Đoàn Đức Hải<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
91(03): 93 - 100<br />
<br />
VĂN HỌC HIỆN THỰC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ TIỂU THUYẾT VIỆT NAM<br />
1960 - 1975 TRÊN PHƯƠNG DIỆN KIỂU NHÂN VẬT TRUNG TÂM<br />
Đoàn Đức Hải*<br />
Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Trong thế giới nhân vật của tiểu thuyết Việt Nam 1960 – 1975 nói chung và tiểu thuyết về đề tài<br />
xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng, đã có sự kết hợp hiệu quả giữa chất sử thi với chất tiểu thuyết<br />
trong việc xây dựng cấu trúc hình tượng nhân vật, tạo ra những điển hình văn học của loại hình<br />
tiểu thuyết sử thi hiện đại- nhân vật “con người mới” . Cấu trúc hình tượng nhân vật đã phản ánh<br />
chân thực hiện thực lịch sử và thỏa mãn yêu cầu nghệ thuật của phương pháp sáng tác hiện thực xã<br />
hội chủ nghĩa, nó bắt rễ sâu xa trong truyền thống văn học dân tộc và được gặp gỡ với mô hình<br />
tiểu thuyết Nga – Xô viết, kết hợp với đặc điểm lịch sử của thời đại chiến tranh cách mạng và xây<br />
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cái khác biệt nhất của con người mới so với những nhân vật<br />
văn học trước đó là khả năng làm chủ: làm chủ tập thể và làm chủ bản thân, con người mới tồn tại<br />
đồng thời cùng với quá trình bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, họ chiến đấu và lao<br />
động quên mình vì bản thân, vì dân tộc mình và vì cả nhân loại.<br />
Cái nhìn lý tưởng hóa đã xây dựng nên hình tượng nhân vật trung tâm với tư thế và vẻ đẹp hào<br />
hùng. Họ chính là hóa thân của một dân tộc anh hùng trong thời đại anh hùng. Họ mang trong<br />
mình những phẩm chất phi thường: giản dị, bình thường mà phi thường về sức mạnh tinh thần. Vì<br />
vậy, họ được ghi nhận, được mô tả như những con người đẹp nhất, lớn lao nhất, giàu tính chiến<br />
đấu nhất… Họ là những con người sống có lý tưởng, có mục đích, “hiểu việc mình làm và con<br />
đường mình đang đi”. Bên cạnh những ưu điểm đã nêu trên thì nhân vật con người mới còn nặng<br />
về tính khuân mẫu nên ít nhiều hạn chế trong phản ánh dưới góc độ cá nhân.<br />
Từ khóa: Con người mới, nhân vật trung tâm, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa<br />
<br />
KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC HIỆN THỰC<br />
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA*<br />
Tìm hiểu bất kì một nền văn học, một hiện<br />
tượng văn học nào cũng phải đặt trong mối<br />
tương quan của các yếu tố đồng đại và lịch<br />
đại. Trong lịch sử văn học nhân loại, mỗi giai<br />
đoạn, mỗi thời kì có những dòng văn học và<br />
phương pháp sáng tác riêng đóng vai trò chủ<br />
đạo. Ở mỗi thời đại và tùy vào bước đi của<br />
mỗi quốc gia, văn học dự phần tích cực vào<br />
việc thay đổi diện mạo đời sống tinh thần.<br />
Cho đến trước thế kỉ XX, văn học Việt Nam<br />
đi trong xu thế chung của khu vực là chủ<br />
nghĩa Cổ điển. Đến đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa<br />
hiện thực phê phán và chủ nghĩa Lãng mạn<br />
phương Tây đã vào Việt Nam, đưa văn học<br />
nước ta gia nhập quỹ đạo văn học hiện đại thế<br />
giới. Đêm trước của cuộc cách mạng do giai<br />
cấp vô sản lãnh đạo, trong địa hạt văn<br />
