /> lí Nam bộ, hát đối Gò Công, hò đối đáp Quốc có chung cội nguồn với ca dao, dân<br /> Đồng Tháp.v.v. Trong khi đó, ca dao, dân ca người Kinh Việt Nam.<br /> ca người Kinh Trung Quốc do được hình Về yếu tố nhạc điệu trong ca dao, dân<br /> thành trong phạm vi không gian nhỏ hẹp, ca người Kinh, theo sưu tầm của học giả<br /> không bị phân hóa bởi khác biệt vùng Trung Quốc Trần Học Phác, hiện nay có<br /> <br /> <br /> 49<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019)<br /> <br /> <br /> khoảng 30 điệu lí khác nhau đang được lưu nội dung phản ánh tạm chia thành các loại:<br /> truyền ở đây, có thể chia làm các loại: sơn thơ tự sự thần thoại, thơ tự sự anh hùng,<br /> ca, hải ca, tình ca, hôn ca, ngư ca, tự sự thơ tự sự sinh hoạt và thơ tự sự tình yêu<br /> ca... với những đặc trưng âm điệu khác [7]. Hầu hết các tác phẩm này đều vừa tồn<br /> nhau. Vì thường xuyên sử dụng thể thơ lục tại dưới dạng truyện kể dân gian, vừa tồn<br /> bát với cách ngắt nhịp chẵn, nên các bài tại dưới dạng truyện thơ Nôm khuyết danh,<br /> dân ca cũng được hát theo nhịp chẵn kiểu có thể được diễn xướng bằng hình thức hát<br /> thơ lục bát. Hơn nữa, ngư dân người Kinh ca để lưu truyền.<br /> Tam Đảo vì quen sống bằng nghề cá, Xét về nguồn gốc, có thể nhận ra một<br /> thường xuyên ra khơi đánh bắt, nên tiết tấu điều rằng, những tác phẩm trên một phần<br /> các bài hát thường kết hợp chặt chẽ với có nguồn gốc từ tiểu thuyết chương hồi,<br /> động tác lao động như chèo thuyền, kéo tiểu thuyết thoại bản, truyện kể dân gian,<br /> lưới, đẩy thuyền vào bờ... Nhạc điệu của truyện dã sử Trung Quốc như Nhị độ mai,<br /> dân ca người Kinh rất giống tính cách của Kim Vân Kiều truyện, Hoa Tiên truyện,<br /> biển, có khi tình ý cao vút mênh mông, dạt Lương Sơn Bá dữ Chúc Anh Đài, Lưu Bình<br /> dào lai láng, có khi thâm trầm uyển Dương Lễ.v.v. Chúng đã được cải biên bởi<br /> chuyển, pha lẫn sự dõng dạc hùng hồn. tác giả hữu danh và khuyết danh Việt Nam,<br /> Còn giọng hát có lúc trầm bổng nhấp nhô được viết bằng hình thức thơ với ngôn ngữ<br /> như ba đào biển động, cũng có lúc bình diễn đạt là chữ Nôm, nên đã được Việt hóa<br /> tĩnh như biển lặng sóng nhẹ dào dạt vỗ bờ. cao độ. Bộ phận còn lại là truyện thơ Nôm<br /> Tóm lại, chính ca dao, dân ca là nơi hoàn toàn do các tác giả Việt Nam sáng tác<br /> gửi gắm niềm tự hào dân tộc, phản ánh như Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán<br /> nhận thức của con cháu về lịch sử di cư và ngâm khúc, Tống Trân Cúc Hoa, Cái<br /> định cư của tổ tiên, miêu tả hoạt động lao Vương cố sự, Liễu Hạnh công chúa, Quan<br /> động sản xuất và niềm vui bội thu của Âm Thị Kính.v.v. Tất cả được người Kinh<br /> người dân, phản kháng những kẻ thống trị Tam Đảo mang theo trong quá trình di dân<br /> xấu xa và bọn địa chủ bóc lột, thể hiện tình và lưu truyền tại đây qua nhiều thế hệ.<br /> yêu và hôn nhân đôi lứa, bày tỏ tình cảm Trong quá khứ, những câu chuyện về<br /> thắm thiết gia đình.v.v. Ca dao, dân ca đã đạo đức nhân luân, tình yêu nam nữ được<br /> truyền tải tiếng nói nội tâm, nhận thức cuộc lưu truyền phổ biến trong khu vực sinh<br /> sống, ý thức thẩm mĩ và trí tuệ tập thể của sống người Kinh. Những tác phẩm này, bất<br /> cư dân người Kinh Tam Đảo. kể tồn tại dưới dạng truyện thơ dùng để ca<br /> 4. Thơ tự sự dân gian người Kinh ngâm hay truyện văn xuôi dùng để kể nói<br /> Trung Quốc đều phản ánh quan niệm về thế giới, đạo<br /> Thơ tự sự dân gian, hay còn gọi là đức, thẩm mĩ, đồng thời thể hiện khát vọng<br /> truyện thơ Nôm, là những tác phẩm văn cuộc sống đầy tính nhân văn của người<br /> học do các trí thức bác học lẫn nhân dân Kinh Trung Quốc.