chương, ở thế kỉ XIX, nhất là từ những năm<br />
40 trở đi, nhu cầu miêu tả cuộc sống như<br />
chính nó vốn có đã được các nhà văn đặt ra<br />
bằng các sáng tác theo khuynh hướng hiện<br />
*<br />
<br />
Tel: 0913 089612<br />
<br />
thực và với cảm hứng phê phán. Ở đó, các<br />
nhà văn đặt ra vấn đề tái tạo đời sống “trong<br />
những hình thức của bản thân đời sống” và<br />
văn học thế giới đã ghi nhận những tên tuổi<br />
sáng giá của dòng văn học hiện thực như<br />
Bandắc, Gôgôn, L. Tônxtôi, Đốtxtôiépxki<br />
v.v… Đến giữa thế kỉ XX, lịch sử nhân loại<br />
chuyển mình, việc tồn tại hệ thống xã hội chủ<br />
nghĩa đối trọng với tư bản chủ nghĩa đã dẫn<br />
đến sự ra đời dòng chủ lưu của văn học các<br />
nước xã hội chủ nghĩa mà phương pháp sáng<br />
tác mới nhất được khẳng định lúc ấy là Chủ<br />
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa (Chủ nghĩa<br />
hiện thực XHCN). Vào những thập niên đầu<br />
thế kỉ XX chủ nghĩa hiện thực vẫn tiếp tục<br />
đảm đương vai trò trọng yếu của nó đối với<br />
văn chương thế giới, tuy vậy, sự xuất hiện của<br />
trào lưu hiện thực XHCN đã tạo được thế đối<br />
trọng với các phương pháp sáng tác mới, chủ<br />
yếu được trọng dụng ở nước tư bản phương<br />
Tây khác biệt về thể chế chính trị. Vào thời<br />
điểm Chủ nghĩa hiện thực XHCN ra đời và<br />
vào những năm phát triển nhất, nó được văn<br />
học các nước XHCN coi là một phương pháp<br />
ưu việt của ý thức vô sản, của nhân sinh quan<br />
cộng sản.<br />
93<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đoàn Đức Hải<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở<br />
Liên Xô<br />
Vào buổi đầu của cuộc cách mạng do giai<br />
cấp vô sản Nga thực hiện, những sáng tác của<br />
M.Goócki đã cổ vũ một cách mạnh mẽ tinh<br />
thần của giai cấp đang lên, đã sản sinh một<br />
loạt những tác phẩm viết về những con người<br />
tiên tiến của thời đại, về những điều đang sẽ<br />
trở thành hiện thực trên một đất nước đấu<br />
tranh cho hòa bình và tiến bộ của loài người.<br />
Và cũng chính M. Goócki đã được xem như<br />
là người có công đầu đối với nền văn học vô<br />
sản Xô-viết. Sau khi Liên bang Cộng hòa Xã<br />
hội chủ nghĩa Xô-viết được thành lập (1922),<br />
với mục tiêu thống nhất các tổ chức văn nghệ<br />
thành một cơ quan duy nhất trên toàn liên<br />
bang đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản,<br />
nhằm “đưa các nhà văn có xu hướng nghệ<br />
thuật và trình độ chính trị khác nhau đi vào<br />
đại lộ của nền văn học Xô viết là chủ nghĩa<br />
hiện thực xã hội chủ nghĩa” [13, tr.92], Đại<br />
hội Hội nhà văn Liên Xô được tiến hành vào<br />
năm 1934. Ở đó, điều lệ của Hội đã xác định<br />
chủ nghĩa hiện thực XHCN là phương pháp<br />
sáng tác chủ đạo trong văn học Xô viết. Từ<br />
đó, văn học vô sản Nga đã phát huy vai trò<br />
của một nền văn học XHCN mới mẻ nhưng<br />
đầy xung kích đối với văn học thế giới trong<br />
mục tiêu đấu tranh cho thắng lợi của chủ<br />
nghĩa xã hội. Nhà văn Xô-viết, để dự một<br />
phần lớn vào “cuộc tái sinh màu nhiệm” trong<br />
văn học và trong cuộc sống, nhất thiết phải<br />
trở thành và phải thực sự là nhà văn – chiến<br />
sĩ. Đó là đòi hỏi của đất nước, và dường như,<br />
cả đối với nhà văn. Nhà văn và nền văn học<br />
ấy buộc phải chuyển mình, phải vào cuộc, đáp<br />
ứng những đòi hỏi cấp thời. Với vai trò là<br />
người anh cả trong cộng đồng thế giới mới<br />
lúc bấy giờ, văn học Nga – Xô-viết đã đi đầu<br />
bằng các tác phẩm có sức lôi kéo hàng triệu<br />
con người trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù<br />
chung ở những năm nửa đầu thế kỉ XX, trong<br />
công cuộc lao động, kiến thiết đất nước nhằm<br />
tạo dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ<br />
nghĩa xã hội. Các nhà lí luận ở Nga – Xô-viết<br />
đã đúc kết thành những luận thuyết và từ đó<br />
Chủ nghĩa hiện thực XHCN được dùng như<br />
một kiểu thước đo, một tiêu chuẩn mang tính<br />
pháp quy để điều chỉnh sự phát triển của văn<br />
học nghệ thuật.<br />
Thực tế đã chứng minh được rằng văn học<br />
của những giai đoạn tiếp theo luôn được tiếp<br />
<br />
91(03): 93 - 100<br />
<br />
mạch từ các giai đoạn trước nó, xét theo tinh<br />
thần biện chứng thì “cái mới không ra đời từ<br />
hư vô”. Văn học Xô-viết, vì thế, cũng đã có<br />
sự chuẩn bị từ những thế kỉ trước nó, từ quá<br />
khứ rực rỡ của văn học nước nhà, đồng thời<br />
nó đã để lại những kinh nghiệm quý báu cho<br />
sự vận động của văn học các giai đoạn sau.<br />
Nhà nghiên cứu – dịch giả Thúy Toàn nhận<br />
xét: “[...] nền văn học ấy tràn đầy niềm tin<br />
tưởng vào tương lai tươi sáng của loài<br />
người; nó thấm nhuần tư tưởng chống đế<br />
quốc, chống phát-xít, chống mọi áp bức bóc<br />
lột; nó khẳng định tình hữu nghị giữa các dân<br />
tộc, tình đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản<br />
và những người lao động…” [14 tr.67- 73].<br />
Chính tính Đảng và tính nhân dân trong đề<br />
xuất của Lênin đối với các tác phẩm hiện thực<br />
XHCN đã mang đến cho văn học lúc bấy giờ<br />
tinh thần ấy. Đọc lại các tác phẩm của M.<br />
Goócki, Sôlôkhốp, Phađêép, N. Ốxtơrốpxki,<br />
… chắc hẳn độc giả sẽ đồng tình với quan<br />
điểm trên.<br />
Nhà nghiên cứu Đào Tuấn Ảnh đã nhìn nhận<br />
các tác phẩm văn học Nga – Xô-viết dưới góc<br />
nhìn khách quan và tương đối phù hợp:<br />
“Không nên xổ toẹt giá trị của các tác phẩm<br />
văn học Nga – Xô viết đã từng được dịch ở<br />
Việt Nam, nhưng cũng không nên đề cao<br />
quá mức” (Báo Thanh niên điện tử nhân kỉ<br />
niệm 90 năm Cách mạng Tháng Mười Nga).<br />
Một thời, như là sự ghi công văn học hiện<br />
thực XHCN ở Nga đối với tiến trình văn học<br />
thế giới, các nhà Nga học chính thống đã xem<br />
nền văn học ấy từng “đưa con người vào<br />
những vấn đề xã hội – chính trị nóng bỏng,<br />
truyền cảm cho độc giả niềm tin vào sức<br />
mạnh cải tạo xã hội của triệu triệu quần<br />
chúng lao động đang vươn dậy” (Nguyễn<br />
Kim Đính). Nhìn về văn học vô sản mà văn<br />
học nước Nga – Xô-viết là trụ cột chính là để<br />
chúng ta soi rõ mình hơn trong những bước<br />
chuyển của quá khứ và đặc biệt, thấy được<br />
lịch sử dân tộc và lịch sử văn học một thời.<br />
Một điều đã được thừa nhận chắc chắn là, văn<br />
học cách mạng Việt Nam trong hai cuộc<br />
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã chịu<br />