<br /> lao động sáng tác và truyền miệng qua các Các truyện thơ Nôm đã chú ý xây<br /> đời, có tình tiết sự kiện và hình tượng nhân dựng tính cách và hình tượng nhân vật, từ<br /> vật, sử dụng các thể thơ dân gian hoặc kết cử chỉ, ngoại hình, ngôn ngữ đến phẩm<br /> hợp văn xuôi với văn vần. Có thể dựa vào chất, cá tính. Tình tiết cốt truyện cũng phức<br /> <br /> <br /> 50<br /> NGUYỄN THANH PHONG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> tạp và biến đổi khó lường, chất tự sự và tảng văn hóa màu mỡ ấy của cội nguồn dân<br /> chất trữ tình đan xen tạo nên màu sắc bóng tộc, nhưng do sinh trưởng trong bối cảnh<br /> bẩy, sinh động cho tác phẩm. Điều này địa lí, chính trị, xã hội ở Trung Quốc suốt<br /> khiến cho giá trị nghệ thuật của tác phẩm thời gian hàng trăm năm, bộ phận văn học<br /> được nâng lên tầm cao mới. Tầm cao này này đã tách rời và phát triển theo một<br /> có được nhờ sự dung dưỡng suốt mấy trăm hướng đi độc đáo riêng.<br /> năm của nền văn học viết dân tộc, đồng Về nội dung, văn học dân gian người<br /> thời hấp thu dưỡng chất từ văn học Trung Kinh Trung Quốc đã phản ánh một cách đa<br /> Quốc thời Minh – Thanh. Thế nhưng, đây diện đời sống vật chất và tinh thần của<br /> không phải là những điều đặc thù của cộng đồng người Kinh Trung Quốc. Một<br /> truyện thơ Nôm người Kinh Trung Quốc so phần trong đó là diện mạo xã hội Việt Nam<br /> với ở Việt Nam, mà cái làm nên sự khác trong quá khứ xa xưa, phần còn lại là bức<br /> biệt đó là những biến đổi về mặt tình tiết, tranh đời sống người Kinh trên địa bàn cư<br /> cốt truyện, nhân vật, bối cảnh, phương thức trú mới tại Tam Đảo, Quảng Tây, Trung<br /> tự sự so với tác phẩm gốc; ngoài ra còn có Quốc, nơi đó có sự hỗn dung đa sắc tộc, đa<br /> sự khác biệt về phương thức diễn xướng và ngôn ngữ, đa văn hóa làm cho văn học<br /> lưu truyền trong dân gian. người Kinh trở nên linh hoạt, hấp thu, dung<br /> Dù truyện thơ Nôm được xếp vào nạp, biến hóa không ngừng. Dù vậy, nó<br /> nhóm văn học dân gian của người Kinh vẫn kết nối chặt chẽ với văn học dân gian<br /> Trung Quốc, thế nhưng qua những tác của người Kinh ở Việt Nam.<br /> phẩm tiêu biểu trên, có thể thấy rằng chúng Về đặc tính, văn học dân gian người<br /> mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, đồng Kinh Trung Quốc cũng mang những đặc<br /> thời phản ánh tư duy nghệ thuật – thẩm mĩ tính phổ quát của mọi nền văn học dân<br /> của dân tộc đã phát triển đến một trình độ gian nói chung, và văn học dân gian của<br /> cao, chín muồi mà tác phẩm văn học dân người Kinh Việt Nam nói riêng, là tính<br /> gian khó thể nào đạt đến. Nhìn từ góc độ truyền miệng, tính tập thể, tính nguyên<br /> này thì việc quy loại truyện thơ Nôm vào hợp, tính đa chức năng, tính vô danh, tính<br /> nhóm văn học dân gian là không phù hợp. dị bản, tính truyền thống, tính địa phương,<br /> Nhưng nếu nhìn từ góc độ hình thức diễn tính quốc tế… Tuy nhiên, so với văn học<br /> xướng