ảnh hưởng sâu sắc bởi văn học Nga – Xô-viết.<br />
Nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở<br />
Việt Nam<br />
Tiến trình của văn học Việt Nam có những<br />
điểm tương đồng với tiến trình văn học thế<br />
giới và nhiều điểm gần gũi với bước đi của<br />
<br />
94<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đoàn Đức Hải<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
văn học Nga, mỗi một giai đoạn luôn có một<br />
phương pháp sáng tác giữ vai trò trọng yếu.<br />
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, chúng ta<br />
tiếp xúc với văn hóa Pháp trong tinh thần<br />
không hoàn toàn tự nguyện, dù vậy trong văn<br />
học ta đã đạt được những đỉnh cao với các tác<br />
phẩm thuộc chủ nghĩa hiện thực phê phán.<br />
Sau năm 1945, với tư cách là một quốc gia<br />
độc lập và sẵn sàng đương đầu với bất kì<br />
những trở lực bất nghĩa nào là rào cản đối với<br />
con đường khẳng định quyền tự do và độc lập<br />
của dân tộc, chúng ta cũng khẳng định sự lựa<br />
chọn của mình trong những bước đi của nền<br />
văn hóa mới. Sau Thế chiến II, nhiều dân tộc,<br />
trong đó có Việt Nam, thoát khỏi ách thuộc<br />
địa, đã chọn con đường của CNXH, và văn<br />
học Việt Nam lựa chọn con đường của văn<br />
hoá Nga – Xô-viết. Đây là một sự lựa chọn<br />
không vì bị khuất phục bằng vũ lực hay vật<br />
chất mà là vì sự chinh phục của tư duy khoa<br />
học, của ánh sáng nhân văn. Đi theo con<br />
đường XHCN là tin ở những gì tai nghe mắt<br />
thấy, ở thành quả thực tiễn ở Liên Xô. Thành<br />
tựu của hơn 20 năm xây dựng xã hội mới ở<br />
Liên Xô đã khích lệ Việt Nam tin vào một<br />
tương lai tốt đẹp, tương lai của những chủ<br />
nhân mới đất nước là người lao động. Nguyễn<br />
Khải lí giải: “Học thuyết Mác-xít vốn xa lạ với<br />
người nông dân Việt Nam, nhưng tác động của<br />
nó tới đông đảo quần chúng thật mãnh liệt và<br />
tức thì. Lần đầu tiên một học thuyết nổi danh<br />
dám suy tôn những người thất học và bần cùng<br />
là nhân vật chính của lịch sử hiện đại, là chủ<br />
nhân ông đích thực của đất nước họ trong hiện<br />
tại và trong tương lai. Rằng họ có sức mạnh<br />
dời non lấp biển, có thể đánh bại mọi kẻ xâm<br />
lược và kiến tạo một xã hội công bằng nhất<br />
trong lịch sử loài người” [17, tr.64 32].<br />
Đề cương văn hóa của Trường Chinh ra đời<br />
năm 1943 rồi sau đó là Chủ nghĩa Mác và văn<br />
hóa Việt Nam năm 1948 đều hướng vào<br />
khẳng định văn hóa, văn nghệ là một lực<br />
lượng quan trọng phục vụ sự nghiệp kháng<br />
chiến. Quan điểm này rất gần với quan điểm<br />
của các nhà quản lý văn học nghệ thuật Xôviết sau Cách mạng tháng Mười. Trong Đề<br />
cương văn hóa năm 1943 của Trường Chinh<br />
xuất hiện thuật ngữ tả thực xã hội chủ nghĩa<br />
khi đề cập đến khuynh hướng mới của một<br />
nền văn nghệ phục vụ kháng chiến. Đến 1948,<br />
thuật ngữ này được chính thức đổi thành Chủ<br />
<br />
91(03): 93 - 100<br />
<br />
nghĩa hiện thực XHCN. Tắt đèn, Giông tố rồi<br />
Bước đường cùng khiến cho người nghệ sĩ<br />
cảm thấy ngột ngạt, tù đọng trong tinh thần,<br />
họ thấy cần phải thoát khỏi trạng thái ấy. Đó<br />
là điều có thật một thời. Không khí sục sôi<br />
sau Cách mạng tháng Tám khiến người nghệ<br />
sĩ có nhu cầu nhập cuộc bởi họ mang cảm<br />
giác “Đứng riêng tây ta thấy mình có lỗi”<br />
(Chế Lan Viên). Thêm nữa, khi tuyên bố ta sẽ<br />
“đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng<br />
và của cải” để bảo vệ nền độc lập vừa có<br />
được thì cũng đồng thời cả dân tộc Việt Nam<br />
tự thấy mình đã đứng cùng chiến tuyến với<br />
các lực lượng tiến bộ lúc bấy giờ. Đất nước<br />
Việt Nam, văn nghệ sĩ Việt Nam đã tìm đến<br />
quê hương Cách mạng tháng Mười và nền<br />
văn học của nó như một sự lựa chọn duy nhất<br />
và hoàn toàn tự nguyện. Ngày trước ta đã tìm<br />
đến Cách mạng tháng Mười như đi về phía<br />
mặt trời thì lúc này văn học ta cũng tự nhận<br />
mình cùng chiến tuyến với văn học được sản<br />
sinh từ Cách mạng tháng Mười. Bằng thực tế<br />
các tác phẩm (đặc biệt là từ năm 1948 trở đi),<br />
từ sau Đôi mắt của Nam Cao, văn học Việt<br />
Nam đã đi vào quỹ đạo của văn học hiện thực<br />
xã hội chủ nghĩa mà hai đề tài xuyên suốt là<br />
chiến đấu và lao động trở thành những trăn<br />
trở đối với người nghệ sĩ. Nguyễn Đình Thi<br />
đã từng bộc bạch trong Nhận đường: “Làm<br />
thế nào để chúng ta hiểu được tâm hồn những<br />
lớp nhân dân đông đảo đang chiến đấu, làm<br />
thế nào sống được những tình cảm ý nghĩ của<br />
những lớp người xưa nay cách hẳn ta, làm thế<br />
nào để trở thành những con người của tầng<br />
lớp khác để sống được sự sống của họ” [15<br />
tr.29]. Người nghệ sĩ thấy cần phải cất tiếng<br />
nói của thời đại mới, về những con người mới<br />
– con người của một đất nước có chủ quyền,<br />
những con người “có trong đầu lý tưởng<br />
cách mạng” (Nguyễn Đăng Mạnh). Văn học<br />
nghệ thuật lúc này phải là một mặt trận, người<br />
nghệ sĩ phải là một chiến sĩ. Với tâm thế đó,<br />
văn học Việt Nam 30 năm đấu tranh cách<br />
mạng cũng đồng thời là văn học hiện thực<br />
XHCN, không dày nhưng nền văn học ấy biết<br />
lấy “Lợi ích Tổ quốc là trên hết. […]. Mọi lợi<br />
ích khác đều tạm thời phải gác lại, phải hy<br />
sinh đi” [16, tr.50]. Khi hòa bình lập lại trên<br />
miền Bắc, nửa tuyến đất nước bắt tay vào xây<br />
dựng chủ nghĩa xã hội, là hậu phương lớn cho<br />
tiền tuyến miền Nam thì văn học miền Bắc<br />
95<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đoàn Đức Hải<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
thể hiện rõ nét hơn cả tinh thần của văn học<br />
hiện thực XHCN trên hai bình diện đề tài:<br />
chiến đấu và lao động. Không khí sáng tác, số<br />
lượng các tác phẩm, các nhà văn đã trở nên<br />
sôi nổi, phong phú hơn rất nhiều.<br />
Một thuận lợi cho văn học Việt Nam lúc này<br />
là chúng ta không cần phải dò dẫm đi tìm cho<br />
mình những định thức, thuyết lý cho sáng tác,<br />
tức là về mặt lý luận. Tất cả, ta học từ Liên<br />
Xô. Vả lại, những đòi hỏi tức thời của cuộc<br />
cách mạng không tạo nhiều điều kiện về thời<br />
gian và không gian cho người nghệ sĩ có thể<br />
nghiền ngẫm về những gì đang diễn ra.<br />
Bằng chất liệu của mình và công thức của<br />
người bạn chí tình, những tác phẩm nóng hổi<br />
hơi thở cuộc sống liên tiếp ra đời, thể loại<br />
cũng hết sức đa dạng, phong phú: thơ ca,<br />
truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự, tùy bút… Ba<br />