và phương thức lưu truyền, có thể dân gian người Kinh Việt Nam, văn học<br /> thấy các truyện thơ Nôm này đóng vai trò dân gian người Kinh Trung Quốc còn thể<br /> như một tác phẩm văn học dân gian trong hiện rõ rệt những đặc tính: tính dung hợp<br /> đời sống tinh thần cộng đồng người Kinh. trong giao lưu văn hóa, văn học các dân<br /> 5. Kết luận tộc; tính đa nguyên về nội dung tư tưởng;<br /> Văn học dân gian của người Kinh tính đa dạng về phương thức phản ánh, thủ<br /> Trung Quốc là thành quả tinh thần được pháp nghệ thuật; tính giao thoa, chuyển<br /> tích lũy và lưu truyền qua nhiều thế hệ tiếp giữa văn học dân gian và văn học viết;<br /> trong cộng đồng. Vốn có nguồn gốc sâu xa tính đa dạng về ngôn ngữ truyền đạt, diễn<br /> từ nền văn học dân gian của người Kinh xướng; tính biển đảo gắn liền bản sắc văn<br /> Việt Nam, văn học dân gian người Kinh hóa bản địa.<br /> Trung Quốc đã hấp thu dưỡng chất từ nền Về mặt thể loại, nổi trội trong văn học<br /> <br /> <br /> 51<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019)<br /> <br /> <br /> dân gian người Kinh Trung Quốc là truyện theo là ca dao, dân ca và cuối cùng là<br /> cổ tích, ca dao, dân ca, thơ tự sự dân gian. truyện thơ dân gian.<br /> Các thể loại khác như tục ngữ, câu đố, Văn học dân gian người Kinh Trung<br /> thành ngữ, truyện cười, truyện ngụ ngôn, Quốc như một dòng chảy khởi nguồn từ<br /> vè... mặc dù cũng tồn tại nhưng số lượng dòng chủ lưu của văn học dân gian Việt<br /> không nhiều. Trong đó, nhóm thể loại liên Nam, rẽ theo một hướng riêng rồi hòa<br /> quan lời ăn tiếng nói hằng ngày đang bị mình với các dòng chảy khác, tự làm cho<br /> Hán tộc hóa cao độ do sự phổ cập ngày mình lớn rộng và đa dạng hơn, đồng thời<br /> càng mạnh mẽ của tiếng Hán phổ thông và vẫn giữ mối quan hệ khăng khít với cội<br /> tiếng Hán phương ngữ Việt, trong khi tiếng nguồn xưa cũ. Có thể nói, đây là một<br /> nói người Kinh đang có xu hướng bị thu trường hợp điển hình khá thú vị, phản ánh<br /> hẹp dần. Trong các thể loại đó, truyện kể sức sống của nền văn học dân tộc bên cạnh<br /> dân gian chiếm số lượng nhiều nhất, tiếp các nền văn học khác.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> Trần Tăng Du. (2007). Kinh tộc Nôm tự sử ca tập. Bắc Kinh: NXB Dân tộc.<br /> Kiều Thu Hoạch. (1997). Sức sống trường tồn – Truyện Nôm bình dân. Tạp chí Văn học,<br /> 2, 25-35.<br /> Đinh Gia Khánh (chủ biên). (2004). Văn học dân gian Việt Nam. Hà Nội: NXB Giáo dục.<br /> Nguyễn Tô Lan, Nguyễn Đại Cồ Việt. (2015). Truyền thừa tiếng Kinh bằng chữ Nôm –<br /> Một góc nhìn từ cảnh huống ngôn ngữ dân tộc Kinh (Đông Hưng, Quảng Tây, Trung<br /> Quốc). Tạp chí Hán Nôm, 133, 29-51.<br /> Nhiều tác giả. (1984). Kinh tộc giản sử. Nam Ninh: NXB Dân tộc Quảng Tây.<br /> Tô Duy Quang, Qua Vĩ, Vi Kiên Bình. (1993). Kinh tộc văn học sử. Quảng Tây: NXB<br /> Giáo dục Quảng Tây.<br /> Tô Nhuận Quang. (1984). Kinh tộc dân gian cố sự tuyển. Bắc Kinh: NXB Văn nghệ dân<br /> gian Trung Quốc.<br /> Trần Hữu Tá, Nguyễn Huệ Chi. (2003). Từ điển văn học (bộ mới). Hà Nội: NXB Thế giới.<br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 01/8/2018 Biên tập xong: 15/3/2019 Duyệt đăng: 20/3/2019<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 52<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2