mươi năm văn học mới chưa có tiền lệ đã<br />
“thực sự là một chứng nhân của một quá trình<br />
lịch sử hết sức hào hùng” (Nguyễn Văn<br />
Long). Không tránh khỏi những cái mà với tư<br />
cách là người tiếp nhận tức thời chúng ta chưa<br />
thể sàng lọc ngay được những thô ráp mà văn<br />
học nước bạn đã mắc phải (nghĩa là ta chưa<br />
chuẩn bị tâm thế đi tiếp nhận cái mình được<br />
tiếp nhận), chúng ta cũng đã lại rơi vào một<br />
loay hoay khác khi áp dụng một cách rập<br />
khuôn những định thức, những mô hình cho<br />
nền văn học mới của mình. Ngót nghét 10<br />
năm cho cuộc đối đầu với Pháp và một<br />
khoảng thời gian không ngắn vừa kiến thiết<br />
vừa chiến đấu với Mỹ, tổng cộng dân tộc ta<br />
và văn học ta có 30 năm để tỏ rõ bản lĩnh, sức<br />
vươn của mình. Cái thời kì có một không hai<br />
ở thế kỉ XX ấy đã định vị cho một dòng văn<br />
học, cũng đã tạo nên không ít tên tuổi, như<br />
Phan Cự Đệ đã một thời tổng kết: “Chúng ta<br />
có cái đẹp nhẹ nhõm, thanh thoát, trong sáng<br />
của Nguyễn Đình Thi, cái xù xì gân guốc,<br />
phong phú đến mức rậm rạp của Nguyên<br />
Hồng, cái hóm hỉnh, thông minh, tinh tế và<br />
thơ mộng của Tô Hoài, cái tỉnh táo sắc sảo<br />
đầy tính chất phát hiện của Nguyễn Khải, cái<br />
đôn hậu ấm áp điểm vẻ huy hoàng tráng lệ<br />
của Nguyễn Huy Tưởng, cái dân gian mà lại<br />
hiện đại của Nguyễn Thi, cái hùng tráng thi vị<br />
của Nguyễn Trung Thành, cái trữ tình tha<br />
thiết đến độ say đắm của Anh Đức, cái trí tuệ,<br />
hài hòa và cân đối đến mức cổ điển của Phan<br />
Tứ…” [3(1), tr.155-156].<br />
<br />
91(03): 93 - 100<br />
<br />
KIỂU NHÂN VẬT TRUNG TÂM CỦA TIỂU<br />
THUYẾT VIỆT NAM 1960-1975 DƯỚI ẢNH<br />
HƯỞNG CỦA PHƯƠNG PHÁP SÁNG TÁC<br />
HIỆN THỰC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA<br />
Khi chúng ta tiếp xúc với văn hóa và văn học<br />
Trung Hoa, truyền thống phương Đông quy<br />
định việc tiếp cận và thể hiện con người trong<br />
văn học. Kẻ sĩ phong kiến với cái khí phách<br />
và cách tự vẽ mình trên trang viết đã tạo<br />
những dấu ấn riêng nơi Nguyễn Trãi, Nguyễn<br />
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát.<br />
Chúng ta đã có một bề dày những sáng tác và<br />
những gương mặt được liệt vào hàng “cổ<br />
điển” của văn học nước nhà thời trung đại.<br />
Sang thế kỉ XX, nền văn hóa Pháp mang đến<br />
cho chúng ta những kinh nghiệm trong việc<br />
thể hiện con người. Ảnh hưởng mạnh mẽ của<br />
chủ nghĩa hiện thực thế giới đã được các tác<br />
giả của dòng văn học hiện thực phê phán<br />
1930 – 1945 thể hiện tương đối rõ nét, con<br />
người trong văn học Việt Nam lúc bấy giờ là<br />
những con người bé nhỏ, những con người<br />
cảm thấy mình trở nên thừa thãi, vô nghĩa, bi<br />
kịch tâm hồn và bơ vơ ngay trên chính quê<br />
hương mình. Nhưng khi âm hưởng Cách<br />
mạng tháng Mười Nga vọng đến, nền văn học<br />
khác về chất so với trước đã được hình thành,<br />
nhân vật trung tâm trong văn học cũng<br />
khác trước. Đó không phải là kiểu hiệp sĩ<br />
như nhân vật của Xécvantéc thời Phục hưng ở<br />
Châu Âu, không phải là kiểu anh hùng Từ Hải<br />
của Nguyễn Du, lại càng không phải anh<br />
hùng cứu quốc với cái “số đỏ” luôn hậu thuẫn<br />
như nhân vật Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng<br />
Phụng trong văn học hiện thực phê phán. Họ<br />
là những anh hùng với nghĩa đầy đủ, toàn vẹn<br />
của từ này. Họ được gọi bằng cái tên con<br />
người mới. Con người mới lúc này là sản<br />
phẩm của nền văn học cách mạng, được sản<br />
sinh từ sau cuộc đối đầu lịch sử giữa hai lực<br />
lượng chính trị. Ngày trước, khi chưa có Cách<br />
mạng tháng Mười (ở Việt Nam thì từ sau<br />
Cách mạng tháng Tám), họ mang một thân<br />
phận khác, một tinh thần khác. Từ đó trở đi,<br />
cả trong đời sống và trong văn chương, con<br />
người đều được nhìn nhận và đánh giá chủ<br />
yếu dựa trên những phẩm chất chính trị. Con<br />
người mới tồn tại đồng thời cùng với quá<br />
trình bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ<br />
nghĩa, trong văn học ở các nước xã hội chủ<br />
nghĩa. Họ chiến đấu và lao động quên mình vì<br />
bản thân mình, vì dân tộc mình và vì cả nhân<br />
loại lúc bấy giờ. Phải lùi lại những ngày sôi<br />
<br />
96<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đoàn Đức Hải<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
sục của nước Nga trong và sau Cách mạng<br />
tháng Mười, của Việt Nam những ngày tổng<br />
khởi nghĩa tháng Tám và khi có được nền<br />
cộng hòa đầu tiên thì không khó để lí giải<br />
những điều trên. Trong thực tế, những con<br />
người này là những người lao động, chiến đấu<br />
bình thường nhưng đầy hăng hái, tràn niềm<br />
tin vào cuộc sống mà họ dần được làm chủ từ<br />
khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên quê<br />
hương họ. Đi vào văn học, họ được xem như<br />
những người con ưu tú, tiên tiến nhất thời đại<br />
(dĩ nhiên là trong nhãn quan của các nhà lãnh<br />
đạo, các nhà văn hiện thực XHCN). Và do<br />
vậy, con người mới – những con người của<br />
cách mạng – cũng đồng thời là động lực cho<br />
cách mạng, cho cuộc đấu tranh vì thắng lợi<br />
của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, họ được ghi<br />
nhận, được mô tả như những con người đẹp<br />
nhất, lớn lao nhất, giàu tính chiến đấu nhất…<br />
thông qua lăng kính của cảm hứng ngợi ca,<br />
lạc quan. Họ được ghi nhận là những con<br />
người sống có lý tưởng, có mục đích, “hiểu<br />
việc mình làm và con đường mình đang đi”;<br />
những con người đứng ở mũi nhọn nóng bỏng<br />
nhất trong cuộc chiến đấu vì lợi ích chính trị<br />
thiêng liêng của Tổ quốc.<br />
Đi vào các tác phẩm văn học hiện thực<br />
XHCN, để nhân vật trung tâm của mình mang<br />
những đặc điểm như đã chỉ ra ở trên, các nhà<br />
văn đã tạc họ thành những bức tượng đẹp đẽ,<br />
toàn bích. Con người mới trong văn học luôn<br />
lớn hơn con người đời thường của họ, bởi bút<br />
pháp hiện thực XHCN đòi hỏi phải miêu tả<br />
trong quá trình phát triển cách mạng của nó.<br />
Vì thế công thức, môtíp cho xây dựng nhân<br />
vật chính của các nhà văn lúc này là như<br />
nhau. Nói như Trường Chinh thì con người<br />
mới “Đó là những người anh hùng mới của<br />
thời đại chúng ta, những con người dũng cảm<br />
trong lao động và đấu tranh, một lòng một dạ<br />
yêu nước, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã<br />
hội” [2]. Con người mới lúc này phải làm nên<br />
những điều vĩ đại. Trước hết họ cần phải có<br />
phẩm chất vĩ đại mà theo Tố Hữu thì con<br />
người mới vĩ đại “không phải ở chỗ nó không<br />
có sai lầm, khuyết điểm, mà ở chỗ nó kiên<br />
quyết sữa chữa những sai lầm, khuyết điểm,<br />
khắc phục những yếu đuối của mình để tiến<br />
lên và tiến mãi không ngừng” (Báo cáo đọc<br />
trước Đại hội văn công toàn quốc – 1955).<br />
Cái khác biệt nhất của con người mới so với<br />
những nhân vật văn học trước đó là khả năng<br />
làm chủ: làm chủ tập thể và làm chủ bản thân.<br />
<br />
91(03): 93 - 100<br />
<br />
Con người mới trên trang viết về đề tài chiến<br />
tranh thường là những người lính. Trong đề<br />
tài lao động, sản xuất, họ là những anh hùng<br />
lao động. Những con người mới ấy thường là<br />
những đoàn viên, đảng viên cộng sản với<br />
những trách nhiệm tiên phong đầy nặng nề<br />
nhưng cũng rất vinh quang và tự nguyện.<br />
Văn học Xô-viết cũng đã từng đặt ra vấn đề<br />
này. M. Goócki đã từng nêu ý kiến trong Đại<br />
hội Nhà văn Xô viết lần thứ nhất (1934) về<br />
con người mới như sau: “Con người thời đại<br />
thấy tỉnh dậy trong lòng mình cái ý thức về<br />
nhân phẩm và tự xem mình là một lực lượng<br />
thực sự cải tạo thế giới” [5]. Theo yêu cầu và<br />
chủ trương của Đảng, những nhân vật văn học<br />
đi chệch những điều đã được quy thành công<br />
thức thì được xem là thiếu tính đảng, không<br />
đúng với bút pháp, tinh thần hiện thực<br />
XHCN. Nhà văn không được phép thể hiện<br />
trên tác phẩm những yếu tố, những biểu<br />
tượng mang tính “hai mặt”, như thế - họ bị<br />
coi là chưa thực sự đảm nhiệm tốt vai trò,<br />
nhiệm vụ của những nhà văn chiến sĩ. Nhiều<br />
nhà văn, vì thế, phải điều chỉnh tác phẩm của<br />
mình, thậm chí còn hứng chịu những hình<br />
thức xử lý không nhẹ nhàng dành cho người<br />
cầm bút.<br />
Nếu như trước kia ở Nga cũng như ở Việt<br />
Nam, để xây dựng kiểu con người nhỏ bé, con<br />
người thừa, người ta không đưa ra những tiêu<br />
chuẩn nhất định, thì vào lúc này, văn học hiện<br />
thực XHCN đòi hỏi những chuẩn mực dành<br />
cho việc tạo dựng con người mới. Được thể<br />
hiện trong nhãn quan, cách nhìn, lập trường<br />
của các nhà văn kiểu mới (nhà văn – chiến sĩ),<br />
con người mới lúc này mang một tâm thế<br />
thường trực, tâm thế của một người làm chủ<br />
hoàn cảnh, làm chủ cuộc đời, con người mới<br />
mang những phẩm chất cơ bản như: niềm gắn<br />
bó thiết tha, máu thịt với nỗi đau, với khát<br />
vọng của giai cấp, của nhân loại cần lao; lòng<br />
yêu nước sâu sắc kết hợp với tình cảm quốc tế<br />
rộng lớn; lòng trung thành vô hạn với sự<br />
nghiệp cách mạng; tính chiến đấu sôi nổi,<br />
hăng say… Còn trong cách nhìn của các nhà<br />
lãnh đạo văn nghệ của ta một thời thì tư tưởng<br />
đối với lao động, chiến đấu, ý thức về chủ<br />
nghĩa tập thể, thái độ đối với nhân dân, với<br />
chủ nghĩa xã hội được định ra như một tiêu<br />
chuẩn đối với các nhân vật mới này. Điều này<br />
được lý giải dưới góc nhìn của một giai đoạn<br />
lịch sử nhất định: chiến tranh bảo vệ tổ quốc.<br />
97<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />